1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Giới thiệu gì về Hà Nội cho du khách nước ngoài ?

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi CaChep, 12/04/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    CHÙA TRẤN QUỐC
    Có thể đây là ngôi chùa vào loại cổ nhất ở Việt Nam. Tương truyền chùa có từ đời Lý Nam Đế (544-548). Thủa ấy, chùa được xây sát bờ sông Cái, có tên là chùa Khai Quốc (mở nước). Đến đời Lê Thái Tông (1434-1442) đổi là chùa An Quốc. Đời Lê Kính Tông (1600-1618) bãi sông lở, dân dời chùa vào hòn đảo Cá Vàng ở giữa Hồ Tây (địa điểm hiện nay) nơi mà các vua nhà Lý đã dựng cung Thuý Hoa và đời Trần đã dựng điện Hàm Nguyên. Đời Lê Hy Tông (1676-1705) đổi gọi là chùa Trấn Quốc.
    Khoảng thế kỷ XV (hoặc XVII), do đắp đê Cổ Ng nên mới có đường nối đê với đảo Cá Vàng. Chùa hiện nay còn giữ được lối kiến trúc độc đáo khác với nhiều chùa: Phía trước là nhà bái đường, rồi đến hậu cung, phía sau mới là hai dãy hành lang và gác chuông. Trong chùa có một số tượng đẹp, đáng chú ý nhất là pho tượng Thích Ca nhập niết bàn bằng gỗ thiếp vàng. Chùa cũng có nhiều bia, cổ nhất là tấm bia dựng năm 1639 do Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính soạn, nội dung ghi lại lịch sử đại tu chùa vào chính năm này. ở sân chùa hiện có cây bồ đề sum xuê cành lá, đó là tặng phẩm của một Tổng thống Ấn Độ khi ông tới thăm chùa năm 1959.
    Năm 1842, vua Thiệu Trị ra Bắc tới đây đổi gọi là chùa Trấn Bắc nhưng dân vẫn dùng tên cũ.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  2. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    PHỦ TÂY HỒ
    Bên bờ phía đông của hồ Tây có một doi đất ăn lạm ra hồ như một bán đảo. Bán đảo đó là làng Tây Hồ, một làng cổ của kinh thành Thăng Long. ở đầu làng, sát ngay mép nước có một ngôi đền thờ bà Liễu Hạnh một nhân vật có thật sống vào thế kỷ 17 nhng đợc dân gian thần thánh hoá tôn làm Thánh Mẫu (thánh mẹ) đứng đầu thần điện của tín ngỡng dân gian Việt Nam. Những nơi thờ mẫu Liễu Hạnh gọi là đền nhưng cũng có nơi gọi là phủ. Phủ Tây Hồ được dựng theo một truyền thuyết:
    Vào khoảng đầu thế kỷ 17, ông Trạng Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613) trong một buổi cùng hai người bạn là cử nhân họ Lý và tú tài họ Ngô chơi hồ Tây bỗng gặp một cô gái xinh đẹp. Họ trò chuyện với nhau và cùng nhau làm thơ. Đến khi Trạng Phùng hỏi tên tuổi nữ thi sĩ thì cô kia mỉm cời đọc một bài thơ rồi vụt biến. Phân tích bài thơ, Phùng nhận ra đó là thánh Liễu Hạnh. Dân làng Tây Hồ mới nhân câu chuyện đó lập một ngôi phủ để thờ bà.
    Từ lâu, Phủ Tây Hồ là một nơi thu hút nhiều khách hành hương, họ đi lễ Mẫu, đồng thời để chiêm ngưỡng một thắng cảnh đẹp ven hồ Tây.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  3. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Khu phố cổ Hà Nội
    Đặc điểm chung của các phố cổ Hà Nội là nhiều tên phố bắt đầu bằng từ "Hàng", tiếp đó là một từ chỉ một nghề nghiệp nào đó. Thí dụ: Hàng Đào, Hàng Đờng, Hàng Mã, Hàng Thiếc...
