1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Giao Chỉ = Vùng đất có con Giao (rồng, cá sấu...) ?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Ledung18, 22/10/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    May mà ngày xưa đế chế Trung Hoa chỉ dừng ở biên cương hiện tại, nếu không Giao Chỉ/Nam Giao chắc nằm ở ... châu Nam Cực.
    Bạn bảo là TTD nói "Nam Giao là một trạm quan trắc thiên văn cổ xưa có từ thời Nghiêu Thuấn. " là đúng thì mình hỏi bạn: bạn hay ông TTD có bất cứ tài liệu khảo cổ nào chứng minh rằng cái đài thiên văn đó nằm ở các vị trí mà ông TTD nói hay không? Hay là chỉ "một bằng hữu đã gợi ý cho tối một khái niệm mơ hồ rằng ..."?
  2. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Xin bạn trích cho nguyên văn chữ Hán, hay nguyên văn âm
    Hán Việt cũng được, và tên tác phẩm nào có những Giao Chỉ
    bạn kể trên . Tôi sẽ tra trên Internet để dịch cho đúng để mọi
    người tham khảo . Tôi ngờ rằng bạn nghe tin vịt ở đâu .
  3. Rockerfeller_III

    Rockerfeller_III Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/09/2004
    Bài viết:
    814
    Đã được thích:
    31
    Tớ nghĩ từ Chỉ ở đây chắc chỉ con giun đất (con trùn).
  4. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Bác CoDep cứ tìm các bài viết của "Sử gia" Trương Thái Du mà đọc thì sẽ thấy những lý luận này thôi. Tài liệu từ xưa tới nay không có cái nào nhắc tới mấy vụ này, chỉ tới khi Mr. TTD bỏ nghề hàng hải, ngược về Thung lũng Đa Thiện ngồi ôm sách vở n ghiên cứu thì mới "phát hiện" ra thôi.
  5. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Giao Chỉ là danh từ mà người Trung Quốc gọi, đây là từ Hán - Việt:
    Giao: là giao nhau, giao thoa, giao hội.
    Chỉ: là nơi chốn(nói về địa lý - thiên văn) tột cùng phải dừng lại.
    Giao Chỉ hiểu theo nghĩa thường: là vùng đất giao nhau(của một vùng đất nào đó... ) ở nơi tận cùng.
    Theo ông Trương Thái Du thì danh từ Nam Giao sẽ đẻ ra danh
    từ Giao Chỉ.
    Trong "Thượng Thư", quyển sử cổ nhất của Trung Hoa, chương Ngu thư, mục Nghiêu điển đã có từ Nam Giao:
    "'羲", .-交. 平秩-为, .?. -永, ~Y火, 以正仲夏. Z'>, Y.O革
    (Âm Hán - Việt: Thân mệnh Hy Thúc, trạch Nam Giao. Bình trật nam ngoa, kính trí. Nhật vĩnh, tinh Hỏa, dĩ chánh trọng hạ. Quyết dân nhân, điểu thú hy cách.
    Dịch nghĩa: ?o(Vua Nghiêu) sai Hy Thúc đến Nam Giao, quan sát mặt trời di chuyển về phương nam, ghi ngày Hạ chí. Lúc ngày dài nhất, sao Hỏa đầu hôm ở đỉnh đầu sẽ là ngày trọng Hạ (giữa mùa Hạ). Dân ăn mặc quần áo mỏng, chim thú thay lông?).
    Như vậy: Nam Giao là địa danh gắn liền với thuật ngữ thiên văn - địa lý. Lúc ấy Nam Giao là địa danh ở phía Nam vương quốc Đường - Nghiêu, thuộc phía Bắc sông Trường Giang. Nam Giao lúc đầu là vùng đất có đặt đài quan sát thiên văn, nên người Trung Quốc gọi nơi ấy là "đài Nam Giao".
    Như ta đã biết thời xưa có lệ "tế Trời" của các ông vua Trung Hoa, nơi tế chính là "đài Nam Giao", sau này trở thành tín ngưỡng, mới gọi là "đàn Nam Giao''''. Nơi "tế Trời" là nơi đặt "đàn Nam Giao", nó ở phía Nam của kinh thành, hoặc đặt ngay trong kinh thành. Cái lệ này được du nhập vào Việt Nam thấy từ thời Trần, tồn tại cho đến thời Nguyễn. Như vậy một lần nữa chứng tỏ, địa danh Nam Giao là danh từ gắn liền với thuật ngữ địa lý - thiên văn, ý nói là ở phía Nam(của vương quốc, kinh thành, ...).
