1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Giới thiệu gì về Hà Nội cho du khách nước ngoài ?

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi CaChep, 12/04/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. CaChep

    CaChep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/02/2002
    Bài viết:
    1.010
    Đã được thích:
    0
    Giới thiệu gì về Hà Nội cho du khách nước ngoài ?

    Chẳng biết nó gì cho du khách nói chung để gạ họ tới Thăng Long Hà Nội cả? Xin các đại ca chỉ giáo !



    [​IMG]
    Cùng nhau vươn lên trong Buồn đau và Hạnh phúc
  2. On4U

    On4U Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    05/03/2002
    Bài viết:
    3.578
    Đã được thích:
    0
    Hihihi... hiện nay thành viên của Box đa số là người đang sống ở miền Nam và nước ngoài nên có rất ít bài về Hà Nội. Không biết có bạn nào ở ngoài Hà Nội có thể giúp cho Box mình không há.
    Cám ơn trước.
    All for you
  3. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Xin đưa ra một số tư liệu. Trước hết là về lịch sử
    LỊCH SỬ THĂNG LONG - HÀ NỘI

    Khu vực kinh đô nằm giáp sông Hồng, sông Tô Lịch, sông Kim Ngu và có chu vi hơn 30 km. Hệ thống thành luỹ, cùng với 3 con sông và các con đê của chúng nh là hào bao bọc quanh kinh đô. Kinh đô Thăng Long gồm có Hoàng Thành được bao quanh bằng bức tường thành, bên trong là hệ thống cung điện và sân điện, Kinh Thành là nơi cư trú của các quan lại, tướng lĩnh, binh lính và nhân dân.
    Thăng Long thời Lý (1009 - 1225):
    Cuối năm 1009, tại Hoa Lư (Ninh Bình) Lý Công Uẩn được lập làm vua, sáng lập vương triều Lý, năm sau ông rời đô ra thành Đại La, đổi tên là Thăng Long. Trên cơ sở thành Đại La, Lý Công Uẩn xây dựng một kinh thành mới, về đại thể được giới hạn bằng ba con sông, phía đông là sông Hồng, phía bắc và phía tây là sông Tô, phía nam là sông Kim Ngu. Khu hoàng thành ở gần hồ Tây là nơi có các cung điện hoàng gia và nơi thiết triều, tất cả đợc bao bọc bằng một toà thành xây gạch. Phần còn lại là khu dân sự, chia ra làm các phường, trong đó có phờng nông nghiệp, phường thủ công nghiệp và phường thơng nghiệp, tách biệt hoặc đan xen. Cả hai khu (hoàng thành và dân sự) được gọi là kinh thành, bao bọc bởi toà thành, phát triển từ đê của 3 sông nói trên. Như vậy đê cũng là tường thành, và do đó sông là hào nước che chở.
    Trong khu dân sự có những kiến trúc tôn giáo: Năm 1028 đền Đồng Cổ đợc xây trên bờ sông Tô, năm 1049 chùa Diên Hựu (Một Cột) đợc xây ở phía tây hoàng thành, năm 1057 xây tháp chùa Báo Thiên, năm 1070 xây Văn Miếu và nhà học cho thái tử sau phát triển thành Quốc Tử Giám, trung tâm giáo dục đào tạo. Từ điện Giảng Võ trong hoàng thành, năm 1170, phát triển thành Xạ Đình (sân bắn) đặt ở phía nam kinh thành...
    Như vậy, chỉ trong khoảng trên một trăm năm, sau khi trở thành kinh đô, Thăng Long đã đợc xây dựng trở thành trung tâm chính trị - kinh tế - văn hoá lớn nhất và tiêu biểu cho cả nước. Thành lũy, đê điều, các loại kiến trúc cung điện, chùa chiền, công trình văn hoá... tất cả hoà quyện với thiên nhiên tạo nên dáng vẻ riêng của kinh thành.
    Thăng Long thời Trần (1226 - 1400):
    Nhà Lý sau hai thế kỷ cầm quyền đã đến lúc suy thoái. Nhà Trần thay thế, chấm dứt tình trạng loạn ly, thiết lập lại trật tự chính trị - xã hội. Nền văn minh Đại Việt tiếp tục phồn thịnh. Nhà Trần củng cố lại hoàng thành, xây thêm cung điện. Kinh thành vẫn giữ gianh giới cũ nhng đông đúc hơn. Năm 1230 hoạch định các đơn vị hành chính, kinh đô chia làm 61 phờng. Khu vực này còn tiếp nhận nhiều khách buôn và cư dân nước ngoài đến sinh sống làm ăn. Năm 1274 có 30 thuyền Trung Quốc xin cư trú, được cho ở tại phường Nhai Tuân (khu vực Hoè Nhai, Hàng Than ngày nay) lập phố, mở chợ. Ngoài thơng nhân ngời Hoa có cả người Hồi hột (Ouigour), Chà Và (Java), sư người Hồ (ấn Độ)...
