1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Francis Poulenc

Chủ đề trong 'Nhạc cổ điển' bởi phucphan, 16/07/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. phucphan

    phucphan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/09/2005
    Bài viết:
    311
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]

    Francis Poulenc (1899-1963) là một nhạc sĩ người Pháp nửa đầu thế kỉ 20. Poulenc là thành viên của nhóm Les Six (sáu người) - một nhóm nhạc sĩ Pháp vào thế kỉ 20 sáng tác âm nhạc với mục đích chống lại ảnh hưởng của 2 trường phái âm nhạc có ảnh hưởng mạnh đến âm nhạc Pháp thời kì bấy giờ: Trường phái hậu lãng mạn do Wagner khởi xướng và trường phái âm nhạc ấn tượng của Ravel và Debussy. Tuy nhiên âm nhạc của Poulenc không phải là không chịu ảnh hưởng của những trường phái này.
    Poulenc sinh ngày 7-1-1899 ở Paris. Mẹ Poulenc là một nghệ sĩ piano nghiệp dư. Poulenc chủ yếu tự học trong những năm tuổi trẻ. Có lẽ lần đầu tiên sáng tác của Poulenc là trong giai đoạn thực hiện nghĩa vụ quân sự của ông năm 1918.
    Poulenc bắt đầu học nhạc ở nhạc viện Paris nhưng đã không trụ lại được lâu ở nhạc viện danh tiếng này. Một trong những tác phẩm đầu tay của ông - "Rhapsody Negro" đã làm thầy giáo của Poulenc phật ý và không cho Poulenc tiếp tục học ở nhạc viện Paris nữa. Poulenc vẫn tiếp tục học nhạc với nhạc sĩ Charles Koechlin và nghệ sĩ piano nổi tiếng nguời Tây Ban Nha Ricardo Vines. Tuy có theo những chương trình học nhạc cụ thể nhưng suốt sự nghiệp sáng tác của mình, phong cách sáng tác của Poulenc rất đặc trưng do ông chủ yếu là tự học. Bản thân Poulenc hâm mộ và chịu ảnh hưởng của các nhạc sĩ Bartok, Stravinsky, Debussy và Ravel, Schoenberg và nhất là Erik Satie.
    Poulenc gặp các nhạc sĩ của phái Les Six từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Các nhạc sĩ khác của Les Six đều tuân theo phong cách sáng tác của Erik Satie: rõ ràng, đơn giản (thậm chí là tối giản), mang ảnh hưởng của âm nhạc cabaret-âm nhạc phòng trà của Pháp. Poulenc có 1 sáng tác nổi tiếng từ khá sớm: 3 bản perpetuum mobile (chuyển động liên tục) cho piano. Là một nghệ sĩ piano xuất sắc, các sáng tác giai đoạn đầu của Poulenc chủ yếu cho phím đàn piano. Các sáng tác giai đoạn này của Poulenc vừa mang cái chất hờ hững, vô tư điển hình của phái Les Six vừa sử dụng bút pháp hoà thanh độc đáo của các nhạc sĩ mà ông yêu thích như Stravinsky hoặc Bartok.
    Đời tư của Poulenc gây nhiều tranh cãi. Poulenc vẫn thường bị xem là một người kì quặc, sống phóng túng. Suốt cuộc đời mình Poulenc liên tục chịu sự ám ảnh về cái chết của những người bạn thân và khoảng từ những năm 30 Poulenc bắt đầu theo đạo Thiên Chúa và từ đó những sáng tác của ông cũng bắt đầu có sức nặng hơn, điển hình là bản Stabat Mater và nhiều mass, cantate.
    Poulenc là một nhạc sĩ quan trọng của thể loại mélodie-tác phẩm thanh nhạc của Pháp. Poulenc viết khoảng hơn 150 bài hát phổ thơ của các nhà thơ thuộc phái siêu thực đầu thế kỉ 20. Biệt tài của Poulenc không phải là khả năng viết giai điệu mà là khả năng làm âm nhạc "ôm chặt" nguyên tác thơ để diễn tả lời thơ một cách hiệu quả. Poulenc phổ nhạc được cho nhiều bài thơ rất khó. Có 2 ca sĩ mà sự nghiệp của họ gắn liền với sáng tác của Poulenc: baritone Pierre Bernac, một người chuyên biểu diễn lieder của Poulenc và soprano Denise Duval, một ca sĩ đã xuất hiện trong những lần ra mắt của những vở opera quan trọng của Poulenc.
    Poulenc qua đời ngày 30-1-1963 vì bệnh tim, để lại một kho tàng sáng tác khá lớn: 3 vở opera, khoảng 150 mélodie, nhiều tác phẩm cho piano và dàn nhạc, concerto cho 2 piano, concerto organ, concerto harpsichord, 4 bản sonat cho các nhạc cụ hơi với phần đệm piano, nhiều mass (với bản Stabat Mater nổi tiếng). Poulenc được nhớ đến với bút pháp rất đặc trưng, hài hước, mang tính chất của âm nhạc giảm thiểu, âm hưởng rất Pháp, khả năng phối khí rất độc đáo. Trong các tác phẩm thanh nhạc, Poulenc nổi tiếng với khả năng phổ nhạc xuất sắc. Poulenc là một nhạc sĩ nổi tiếng khi còn sống.
    Tác phẩm nổi tiếng nhất vào thời của Poulenc là 3 bản perpetuum mobile cho piano sáng tác năm 1918, được đạo diễn Alfred Hitch**** dùng trong bộ phim "The Rope" (Sợi dây). Ngày nay, tác phẩm được xem là xuất sắc nhất của Poulenc là vở opera "Dialogues des Carmelites" (Đối thoại của những người Carmelite) sáng tác vào năm 1957, dựa trên sự kiện có thật về lần xử tử 16 nữ tu sĩ dòng thiên chúa Carmel trong thời kì cách mạng tư sản Pháp.

