1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

GIÀNH GIẬT TỪNG CĂN NHÀ 'CHƠI' THEO LUẬT CỦA ĐỐI PHƯƠNG SÀI GÒN, THÁNG 5 1968

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ngthi96, 24/05/2021.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. kuyomukotoho

    kuyomukotoho Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/05/2014
    Bài viết:
    5.704
    Đã được thích:
    8.588
    Tay Cooper xuất sắc thật. Nhưng hắn bay bằng cái thứ gì mà bay mình ênh, phóng được rocket và bay tận 3 giờ thế không biết. Thường thì thời ấy dùng L-19 cho nhiệm vụ trinh sát chỉ thị mục tiêu kiểu này và nó chẳng phóng được rocket
    convitbuoc thích bài này.
  2. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Đợt tấn công cuối cùng của Foster thực ra khá dễ dàng. Đơn vị làm chủ khu vực mà ko bị bắn 1 phát nào. Họ tìm thấy dưới 1 tấm tôn cong queo 2 xác địch. Mad Madrigal nhớ lại: “Tôi có xem mấy xác đó, cháy thành than cả. Bị dính napalm.”


    Các báo cáo tương tự cũng được mấy đại đội khác gửi về sở chỉ huy của DeLuca. Họ cũng chiếm được mục tiêu mà ko gặp phải chạm súng. Sau 6 ngày đánh nhau ác liệt, số quân còn lại của đối phương đã lợi dụng bóng tối rút đi. Mọi chuyện vẫn cứ như xưa. Quân Giải phóng thường khai trận và họ cũng thường là người kết thúc nó. Ngày hôm đó trong quá trình lùng sục đám nhà cửa đổ nát, ném lựu đạn xuống hố chiến đấu ko người, tìm kiếm vũ khí và xác đối phương quân Mỹ gặp rất ít chiến sĩ địch còn sống: 1 bị thương bị lính đại đội B/2/47 bắt và 1 bị đại đội B/6/31 giết. Theo các báo cáo gửi lên trên thì tổng cộng đã tìm thấy 45 xác quân Giải phóng. Jack Brunet, lính cứu thương thuộc tiểu đoàn 3, trung đoàn 39, người đã đi cùng 1 trung đội thám sát ngày tiếng súng chấm dứt nhớ lại: “Chúng tôi lùng sục hết nhà này sang nhà khác. Thấy cửa 1 nhà đang hé mở, chúng tôi đẩy cho nó mở hẳn ra thì thấy ở trong góc, có người mẹ trong tư thế cho con bú, cố lấy thân mình che cho con, nhưng vẫn dính đạn, chết cả.”


    Sau khi làm chủ khu đồn, thu hồi được xác Lyle Hansen, trung đội thiếu úy Procaccini phát hiện đối phương đã biến nơi đó thành 1 cứ điểm mạnh đầy rẫy hầm chố chiến đấu có nắp đắp bằng đất và thân dừa. Procaccini nhớ lại: “Cảnh tượng thật ghê gớm. Khói, lửa, xác chết trương thối rải rác khắp nơi.” Dân lục tục xuất hiện chứng tỏ trận đánh đã kết thúc. Procaccini kể: “Họ cứ đi loanh quanh, nhìn nhà cửa, đồ đạc mình giờ đã tan hoang. Toàn ông già bà cả, khóc rưng rức. Buồn lắm.”


    Báo chí mô tả đây là 1 chiến thắng với cái giá phải trả quá ư là đắt đỏ. Sau khi địch rút đi, ngày 13/5, đại úy Stuart cùng với đại đội A/3/39 được trực thăng chở về chỗ đồn Tây trước khi trời tối. Trong thư viết cho vợ, thượng sĩ nhất Johnson nói chuyến về còn kinh khủng hơn lúc đánh nhau. “Anh quá giang trên chiếc trực thăng thám sát mà phi công chỉ lo tìm kiếm địch quân còn nán lại. Suốt quãng đường về, anh ta bay cách đất chỉ khoảng 5-6m, với tốc độ gần 200km/h. Cả đời anh chưa bao giờ thấy hãi đến vậy.”


    Sáng ngày 14/5; Trung tá DeLuca cùng ban chỉ huy cộng thêm trung đội thám sát, đại đội B và đại đội C/3/39, được trực thăng vận về Rạch Kiến; trong khi đại đội B/6/31 thì trở lại căn cứ hỏa lực Smoke. Trước khi đi, nhiều binh sĩ đã cởi bỏ bộ đồ dơ dáy ra chỗ đường ống nước vỡ trên nhánh nam cầu chữ Y tắm. Cảnh tượng trên đã được cánh phóng viên lưu lại cho hậu thế. Tối đó DeLuca viết cho vợ: “Được về nhà mới dễ chịu làm sao. Tinh thần lính tráng cao trở lại. Lữ đoàn 3 đã đề nghị tặng cho đơn vị anh Bằng khen của tổng thống. Có khối người của anh đã được thưởng huân chương sao Bạc, sao đồng. Thật hãnh diện khi có nhiều anh hùng tới vậy. Họ đúng là những chiến binh tuyệt vời. Họ lao vào việc lau chùi vũ khí, cắt tóc, cạo râu ngay hôm nay …chứ hôm qua lúc hành lễ ngoài chiến địa, ai cũng thấy ngại vì tóc râu dài quá.”