    Thăng Long còn tụ hội nhiều nhà văn hoá lớn: Nguyễn Thuyên (Hàn Thuyên) đặt cơ sở cho sự ra đời của nền văn hoá tiếng Việt; Lê Văn Hưu, nhà sử học uyên bác; Các ông Vua anh hùng kiêm thi sĩ tài hoa Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông; Các vị tướng kiêm nhà văn, nhà thơ, nhà ngôn ngữ Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật. Và cũng sáng ngời thay tấm gơng một nhà trí thức mô phạm cơng trực, tiết tháo, Chu Văn An...
    Thăng Long đời Trần không chỉ có xây dựng và sáng tạo nghệ thuật mà còn phải đánh giặc và đánh giỏi: trong vòng 30 năm (1258 - 1288) ba lần quân Nguyên - Mông sang xâm lược, ba lần chúng vào được Thăng Long nhưng đều phải chuốc lấy sự thất bại.
    Qua ba lần thử lửa, Thăng Long vẫn đứng vững, xứng đáng là một đô thành anh hùng.
    Thăng Long dưới Triều Hồ (1400 - 1407):
    Kinh đô mới được xây dựng ở tỉnh Thanh Hoá có tên là Tây Đô. Thăng Long khi đó gọi là Đông Đô
    Đến thời thuộc Minh (1407 - 1428): Đông Đô đổi tên gọi là Đông Quan
    Thăng Long dưới triều Lê (1428 - 1527):
    Tháng 4/1428 Lê Lợi từ dinh Bồ Đề chuyển vào thành Đông Đô. Ngày 29 tháng tư ông lên ngôi Hoàng Đế. Năm 1430 đổi Đông Đô thành Đông Kinh, năm 1466 đổi gọi là phủ Trung Đô, Thành cũ vẫn được dùng, có mở thêm về phía Đông. Theo bản đồ vẽ năm 1490 thì trong cùng là một toà thành hình chữ nhật xây gạch đó là Cấm thành, cửa chính là Đoan Môn. Bên trong có các cung điện mà thâm nghiêm nhất là điện Kính Thiên. Năm 1467 có việc làm hai lan can bằng đá ở thềm điện (có thể đó là hai trong số bốn lan can đá trạm rồng hiện còn ở trong khu thành cổ).
    Thăng Long thời Mạc - Lê Trung Hưng - Lê Mạt (1527 - 1788):
    Năm 1527 triều Mạc (1527 - 1592) lên thay nhà Lê. Chính sách đợc nới rộng, trong thời gian đầu đã tạo ra đợc tình trạng xã hội ổn định, công thương nghiệp năng động, Phật giáo và Đạo giáo phục hưng.
    Đông Kinh trở lại tên gọi Thăng Long, vẫn là kinh đô. Chỉ đổi tên huyện Vĩnh Xương thành Thọ Xương.
    Một nét mới trong kiến trúc Thăng Long là bên cạnh hoàng thành của vua Lê, xuất hiện phủ chúa Trịnh, cơ quan đầu não đích thực của chính quyền trung ơng bấy giờ. Đó là một toà thành hình chữ nhật mà hai cạnh dài có thể là các đoạn đầu phố Quang Trung và phố Bà Triệu, hai cạnh ngang là phố Tràng Thi và phố Trần Hng Đạo.
    Hồ Gươm lúc này còn rộng, gồm hai phần là Tả Vọng (khu vực hồ hiện nay) và Hữu Vọng (ngày nay là khu vực từ Bách Hoá tổng hợp chạy xuống đầu phố Lò Đúc). Hồ rộng đến mức có thể thao diễn thuỷ chiến nên còn có tên là hồ Thuỷ Quân. Nhiều công trình được xây quanh hồ và trên hồ: cung Tây Long (chỗ khách sạn Sofitel), cung Khánh Thụy (đền Ngọc Sơn), đền Bà Kiệu... và Thăng Long với tư cách một thành thị vẫn có bộ mặt phát triển của kinh tế hàng hoá và sự mở rộng quan hệ ngoại thương, thế kỷ XVII - XVIII là giai đoạn hng thịnh của các thành thị trên qui mô cả nớc.
    Nhiều thành thị cũ trở nên thịnh vợng và một loạt thành thị thương cảng mới ra đời trong đó đứng đầu vẫn là Thăng Long.
    Thăng Long là một trung tâm văn hoá lớn. Ngời Thăng Long tự hào về nếp sống thanh lịch với những công trình nghệ thuật và kiến trúc: chùa, đền, đình, am, miếu với những tượng, hương án, y môn, cửa võng chạm khắc tinh tế, có cả một dòng tranh Tự Tháp (một làng ven Hồ Gơm), sau đó là dòng tranh Hàng Trống đặc sắc. Tên tuổi những danh nhân gốc Thăng Long: Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn, Ngô Thì Sĩ, Bùi Huy Bích... và các vị lập nghiệp ở đây nh Lê Quý Đôn, Nguyễn Gia Thiều đã làm cho văn hoá Thăng Long thêm sáng giá.
    Thăng Long thời Tây Sơn (1788 -1802):
    Mùa hè năm 1786, quân Tây Sơn tiến ra Đàng Ngoài lật đổ chế độ chúa Trịnh. Ngày 21/7/1786 quân Tây Sơn đã làm chủ Thăng Long. Nền thống trị của họ Trịnh tồn tại 241 năm (1545 - 1786), trong đó có 194 năm ở Thăng Long, bị lật nhào bằng chiến công này. Phong trào Tây Sơn đã kiểm soát cả nớc, xoá bỏ tình trạng chia cắt Đàng Trong- Đàng Ngoài kéo dài trên hai thế kỷ.