    Vậy tại sao danh từ Nam Giao lại sinh ra danh từ Giao Chỉ?
    Như đã nói:
    Giao: có nghĩa là giao nhau, giao thoa, giao hội.
    Chỉ: có nghĩa là nơi chốn(nói về địa lý - thiên văn) tột cùng phải dừng lại.(Có lẽ chính vì lí do này mà sử gia Việt Nam đã giải nghĩa từ Chỉ là: nơi tột cùng cao là "chỉ trời", nơi tột thấp là "chỉ đất", "chỉ trời" và "chỉ đất" giao hội với con người thành "Nhân Hòa", nên gọi là Giao Chỉ).
    Chữ Chỉ(trong chữ Giao Chỉ), có bộ phụ mang nghĩa là vùng đất, khu vực. Như vậy chữ Chỉ có ý nghĩa là để chỉ vùng đất không xác định được, ở nơi tận cùng.
    Vậy suy ra ý người Trung Quốc nói : Giao Chỉ là vùng đất tiếp giáp, giao nhau giữa Nam Giao và một vùng đất tận cùng nào đó không xác định được ở vùng phía Nam của địa danh Nam Giao.
    Như vậy: Giao Chỉ là một khái niệm, ý nói ở phía Nam của địa danh Nam Giao. Khái niệm này gắn liền với thuật ngữ thiên văn - địa lý của người Trung Quốc thời ấy.
    Vậy tại sao Giao Chỉ vào đầu thời Chu lại ở vùng Đan Dương- Hồ Bắc(phía Bắc sông Trường Giang)?
    Vùng Đan Dương - Hồ Bắc là địa bàn lúc đầu của nước Sở, đây mảnh đất mà Chu Thành Vương phong cho Dục Hùng. Vùng đất này là vùng đất phía Nam của địa danh Nam Giao, thuộc vùng đất "nơi tận cùng" ở phía Nam của khái niệm Giao Chỉ. Người Trung Quốc gọi vùng đất mới chiếm được này là Cơ Chỉ. Tất nhiên vùng Cơ Chỉ này thuộc một phần của khái niệm Giao Chỉ, theo quan niệm của người Trung Quốc. Thế là người Trung Quốc sẽ nghĩ đến nước Sở(Cơ Chỉ) trước khi nghĩ đến vùng đất "nơi tận cùng" ở phía Nam khác của khái niệm Giao Chỉ. Dục Hùng đến Đan Dương lập nước Sở, nơi đó hôm nay nằm ở bờ bắc Trường Giang, thuộc tỉnh Hồ Bắc.
    Nước Sở về sau bành trướng xuống phía Nam, ra phía Đông, vượt qua Trường Giang xâm lấn xuống đến phía Bắc hồ Động Đình(thuộc tỉnh Hồ Nam)
    Thượng Thư, tương truyền do Khổng Tử san định, là quyển sách đầu tiên nói đến Giao Chỉ, phần Đại truyện ghi: ?oPhía nam Giao Chỉ có Việt Thường quốc, đời Thành Vương (1063 TCN - 1026 TCN) họ qua 3 lần phiên dịch đến giao hảo và hiến tặng chim Trĩ". Việc này cũng được nhiều sách cổ Việt Nam và Trung Quốc ghi nhận.
    Như ta biết Việt Thường thuộc phương Nam, xứ Bách Việt, cùng thời với nhà Chu và nước Sở. Vùng Bách Việt lúc đầu là toàn bộ vùng phía Nam sông Trường Giang. Khi nước Sở bành trướng xuống phía Nam thì xứ Bách Việt lấy ranh giới từ hồ Động Đình trở xuống miền Lưỡng Quảng, Bắc bộ Việt Nam. Như vậy, theo lý đó thì khái niệm Giao Chỉ vượt qua Bắc sông Trường Giang đến phía Nam nước Sở.
    Khi Tần diệt Sở(năm 221 trước C.N), khái niệm Giao Chỉ bao gồm nước Sở mới bị Tần chiếm và các vùng đất ở phía Nam.
    Khi Tần Thuỷ Hoàng phát 50 vạn quân, chiếm được Bách Việt thì đặt ra 3 quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng(Tượng Quận). Quế Lâm thuộc Quảng Tây, Nam Hải thuộc Quảng Đông. Vậy Tượng(Tượng Quận) nằm ở đâu?