    Du khách mới đến Hà Nội, dạo qua khu phố cổ - phố nghề sẽ thấy đợc nét khác biệt giữa Hà Nội và các thủ đô khác mà du khách đã đi qua. Từ phía Bắc hồ Hoàn Kiếm đi bộ lần lợt qua các phố Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đờng là đến chợ Đồng Xuân. Phố Hàng Đào hình thành từ thế kỷ XV, dân ở đây làm nghề nhuộm vải. Thời đó họ chỉ chuyên nhuộm màu đỏ, màu hồng, màu hoa đào... nên có tên gọi là Hàng Đào.
    Từ đời Lê (thế kỷ XV) nhiều ngời Trung Quốc đợc phép cư trú ở Thăng Long (Hà Nội), họ rủ nhau đến làm ăn buôn bán ở phố Hàng Ngang. Xa kia ở hai đầu phố có dựng hai cái cổng chắn ngang đường, tối đến đóng lại. Do đó thành tên Hàng Ngang.
    Nh tên gọi, Hàng Đường có rất nhiều cửa hàng bán đờng, mứt, bánh, kẹo... Chợ Đồng Xuân đã có hơn 100 năm, là chợ lớn nhất Hà Nội, nơi hội tụ sản vật trên rừng, dưới biển của cả nớc. Chợ Đồng Xuân là chiến luỹ oanh liệt của các chiến sĩ cảm tử bảo vệ Hà Nội năm 1946.
    Sát với chợ Đồng Xuân là phố Hàng Mã. Mặt hàng truyền thống làm từ các loại giấy màu ở phố này gần nh không thay đổi từ khi lập phố. Có khác chăng bây giờ nhiều chủng loại hàng hơn trớc. Hàng năm, vào dịp tết Trung thu của trẻ em (15/8 âm lịch) cả phố Hàng Mã trở thành một chợ bán đồ chơi muôn màu sắc: đèn ông sao, đèn xếp, đèn kéo quân, đầu sư tử...
    Từ đầu phố Hàng Mã đi thẳng sang phố Hàng Chiếu dài 276m (nơi bán nhiều loại chiếu thảm bằng cói) là đến Ô Quan Chưởng (cửa Đông Hà) di tích khá nguyên vẹn của một trong 36 phố phường Thăng Long xưa.
    Một phố nghề rất điển hình: Hàng Thiếc. Đến đây bạn sẽ nghe râm ran tiếng búa gõ vào những mảnh tôn, mảnh thiếc trắng lấp lánh. Những người thợ thiếc ở phố này suốt ngày cặm cụi làm các đồ dùng từ nhỏ đến lớn như chân đèn, thùng, chậu, gáo múc nước, hòm, bể nước... Người các tỉnh cũng về Hàng Thiếc buôn hàng đưa về bán ở các địa phương....
    Hàng Bạc
    Hàng Đào

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  4. CaChep

    CaChep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/02/2002
    Bài viết:
    1.010
    Đã được thích:
    0
    Hoan hô chiến sĩ ghost2k1. Nhiều thông tin quá !
    Nhưng mà xin post lên nữa đi cậu ạ. Càng nhiều càng tốt, mình đang lùng đọc đủ các loại sách, CD, web site đây !

    Nhiều nhiều có thưởng !
    [​IMG]
    Cùng nhau vươn lên trong Buồn đau và Hạnh phúc
  5. Carrera

    Carrera Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/02/2002
    Bài viết:
    93
    Đã được thích:
    0
    Hoan hô và cảm ơn bác Ghost2k1 đã cung cấp nguồn thông tin dồi dào và đầy đủ về lịch sử, địa danh, cuộc sống của Hà Nội. Em cũng ấp ủ viết 1 bài về Hà Nội nhưng thiếu thông tin và tranh ảnh quá. Nhân thể xin hỏi bác có thể gộp tất cả các bài bác viết thành 1 bài có chọn lọc được không. Ví dụ, giới thiệu qua về lịch sử. Xen vào vài câu thơ, lời hát về Hà Nội. Giới thiệu khoảng 5 địa danh tiêu biểu nhất. Giới thiệu về con người và lối sống Hà Nội. Viết đậm về phần tình cảm lãng mạn hơn là miêu tả đơn thuần. Xin đa tạ

    Visit me in 1980 Club !