    Cuối năm 1788 Thăng Long và đất nước Đại Việt phải đương đầu với một cuộc xâm lược quy mô lớn của đế chế Mãn Thanh.
    Lúc này nhà Thanh đang cường thịnh muốn bành trướng xuống phía nam, đã phái 29 vạn quân xâm lược Đại Việt. Quân Tây Sơn theo kế của Ngô Thì Nhậm bỏ Thăng Long rút về giữ phòng tuyến Tam Điệp-Biện Sơn chờ lệnh Nguyễn Huệ. Ngày 16-12-1788 quân Thanh vào Thăng Long.
    Tin đó bay về Phú Xuân (Huế), ngày 22-12-1788 Nguyễn Huệ lên ngôi vua lấy hiệu Quang Trung rồi lập tức lên đường ra Bắc đuổi giặc. Ngày 15-1-1789 tập kết tại Tam Điệp. Đúng đêm giao thừa tết Kỷ Dậu (25-1-1789) đại quân Tây Sơn vượt Tam Điệp và cuộc tấn công bắt đầu. Sáng mùng 5 Tết (30/1/1789) cùng một lúc đánh đồn Ngọc Hồi và đồn Đống Đa. Trưa hôm đó đại thắng, quân Thanh tháo chạy, tướng chỉ huy bỏ rơi cả ấn tín!
    Cho đến nay, ở gò Đống Đa hàng năm vẫn mở hội để kỷ niệm chiến thắng rực rỡ này.
    Quang Trung đóng đô ở Huế, Thăng Long là thủ phủ của Bắc Thành (Bắc Bộ ngày nay). Tuy vậy hoàng thành vẫn được chính quyền Tây Sơn tu sửa. Những chính sách khuyến nông, phát triển công thương của Quang Trung đã tác động đến kinh tế vùng Thăng Long.
    Diện mạo của Kim Liên đẹp và thanh nhã bên hồ Tây như hiện còn là có từ thời Tây Sơn. Kiệt tác Phú Tụng Tây Hồ của Nguyễn Huy Lợng đợc viết trong thời này. Nhiều chuông to, đẹp cũng được đúc vào thời này. Tác phẩm Ai Tư Vãn của bà Ngọc Hân, văn thơ của Phan Huy ích, Ngô Thì Nhậm, Đoàn Nguyên Tuấn... đều mang nhịp đập của một thời Tây Sơn hào hùng.
    Lịch sử Tây Sơn ngắn ngủi nhưng đã để lại những dấu ấn đậm đà trên trang sử Thăng Long - Hà Nội.
    Thăng Long - Hà Nội dới triều Nguyễn (1802 - 1945)
    Năm 1802 Gia Long lên ngôi, đóng đô ở Phú Xuân, Thăng Long vẫn là thủ phủ của Bắc Thành (có 11 trấn). Năm 1805, Gia Long ra lệnh phá thành cũ xây trên đó một toà thành mới mà nay vẫn còn nhận diện: tường bắc giáp phố Phan Đình Phùng; tường tây giáp đường Hoàng Diệu; tờng Nam giáp đờng Trần Phú và tờng đông là đờng Phùng Hưng. Như vậy thành mới tương đương với Cấm Thành đời Lê.
    Năm 1831, Minh Mạng cải cách bộ máy hành chính, bỏ các trấn chia cả nước làm 29 tỉnh, trong đó có tỉnh Hà Nội gồm thành Thăng Long, huyện Từ Liêm của trấn Tây Sơn và ba phủ ứng Hoà, Thường Tín, Lý Nhân của trấn Sơn Nam.
    Các công trình văn hoá và sinh hoạt văn hoá cũng có những biến đổi. Quốc Tử Giám dời vào Huế, Văn Miếu thuộc tỉnh Hà Nội quản lý. Trường thi Hương ở chỗ nay là phố Tràng Thi. Phường Hoè Nhai và sau đó là phố Hàng Giấy là nơi vui chơi giải trí, đàn ca. Một số cửa ô được xây dựng lại, trong đó có ô Quan Chưởng (1817).
    Hà Nội thời cận đại (1873 - 1945)
    Năm 1873, Pháp tấn công Hà Nội. Năm sau chúng được cắt một vài khu đất ở phía đông nam Hồ Hoàn Kiếm gọi là "khu nhượng địa của Pháp".
    Vào năm 1882, Pháp chiếm thành Hà Nội. Từ năm 1883, Hà Nội đã trở thành thủ phủ của xứ Bắc Kỳ. Trải qua bao thời gian dưới các triều đại phong kiến Việt Nam thành phố vẫn giữ được đặc tính làng xóm của nó.
    Khi chiếm được Hà Nội, người Pháp xây dựng lại thành phố theo kiểu châu Âu. Trong thời kỳ này nhiều công trình của Việt Nam bị phá huỷ nhờng chỗ cho xây dựng các công trình phục vụ cho ngời Pháp, ví như chùa Báo Thiên đã bị phá huỷ để lấy đất xây dựng Nhà thờ Lớn.