    Trong lá thư gửi về nhà sau khi về đồn Tây 3 hôm, thượng sĩ nhất Johnson cho biết là đại đội Alpha “đã lại sẵn sàng chiến đấu. Sau khi được nghỉ ngơi, mọi người đều hăng hái trở lại.” Viên trung sĩ tiếp liệu chẳng hiểu ‘thó’ được ở đâu ra mấy chục thùng bia, nước ngọt để mở tiệc vào tối ngày 16/5. “Chúng anh kệ cho lính nó xõa, ăn nhậu tưng bừng. Hẳn là chúng nó vui lắm. Đây là lần đấu tiên cả bọn được thoải mái từ khi sang bên này. Hẳn em ko thể biết chúng anh vừa trải qua 1 trận rất khốc liệt đâu. Mọi người đều vui vẻ. Bên này bọn anh có mấy tay ghi ta khá lắm lại thêm mấy cậu hát cũng hay. Tha hồ mà quẩy.” Kết thúc đánh nhau trên đường phố là bắt đầu ngay kiểu chiến tranh ruộng đồng khi trước. Trong thư Johnson viết tiếp: “Sáng ra sau bữa tiệc, là tới lễ khen thưởng. Nó chưa kết thúc thì đã có lệnh báo động hành quân. Chỉ trong khoảng 1 tiếng đồng hồ mà bọn anh giết 5, bắt được 3 tên VC. 1 tù binh còn là đại đội trưởng nữa…”


    Sau khi đại đội C, tiểu đoàn 6, trung đoàn 31 tăng phái đã được trực thăng bốc đi, thì tiểu đoàn 2 cơ giới, trung đoàn 47 bộ binh của trung tá Tower cũng phải hành quân qua cầu chữ Y, qua cầu Tân Cảng ra xa lộ để về lại căn cứ Bearcat. Tới thời điểm đó, công việc bảo vệ quân 8 đã được giao lại cho cảnh sát và quân đội VNCH. Trước lúc lên đường, tiểu đoàn Báo đen còn làm nhiệm vụ bảo vệ những nhân viên cứu trợ VN để họ dọn xác chết khỏi những khu nhà đổ nát, đưa lên xe bán tải sơn đỏ trở đi.


    Ta lại tái ngộ phóng viên ảnh chiến trường Ken Pollard cùng cậu bạn là con ‘đại bàng gầm thét’ Rick Laurent (phù hiệu sư đoàn dù 101. ND) vào ngày 28/5/1968. Trong đợt 3 tổng tiến công, Pollard, Laurent, cùng với hạ sĩ Ransom C. Cyr, 1 phóng viên ảnh khác đã theo cùng 1 đơn vị TQLC VNCH vào khu chợ Lớn. Trong lúc băng qua 1 hẻm nhỏ, Pollard đã lãnh đạn vào đùi trái. Viên đạn cắt đứt động mạch. Cyr kéo anh ra khỏi làn đạn rồi buộc ga rô để cầm máu. Hoàn cảnh đó Cyr đã hành động như 1 người lính chứ ko phải là bạn vì anh vốn xung khắc với Pollard. Thế rồi trong khi chạy đi tìm cho Pollard 1 lính cứu thương, Cyr bị bắn chết.


    Rick Laurent chạy đến cứu. Trong lúc dẫn 2 lính TQLC VNCH mang cáng tới, anh vừa la hét vừa vung vẩy khẩu súng ngắn colt .45. Pollard được đưa lên xe cứu thương của quân nam VN. Chiếc xe hú còi rời khỏi đó với Laurent đứng trên bậc lên xuống. Xe chạy đến bệnh viện dã chiến số 3. Do có lệnh ko cho người Việt bị thương vào nơi này, tay quân cảnh Mỹ gác cổng liền ra chặn nói: “Ko được lái xe vào trong này.” Laurent quát ngay: “Mở cổng ko tao bắn nát gáo bây giờ.”


    Việc đó hiệu quả ngay và Pollard đã được khẩn trương cấp cứu, giữ được cả chân lẫn tính mạng. Laurent sau đó đã quay trở lại chỗ đụng độ góp sức đưa được xác Cyr về. Để cám ơn, chỉ huy đại đội thông tin số 221 đã dàn xếp để Laurent được về lại đơn vị mà ko phải ra toàn án quân sự. Thế nhưng dù qua được cuộc chiến ko bị thương tích gì, Laurent khi về tới nhà vẫn khó sống. Trong cuộc hội ngộ diễn ra năm 1970, Laurent chỉ cho Pollard xem những vết thương do đạn bắn trong khi bài bạc ở Detroit. Tới năm 1978, Laurent lại ghé thăm Pollard lần nữa khi đi ngang Sacramento cùng bạn gái trên đường chạy trốn. “FBI đang truy theo tôi. Để tôi cho anh biết lý do sao nhé.” Nói rồi Laurent định mở cái cặp mang theo người. Thấy thế Pollard vội nói: “Ấy đừng. Tôi chẳng muốn kể gì khi bọn họ tới hỏi thăm đâu.” Kể từ hồi đó Pollard ko còn gặp lại Laurent nữa.
    Khoam, viagraless, kuyomuko2 người khác thích bài này.
  3. convitbuoc

    convitbuoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2008
    Bài viết:
    1.153
    Đã được thích:
    918
    Em đoán là con này A1 Skyraider cụ ạ.... nhờ vào 2 thông tin là bay được 3h và mở được cửa buồng lái quăng lựu đạn :D
    [​IMG]
    [​IMG]
    Lần cập nhật cuối: 05/11/2021
    maseo thích bài này.
  4. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Lần cập nhật cuối: 05/11/2021
    maseo, viagraless, kuyomuko3 người khác thích bài này.
  5. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Phần kết


    Đấu tố




    Tướng Ewell chủ trì buổi lễ khen thưởng được tổ chức tại ‘vùng xanh’, dưới cầu chữ Y ngày cuối cùng của chiến dịch. Cờ quạt, diễn văn đủ cả. Ngồi trên ghế xếp chỗ khán đài là đủ loại tướng tá, phóng viên, ký giả. Tướng Palmer đích thân gắn huân chương rồi bắt tay gần trăm sĩ quan, binh lính đại diện cho các đơn vị từng đánh nhau ở Sài Gòn.


    Đứng sau micro, tướng Ewell cho biết trong trận đánh bảo vệ Sài Gòn, toàn sư đoàn có 39 quân nhân tử trận, 265 người bị thương. Cụ thể: tiểu đoàn 5 trung đoàn 60 chết 7; tiểu đoàn 3, trung đoàn 39 chết 10; tiểu đoàn 2, trung đoàn 47 có 10 người thiệt mạng còn tiểu đoàn 6, trung đoàn 31 thì tử trận 12.


