1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Giao Chỉ = Vùng đất có con Giao (rồng, cá sấu...) ?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Ledung18, 22/10/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Giao Chỉ = Vùng đất có con Giao (rồng, cá sấu...) ?

    Các bạn thấy ý tưởng trên có "vui" không ?

    Nhưng thực sự nó là 1 giả thuyết của giáo sư Đào Duy Anh, người thầy của nền sử học Việt Nam xã hội chủ nghĩa đấy.

    Tôi vừa mua được quyển "Cổ sử VN" của Đào Duy Anh tại 1 chiếu sách hạ giá lề đường. Thấy ông còn bảo 1 học giả Pháp rất ngây thơ khi cho rằng Giao Chỉ = Vùng đất giáp ranh, vùng đất biên giới... Trung Hoa!

    Thì ra Giao Chỉ luôn là cánh cửa đi vào cổ sử VN. Sai mội li là đi vạn dặm.
  2. langtudien

    langtudien Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/06/2004
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Theo tôi biết thì từ Huế trở ra không có cá sấu vào thời điểm đó. Mà hình như Giao Chỉ còn có nghĩa là cái ngón chân thì phải.
  3. vnhn

    vnhn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2004
    Bài viết:
    840
    Đã được thích:
    0
    Giao Chỉ có nghĩa là ngón chân giao vào nhau, theo đúng nghĩa Hán Việt. Còn tại sao trước kia TQ gọi ta là Giao Chỉ, thì 1 theo quyển sách của Trần Trọng Kim thì có nói người TQ thấy người Việt có bàn chân khác lạ nên mới gọi như vậy. Theo thời gian người TQ ở VN,( chiếm đóng, đô hộ...) có sự kết hợp về nòi giống mà người mình có được hình dáng bây giờNhưng mà thật sự thì chắc chắn ko thể như vậy được, nếu mà đúng như thế thì hoá ra người mình là một chủng tộc đặc biệt à?
  4. cnat

    cnat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/09/2005
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Đôi lúc về nông thôn tôi có gặp vài người đi chân đất.Hai ngón chân cái của họ toẽ hẳn ra so với 4 ngón chân còn lại.Hai ngón chân cái hướng về phía nhau.Có lẽ đó là lý do tại sao có tên Giao Chỉ.Người Việt ta bây giờ có sự pha trộn về nòi giống với người TQ,Khơ me,... nên có lẽ nét đặc trưng đó mất dần đi,chỉ còn lại trên một số ít người.
  5. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    "nếu mà đúng như thế thì hoá ra người mình là
    một chủng tộc đặc biệt à?"
    Không đặc biệt chút nào hết . Trên thế giới, xưa đến nay,
    thỉnh thoảng có người sinh ra với ngón chân như vậy .
    Chuyện cá sấu:
    Có giống cá sấu sông Trường giang chịu được lạnh .
    Ở miền Bắc ViệtNam, có một lần, dân làng thấy một con
    cá sấu ở sông Hồng, làm bà con không dám đến gần sông .
    Vua mời một quan văn đến làm văn tế, đọc và đốt giấy bỏ
    xuống sông, làm con cá sấu chết mất tích . Người ta thấy
    ông có tài, và làm được đúng như truyện đã từng xảy ra ở
    Trung Quốc, nên gọi ông ta họ Hàn, theo họ ông quan Trung
    quốc đã đuổi cá sấu đi . Tôi không nhớ được tên ông quan,
    và cũng không nhớ được lúc đó là thời vua nào .
    Thời nay, cá sấu được nuôi ở Hải Phòng, vì được chống rét
    mùa đông trong trại nuôi sấu . Để ngoài trời, sấu sẽ chết rét.
    Vậy, ý nghĩ của Đào Duy Anh là không hợp lý lắm.
  6. nguyen_thanh_nhat

    nguyen_thanh_nhat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/07/2005
    Bài viết:
    59
    Đã được thích:
    0
    Ông HÀN THUYÊN bác ạ! Mà hình như ông cũng là người sáng lập hay khai triển chữ NÔM cho người Việt!
  7. duongqua83

    duongqua83 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    948
    Đã được thích:
    0
    bác có tài liệu nào nói là cụ Đào Duy Anh nói câu đó ko ? có thì trích lên đây cho mọi người đọc. Chứ bác nói khơi khơi thế này ai biết được.
  8. linhbien