    Theo lẽ bành trướng của Trung Quốc, khi chiếm được Bách Việt thì khái niệm Giao Chỉ lúc này bao gồm cả miền nước Sở và miền đất Lưỡng Quảng mới chiếm và vùng đất "nơi tận cùng" ở phía Nam.
    Tượng(Tượng Quận) lúc đó chỉ là khái niệm chỉ vùng đất "nơi tận cùng" ở phía Nam.
    Than ôi, đó là Âu Lạc(Bắc bộ Việt Nam), bấy giờ vẫn còn quyền cai quản của Thục Phán - An Duơng Vương. Tượng Quận mà nhà Tần đặt lúc đó chỉ là "quận ảo", trên danh nghĩa giấy tờ.
    Như vậy lúc này, nói đến Tượng Quận là nói đến vùng phía Nam của vùng đất mới chiếm được là Lưỡng Quảng. Nếu nói đến Giao Chỉ, thời Tần là bao gồm Tượng Quận, một vùng đất "nơi tận cùng" ở phía Nam. Lúc đó các vùng của Giao Chỉ cũ thời Nghiêu - Thuấn, Chu đã bị chiếm gần hết(Sở, Luỡng Quảng). Duy chỉ có Âu Lạc(mà nhà Tần gọi là Tượng Quận) là chưa bị chiếm mà thôi.
    Khi nhà Tần đổ, Nam Việt - Triệu Đà xưng Đế, không thần phục nhà Hán. Nhà Hán đánh lấy Nam Việt mới đổi tên đất Nam Việt chiếm được lập thành bộ Giao Chỉ, gồm luôn Nam Hải, Quế Lâm, Âu Lạc(Tượng Quận thời Tần).
    Như vậy, đến đây, nhà Hán dùng danh từ Giao Chỉ để chỉ toàn bộ vùng Bách Việt mới chiếm(Nam Hải, Quế Lâm, Âu Lạc), trong đó Tượng Quận(quận "ảo") thuộc vùng Âu Lạc cũ thời Tần đặt làm quận Giao Chỉ(tất nhiên chỉ là trên giấy tờ và chỉ là danh nghĩa mà thôi!). Âu Lạc - Tượng Quận thời Tần, đến cuối thời Hán mới chính thức đặt tên quận Giao Chỉ, thuộc Giao Châu, cử quan lại đến cai trị, với tên thái thú đầu tiên đến cai trị quận Giao Chỉ(Âu Lạc/ Tượng Quận). Cái khái niệm Giao Chỉ để chỉ vùng đất tận cùng ở phía Nam đến đây kết thúc, trở thành một địa danh xác định rõ ràng trên bản đồ, đó là Bắc bộ Việt Nam.
    (Tài liệu:
    "Cội Nguồn Con Người Việt" - Trần Kim Thử http://www.google.com/translate?u=http%3A%2F%2Fpages.zdnet.com%2Fsaigonmedia%2Fid27.html&langpair=de%7Cen&hl=en&ie=UTF8
    "Thử viết lại cổ sử Việt Nam" - Trương Thái Du http://www.google.com/translate?u=http%3A%2F%2Fwww.hungsuviet.org%2Fupdate.htm&langpair=de%7Cen&hl=en&ie=UTF8
    "Nói thêm về đàn Nam Giao" - Trương Thái Du http://www.google.com/translate?u=http%3A%2F%2Fwww.talawas.org%2FtalaDB%2Fsuche.php%3Fres%3D6706%26rb%3D0302&langpair=de%7Cen&hl=en&ie=UTF8 )
    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 20:53 ngày 30/09/2006
  6. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Tôi chưa tra xem bạn trích có đúng không, nhưng thấy âm Hán
    Việt của bạn sai, và cách dịch của bạn không sát, rồi phần giải
    thích thì suy diễn bừa bãi.
    Thứ nhất, âm Hán Việt sai ở chữ 为 có âm VI thì bạn lại cho là
    âm NGOA, chữ ? có âm CHÍ thì bạn viết thành TRÍ .
    Thứ hai, cách dịch không sát ở chỗ, nguyên văn không có nghĩa
    nào là "quan sát mặt trời di chuyển về phương nam, ghi ngày
    Hạ chí" cả, mà nghĩa là Hy Thúc phải tuân lệnh đóng ở Nam
    Giao mà trấn áp cai trị thật nghiêm, không được trễ nải.