    Đổi lại, Ewell tuyên bố sư đoàn 9 ‘Old Reliables’ đã tiêu diệt 976 bộ đội, biến cuộc tổng tiến công của quân Giải phóng trở thành “1 trong những chiến thắng vĩ đại nhất cuộc chiến của quân ta.” (Theo tài liệu VN, chủ lực đánh quận 8 là Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 Long An. Tiểu đoàn 1 chốt giữ phía nam cầu chữ Y, chiến đấu giằng co quyết liệt với địch. Sau ba ngày chiến đấu (từ ngày 9 đến ngày 11-5) tiểu đoàn 1 đã loại khỏi vòng chiến đấu 200 tên Mỹ, bắn cháy 4 xe M113, bắn rơi 1 máy bay. ND)


    Ngay sau đó trung tá DeLuca nhận được mẩu giấy của 1 trung tá, công tác tại bộ tư lệnh sư đoàn. Tờ giấy viết: “Chúc mừng cậu cùng tiểu đoàn 3/39 vì cái việc phi thường đã làm hồi tuần trước.” Tuy nhiên người bạn của DeLuca cũng cảnh báo rằng, dù diễn văn hay lễ khen thưởng có hoành tráng tới đâu thì tướng Ewell vẫn hậm hực vì ‘nhành nguyệt quế’ thắng lợi đã ko thuộc về đám tay chân thân tín. “Chiến thắng oanh liệt của lữ đoàn 3 đã làm cho tướng Ewell cũng như đại tá Emerson ngậm đắng nuốt cay. Sự thiên vị rõ rệt của ông tướng khiến chúng tôi cũng thấy cám cảnh.” Ghét vì ông này ko bao giờ trở thành 1 Gunfighter Emerson hung hăng mà mình thích, trong báo cáo trước khi kết thúc nhiệm vụ Ewell đã có những nhận xét ảnh hưởng xấu tới sự nghiệp của đại tá Benson. Tuy ko chỉ trích Benson rõ rệt, nhưng trong khi giành những lời có cánh cho viên lữ trưởng mình sủng ái Ewell chỉ đánh giá ông khá làng nhàng. Benson nhớ lại: “trước khi đi, ngồi xem lại bản đánh giá năng lực của mình với người bạn cũ Bill Knowlton, anh ấy nói ‘Chà, lão giết cậu thật là êm dịu’. Chỉ cần nhận xét thế là tôi đừng hòng có được lon chuẩn tướng.”


    Có người còn cho rằng George Benson chính là nhân vật George Robertson, 1 lữ đoàn trưởng xấu xa, phản phúc trong cuốn tiểu thuyết mỏng viết để tôn vinh tướng Ewell có tên The Lionheads của Josiah Bunting.


    Tuy nhiên, chả phải ai cũng hoan nghênh cái chiến thắng ấy. DeLuca viết trong thư “1 số kẻ khó tính tỏ ra ko thích những thiệt hại mà bọn anh đã gây ra tại Sài Gòn, khiến cho cơ quan thanh tra MACV phải vào cuộc điều tra. Trong bối cảnh dễ bị tổn thương như thế chắc chắn bọn anh chỉ gây ra thiệt hại ở mức tối thiểu, cần thiết. Nhưng đúng là có thiệt hại thật.”


    Quan chức sứ quán đòi điều tra chính là Charles Sweet cùng cấp trên của mình là Edward G. Lansdale, tướng Không quân về hưu chuyển sang làm phụ tá đặc biệt của Ellsworth Bunker. Ngày 12/5, Lansdale đã gửi cho Đại sứ Bunker, tướng Westmoreland cùng những quan chức chủ chốt khác của Mỹ ở VN bản ghi nhớ dài 2 trang giấy do Sweet viết sau khi đi thăm Chợ Lớn và Quận 8. Trong thư gửi kèm, Lansdale gọi ghi nhớ trên là bản ‘cảnh tỉnh’ và còn viết thư thêm rằng khi gặp Sweet sau chuyến thị sát vùng chiến sự mình thấy “anh ta giận run người với tất cả những người Mỹ đã từng là bạn của người VN cho tới khi nổ ra trận đánh trong thành phố mấy ngày vừa qua. Tôi đã bảo anh ta viết báo cáo rồi gửi nó cho các ông.”


    Tướng Westmoreland đã chỉ thị cho đại tá Robert M. Cook, chánh thanh tra của MACV ‘ưu tiên điều tra’ về vấn đề này. Đại tá Cook đã phỏng vấn nhiều người trong đó có tướng Roseboroug, đại tá Benson, viên trưởng phòng hành quân Lực lượng Dã chiến II, và vị phó cố vấn trưởng Biệt khu thủ đô. Ngoài ra đại tá Robert W. Marshall,trưởng ban điều tra MACV cũng chỉ huy 1 nhóm làm nhiệm vụ nghiên cứu các báo cáo hành động, không ảnh, đồng thời thu thập lời khai của các phi công trực thăng vũ trang; cố vấn; tiểu đoàn trưởng; sĩ quan tham mưu cấp tiểu đoàn , lữ đoàn và sư đoàn. Ngày 22/5 DeLuca viết cho vợ: “Chiều nay anh đã mất 2 tiếng đồng hồ ngồi cho 1 tay trung tá của MACV lục vấn. Cái nhóm điều tra những thiệt hại ko cần thiết này cần hỏi chuyện tất cả mọi người. Kết thúc buổi nói chuyện anh có nói nếu phải làm lại anh cũng sẽ làm y như thế với cùng mức độ. Khi họ hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu ko sử dụng phi pháo, trực thăng vũ trang thì anh đáp trận đánh sẽ kéo dài, phải huy động nhiều quân hơn, và thêm hao tổn xương máu. Anh bảo đại tá Benson là nếu được về nhà sớm thì để anh làm vật tế thần cũng được. Nhưng ko may là ông ta đã giành mất ‘diễm phúc’ ấy.”