    Được phucphan sửa chữa / chuyển vào 10:23 ngày 16/07/2006
  2. phucphan

    phucphan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/09/2005
    Bài viết:
    311
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    Tranh của Gauguin
    Rapsodie Nègre
    Poulenc sáng tác bản "Rapsodie đen" vào năm 1917, đây là 1 trong những sáng tác hoàn thành đầu tiên của Poulenc và cũng có phần định hình bút pháp của Poulenc sau này. Bản Rapsodie 5 chương này được viết cho 1 giọng quãng trung, piano, tứ tấu dây, flute và clarinette. Trong lần biểu diễn đầu tiên, chính Poulenc là người đã hát phần viết cho giọng trung. Tác phẩm này của Poulenc được xem là một sáng tác thử nghiệm, bắt chước phong cách hội hoạ của hoạ sĩ nổi tiếng Paul Gauguin. Rapsodie đen được đề tặng Erik Satie, một thần tượng của Poulenc. Paul Vidal, thầy giáo của Poulenc sau khi nghe bản này đã đuổi Poulenc khỏi nhạc viện Paris. Theo lời Poulenc thì Vidal đã tuyên bố: "Bài viết của anh thật ghê tởm, tai tiếng...Anh muốn chạy theo nhóm Satie và Stravinsky chứ gì. Thế thì tạm biệt anh luôn." Stravinsky, sau khi nghe câu truyện sau bản Rapsodie kì quặc này đã giúp Poulenc in và phát hành nó.
    Nếu như phong cách hội hoạ của Gauguin dùng những mảng màu bẹt, rực rỡ, đơn giản thì bút pháp của "Rapsodie Nègre" mang những nét hoà thanh của phương đông, có sự lặp đi lặp lại của những mảng chủ đề đơn giản và mang đậm cái chất "exotic" điển hình của phong cách Gauguin. Nổi bật nhất ở tác phẩm này là chương 3 và chương 5, Poulenc phổ nhạc những âm thanh vô nghĩa, nghe như một lời cầu kinh của những người thổ dân: "Honolulu-potilama-Katimoko-Mosipolu-Ratakusi-Rapolama". Âm nhạc mang tính giảm thiểu, lặp đi lặp lại, phảng phất tính chất "barbarism" (dã man).
    Không thể coi "Rapsodie Negre" là kiệt tác hay một tác phẩm quan trọng nhưng cái chất vô tư, hững hờ, thuận hoà thanh của nó tiên báo cho phong cách một giai đoạn lớn trong sáng tác của Poulenc. Mezzo Anne Sofie von Otter, Bengt Forsberg và các nhạc công nhạc viện Paris.
    http://www.badongo.com/file/1067764
    http://www.badongo.com/file/1067765
    http://www.badongo.com/file/1067766
    http://www.badongo.com/file/1067767
    http://www.badongo.com/file/1067768
    To lamthanhthuy: Host bán đồ gỗ chạy đuợc đấy. Bác phải đợi 2 chục giây với phải điền đúng text code là xong mà.
  3. phucphan