  6. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Chào bạn! Đây chỉ là những tài liệu mình sưu tầm được từ nhiều nguồn khác nhau. Nếu bạn có thể tổng hợp thành một bài thì rất hay. Thực ra Hà Nội có rất nhiều di tích, thắng cảnh nên không thể đưa hết lên được.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  7. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Các cửa ô
    Hà Nội với bao nhiêu cửa ô, chúng ta được biết qua bài hát của Văn Cao có câu: "Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về.........", và cũng chỉ biết hiện nay còn một cửa ô duy nhất còn lại cái cổng ba cửa như cổng thành.
    Theo nhà sử học Biệt Lam Trần Huy Bá trích bản đồ Hà Nội năm Minh Mạng 12 (1831) thì Hà Nội có 16 cửa ô, đặt tên theo làng theo tổng. Mỗi cửa ô thời ấy có lẽ là một chiếc cổng ngày mở đêm đóng bởi mỗi phờng như một làng, khép kín, có cây có rào, có tuần đinh canh phòng để ngăn ngừa đạo chích và dè chừng hoả hoạn.
    Người Hà Nội từ giữa thế kỷ XX trở đi đã không còn nhiều người biết đến những cửa ô đã mai một vào thời gian, chìm đi trong quá khứ. Những Tây Luông (sau Nhà hát Lớn) Thuỵ Chương (đầu Quán Thánh-Thuỵ Khuê) Đông Yên (Hàng Cau-Hàng Bè) Mỹ Lộc (đầu Hàng Bạc) Trừng Thanh (Hàng Mắm) Phúc Lâm (Hàng Đậu) Thạch Khối (Hàng Than) Yên Tỉnh (dốc Hàng Than) Nhân Hoà (Hàn Thuyên).... rồi chỉ còn mang máng như những hoài niệm đẹp, đó là những cửa ô Yên Phụ, Đồng Lầm, Chợ Dừa, Cầu Dền, Đống Mác, Cầu Giấy... và cửa ô còn lại cái cổng duy nhất: Ô Quan Chưởng.
    Ô Đồng Lầm: Chỗ ngã tư Đại Cồ Việt - Kim Liên
    Ô Chợ Dừa: Về phía tây, nơi có cái chợ nhỏ bé từng một thời họp dưới bóng dừa lao xao bát ngát, dẫn tới Trại Tóc, Trại Nhãn... xuôi sang phía bên kia là con đê La Thành.
    Ô Cầu Dền: Phố Huế nối với Bạch Mai
    Ô Đông Mác: ở tận cùng phố Lò Đúc, chỗ gặp phố Lương Yên, ngày xa là một cửa ô. Cửa ô đó mở ở đúng góc Đông nam của toà thành đất vòng giữa bao quanh khu đông dân cư của kinh thành Thăng Long xưa và có nhiều tên gọi khác nhau, tên Đông Mác là tên gọi nôm na của cửa ô này.
    Ô Cầu Giấy:
    Ô Quan Chưởng: Ngay cạnh chợ Đồng Xuân, một cửa ô duy nhất còn lại cái cổng ba cửa như cổng thành, có vọng lầu, bằng gạch vồ nâu đỏ, có cả tấm bia đá của Tổng đốc Hoàng Diệu cho dựngnăm 1882 cấm ngặt binh lính quan nha không được sách nhiễu người dân qua lại đây vào thành. Cổng ô được xây dựng năm 1749, hơn hai trăm năm rồi, là chứng nhân của lịch sử và tấm bia đá kia trăm năm chưa mòn..........
    Ô Yên Hoa: Nay là Yên Phụ, ô Yên Phụ là nơi mà đào Nhật Tân, quất Nghi Tàm, hoa Tứ Tống ... phải vượt qua mà vào Hà Nội....

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
    Được sửa chữa bởi - ghost2k1 vào 13/04/2002 13:03
  8. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Ô QUAN CHƯỞNG
    Nói về thành luỹ ở Việt Nam thì nhiều địa phương có. Nhưng cửa ô thì chỉ ở Hà Nội mới có. Và tới nay thì Hà Nội cũng chỉ còn một cửa ô, đó là cửa ô Quan Chưởng, ở đầu phố Hàng Chiếu, gần đê sông Hồng. Cửa ô dáng dấp cũng như cửa thành nhưng nhỏ hơn. Đây là một trong nhiều cửa ô mở qua tường phía Đông của toà thành đất bao quanh khu Kinh thành Thăng Long xa. Toà thành ấy được đắp vào năm 1749. Nhưng diện mạo hiện nay của cửa ô này là do lần sửa chữa lớn vào năm 1817.