    Tuy nhiên chả ai cần tới vật tế thần. Báo cáo của Đại tá Marshall đã miễn trách nhiệm cho các đơn vị sư đoàn 9 chiến đấu ở Quận 8. Sau khi chấp nhận tất cả các lời khai, Marshall viết rằng lữ đoàn của Benson đã phải đối mặt với 1 “lực lượng quân Giải phóng đông đến 7 tiểu đoàn với quân số chiến đấu ước tính khoảng 2200 chiến sĩ. Trong số địch quân ‘bộ đội người miền Bắc chiếm 1 tỉ lệ cao bất thường’ và tù binh khai họ ‘được lệnh chiến đấu tới hơi thở cuối cùng’”. Đánh với 1 dối phương sẵn sàng quyết tử, lại bám chắc trong khu dân cư như thế trong quá trình tảo thanh, các tiểu đoàn trưởng buộc phải sử dụng tới pháo binh, trực thăng vũ trang, máy bay chiến thuật. Qui tắc giao chiến vẫn được tuân thủ. Mỗi khi dùng tới phi pháo đều phải xin phép các cơ quan có thẩm quyền. Thường dân luôn được khuyến cáo tránh xa các mục tiêu oanh kích và “Chỉ huy Mỹ trên chiến trường đều tỏ ra rất quan tâm đến thiệt hại nhân mạng cũng như tài sản của người dân…Theo nhận định của các chỉ huy chiến trường, việc yểm trợ hỏa lực 1 cách rộng rãi là cần thiết để tiêu diệt quân thù, giảm thương vong cho quân bạn.”


    Quan điểm cho rằng quân Giải phóng có thể đã thành công bằng cách buộc đồng minh phải hủy diệt 1 quận ủng hộ chính phủ cũng bị bác bỏ và ko được đề cập trực tiếp trong báo cáo:
    Khoam, maseo, viagraless3 người khác thích bài này.
  6. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Qua cung từ của tù binh thấy rõ nhiệm vụ của đối phương là chiếm cầu chữ Y, tiếp cận Sài Gòn tạo điều kiện để hoàn thành các mục tiêu tiếp theo. Chính phản ứng mãnh liệt của lữ đoàn 3, sư đoàn 9 đã khiến cây cầu trên kênh ko bị mất, khiến địch bị cầm chân ở vùng ngoại ô rồi bị đánh bại. Nếu như ko ngăn được địch, để chúng tiến vào trung tâm Sài Gòn thì giao tranh ở đó sẽ khiến thương vong của quân và dân còn lớn hơn nhiều.


    Đại tá Marshall kết luận rằng Đoàn Thanh Liêm khi nói chuyện với Sweet đã phóng đại tổn thất sinh mạng, tài sản của dân chúng. Tiếp đó ông ta quay sang công kích Sweet:


    Sự méo mó nghiêm trọng nhất trong báo cáo của ngài Sweet là đánh giá quá thấp mối nguy mà quân Giải phóng đe dọa quận 6 và quận 8, cũng như mức độ cần thiết phải mạnh tay để đánh đuổi địch ra khỏi khu vực. Tuy báo cáo của ngài Sweet dựa trên cảm xúc ủy mị của Đoàn Thanh Liêm, người có vai trò to lớn với chương trình dân sự vụ của 2 quận là có thể thông cảm nhưng nó lại có cái nhìn rất sai trái khi cho rằng mọi thiệt hại đều là do phía Mỹ đã lạm dụng hỏa lực quá mạnh khi đối phó với những nhóm nhỏ đối phương gây ra. Trên thực tế sự tàn phá trên là kết quả của những động thái quyết liệt nhằm ngăn ko cho kẻ địch xâm nhập vào nội đô, nơi có thể khiến cho tổn thất còn lớn hơn nữa. Thật ko may là ngài Sweet, người đại diện cho chính phủ Hoa Kỳ, lại chẳng thể giải thích cho ông Liêm biết là quân Mỹ ở nam VN luôn kiềm chế trong việc sử dụng hỏa lực. Việc dùng tới nó tại Sài Gòn đều phải được giới thẩm quyền VNCH yêu cầu hay chấp thuận.


    Bất chấp những bao che cùng nỗ lực hướng dư luận sang việc quân Giải phóng cũng góp phần vào những thiệt hại này của các phát ngôn viên, câu chuyện trên vẫn chưa kết thúc. Trung tá Nguyễn Văn Luận, giám đốc cảnh sát đô thành, người sau đó thiệt mạng vì bị trực thăng vũ trang Mỹ không kích nhầm trong mấy ngày ngắn ngủi của tổng tiến công đợt 3, đã nhận xét khá gay gắt với các ký giả rằng: “Do VC ko có Không quân riêng nên chúng đã ‘dùng’ của ta.” Đại sứ quán Mỹ cũng đánh điện về Bộ ngoại giao lưu ý rằng: “Nếu đối phương tiếp tục ‘tạo ra’ thêm người tị nạn, phá hủy nhà cửa, xưởng sản xuất buộc quân ta phải dùng tới phi pháo đánh vào khu dân cư, khiến dân chúng bị thương vong…thì mọi nỗ lực mà ta đã giành được bấy lâu nay có nguy cơ mất sạch.”


    Sau khi kế nhiệm Westmoreland làm tư lệnh chiến trường VN, đại tướng Creighton W Abrams đã hạ lệnh cấm sử dụng hỏa lực ở Sài Gòn nếu mình chưa cho phép. Tuy trong thời của Abrams, quân Giải phóng ko lần nào đánh mạnh vào đô thành nên cũng chả hiểu ông ta sẽ đối phó với 1 trận đánh trong thành phố ra sao cả nhưng có thể thấy rõ là Abrams biết đối phương vẫn có thể gây ra tổn thất lớn về chính trị ngay cả nếu các đơn vị của họ khi đánh vào đây bị tiêu diệt hết. Sau cuộc họp báo ở Long Bình của tướng Weyand thông báo việc Lực lượng Dã chiến II đã bảo vệ Sài Gòn thắng lợi trước đợt tổng tiến công tháng 5, Abrams đã chán nản nói với nhân viên của mình rằng: “Sau khi nghe khoe quân ta đã đánh ‘hay’ như thế, ngồi trên trực thăng bay về nhìn khói, lửa cuồn cuộn bốc lên ngút trời Sài Gòn thì tôi tự hỏi nếu ta bảo vệ ‘thắng lợi’ khoảng 7 lần như thế nữa thì liệu thành phố còn lại những gì? Và tôi cũng sẽ chả biết phân trần ra sao sau 9 lần bảo vệ thắng lợi kiểu vậy.. khi đó thì làm quái gì còn Sài Gòn nữa.”