    phucphan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/09/2005
    Bài viết:
    311
    Đã được thích:
    0
    Một số tác phẩm thanh nhạc ngắn
    Mezzo-soprano/Soprano: Regine Crespin
    Piano: John Wustman
    Các tác phẩm thanh nhạc (mélodie) chiếm một vị trí quan trọng trong kho tàng sáng tác của Francis Poulenc. Poulenc viết hơn 100 tác phẩm mélodie, thường chia thành những chùm từ 3-10 bài hát. Từ việc chọn bài thơ đến việc chọn hoà thanh, bút pháp sáng tác, các mélodie của Poulenc đều thể hiện rõ tính anti-romantisme của nhóm Les Six. Bút pháp âm nhạc của Poulenc bám rất sát vào lời thơ và cái chất vô tư, hững hờ của Poulenc cho phép ông phổ nhạc cho những bài thơ rất khó. Các thể thơ mà Poulenc thường chọn là thể thơ siêu thực và trừu tượng.
    Để tiện theo dõi các mélodie này em sẽ cung cấp toàn bộ phần lời và dịch nghĩa (em dịch phô lắm). Các mélodie này âm vực đều không rộng nên 1 giọng cao hay trung đều có thể thể hiện mà không cần dịch chuyển giọng. Regine Crespin, soprano Pháp nổi tiếng sau thế chiến 2, mở đầu sự nghiệp là 1 soprano spinto/dramatico nhưng chuyển dần xuống mezzo-soprano trong những năm cuối của sự nghiệp biểu diễn. Một giọng hát dày, đầy đặn, rất Pháp.
    http://www.badongo.com/file/1101374
    http://www.badongo.com/file/1101375
    http://www.badongo.com/file/1101376
    http://www.badongo.com/file/1101378
    http://www.badongo.com/file/1101379
    http://www.badongo.com/file/1101380
    Thơ: Guillaume Apollinaire
    CHANSON D''ORKENISE - Bài ca tỉnh Orkenise
    Par les portes d''Orkenise
    Veut entrer un charretier.
    Par les portes d''Orkenise
    Veut sortir un va-nu-pieds.
    Những cánh cửa tỉnh Orkenise
    Một người kéo xe bò muốn vào
    Những cánh cửa tỉnh Orkenise
    Một người chân đất muốn buớc ra

    Et les gardes de la ville
    Courant sus au va-nu-pieds:
    "Qu''emportes-tu de la ville?"
    "J''y laisse mon coeur entier."
    Những người gác cổng
    Chạy đến người đi chân đất:
    "Cậu đem cái gì ra khỏi thành phố vậy?"
    "Tôi để cả trái tim của tôi ở đó"

    Et les gardes de la ville
    Courant sus au charretier:
    "Qu''apportes-tu dans la ville?"
    "Mon coeur pour me marier."
    Những người gác cổng
    Chạy đến người kéo xe bò
    "Anh đem cái gì vào thành phố vậy?"
    "Tôi đem theo trái tim của tôi và tôi sẽ cưới vợ"

    Que de coeurs dans Orkenise!
    Les gardes riaient, riaient,
    Va-nu-pieds, la route est grise,
    L''amour grise, ô charretier.
    Những anh lính gác cười với nhau
    Có nhiều trái tim ở Orkenise quá
    Hỡi anh đi chân đất, con đường phía trước thật ảm đạm
    Hỡi anh kéo xe bò, tình yêu làm con người say mê.