    Vào cuối thế kỷ XIX, thương nghiệp phát triển, Hà Nội trở thành một thị trường lớn trải dài vài kilômét, cứ 6 ngày lại có chợ phiên. Vào ngày này những ngời thợ thủ công trong thành phố và nông dân từ các làng xung quanh tụ họp lại để trao đổi và bán các mặt hàng của mình.
    Trong thời kỳ đô thị hoá mạnh, nhiều công trình bắt đầu xây dựng nh cầu Long Biên xây năm 1898. Một tuyến đờng sắt trên cầu qua sông Hồng và ga xe lửa trung tâm đã được xây dựng ở khu phố Âu. Xây Nhà hát lớn (1901 - 1911), các đường ray xe điện cũng đợc xây dựng trong các phố của Hà Nội năm 1916.
    Ngày 19 tháng 8 năm 1945, người Hà Nội đã vùng dậy cướp chính quyền bất chấp sự đe doạ của địch. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại vườn hoa Ba Đình, Hồ Chủ Tịch đã tuyên bố trước thế giới nước Việt Nam độc lập. Hà Nội trở thành thủ đô của một nước Việt Nam mới.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
    Được sửa chữa bởi - ghost2k1 vào 12/04/2002 21:24
  4. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    THÀNH HÀ NỘI

    Năm 1805 vua Gia Long xây dựng thành mới với sự giúp đỡ của các kỹ sư Pháp. Kiến trúc của thành này được phỏng theo các thành cổ Châu Âu (kiểu Vauban). Thành mới này nhỏ hơn nhiều so với các thành trước đó, diện tích là 1km2. Các bức tường xung quanh thành được xây bằng gạch và đá có chiều cao 4,4 m và dày 1,6 m. Phần phía dưới tường được xây bằng đá hộc còn phần trên xây bằng đá ong. Một con hào rộng 15 - 16 m và sâu 5 mét bao quanh thành. Mực nước trong hào xấp xỉ 1 mét.
    Thành mở 5 cửa: Cửa Đông, Cửa Tây, Cửa Bắc, Cửa Đông-Nam, và Cửa Tây-Nam, (hiện nay chỉ còn Cửa Bắc).
    Trên mỗi cửa đều xây một lầu canh. Một hàng luỹ được đắp liền trên bờ hào có tên "Dương Mã Thành" rộng 11,6 m và cao 3 m, đợc xây phía ngoài mỗi cửa. Các Dương Mã Thành đều có một cửa rộng 4 m gọi là "Nhân Môn" mà mọi người phải đi qua đó trước khi vào thành.
    Các công trình quan trọng trong thành được bố trí theo trục Bắc - Nam. Giữa thành là điện Kính Thiên. Các dinh thự của quan lại, chức sắc nằm ở phía Đông. Các kho thóc và kho tiền nằm ở phía Tây, còn phía Bắc là nhà ngục. Năm 1812, Cột cờ cao 60 mét được dựng lên ở phía Nam của Kinh thành.
    Năm 1873 sau khi chiếm thành Hà Nội, thực dân Pháp đã chiếm dụng các công trình còn lại trong Hoàng Thành.
    Trong những năm 1884 - 1886 khu vực Hoàng Thành bị thực dân Pháp phá trụi để xây dựng sở chỉ huy pháo binh, chỉ giữ lại Cột cờ để phục vụ cho mục đích liên lạc của chính quyền thực dân; vào thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ nhất, thành cổ đã bị triệt phá lần nữa và cơ bản đã mất trong cảnh quan của đô thị.
    Từ những năm 1954 đến nay khu vực thành cổ là nơi thuộc quyền quản lý của quân đội nhân dân Việt Nam. Cuối năm 1997 nhà nước đã có quyết định giao một bộ phận trong khu vực thành cổ gồm 3 cụm di tích: Đoan Môn, Bắc Môn, Hậu Lâu với diện tích khoảng 7000 m2 cho sở Văn hoá Hà Nội để tu bổ tôn tạo các cụm di tích này cùng với Cột cờ Hà Nội là dấu ấn ngàn năm lịch sử của Hoàng Thành Hà Nội.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  5. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Thăm các chùa nổi tiếng Hà Nội
    Thủ đô Hà Nội - Trung tâm Văn hoá, Kinh tế, Chính trị của cả nước, nơi hội tụ nhiều danh lam thắng cảnh, di tích Văn hoá lịch sử, lôi cuốn khách du lịch trong và ngoài nớc đến thăm. Ngay giữa thủ đô Hà Nội, tập trung hơn 100 chùa lớn nhỏ, nằm xen kẽ trong các phố phường tấp nập, mặc dù vậy vẫn giữ nguyên được dáng vẻ nguyên sơ của chúng. Đến với Chùa Hà Nội, du khách sẽ tìm thấy cảm giác tĩnh tâm giữa lòng Thủ đô nhộn nhịp. Với hơn 100 chùa lớn nhỏ có lẽ du khách không thể tham quan được hết trong chốc lát. Ở đây chúng tôi xin giới thiệu một số đền, chùa tiêu biểu của Hà Nội.