    Hiện cửa ô còn nguyên một cửa chính và hai cửa con hai bên. Trên nóc cửa chính là một vọng lâu. Đời trước ngày đêm có lính canh gác ở đây. Bên tường trái có gắn một tấm bia khắc năm 1882 ghi lệnh của Tổng đốc Hoàng Diệu cấm bọn lính sách nhiễu những đám tang qua lại cửa ô. Như vậy là các vòm cửa từng có cánh, ngày mở đêm đóng.
    Cũng nên lưu ý là cái tên cửa ô Quan Chưởng là cách gọi nôm na. Chứ tên gọi chính thức được ghi trên vòm cửa chính: Đông Hà Môn tức cửa ô Đông Hà. Đông Hà là tên gọi của một phường đời Lê bao gồm khu vực Hàng Chiếu, Thanh Hà, Đào Duy Từ ngày nay, là nơi có cửa ô này.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  9. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Thành Cổ Loa
    Thuộc địa phận xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Đây là thủ đô thứ hai của Việt Nam, sau Phong Châu (tỉnh Phú Thọ hiện nay - là thủ đô thời các vua Hùng).
    Tơng truyền rằng vào nửa sau thế kỷ thứ III trước công nguyên ở Trung Quốc, Tần Thuỷ Hoàng bằng chiến tranh đã thống nhất được đất nớc lập ra nhà Tần. Với bạo chúa này, chủ trương "bình thiên hạ" được thực hiện bằng cách phái 50 vạn quân đi xâm lược phương Nam. Thục Phán đã chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Tần trong suốt 10 năm.
    Sau khi kháng chiến thành công Thục Phán thay vua Hùng, dựng nước Âu Lạc đóng đô ở Cổ Loa, đã đắp một toà thành đất (tương truyền có tới 9 vòng). Ngày nay ở Cổ Loa còn lại ba vòng thành đất: thành trong hình chữ nhật chu vi 1,6 km; thành giữa hình đa giác chu vi 6,5km; thành ngoài chu vi 8 km. Thân thành ngày nay còn có chiều cao trung bình từ 4 đến 5m, có chỗ còn cao tới 12m, chân thành rộng tới hai ba chục mét. Ngày xưa, thì hẳn phải cao và dày hơn nhiều. Thật là một toà thành kiên cố, so với một thời mà vũ khí chỉ là gươm, giáo và cung tên. Các cửa của ba vòng thành cũng được bố trí rất khéo: Không cùng nằm trên một trục thẳng mà lệch chéo đi nhiều. Do đó đường đi lối lại của hai thành ở cùng một hướng đều là một đường quanh co, lại có ụ phòng ngự ở hai bên, nên gây nhiều trở ngại cho quân địch khi tiến đánh thành.
    Nhưng sau năm chục năm ở ngôi, Thục Phán để nước Âu Lạc rơi vào tay Triệu Đà, một tướng lĩnh nhà Tần. Thực ra, Thục Phán đã nhiều lần thắng Triệu Đà. Cuối cùng Đà dùng một mẹo hiểm cho con trai là Trọng Thuỷ sang giảng hoà và cầu hôn với công chúa Mỵ Châu, con gái của Thục Phán. Thục Phán chấp nhận, mặc sự can ngăn của triều thần. Sau ba năm ở rể, Trọng Thuỷ đánh cắp được nỏ thần (biểu tượng của bí mật quân sự?). Triệu Đà kéo quân sang chiếm được Âu Lạc, xng vua. Từ toà thành kỳ vĩ, Cổ Loa trở thành sân khấu của tấn bi kịch nhà tan và nước mất, bi kịch của sự mất cảnh giác.