    linhbien Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/03/2005
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    Thỉng thoảng có người sinh ra như vậy chẳng có liên quan gì đến vấn đề của một chủng tộc, một dân tộc vốn hàng triệu người. Bác nói hơi giống trẻ con !
    Cá sấu hiện nay ở đâu mà chả có chẳng cứ gì Hải Phòng mới nuôi. Bác lạc hậu quá.
    Về chuyện bàn chân mà có bạn nào phía trên nói là bị tõe, bị nghiêng ra thì em thấy nó có những lí do của nó. Thật sự hiện nay nếu mọi người về vùng những vùng nông thôn thỉng thoảng sẽ gặp những ông cụ, bà cụ có ngón chân cái hãy bị xòe ra ngoài một chút. Lí do là các cụ thời trai trẻ hay đi chân đất chẳng mấy khi đi dép hay những vật dụng bảo vệ bàn chân. Nếu không tin bác đi gặp các cụ cao tuổi nhưng là dân trí thức ( tức là cùng độ tuổi với các cụ nói trên) sẽ không thấy ngón chân bị xòe, tõe ra ngoài so với các cụ là nông dân. Khi ra ngoài đồng làm ruộng bàn chân người ta phải tạo một lực bám vào đất và ngón chân cái sẽ tạo lực chính. Ví dụ khi dẫm phải đất sét trơn bạn có thể bị ngã. Lúc đó người làm ruộng sẽ phải dùng lực nhấn mạnh ngón chân cái để lấy lại thăng bằng cho người. Ngoài ra khi làm ruộng theo cách truyền thống, người ta phải dùng rất nhiều lực bàn chân để cào, dẫm nát cho ruộng ngấu để lúa tốt... Ngày nay, máy móc hiện đại nên nhưng việc đó đã giảm đi rất nhiều. Không những vậy trong cuộc sống sau khi công việc đồng áng của mình, hầu hết các cụ vẫn chỉ rửa sạch chân tay rồi lại đi chân đất trong làng, trong xóm. Khí hậu Việt Nam về mùa cày cấy nóng nực cho nên người Việt xưa và ngay cả thời cận đại bây giờ ( cách đây mấy chục năm) đi lại bằng chân đất khi đi cầy cấy, làm việc ruộng đồng, việc làng việc xóm là điều có thể hiểu được. Với khí hậu nóng ẩm như thế mà lại đi dép thì sẽ không phù hợp. Tóm lại là bàn chân nhất là ngón chân cái được sử dụng rất nhiều, do thói quen đi lại bằng chân đất nhiều ( dân lúa nước đặc trưng) thế nên ngón chân mới có hiện tượng như vậy. Sau này, do cách làm nông nghiệp tiến bộ hơn do có máy móc giúp sức và do cuộc sống văn minh về đến những làng xóm nên người ta giữ gìn bàn chân của mình hơn, đi giầy dép nhiêu hơn nên bây giờ những bàn chân của người trẻ tuổi như vậy là rất ít nếu như muốn nói là không tìm thấy. Trong khi đó ngay bây giờ đi tìm gặp các cụ 70, 80 tuổi ở những vùng nông thôn ( đừng tìm ở thành phố nhé ) sẽ gặp bàn chân có ngón chân bị tõe.
  9. trongthanhdhv