    Xin mời du khách cùng chúng tôi tới thăm quan, lễ chùa tạI Chùa Quán Sứ. Chùa nằm giữa phố cùng tên mang biển số 73. Chùa đợc lập từ đầu nhà Lê làm nơi tiếp đón sứ thần các nước Lào, Chiêm Thành ... khi họ tới Thăng Long. Trải bao thay đổi, tới năm 1934, Hội Phật Giáo Bắc Kỳ lấy chùa làm Hội Quán và sau 1942 chùa đợc xây lại theo quy mô kiến trúc và trang trí nội thất lạ mà ít nơi có được như ngày nay. Từ năm 1958 Hội Phật giáo Việt Nam đã chọn nơi đây làm trụ sở.
    Ngôi chùa tiếp theo mà quý khách tham quan có tên là Chùa Ngũ Xã. Đây là ngôi chùa xây từ thế kỷ 18. ở đây có một pho tợng Di Đà, mới đúc năm 1952 và là pho tợng đồng to nhất trong các chùa ở miền Bắc Việt Nam.
    Tiếp theo du khách sẽ được tới thăm Chùa Liên Phái , toạ lạc trong ngõ Liên Phái, phố Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng. Chùa có tháp Cửu Sinh đã trên 250 tuổi. Đây là ngôi tháp cổ nhất trong khu vực nội thành Hà Nội. Quy mô của chùa hiện nay không khác mấy so với lần sửa chữa giữa thế kỷ thứ 19.
    Và cuối cùng du khách sẽ tới thăm Chùa Kim Liên , đợc xây dựng từ thời nhà Trần (1225-1413), là nơi có liên quan đến nghề trồng dâu nuôi tằm của ngời Hà Nội cổ xa.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  6. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Và đây là một chút về ẩmthực Hà Nội
    Phở Hà Nội
    Có lẽ chẳng ai nhớ rõ phở Hà Nội có từ bao giờ và ông tổ của nó là ai. Chỉ biết đã từ rất lâu, phở đợc coi là món ăn đặc trưng của ngời Hà Nội. Phở vừa phổ thông, vừa quý tộc, có thể ăn suốt bốn mùa và ăn bất cứ lúc nào trong ngày.
    Khởi thuỷ của phở Hà Nội là phở gánh được quẩy đi bán rong trên khắp các đường phố. Trên một đầu quang gánh là một "chạn" có đủ bát, đũa, tơng ớt, chanh, hành, dấm và treo lủng lẳng tảng thịt bò cùng với những chùm hành tơi. Sau này những "quán phở gánh" chuyển sang bán phở trên các xe đẩy và tiến hơn nữa, ngời ta mở các quán phở.
    Theo các cụ già thời hoàng kim của phở Hà Nội là vào thập kỷ 50. Khi đó các quán phở còn rất dân dã, thậm chí chỉ một mái lợp đơn sơ, vài bộ bàn ghế gỗ cũ kỹ ngời ta cũng có thể mở được quán phở. Và bằng mùi thơm rất đặc trưng của mình, ở đâu quán phở cũng rất hấp dẫn khách hàng. Bên cạnh nồi nớc dùng khói bốc nghi ngút, ông hàng phở cầm dao to bản thái thịt phằm phặp. Bánh phở mỏng tang đợc bỏ vào giỏ tre chao qua, chao lại mấy lần trong nồi nước sôi cho thật mềm. Một bát phở "đúng điệu "phải đảm bảo đợc mấy yếu tố là nước dùng phải trong vắt, trên mặt có những hạt mỡ nổi lóng lánh, thịt thái to nhưng thật mỏng, một củ hành chần vài ba lá rau húng láng, mấy lát ớt đỏ, vài lát hành củ và hành tây thái mỏng tanh cùng vài sợi gừng thật mảnh và cuối cùng là tiêu bột rắc nhẹ nhàng.
    Để có được nồi nước dùng ngon, ngày trước các quán phở có tiếng ở Hà Nội đều dùng xương bò, xương lợn, đuôi bò ninh tối thiểu 12 tiếng nhưng không được sôi sùng sục. Người ta còn cho thêm cả tôm nõn,gừng nớng, hành nướng, quả tò ho, quế chi hoa hồi nướng, húng lìu để dậy vị. Có điều là các hương liệu phải bỏ từ từ vì nếu bỏ vào sớm quá trong quá trình ninh xương mùi thơm sẽ bay hết??? Cầu kỳ là thế nên phở Hà Nội có mùi thơm rất đặc biệt, nớc ngọt mà thanh, thịt mềm nhưng dòn.