    Nay tới thăm Cổ Loa, qua cổng làng cũng là cổng thành trong là tới đình làng Cổ Loa. Theo truyền thuyết thì đó là nền cũ của điện ngự triều, nơi bá quan triều hội ngày xa nên trong đình còn bức hoành phi "Ngự triều di qui". Bên cạnh con đường mòn dẫn vào khu di tích (khu Ba Cầu) đã phát hiện trong lòng đất một kho vũ khí có tới hàng vạn mũi tên đồng hai, ba ngạch. Phải chăng đó là cơ sở của truyền thuyết "nỏ thần"?
    Cạnh đình là Am Bà Chúa tức là miếu thờ công chúa Mỵ Châu, nằm nép dưới gốc đa già cổ thụ. Am bé bỏng như cuộc đời ngắn ngủi của nàng công chúa đáng trách và đáng thương này. Trong Am có một tảng đá hình người cụt đầu. Ai cũng bảo đó là tượng Mỵ Châu.
    Qua Am Mỵ Châu tới đền Thợng tức đền An Dương Vơng, tương truyền là dựng trên nền nội cung ngày trớc. Đền này mới làm lại hồi đầu thế kỷ XX. Không còn di vật đời Trần hoặc Lê sơ. Trong đền có tượng An Dương Vương bằng đồng mới đúc cùng dịp làm lại đền cách nay sáu bảy chục năm. Trước đền là giếng Ngọc tương truyền là nơi Trọng Thuỷ tự tử vì hối hận. Nước giếng này mà đem rửa ngọc trai thì ngọc sáng bội phần!
    Trong những năm gần đây, ngành khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện nhiều di chỉ đồ đá, đồ đồng ở khu vực Cổ Loa. Rìu, lưỡi cày, mũi tên đồng, vỏ trấu, xương thú vật và cả trống đồng loại I Hêgơ nữa, tất cả nói lên rằng trớc khi Thục Phán tới Cổ Loa dựng Kinh đô, nơi này đã có dân cư từ hàng ngàn năm trước.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  10. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Đền Quán Thánh
    Cứ như ba chữ tạc trên nóc cổng thì đây là "Chân Vũ Quán". Thực ra cái tên này mới có từ năm 1840. Trớc đó là "Trấn Vũ Quán" và dân chúng thì gọi nôm na là đền Quán Thánh. "Quán" là nơi thờ tự của Đạo giáo, cũng như chùa là của Phật giáo.
    Thánh Trấn Vũ là một hình tượng kết hợp nhân vật thần thoại Việt Nam (ông Thánh đã giúp An Dương Vương trừ ma quỷ trong khi xây dựng thành Cổ Loa) và nhân vật thần thoại Trung Quốc (Thánh coi giữ phương bắc). Tương truyền đền có từ đời Lý Thái Tổ (1010-1028), nhưng diện mạo hiện nay có từ lần sửa chữa năm 1893. Dù chỉ mới một thế kỷ trước đây nhưng kiến trúc đền thuộc loại đẹp. Các mảnh trạm khắc trên những cấu kiện bằng gỗ có giá trị nghệ thuật cao. Bố cục mặt bằng cũng như không gian của đền hài hoà cân đối, nhất là cảnh quan thoáng đãng, có hồ Tây trước mặt tạo lên một vọng cảnh đẹp. Trong đền có pho tượng Trấn Vũ bằng đồng đen đúc năm 1667 cao 3,96m, nặng khoảng 4 tấn. Tượng có hình dáng một người ngồi, y phục gọn gàng nhưng tóc lại bỏ xoã, chân không giày dép, tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm. Thân gươm có rắn quấn và chống lên lưng rùa. Đó là hình dáng một đạo sĩ. Tượng Trấn Vũ là một công trình nghệ thuật độc đáo đánh dấu kỹ thuật đúc đồng và nghệ thuật tạc tượng của người Hà Nội cách đây 3 thế kỷ. Ở nhà bái đường có một pho tượng nhỏ bằng đá. Theo một thuyết được nhiều người chấp nhận thì đây là tượng ông Trùm Trọng, người thợ đúc đồng đã đúc pho tượng Trấn Vũ. Tợng này là do các học trò của ông Trùm tạc nên để ghi công thày.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]

Chia sẻ trang này