    trongthanhdhv Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2005
    Bài viết:
    300
    Đã được thích:
    0
    Các bác nói trên đều sai cả xem đây này:
    Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất phía nam vương quốc của Đường Nghiêu ?" Ngu Thuấn. Giao Chỉ đầu thời Chu chính là đất Sở (Hồ Bắc, Trung Quốc). Giao Chỉ cũng còn gọi là Cơ Chỉ hoặc Cơ Sở, nó hàm nghĩa luôn tên nước Sở thời Xuân Thu và Chiến Quốc. Giao Chỉ nửa cuối thời Chiến Quốc ở phía nam nước Sở. Giao Chỉ thời Tần là Tượng Quận, Giao Chỉ thời Tây Hán là bắc bộ Việt Nam. Chỉ đến thời Đông Hán, Giao Chỉ mới biến thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ. Đóng khung bởi kiến thức thiên văn thời Tần ?" Hán, Nhật Nam nghĩa là vùng đất phía nam mặt trời, là bán cầu nam, Cửu Chân là Chân Trời, Xích Đạo. Có thể người Trung Quốc không lầm, hơn ai hết họ hiểu Giao Chỉ là gì nhưng họ cố ý tung hỏa mù và diễn dịch sai lạc ý nghĩa của từ Giao Chỉ. Đây là phương diện học thuật trong tổng thể âm mưu thực dân của đế quốc Hán.
    Giao Chỉ, Tượng Quận, Cửu Chân, Nhật Nam là gì?
    Nam Giao, một trạm quan trắc thiên văn cổ xưa
    Trong Thượng Thư, quyển sử cổ nhất của Trung Hoa, chương Ngu thư, mục Nghiêu điển đã có từ Nam Giao: ?oThân mệnh Hy Thúc trạch Nam Giao, bình trật nam ngoa, kính trí. Nhật vĩnh, tinh Hỏa, dĩ chính trọng hạ. Quyết dân nhân, điểu thú hy cách?. Nghĩa là: ?o(Vua Nghiêu) sai Hy Thúc đến Nam Giao, quan sát mặt trời di chuyển về phương nam, ghi ngày Hạ chí. Lúc ngày dài nhất, sao Hỏa đầu hôm ở đỉnh đầu sẽ là ngày trọng Hạ (giữa mùa Hạ). Dân ăn mặc quần áo mỏng, chim thú thay lông?. Nam Giao nằm trong một hệ thống địa danh gồm: Dương Cốc (phía đông), Muội Cốc (phía tây), Sóc Phương (phía bắc), Nam Giao (phía nam). Từ 4 nơi này, các vị quan mà vua Nghiêu phái đến sẽ quan sát qui luật chuyển động của mặt trời, mặt trăng và các vì sao rồi tổng hợp các qui luật ấy thành lịch phù hợp với sự vận hành của thiên nhiên nhằm áp dụng thẳng vào đời sống nhân dân. Bốn địa danh trên chính là bốn trạm quan trắc thiên văn cổ xưa của loài người.
    Khảo cổ hiện đại ở Trung Quốc vẫn chưa thể xác định kinh đô Nghiêu ?" Thuấn ở đâu, dù vẫn biết nó không nằm ngoài trung lưu Hoàng Hà (thuộc ba tỉnh Thiểm Tây, Hà Nam, Sơn Tây). Bốn trạm thiên văn sẽ nằm về bốn hướng mà kinh đô Nghiêu ?" Thuấn là trung tâm. Trong một bài toán thiên văn, sai số đo đạc (ắt phải có) càng ít ảnh hưởng đến kết quả nếu khoảng cách các trạm càng xa nhau. Tuy nhiên khi các trạm quá xa thì mối liên hệ giữa các trạm lại gặp nhiều trở ngại. Theo tôi, khoảng cách giữa hai trạm Đông ?" Tây hoặc Nam ?" Bắc sẽ cỡ 10 kinh ?" vĩ độ là tối đa. Một vĩ độ trên mặt đất dài hơn 111 km. Do đó Nam Giao không thể xa hơn kinh đô Nghiêu ?" Thuấn 500 km, và lại càng không thể vượt khỏi dòng Trường Giang rộng lớn hung dữ phía nam. Tôi xin trình bày ở đây một bài toán thiên văn đơn giản nhất để làm minh họa: Bằng các phép đo mặt trời cực kỳ thô sơ người ta có thể suy ra vĩ độ tại một vị trí bất kỳ trên trái đất. Biết vĩ độ hai điểm nào đó sẽ tính ra khoảng cách gần đúng giữa 2 điểm ấy theo đường chim bay.
  10. trongthanhdhv