    Câu thứ hai, bạn dịch "Lúc ngày dài nhất, sao Hỏa đầu hôm ở
    đỉnh đầu sẽ là ngày trọng Hạ" thì tôi chưa hoàn toàn rõ nghĩa,
    nhưng chắc chắn không có chỗ "dài nhất" mà chỉ "dài" thôi,
    không có chỗ "đỉnh đầu" mà chỉ có nghĩa "nóng nực" thôi. Cả
    câu này có nghĩa miêu tả khí hậu thời tiết ở Nam Giao là ngày
    dài, nóng nực luôn là mùa hè.
    Phần sau bạn suy diễn bừa bãi, chẳng căn cứ vào câu nguyên
    văn bạn trích gì cả . Có thể bạn đi lạc quá xa, hay là bạn tưởng
    rằng người đọc không thấy bạn đi cuồng đi sảng chăng ?
  7. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Theo sử sách Trung Hoa, 3 Quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng
    thời nhà Tần, thì Nam Hải chủ yếu là Quảng Đông bây giờ, Quế
    Lâm chủ yếu là Quảng Tây bây giờ, nhưng Tượng thì còn đang
    tranh cãi. Có thuyết cho rằng Tượng là vùng Quảng Tây giáp với
    Quảng Đông và Bán Đảo Lôi Châu . Có thuyết cho rằng Tượng
    là miền nam tỉnh Quảng Tây, kéo dài xuống tận miền Trung của
    ViệtNam ngày nay.
    Đây là tin tức thu nhặt trên Wiki để các bạn tham khảo:
    http://zh.wikipedia.org/wiki/%E8%B1%A1%E9%83%A1
  8. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Tệ thật! Thú thật tôi không rành chữ Hán. Những phần trích ấy tôi lấy từ cái link này:
    "Nói thêm về đàn Nam Giao" - Trương Thái Du
    http://www.google.com/translate?u=http%3A%2F%2Fwww.talawas.org%2FtalaDB%2Fsuche.php%3Fres%3D6706%26rb%3D0302&langpair=de%7Cen&hl=en&ie=UTF8
    Nếu như không sát nghĩa thì kính mong bác CoDep sửa lại dịch lại được không? Kinh mong thay!
    Về phần nói là Tượng Quận ấy, đó chỉ là quan điểm của tôi thôi. Tôi nghĩ thế. Có nhiều tài liệu cũng nói như vậy. Tượng Quận là vùng đất cai trị của An Dương Vương bao gồm một phần Quảng Tây và lãnh thổ Âu Lạc (Bắc bộ , Bắc Trung bộ Việt Nam).
    Cái khó hiểu là ở chỗ quân Tần đã bị đánh thua ở đất Tây Âu(Quảng Tây)., tướng Đồ Thư bị giết. Theo sách sử Việt Nam thì Triệu Đà lúc đầu cũng chỉ kéo đến Tiên Du(Bắc Ninh) đánh nhau với An Dương Vương, bị thua, cũng phải rút quân kéo về Nam Hải.
    Theo quan điểm của tôi, Tượng Quận chỉ là "quận ảo".
  9. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Tìm google, lấy từ khoá là S裳oS>庫 (Công Ích Thư Khố) rồi bấm
    chuột vào "Cached" của nó, sẽ có giòng sau:
    ?Ss书大.??,'..'".年,^礼o乐,天?".
    Trong sách "Thượng Thư Đại Toàn" có đoạn "Miền phía nam
    của Giao chỉ có nước Việt Thường. Chu Công nhiếp chính 6
    năm, đặt lễ làm nhạc, thiên hạ thái bình, Việt Thường đã nhiều
    lần hiến chim Trĩ trắng ."
    Tuy vậy, chúng ta không biết Giao Chỉ ở đâu, và nước Việt
    Thường là nước nào. Cho đến nay, các chuyên gia sử sách
    Trung Quốc cũng không biết lối nào mà mò.
  10. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Đã dịch:
    "Hy Thúc phải tuân lệnh đóng ở Nam Giao mà trấn áp cai trị thật
    nghiêm, không được trễ nải.
    "Cả câu này có nghĩa miêu tả khí hậu thời tiết ở Nam Giao là
    ngày dài, nóng nực luôn là mùa hè."
    Câu thứ ba dịch nốt:
    Dân chúng ăn mặc sơ sài, bằng lông chim thú và da thú.

Chia sẻ trang này