    Vẫn còn 1 câu hỏi chưa có lời giải: Lực lượng đánh vào Quận 8 của đối phương có đông không? Theo Griffiths quân Giải phóng có khoảng 1 trung đội. Theo Đoàn Thanh Liêm thì cỡ 1 đại đội. Còn với MACV thì địch có đến 2 trung đoàn. Khi nhà báo Frank Palmos, người thoát chết ở chợ Lớn, trở lại VN 20 năm sau đó anh đã dàn xếp xin được phỏng vấn vị tướng từng chỉ huy lực lượng chiến đấu ở quận 8. Theo lời vị tướng đã về hưu này thì có 2 tiểu đoàn quân Giải phóng đã thâm nhập vào khu vực, khá hợp lý với mức độ kháng cự mà sư đoàn 9 nhận được. Vị tướng kể: “Đó là 1 trận đánh rất ác liệt. Quân Mỹ đánh nhau với chúng tôi tại cầu chữ Y, 1 cây cầu huyết mạch. Trong tuần đó cả 2 phía đều mất đi nhiều chiến sĩ giỏi. Theo vị tướng, 1 tiểu đoàn đủ đã chiếm giữ khu vực nhà cửa phía nam cây cầu. Trận đánh giành giật cây cầu đã trở thành trận ‘tay bo’ giữa tiểu đoàn bộ binh Mỹ với tiểu đoàn quân Giải phóng. Trong ký ức của vị tướng, người lính già chân thật đầy nhiệt tình cách mạng thì thế này: “Sau trận đánh tiểu đoàn đã được khen thưởng ko chỉ 1 mà những 3 danh hiệu anh hùng…Quân Mỹ trút xuống đầu chúng tôi đủ loại hỏa lực trên trời, dưới đất. Nhưng chúng tôi có công sự rất vững chắc. Cuối cùng tiểu đoàn tôi đã chiến thắng; xóa sổ cả tiểu đoàn Mỹ. Đúng là chuyện hy hữu trong mọi cuộc chiến tranh.”


    Trung tá DeLuca tiếp tục tác chiến ở Rạch Kiến cho đến tuần thứ nhì tháng 6 năm 1968, khi tướng Ewell chuyển lữ đoàn Emerson tới vùng trách nhiệm của Benson còn lữ đoàn Benson thì tới khu vực hành quân cũ của Emerson.


    Có lẽ Ewell cho rằng Emerson thích hợp hơn Benson trong việc tiêu diệt đối phương tại khu vực ‘căng thẳng’ nhất của sư đoàn. Tuy nhiên DeLuca, rất ngạc nhiên với việc đảo quân, lại cho đây là 1 động thái chính trị nhằm kiếm thêm vinh quang cho viên lữ trưởng mà Ewell sủng ái bằng cách để ông này đánh vào 1 ổ du kích, dù rằng Benson và các tiểu đoàn trưởng dưới quyền đã hoạt động khá thành công tại đây. Cả Ewell lẫn Emerson chẳng mặn mà gì với công tác dân vận và DeLuca đành chứng kiến những công trình tốt đẹp mà tiểu đoàn 3/39 của mình đã làm đã bị phung phí bởi 1 tiểu đoàn tới thay dưới trướng Gunfighter. Sau khi đổi chỗ với tiểu đoàn mới đến, DeLuca chán nản viết thư về cho vợ kể đơn vị này: “đã tuyệt giao với người dân, từ chối chăm sóc y tế, lại còn lên kế hoạch phá dỡ nhà cửa phát quang xạ trường chu vi phòng thủ.”


    Tiến sâu xuống đồng bằng châu thổ, xa khỏi đô thành, cuối cùng tiểu đoàn DeLuca chiếm giữ 1 đoạn lộ 4. Ngày 8 tháng 7, trong khi đại tá Benson nghỉ phép, viên trung tá phụ trách hành quân sư đoàn đang tạm quyền lữ trưởng, bàn với DeLuca cho tiểu đoàn 3/39 sáng mai tổ chức hành quân cỡ 1 đại đội vào vùng Đồng Tháp Mười. Tình báo cho hay 1 số lớn quân địch vừa mới di chuyển vào bên trong vùng đồng lầy hoang hóa này. Dựa vào việc những đơn vị khác từng bị thiệt hại nặng khi liều lĩnh đánh vào căn cứ này của đối phương, DeLuca hỏi: “Ủa, nếu anh biết địch đang ở đó, sao ko kêu B-52 tới bỏ bom chết bà chúng nó đi?”
    Khoam, maseo, kuyomukotoho4 người khác thích bài này.
  7. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Quyền lữ trưởng cho rằng để tìm diệt quân thù thì hành quân bộ binh sẽ mang lại hiệu quả hơn. DeLuca bảo trong trường hợp ấy, với dự báo thời tiết ngày mai trời xấu, không quân chiến thuật ko cất cánh được, đơn vị sẽ chỉ biết dựa vào trực thăng vũ trang và phải di chuyển pháo đội phối thuộc tới tầm bắn hiệu quả vào Đồng Tháp Mười. Quyền lữ trưởng nói: “Ồ, ko, ko, chúng tôi sẽ ko làm thế”. Khi DeLuca hỏi lý do thì ông ta nói: “Bởi lẽ, mỗi lần ta chuyển pháo, địch nó biết ngay và lập tức tránh xa bán kính 13km – tầm bắn của pháo.”


    Bị từ chối pháo binh, lại ko cảm sợ tay quyền lữ trưởng cấp bậc chả hơn gì mình, DeLuca tuyên bố: “Tôi ko đưa tiểu đoàn mình vào đó đâu.”


    Bị khước từ, quyền lữ trưởng lập mưu đánh lừa DeLuca bằng cách chỉ thị ông phải cho đại đội Alpha của đại úy Stuart nằm dưới quyền điều động của lữ bộ. DeLuca chỉ biết việc mình bị cho ra rìa khi sáng ngày 9/7, Stuart gọi báo tiểu đoàn trưởng rằng lữ đoàn vừa yêu cầu anh đổ quân tác chiến bằng trực thăng. Rủi thay, Stuart cho biết, chỉ có 3 trực thăng ‘slick’ tới bãi bốc quân thay vì 15 chiếc cần có để chở hết toàn bộ đại đội. 3 chiếc slick thì chỉ mang theo được tối đa 18 lính bộ binh. Qua theo dõi máy truyền tin, DeLuca mới biết 3 chiếc trực thăng này đang bay tới chính cái mục tiêu đã thảo luận khi trước trong vùng Đồng Tháp Mười.