    trongthanhdhv Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2005
    Bài viết:
    300
    Đã được thích:
    0
    Địa danh Nam Giao góp phần sinh ra khái niệm Giao Chỉ
    Nam Giao sẽ đẻ ra khái niệm Giao Chỉ. Thật vậy, Giao Chỉ với chữ Chỉ có bộ phụ mang nghĩa là vùng đất, khu vực. Giao Chỉ là vùng đất tiếp giáp, vùng biên cương vương triều ở về phía nam của địa danh Nam Giao. Chữ Chỉ ngoài bộ phụ, còn có một chữ Chỉ nữa đồng âm nhưng bộ Túc (bàn chân). Sự nhầm lẫn giữa hai chữ Chỉ này góp phần khiến cho nhiều sử gia từ Đông Hán trở về sau có rất nhiều cách giải nghĩa Giao Chỉ. Trần Thư, một bộ sử do Diêu Tư Liêm viết năm 636 đã lần đầu tiên ghi thêm một chữ Chỉ nữa với bộ Thổ (đất) trong từ Giao Chỉ. Cổ văn Trung Hoa có qui tắc ?ođồng âm thông giả?, tức những chữ đồng âm đều có thể mượn và sử dụng lẫn lộn. Khi tìm nghĩa một chữ phải vận dụng ngữ cảnh đang xét chứ không thể máy móc giữ nghĩa chết của chữ ấy trong những tài liệu khác ít liên hệ.
    Thượng Thư, tương truyền do Khổng Tử san định, là quyển sách đầu tiên nói đến Giao Chỉ, phần Đại truyện ghi: ?oPhía nam Giao Chỉ có Việt Thường quốc, đời Thành Vương (1063 TCN - 1026 TCN) họ qua 3 lần phiên dịch đến giao hảo và hiến tặng chim Trĩ?. Thượng thư còn được giải thích là sách trời
    Từ Nghiêu - Thuấn đến đầu triều Chu lãnh thổ Trung Quốc chưa bao giờ vượt qua dòng Trường Giang. Thiên Vũ Cống của Thượng Thư nhắc đến cương vực vương quốc gồm cả bờ nam Trường Giang, nhưng nhiều nhà nghiên cứu tin rằng nội dung của Vũ Cống bị điều chỉnh rất nhiều và thậm chí có thể được viết vào thời Chiến Quốc chứ không thể xa hơn. Do đó không cần vị trí chính xác của Nam Giao vẫn biết được khái niệm Giao Chỉ mô tả vùng đất tiếp giáp Nam Giao, nằm bên bờ bắc trung lưu Trường Giang. Giả dụ có địa danh Giao Chỉ, từ Đông Chu trở đi, việc nước Sở hình thành và bành trướng về phương nam ắt phải xuyên qua Giao Chỉ và địa danh Giao Chỉ phải được nhắc đến không dưới một lần trong rất nhiều sách sử có nói về nước Sở.
    Chuỗi luận này sẽ đưa ra một câu hỏi hết sức bất ngờ: "Phải chăng đất Sở, mảnh đất mà Chu Thành Vương phong cho Dịch Hùng chính là một phần của vùng Giao Chỉ thời ấy?" Đoạn đầu An Nam Chí Lược, Lê Tắc có dẫn quyển Hán Quan Nghi của Ứng Thiện chép rằng trước tiên Trung Quốc mở mang từ Sóc (phương bắc) rồi tiến sang phương nam lấy làm Cơ Chỉ. Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên cũng viết Giao Chỉ là Cơ Chỉ (cơ sở) mà Hán Vũ Đế mở mang cho con cháu (sẽ dẫn kỹ lưỡng ở bên dưới). Cơ Chỉ đồng nghĩa với Cơ Sở. Chữ Sở trong từ Cơ Sở chỉ khác tên nước Sở ở bộ Thạch nằm bên trái. Theo qui tắc "đồng âm thông giả" thì đất Sở mà Thành Vương phong cho Dịch Hùng chính là Cơ Sở của nhà Chu, là Cơ Chỉ của nhà Chu và là một phần Giao Chỉ (vùng đất phía nam đang khai phá) của vương triều Chu. Hùng Dịch đến Đan Dương lập quốc, nơi đó hôm nay nằm ở bờ bắc Trường Giang, thuộc tỉnh Hồ Nam.
    Sử Ký, chương Triệu Thế Gia, nhân việc năm 307 TCN Triệu Linh Vương cải đổi trang phục giống người Hồ để cưỡi ngựa và xây dựng lực lượng kỵ binh, viết: ?oSách Dư Địa Chí nói thời Chu Giao Chỉ là Lạc Việt, thời Tần là Tây Âu, họ vẽ mình, cắt tóc ngắn để tránh giao long. Tây Âu Lạc ở về phía tây Phiên Ngô (tức Phiên Ngung). Nam Việt và Âu Lạc có rất nhiều họ (chữ Hán là thiên tính: hàng ngàn họ, khác với bách tính của người Trung Quốc là hàng trăm họ). Sách Thế Bản cũng viết người Việt nhiều họ, có cùng tổ tiên với người Sở?. Dư Địa Chí và Thế Bản là hai quyển sách đời sau chú giải Sử Ký gốc. Như vậy xung quanh thời điển 307 TCN (nửa cuối thời Chiến Quốc) trong vùng Giao Chỉ phía nam nước Sở có nhóm người Lạc Việt cùng tổ tiên với người Sở.
    Khi Tần diệt Sở, nước Sở bị gộp vào Trung Nguyên, khái niệm Giao Chỉ không thấy xuất hiện. Sử Ký, Nam Việt úy Đà liệt truyện, viết: Năm 214 TCN quân Tần cướp Dương Việt đặt 3 quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng. Quế Lâm và Nam Hải khá rõ ràng, duy Tượng Quận đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực mà hai ngàn năm nay người ta chưa rõ nó ở đâu. Cũng vì nhà Tần quá ngắn ngủi, chiến tranh sau đó làm sách vở tiêu tán gần hết. An Nam chí lược của Lê Tắc bảo: ?oNhà Tần lấy Giao Chỉ làm Tượng Quận?.

Chia sẻ trang này