    Les beaux gardes de la ville
    Tricotaient superbement;
    Puis les portes de la ville
    Se fermèrent lentement.
    Những anh lính gác bảnh bao
    Cùng buớc qua một cách kiêu hãnh
    Và những cánh cửa của thành phố
    Từ từ đóng lại

    HÔTEL - Khách sạn
    Ma chambre a la forme d''une cage,
    Le soleil passe son bras par la fenêtre.
    Mais moi qui veux fumer pour faire des mirages
    J''allume au feu du jour ma cigarette.
    Je ne veux pas travailler - je veux fumer.
    Căn phòng của tôi như một cái chuồng
    Ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ như một cánh tay mở rộng
    Nhưng tôi muốn hút thuốc để tạo ra những ảo ảnh
    Tôi châm điếu thuốc từ sáng sớm.
    Tôi không muốn làm việc. Tôi muốn hút thuốc.

    Thơ: Maurice Carême
    LE CARAFON - Cái bình con (bài này làm em nghĩ đến lão phù thuỷ của box mình)
    "Pourquoi, se plaignait la carafe
    n''aurais je pas un carafon
    Au zoo, madame la Girafe
    n''a-t''-elle pas un girafon?"
    Cái bình nước than vãn
    Sao tôi lại không thể có một cái bình con
    Ở vườn thú, cô hươu cao cổ
    Chẳng có một chú hươu con đấy ư

    Un sorcier qui passait par là
    à cheval sur un phonographe
    enregistra la belle voix de soprano de la carafe
    et la fit entendre à Merlin
    Một lão phù thuỷ đi qua đó
    Cưỡi một cái máy ghi âm
    Ghi lại chất giọng soprano tuyệt đẹp của cái bình nước
    Và đưa bản ghi âm cho thầy phù thuỷ Merlin

    "Fort bien, *** celui ci, fort bien"
    Il frappa trois fois dans les mains
    et la dame de la maison
    se demande encore pourquoi
    elle trouva, ce matin là
    un joli petit carafon
    blotti tout contre la carafe
    ainsi qu''au zoo, le girafon pose son long cou fragile et long
    sur le flanc clair de la girafe
    Được, lão phù thuỷ gật gù
    Hắn vỗ tay 3 phát
    Và đến hôm nay bà chủ quán vẫn băn khoăn
    Vì sao sáng hôm đó
    Bà ta nhìn thấy một cái bình con
    Náu mình bên cái bình nước
    Như ở vườn thú, con hươu con đặt cái cổ dài và yếu
    Lên làn da sáng màu của con hươu cao cổ

  4. phucphan

    phucphan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/09/2005
    Bài viết:
    311
    Đã được thích:
    0
    Les Gars qui vont à la fête - Những gã đi hội làng
    Thơ: Maurice Fombeure
    les Gars qui vont à la fete
    ont mis la fleur au chapeau
    pour y boire chopinette
    y gouter le vin nouveau
    y tirer la carabine
    y sucer le berlingot
    les Gars qui vont à la fete
    ont mis la fleur au chapeau
    Những gã đi hội làng
    Đã cài một bông hoa lên mũ
    Để đi uống bia
    Uống rượu vang mới
    Đi bắn súng cacbin
    Đi mút kẹo mạch nha
    Những gã đi hội làng
    Đã cài một bông hoa lên mũ

    Sont rasés à la cuiller
    sont raclés dessous la peau
    ont passé la blouse neuve
    le faux-col en cellulo
    les Gars qui vont à la fete
    ont mis la fleur au chapeau
    Mấy gã cạo râu nhẵn thín
    Cạo đến trơ cả xương
    Mấy gã đã cài lên mấy cái áo mới
    Cái faux-col bằng cellulo
    Những gã đi hội làng
    Đã cài một bông hoa lên mũ

    Y faire danser les filles
    Chez Julien le violoneur
    des polkas et des quadrilles
    et le pas des patineurs
    Le piston, la clarinette
    attendrissent les costauds
    les Gars qui vont à la fete
    ont mis la fleur au chapeau
    Các gã cùng nhảy với các thôn nữ
    Ở nhà Julien, bác thợ làm vĩ cầm
    Những điệu polka và quadrille
    Và bước nhảy của những người trượt patin
    Tiếng kèn cor và clarinette
    Làm nóng trái tim sắt đá của mấy gã
    Những gã đi hội làng
    Đã cài một bông hoa lên mũ