    Bây giờ, trong thời mở cửa, nhiều quán phở Hà Nội đã chế biến rất khác phở cổ điển ngày xa. Một trong những quán phở được người Hà Nội yêu thích là quán phở ở số 7 phố Nam Ng (quận Hoàn Kiếm). Quán phở này nguyên là của bà Lâm đã có từ 30 năm nay. Hiện bà đã mất nhng nghề bán phở lại được chuyển sang cho hai cô con gái và hai cô con dâu. Bốn chị em thay nhau kế nghiệp bà và làm khá tốt. Mở cửa từ 6 giờ sáng cho đến chiều tối, vậy mà quán lúc nào cũng đông khách. Bốn dẫy bàn kê dọc theo chiều dài của căn phòng rộng chừng 3 mét và dài khoảng 10 mét, lúc nào cũng kín chỗ. ở quán phở Lâm, khách đến ăn thờng chọn ăn phở gà. Có lẽ do thịt gà ở quán này mềm, ngọt, chắc mà không dai. Chị con gái thứ hai bà Lâm kể, các chị phải đặt mua gà trống thiến to nặng hơn 3kg/con ở trên vùng cao. Nơi đó, dân thờng nuôi gà thả nên chắc thịt. Giá một bát phở gà ở quán phở Lâm là 6.000 đồng. Nếu ăn trứng hoặc ăn thêm quẩy sẽ phải trả thêm tiền.
    Còn nếu muốn ăn phở bò, ngời Hà Nội thường chọn quán phở Thìn ở Lò Đúc. Quán này nổi tiếng với các loại phở bò tái gân, tái nạm và phở áp chảo. Còn nếu muốn lạ miệng hãy đến ăn phở ở phố Lê Văn Hu. Cũng là phở gà nhưng quán này lại có cả giò sống, tôm nõn, trứng??? Giá một bát phở ở quán này khá đắt từ 7.000 đến 10.000 đồng/bát. Nhiều người gọi quán phở này là "phở Hà Nội thời mở cửa" vì nó khác rất xa với phở cổ điển Hà Nội.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  7. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Về Hồ Tây
    Là một hồ lớn ở nội thành Hà Nội, rộng tới năm trăm héc ta. Con đường đi vòng quanh hồ dài tới 17km. Ngành địa lý lịch sử đã chứng minh rằng hồ là một đoạn sông Hồng cũ còn rớt lại khi sông đã đổi dòng. Có thể do sông hồ biến đổi như vậy mà đã xuất hiện nhiều truyền thuyết về hồ và tên gọi của hồ. Ví như theo truyện "Hồ Tinh" thì hồ có tên là hồ (hoặc đầm) Xác Cáo vì chuyện kể là có con cáo chín đuôi ẩn nấp nơi đây làm hại dân. Long Quân mới dâng nước lên phá hang cáo, hang sập thành ra hồ. Theo truyện "Khổng lồ đúc chuông" thì hồ lại có tên là Trâu Vàng. Truyện kể rằng có ông Khổng Lồ có tài thu hết đồng đen của phương bắc, đem đúc thành chuông. Chuông đánh lên, tiếng vang sang bên Bắc. Vì đồng đen là mẹ vàng nên con trâu vàng phương bắc nghe tiếng chuông liền vùng đi tìm mẹ. Tới đây nó quần mãi đất khiến đất sụt thành hồ. Đó là những tên theo truyền thuyết. Còn theo thư tịch thì thế kỷ XI, hồ này đi vào lịch sử với tên là Dâm Đàm (Đầm Mù Sương). Tới thế kỷ XV thì gọi là Tây Hồ. Ngoài ra hồ còn có tên là Lãng Bạc, nơi diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quân Hai Bà và quân Hán, là vùng Tiên Sơn tỉnh Hà Bắc.
    Hồ Tây từ lâu lắm đã là thắng cảnh. Từ đời Lý-Trần các vua chúa đã lập quanh hồ nhiều cung điện làm nơi nghỉ mát, giải trí, nh cung Thuý Hoa đời Lý tức điện Hàm Nguyên đời Trần nay là chùa Trấn Quốc, cung Từ Hoa đời Lý nay là khu chùa Kim Liên, điện Thụy Chương đời Lê nay là khu trường Chu Văn An v.v..
    Những ngày sóng gió yên lặng, chơi thuyền hồ Tây là một thú tao nhã. Lướt trên sóng hồ, nhiều thi sĩ đã có những vần thơ đẹp như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến...
    Nếu làm một cuộc đi dạo quanh hồ thì đồng thời cũng được thăm thú khá nhiều di tích và thắng cảnh. Làng Nghi Tàm, quê hương nhà thơ "Bà huyện Thanh Quan" với chùa Kim Liên có kiến trúc độc đáo, làng Nhật Tân nguồn hoa đào mỗi độ xuân về đồng thời tương truyền là nơi Lạc Thị đời Hồng Bàng sinh ra một bọc trứng nở thành bẩy con rồng. Rồi làng Xuân Tảo với đền Sóc thờ Thánh Gióng, làng Trích Sài có chùa Thiên Niên thờ bà tổ nghề dệt lĩnh, rồi sang làng Kẻ Bởi với nghề làm giấy cổ truyền với đền Đồng Cổ nơi bách quan hội thề đời Lý, làng Thuỵ Khuê với chùa Bà Đanh nổi tiếng một thời, đền Quan Thánh thờ Trấn Vũ.