    Lượt chở quân đầu tiên bị bắn mãnh liệt ngay lúc đổ bộ xuống cánh đồng nước ngập tới đầu gối. 3 chiếc Huey sau đó quay lại bốc tiếp 18 binh sĩ nữa, gồm cả đại úy Stuart, rồi thả họ xuống cùng với nhóm đầu tiên. Cả 3 chiếc trực thăng cũng đều bị bắn trong quá trình này. Thấy thế, DeLuca gào toáng đòi cấp cho mình trực thăng chỉ huy để bay ra khu chiến. Cuối cùng 1 trực thăng ‘bong bóng’ cũng tới nơi; ông liền leo lên cùng với người sĩ quan liên lạc pháo binh thuộc quyền. Tới nơi DeLuca mới nhận thấy chẳng ai kể cả tay quyền lữ trưởng bay trên trời để phối hợp tác chiến cả và đợt quân thứ 3 cũng đã được đổ xuống cách chỗ giao tranh khoảng 1000m. Đã có 3 bị giết, 3 bị thương nặng cùng nhiều người bị thương nhẹ trong tổng số 36 binh sĩ bị kìm chặt chỗ bãi đáp lúc đầu.


    Muốn 2 nhóm quân hợp lại lập chu vi phòng thủ, DeLuca bảo phi công hạ độ cao xuống còn 200m, bay theo đường thẳng từ nhóm này sang nhóm kia trong khi mình nhô khỏi cửa, ra thủ hiệu cho lính dưới đất. Có 1 lúc, chắc để DeLuca có thêm thời gian ra hiệu, phi công đã cho chiếc trực thăng bong bóng treo lơ lửng. Ko muốn trở thành 1 mục tiêu cố định, DeLuca liền giật chỏ vào người phi công quát “Cút khỏi đây mau!”. Phi công chưa kịp làm gì thì chiếc trực thăng đã hứng đạn trọng liên 12 ly 7. DeLuca bị 1 mảnh sát thương cắm phía sau đầu. Tay phi công lãnh 1 viên đạn trúng thái dương chết ngay tức khắc, ngã đè lên cần điều khiển khiến chiếc máy bay cắm xuống ruộng lúa, chấm dứt khoảnh khắc hãi hùng.


    Nhận ra mình vẫn còn sống, nhưng khẩu súng máy địch vẫn ko tha, DeLuca vội nhào ra, chạy sang cửa bên kia kéo người sĩ quan liên lạc pháo binh đã bị thương ra khỏi ghế ngồi rồi lôi anh ta nấp sau xác máy bay rơi. Trực thăng vũ trang bay tới nghe Stuart báo tiểu đoàn trưởng bị bắn rụng liền nã đại liên, rocket xuống chỗ máy bay rơi ngõ hầu ko cho tay bộ đội nào tới gần thu bản đồ, điện đài và vũ khí. DeLuca chui lại vào trong máy bay lấy quả lựu đạn khói độc nhất rồi liệng nó bờ ruộng, nơi khô ráo duy nhất mình nhìn thấy. Ném trượt, ông sợ rủn cả người. May quá, khói xanh vẫn bốc lên từ đám ruộng nơi quả lựu đạn chìm xuống. Nhận được tín hiệu, các phi công trực thăng vũ trang lập tức ngừng bắn. 1 chiếc Huey đáp xuống ngay sau đó. DeLuca vác người sĩ quan pháo binh lên tàu bay nhưng lấy của anh này khẩu M16 ko trả.


    Đạn vẫn bắn đến như mưa, khi DeLuca bò về phía quân của mình, tay nắm dây kéo theo khẩu súng mới ‘trưng dụng’. 1 phát đạn xẹt qua tai nghe đoàng 1 cái khiến ông những tưởng mọi thứ đã kết thúc, mình đã bị lính bắn tỉa địch đã thu vào khe ngắm. Thế rồi ông nhận ra mình tí nữa thì bể gáo là bởi: khẩu M16 đang kéo theo có đầy đạn, mở khóa an toàn, cỏ rậm cuốn quanh cò súng.


    Rốt cục DeLuca cũng tìm được Stuart. Họ bắt đầu kêu lính cụm lại lập ra 1 chu vi phòng thủ hẹp. Trực thăng vũ trang chẳng thế nào chế áp được hỏa lực đối phương. Thương binh, tử sĩ phải kéo dưới nước bùn. Ai cũng phải chúi đầu xuống trước những viên đạn viu víu lướt sát bên trên. DeLuca nhìn thấy 1 lính Mỹ chân đầy máu cố lê đi bằng tay. Chu vi phòng thủ được lập xong cũng là lúc trời sụp tối. Ít nhất ta cũng được ở cùng nhau trong cái rắc rối này, DeLuca nghĩ bụng. Ngồi trong nước ngập tới thắt lưng, ông bỗng thấy nó tự nhiên ấm hẳn. Hóa ra do mệt quá DeLuca đã tè cả ra quần.


    Đám trực thăng chở quân bay vào để bốc toán DeLuca ra do bị đạn đối phương đánh đuổi đành quyết định đợi sáng ra sẽ thử lại. Tuy nhiên tình hình chưa tới nỗi tuyệt vọng. Pháo đội của DeLuca đã theo đường bộ di chuyển từ căn cứ đến vị trí có thể bắn tới khu chiến và đã bắt đầu khai hỏa. DeLuca chỉ thị viên pháo đội trưởng rót đạn xuống gần hơn nữa. Viên đại úy ko muốn làm như vậy cho tới khi DeLuca phải nói chỉ khi quân mình cảm nhận được mảnh pháo bay qua đầu thì mới có cơ sống sót tới hết đêm. Sau khi đã hiểu viên đại úy bắt đầu lập 1 hàng rào hỏa lực quanh chu vi cố thủ. Để ngăn ko cho địch tràn ngập vị trí này pháo binh Mỹ đã bắn tới 2.500 quả đạn.