    Quand ils ont bu, se disputent
    et se cognent sous la peau
    puis vont culbuter les filles
    au fossé sous les ormeaux
    les Gars qui vont à la fete
    ont mis la fleur au chapeau
    Khi mấy gã say, bắt đầu cãi nhau
    Rồi đánh nhau xước hết da
    Rồi vật ngã mấy thôn nữ
    Xuống cái mương dưới cây đu
    Những gã đi hội làng
    Đã cài một bông hoa lên mũ

    Reboivent puis se rebattent
    jusqu''au chant du premier jô
    le lendemain on en trouve
    sont dormis dans le ruisseau
    les Gars qui vont à la fete
    ont mis la fleur au chapeau
    les Gars qui vont à la fete
    chapeau...
    Lại uống rồi lại đánh nhau
    Cho đến mờ sáng ngày hôm sau
    Ngày hôm sau người ta thấy vài gã
    Ngủ ngật nguỡng dưới suối
    Những gã đi hội làng
    Đã cài một bông hoa lên mũ
    Những gã đi hội làng
    Cái mũ...

  5. phucphan

    phucphan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/09/2005
    Bài viết:
    311
    Đã được thích:
    0
    Hai bài thơ của Louis Aragon
    C - Bài thơ được đặt tên như vậy vì mọi dòng thơ đều kết thúc bằng một âm "xê" (C). Bài thơ thể hiện sự tẻ nhạt và buồn chán của cuộc sống ở Pháp trong những năm chiến tranh.
    J''ai traversé les ponts de Cé - Tôi đã đi qua những chiếc cầu hình chữ C
    C''est là que tout a commencé - Đó là nơi mọi thứ bắt đầu
    Une chanson des temps passés - Một bài hát của những thuở xưa
    Parle d''un chevalier blessé - Kể về một kị sĩ bị thương
    D''une rose sur la chaussée - Kể về một bông hồng trên ngưỡng cửa
    Et d''un corsage délacé - Kể về một vạt áo tung bay
    Du chateau d''un duc insensé - Kể về lâu đài của một bá tước điên cuồng
    Et des cygnes dans les fossés - Kể về những cánh thiên nga trên hào nước
    De la prairie où vient danser - Kể về cánh thảo nguyên
    Une éternelle fiancée - Nơi một cô gái đến nhảy múa
    Et j''ai bu comme un lait glacé
    Le long lai des gloires faussées
    -Và tôi đã uống bài ca của những vinh quang đã qua như uống một cốc sữa lạnh
    La Loire emporte mes pensées - Dòng sông Loire đem theo những suy nghĩ của tôi
    Avec les voitures versées - (???)
    Et les armes mal effacées - Và những giọt nước mắt không thể xoá đi
    Ô ma France, ô ma délaissée - Ôi nước Pháp của tôi, đất nước bị bỏ rơi
    J''ai traversé les ponts de Cé. - Tôi đã đi qua những cây cầu hình chữ C.
    Fetes galantes - Ngày hội tình tứ
    Bài thơ miêu tả sự lộn xộn của xã hội sau những năm chiến tranh. Bài thơ liên tục mở đầu bằng những từ "On voit..." (người ta nhìn thấy) và những hình ảnh rất nực cười: những bá tước đi xe đạp, những tên đồng cô, những người chết đuối dưới cây cầu, những người bán giầy thất nghiệp, những nguời soi trứng ngồi ngáp ngắn ngáp dài và bài thơ kết thúc bằng 2 câu: "Người ta nhìn thấy những giá trị đạo đức bị suy đồi và cuộc sống trôi đi vô nghĩa":
    On voit des marquis sur des bicyclettes
    On voit des marlous en cheval jupon
    On voit des morveux avec des voilettes
    On voit des pompiers brûler les pompons
    On voit des mots jetés à la voirie
    On voit des mots élevés au pavois
    On voit les pieds des enfants de Marie
    On voit le dos des diseuses à voix
    On voit des voitures à gazogène
    On voit aussi des voitures à bras
    On voit des lascars que les longs nez gênent
    On voit des coïons de dix-huit carats
    On voit ici ce que l''on voit ailleurs
    On voit des demoiselles dévoyées
    On voit des voyous, on voit des voyeurs
    On voit sous les ponts passer des noyés
    On voit chômer les marchands de chaussures
    On voit mourir d''ennui les mireurs d''oeufs
    On voit péricliter les valeurs sûres
    Et fuir la vie à la six-quatre-deux.

Chia sẻ trang này