    Ngày nay, một loạt các khách sạn mới đợc xây dựng bên hồ làm quang cảnh thêm đa dạng. Cùng với hồ Trúc Bạch, hồ Tây làm giàu thêm chất thơ cho nội thành Hà Nội đồng thời cũng làm giàu cho cả Hà Nội về kinh tế, vì đó là những vựa cá đem lại nguồn thu lớn cho thành phố.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  8. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    VĂN MIẾU - QUỐC TỬ GIÁM
    Văn Miếu được xây dựng tháng 10/1070 để làm nơi thờ các thánh hiền đạo Nho (Khổng Tử, Mạnh Tử...).
    Sáu năm sau (1076), nhà Quốc Tử Giám đợc xây ở kề sau Văn Miếu, ban đầu là nơi học của các Hoàng tử, sau mở rộng thu nhận cả những học trò giỏi trong thiên hạ.
    Văn Miếu có tờng bao quanh xây bằng gạch. Bên trong cũng có những lớp tờng ngăn ra làm năm khu. Khu thứ nhất bắt đầu với cổng chính, trên cổng có chữ Văn Miếu Môn, dới cổng là đôi rồng đá mang phong cách đời Lê Sơ (thế kỷ 15). Lối đi ở giữa dẫn đến cổng Đại Trung Môn mở đầu cho khu thứ hai. Hai bên có hai cổng nhỏ. Vẫn lối đi ấy dẫn tới Khuê Văn Các (gác có vẻ đẹp của sao khuê, chủ về văn học), hai bên gác cũng có hai cổng nhỏ. Khu thứ ba từ gác Khuê Văn tới Đại Thành Môn, ở giữa khu này có một hồ vuông gọi là Thiên Quang Tỉnh (Giếng trời trong sáng) có tờng bao quanh.
    Hai bên hồ là hai khu vườn bia, nơi dựng các tấm bia ghi tên những người đỗ tiến sĩ (năm 1993 với sự tài trợ một phần của một tổ chức doanh nghiệp Mỹ, Ban quản lý Văn Miếu đã dựng đợc tám ngôi nhà che cho các bia này). Tiến sĩ là những ngời đỗ cao trong các kỳ thi Đình. Ngày trớc ngời đi học sau khoảng 10 năm đèn sách đủ vốn chữ để dự thi Hơng (tức khoa thi tổ chức liên tỉnh, cứ ba năm mở một khoa. Đạt điểm cao ở kỳ thi này đợc học vị cử nhân). Năm sau các ông cử tới kinh đô dự kỳ thi Hội. Những người đủ điểm chuẩn sẽ dự tiếp kỳ thi Đình (thi Hội và thi Đình thực ra là hai giai đoạn của một cuộc thi). Trúng tuyển cuộc thi này được gọi là Tiến sĩ. Đỗ Tiến sĩ có thể được bổ làm quan. Hiện có 82 bia, xa nhất là bia ghi về khoa thi năm 1442, muộn nhất là bia ghi về khoa thi năm 1779. Đó là những di vật quí nhất của khu di tích.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  9. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    CỘT CỜ HÀ NỘI
    Là một trong những công trình kiến trúc ít ỏi thuộc khu vực thành Hà Nội có may mắn thoát khỏi sự phá huỷ do chiến tranh. Với chiều cao đáng kể, Cột cờ này đợc nhà binh Pháp khi đó dùng làm đài quan sát và trạm thông tin liên lạc giữa ban chỉ huy với những đồn bốt xung quanh, ban ngày dùng tín hiệu, ban đêm dùng đèn.
    Cột cờ được xây năm 1812 gồm ba tầng đế và một thân cột. Các tầng đế hình chóp cụt, nhỏ dần, chồng lên nhau. Xung quanh xây ốp gạch. Tầng một mỗi chiều 42,5m, cao 3,1m, có hai thang gạch dẫn lên. Tầng hai mỗi chiều 27m, cao 3,7m có bốn cửa, cửa hớng đông trên có đắp hai chữ "Nghênh húc" (đón ánh nắng ban mai), cửa tây với "Hồi quang" (ánh nắng phản chiếu), cửa nam với "Hớng minh" (hớng về ánh sáng), cửa bắc không có chữ đề.
    Tầng ba mỗi chiều 12,8m. Cao 5,1m; có cửa lên cầu thang trông về hướng bắc. Trên tầng này là thân cột cờ, hình trụ 8 cạnh, thon dần lên trên, cao 18,2m, mỗi cạnh đáy chừng 2m. Trong thân trụ có cầu thang 54 bậc xây xoáy trôn ốc lên tới đỉnh. Toàn thể đợc soi sáng (và thông hơi) bằng 39 lỗ hình hoa thị và 6 lỗ hình dẻ quạt. Những lỗ này đợc đặt dọc các mặt, mỗi mặt có từ 4 đến 5 lỗ.