    Đại bộ phận tiểu đoàn đổ quân xuống khu vực vào sáng hôm sau. Tinh thần DeLuca lên hẳn khi nghe thấy giọng đại tá Benson trên tần số liên lạc. Vị lữ trưởng thực thụ đã quay trở lại. Trong quá trình triệt xuất, tướng Ewell mặt mày nhăn nhó đáp xuống vị trí của DeLuca nói: “Chả hiểu sao tối qua cậu lại gom quân mất nhiều thời giờ thế?”


    DeLuca bực mình đáp “Vì bị mấy thằng xấu chơi đâm sau lưng ạ.”


    Dù có những lời lẽ khó nghe nhưng DeLuca vẫn được Ewell thưởng cho 1 huân chương Sao bạc nữa.


    Tháng 8 năm 1968, DeLuca bàn giao lại tiểu đoàn cho người tới thay mình rồi về bộ chỉ huy sư đoàn mới của tướng Ewell ở Đồng Tâm chào trước khi lên đường về nước. Ewell vừa mở mồm khen đơn vị DeLuca đã giỏi giang thế nào thì bị ông chặn lại, nói với vẻ chán ngấy vị thượng cấp mà mình đã ko còn tôn trọng nữa. “Tướng quân, tôi chẳng muốn nghe đâu. Suốt 7 tháng tôi chỉ huy tiểu đoàn vừa qua nào có nghe ông nói được 1 lời êm tai? ông đã từng bỏ thì giờ úy lạo nó hay chưa hay chỉ toàn so đo thành tích. Tiểu đoàn ấy đánh giỏi hơn bất cứ tiểu đoàn nào ông có đấy.” Nói xong DeLuca giập gót, giơ tay chào rồi quay đi.
    Khoam, gaume1, viagraless3 người khác thích bài này.
  8. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Trong số những vật Tony DeLuca đóng gói mang về Mỹ có 1 tấm biển mà lính của Stuart làm tặng ông sau trận thua ở Đồng Tháp Mười. Phía trên là 1 tấm mica vẽ cảnh chiếc trực thăng bị bắn rơi của vị trung tá, bên dưới là tấm biển khắc dòng chữ.


    Chứng nhận trung tá Anthony P. DeLuca là thành viên chính thức hội bò sát, né đạn đại đội Alpha, tiểu đoàn 3, trung đoàn 39 bộ binh, sư đoàn 9.

    Sau khi đã qua thử lửa trên ruộng lúa tỉnh Định Tường, nam VN ngày 9 tháng 7 năm 1968, ông được quyền uống bia nóng, ăn đồ hộp nguội với thành viên đại đội Alpha bất cứ đâu trực thăng xuống nghỉ.

    “Có thể ghé vào mọi lúc”.

    Đại đội “A” trung thành.


    Với những thành công ‘ngoạn mục’ với sư đoàn 9, khi kết thúc kỳ chỉ huy, tướng Ewell kiếm thêm được ngôi sao thứ 3. Từng nói mình sẽ ‘sản xuất’ xác du kích theo kiểu dây chuyền hiện đại Ewell còn làm được hơn cả thế. Ít ra là trong mắt cấp trên Ewell đã đem chiến tranh tới cho kẻ thù, giáng cho họ đòn đau nhớ đời thật. Nhưng với cấp dưới thì đó toàn là chuyện con số đếm xác bị thổi phồng, giả mạo hay những người dân xấu số bị xếp luôn vào số lượng ‘địch chết’.


    Sau khi được thăng cấp, lên nắm quyền tư lệnh Lực lượng Dã chiến II, Ewell tiếp tục truy sát kẻ thù với nỗi hung hãn cao độ. Tướng Abrams thường nhận xét Ewell là vị quân đoàn trưởng tài ba nhất của mình. Abram có thể là người chủ xướng bình định nhưng để việc bình định đạt hiệu quả, thì vẫn phải diệt cho được chủ lực đối phương. Ewell chính là người làm việc đó cho Abram. Kết thúc kỳ hạn chỉ huy thứ nhì, Ewell lại được ‘thưởng’ cho 1 vị trí danh giá khác, dù hơi có phần mai mỉa: Cố vấn quân sự cho Phái đoàn Hoa Kỳ tại Hội nghị hòa đàm Paris.


    1 lưu ý cuối cùng về Ewell: Có 1 tin đồn chẳng thể xác minh được là trong các cuộc hội họp của cựu chiến binh VN thuộc sư Old Reliables; dù mang danh cựu sư đoàn trưởng, ông ta lại chẳng hề được chào đón.



    Danh sách người thiệt mạng (biết được) chết từ ngày 5 đến ngày 12 tháng 5 tại Sài Gòn



    Ngày 5/5/1968


    Hạ sĩ Arnold L. Stewart (đại đội D, tiểu đoàn 6, trung đoàn 31 bộ binh)

    Hasso Rudt von Collenberg (Thứ ký thứ nhất, Đại sứ quán Tây Đức)

    Michael Y. Birch (Hãng thông tấn Úc)

    John L. Cantwell (tạp chí Time)

    Ronald B. Laramy (hãng tin Reuters)

    Bruce S. Piggott (hãng tin Reuters)


    Ngày 6/5/1968


    Hạ sĩ Bobby R. Childs (đại đội A, tiểu đoàn 6, trung đoàn 31 bộ binh)

    Trung sĩ nhất Jimmy Bedgood (đại đội C, trung đoàn 52 bộ binh)

    Charles R. Eggleston (hãng tin UPI)

    Đại tá Lưu Kim Cương (Không đoàn 33, không lực VNCH)


    Ngày 7/5/1968


    Trung sĩ Philip L. Culver (đại đội D, tiểu đoàn 6, trung đoàn 31 bộ binh)

    Hạ sĩ Warren M. Kirsch (đại đội D, tiểu đoàn 6, trung đoàn 31 bộ binh)

    Binh nhất Thomas W. Myers (đại đội B, tiểu đoàn 6, trung đoàn 31 bộ binh)