    Đỉnh cột cờ được cấu tạo thành một lầu hình bát giác, cao 3,3m, có 8 cửa sổ tương ứng 8 mặt. Giữa lầu là một trụ tròn, đường kính 0,4m, cao đến đỉnh lầu, là chỗ để cắm cán cờ (cao 8m). Nh vậy toàn bộ cột cờ có chiều cao 33,4m. Nếu kể cả trụ treo cờ thì trên 41m.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  10. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    HỒ HOÀN KIẾM
    Từ lâu mọi người đều coi hồ Hoàn Kiếm (Hồ Gươm) là trung tâm của khu vực nội thành Hà Nội. Các nhà địa lý cho rằng hồ là một đoạn sót lại của sông Hồng sau khi sông đã chuyển dòng. Sự việc sông nước biến thiên ấy diễn ra cách đây hàng nghìn năm nhng cái tên Hoàn Kiếm thì mới có cách đây ba thế kỷ. Trước đây hồ có tên là Lục Thuỷ vì sắc nớc bốn mùa xanh. Tới thế kỷ XV, đổi tên gọi là Hoàn Kiếm do truyền thuyết sau: "Lê Thân (một ngời đánh cá) theo Lê Lợi chống giặc Minh, tặng cho ông một thanh gơm báu. Thanh gơm này Lê Thân kéo lới bắt đợc nên Thân đã tặng lại chủ tướng. Trên gơm có đề hai chữ "Thuận Thiên". Có lần Lê Lợi nhặt đợc một cái chuôi gươm lắp vừa như in với chiếc gươm của Thân đã tặng. Suốt 10 năm chinh chiến, Lê Lợi luôn dùng thanh gơm ấy xông pha đánh đuổi giặc. Khi dẹp xong giặc, ông trở về Thăng Long. Một hôm ông ngồi thuyền dạo chơi trên hồ Lục Thuỷ bỗng có hai rùa nổi lên. Ông rút gơm trỏ vào rùa thì rùa liền đớp lấy thanh gơm mà lặn đi. Ông cho rằng thần giúp gơm để dẹp giặc, nay giặc yên rồi thần lấy lại gơm, nên vua đổi gọi là hồ Hoàn Kiếm (tức trả gơm)".
    Từ thế kỷ thứ XVI trở đi, các vua Lê và chúa Trịnh bắt đầu điểm tô cho hồ này. Xa trông, góc tây nam hồ là gò Tháp Rùa. Tháp chỉ mới có từ thế kỷ thứ XIX thực ra không có giá trị gì về lịch sử cũng nh nghệ thuật song do đứng đó một thế kỷ nên thành thân thiết với mọi ngời qua bao thế hệ.
    ĐỀN NGỌC SƠN
    Khoảng năm 1739, chúa Trịnh Giang lập cung Khánh Thụy ở trên hòn đảo ngọc làm nơi hóng gió ngày hè. Ngời em là chúa Trịnh Doanh lại cho đắp ở bờ hồ phía Đông một núi gọi là Độc Tôn để kỷ niệm sự kiện ông ta dẹp đợc cuộc nổi dậy của dân vùng Độc Tôn ở cuối dãy Tam Đảo. Tới đời Lê Chiêu Thống vào năm 1786, vua này đã cho lính đốt cung Khánh Thụy cùng lúc với Phủ chúa Trịnh. Sang thế kỷ XIX, một ngôi chùa thờ Phật đợc dựng lên trên nền cũ của cung Khánh Thụy. ít lâu sau lại đổi chùa ra đền chủ yếu thờ Văn Xương, một nhân vật thần thoại coi sóc việc văn chương khoa cử và thờ Trần Hng Đạo, vị anh hùng Việt Nam đã đánh thắng quân Nguyên xâm lợc hồi thế kỷ XIII. Ngoài ra trong đền còn có tượng Quan Vũ, một danh tướng đời Thục Hán (Trung Quốc) nổi tiếng về sự trung nghĩa và tượng Lã Tổ nổi tiếng về chữa bệnh, cả hai đều là người Trung Hoa đợc thần thánh hoá.
    Năm 1865, Nguyễn Văn Siêu, một nhà văn hoá lớn của Hà Nội, đã đứng ra sửa lại toàn cảnh khu này. Trên núi Độc Tôn ông cho xây một tháp đá mà đỉnh là hình ngọn bút lông. Trên thân tháp có tạc ba chữ Tả Thanh Thiên có nghĩa là viết lên trời xanh.
    Có bút tất phải có nghiên. Đi qua tháp Bút tới đài Nghiên: Một cửa cuốn trên có đặt một cái nghiên bằng đá tạc theo hình nửa quả đào. Trên thành nghiên có khắc một bài văn nói về công dụng của cái nghiên mực xét về mặt triết học. Qua đài Nghiên là đến cầu Thê Húc có nghĩa là "nơi đậu lại ánh sáng mặt trời ban mai". Đầu cầu bên kia là Đắc Nguyệt Lâu (lầu đợc trăng) cũng là cổng đền Ngọc Sơn. Đền có nếp nhà thờ chính. Nếp ngoài là bái đờng, nếp giữa là nơi thờ Văn Xơng, nếp sau là nơi thờ Trần Hng Đạo. Trớc mặt bái đờng là Trấn Ba Đình (đình chắn sóng).
    Điều đáng chú ý là khu vực Ngọc Sơn có rất nhiều câu đối từ ngoài cổng đến các nếp nhà thờ, hễ có cột là có câu đối nề, câu đối gỗ của nhiều danh sĩ Bắc Hà. Mảng văn học - câu đối ấy cũng là một kho tư liệu rất quý.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
    Được sửa chữa bởi - ghost2k1 vào 12/04/2002 22:40

Chia sẻ trang này