    Hạ sĩ Harry G. Koyl (lính quân y phối thuộc đại đội A, tiểu đoàn 5 cơ giới, Trung đoàn 60 bộ binh)

    Binh nhất Dalton H. McWaters (đại đội A, tiểu đoàn 5 cơ giới, Trung đoàn 60 bộ binh)


    Ngày 8/5/ 1968


    Trung úy Joe R. Carrillo Jr. (đại đội B, tiểu đoàn 3, trung đoàn 39 bộ binh)

    Hạ sĩ James S. Singletary (đại đội B, tiểu đoàn 3, trung đoàn 39 bộ binh)

    Binh nhất Michael H. Stewart (đại đội B, tiểu đoàn 3, trung đoàn 39 bộ binh)

    Binh nhất Steven J. Prescott (đại đội A, tiểu đoàn 5 cơ giới, Trung đoàn 60 bộ binh)


    Ngày 9/5/1968


    Trung sĩ Franklin A. Townsend (đại đội A, tiểu đoàn 3, trung đoàn 39 bộ binh)

    Binh nhất Miguel A. Abreu-Batista (đại đội B, tiểu đoàn 3, trung đoàn 39 bộ binh)

    Thiếu úy Frederick R. Casper (đại đội C, tiểu đoàn 2 cơ giới, trung đoàn 47 bộ binh)

    Hạ sĩ Paul R. Standridge (đại đội C, tiểu đoàn 2 cơ giới, trung đoàn 47 bộ binh)

    Hạ sĩ Clarence H. Washington Jr. (đại đội C, tiểu đoàn 2 cơ giới, trung đoàn 47 bộ binh)

    Hạ sĩ George W. Darnell Jr. (đại đội B, tiểu đoàn 2 cơ giới, trung đoàn 47 bộ binh)

    Binh nhất Kenneth W. Arnold (đại đội C, tiểu đoàn 2 cơ giới, trung đoàn 47 bộ binh)

    Binh nhất Larry G. Caldwell (đại đội B, tiểu đoàn 2 cơ giới, trung đoàn 47 bộ binh)

    Binh nhất Thomas W. Cranford Arnold (đại đội C, tiểu đoàn 2 cơ giới, trung đoàn 47 bộ binh)

    Binh nhất Merrill A. Moser Arnold (đại đội C, tiểu đoàn 2 cơ giới, trung đoàn 47 bộ binh)


    Ngày 10/5/1968


    Trung sĩ Richard D. "Rick" Kosar (đại đội B, tiểu đoàn 6, trung đoàn 31 bộ binh)

    Binh nhất Jose L. Vieras (đại đội B, tiểu đoàn 6, trung đoàn 31 bộ binh)

    Thượng sĩ Paul E. Jackson (đại đội A, tiểu đoàn 3, trung đoàn 39 bộ binh)

    Trung sĩ Howard E. Querry (đại đội A, tiểu đoàn 3, trung đoàn 39 bộ binh)

    Binh nhất Robert M. Jacobs (đại đội A, tiểu đoàn 3, trung đoàn 39 bộ binh)

    Binh nhất David M. Powell (đại đội A, tiểu đoàn 3, trung đoàn 39 bộ binh)

    Đại úy Edmund B. Scarborough (đại đội C, tiểu đoàn 5 cơ giới, trung đoàn 60 bộ binh)

    Hạ sĩ William G. Behan (đại đội C, tiểu đoàn 5 cơ giới, trung đoàn 60 bộ binh)

    Binh nhất Richard J. Flores (đại đội C, tiểu đoàn 5 cơ giới, trung đoàn 60 bộ binh)

    Binh nhất James J. "Lurch" Hewitt (tên giả)(Tổ tiền sát, tiểu đoàn 2, trung đoàn 4 pháo binh, phối thuộc cho đại đội C, tiểu đoàn 5 cơ giới, trung đoàn 60 bộ binh) (Tử thương ngày 21/5)

    Binh nhất Randolph R. Wilkins (đại đội C, tiểu đoàn 5 cơ giới, trung đoàn 60 bộ binh).


    Ngày 11/5/1968


    Trung sĩ John L Moore (đại đội D, tiểu đoàn 6, trung đoàn 31 bộ binh)

    Hạ sĩ Fred G. Losel Jr. (đại đội B, tiểu đoàn 6, trung đoàn 31 bộ binh)(tử thương ngày 12/5)

    Hạ sĩ Gregory A. Russell (đại đội C, tiểu đoàn 6, trung đoàn 31 bộ binh)


    Ngày 12/5/1968


    Hạ sĩ Dennis K. Jones (đại đội B, tiểu đoàn 6, trung đoàn 31 bộ binh)

    Binh nhất Lyle W. Hansen (đại đội B, tiểu đoàn 6, trung đoàn 31 bộ binh)

    Hạ sĩ Jaime A. Rivera-Lopez (đại đội C, tiểu đoàn 3, trung đoàn 39 bộ binh)

    Hạ sĩ Anthony P. Palumbo (đại đội B, tiểu đoàn 2 cơ giới, trung đoàn 47 bộ binh)

    Binh nhất Philip M. Wooten (đại đội B, tiểu đoàn 2 cơ giới, trung đoàn 47 bộ binh)






    tèn tén ten.. đã lại hết sạch...cảm ơn các bác đã theo dõi...đặc biệt cảm ơn các bác đã like e nhiệt tình giúp e có động lực hoàn thành cuốn sách này ạ...Đặc biệt đề nghị không phát tán bản dịch này cũng như sử dụng cho mục đích thương mại.
    Khoam, maseo, convitbuoc6 người khác thích bài này.
  9. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    Cám ơn Chủ thớt rất nhiều...
    ngthi96 thích bài này.
  10. kuyomuko

    kuyomuko Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/04/2011
    Bài viết:
    19.952
    Đã được thích:
    29.030
    Cám ơn cụ @ngthi96 lắm lắm. Trước đây các cụ đã dịch nhiều sách cho tớ đọc và rất biết ơn các cụ. Tuy nhiên đây là cuốn đầu tiên mà tớ vẫn hàng ngày dõi theo từng trang sách. Hay... rất hay
    ngthi96 thích bài này.

Chia sẻ trang này