1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Giới thiệu gì về Hà Nội cho du khách nước ngoài ?

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi CaChep, 12/04/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    hùa Một Cột
    Là một cụm kiến trúc, gồm ngôi chùa và toà đài xây giữa hồ vuông. Cả cụm vốn có tên là chùa Diên Hựu và đài Liên Hoa. Đài này lâu nay quen gọi là chùa Một Cột - hình vuông, mỗi bề 3 mét, mái cong, dựng trên cột đá hình trụ. Cột có đường kính 1,20 mét, cao 4,0 mét (cha kể phầm chìm dới đất) đỡ toàn bộ hệ thống những thanh gỗ tạo khung sờn kiên cố cho ngôi đài dựng bên trên, tựa một đoá hoa sen vươn thẳng trên khu ao hình vuông có lan can bằng gạch bao quanh. Từ bên ngoài có lối nhỏ bằng gạch đi qua ao đến một chiếc thang xinh xắn dẫn lên Phật đài. Trên cửa Phật đài có biển đề "Liên Hoa Đài" (Đài hoa sen) ghi nhớ sự tích nằm mộng của vua Lý dẫn tới việc xây chùa. Sử chép: "Lý Thái Tông (1028-1054) chiêm bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên toà hoa sen, vua cũng được dắt lên toà. Khi tỉnh giấc vua đem chuyện ấy hỏi các quan... Có người khuyên vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa ao, làm toà sen của Phật đặt trên cột như đã thấy trong mộng. Cho các sư chạy đàn, tụng kinh cầu cho vua sống lâu. Vì thế gọi là chùa Diên Hựu (kéo dài cõi phúc)". Đó là vào năm 1049 và như vậy, ngay lúc xây dựng, đã có ngôi chùa và đài hoa sen. Chưa rõ qui mô ngôi chùa như thế nào, chứ qui mô Liên Hoa Đài thì một tấm bia cổ còn ghi: "... Đào Hồ Linh Chiểu, giữa hồ vọt lên một cột đá, đỉnh cột nở đoá hoa sen, nghìn cánh, trên hoa sen dựng toà điện màu xanh đặt pho tượng Quan Âm. Vòng quanh hồ là dãy hành lang. Lại đào ao Bích Trì, mỗi bên đều bắc cầu vồng để đi qua. Phía sân cầu đằng trước, hai bên tả hữu xây tháp lu ly".
    Như vậy qui mô Liên Hoa Đài thời Lý to hơn ngày nay nhiều, cả những bộ phận hợp thành và hình dạng cũng phong phú hơn.
    Trong thực tế, cụm chùa Một Cột đã qua nhiều lần sửa chữa. Ngày 11/ 9/ 1954 trớc khi rút, quân đội Pháp đã cho nổ mìn phá huỷ Liên Hoa Đài. Khi Chính phủ Việt Nam tiếp quản Hà Nội, đã cho làm lại đến tháng 4/1955 thì công việc hoàn thành.
    Cạnh chùa còn có một cây bồ đề do Tổng thống Ấn Độ Prasat tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong dịp Bác sang thăm nước này.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  2. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Phong cách ăn uống của người Hà Nội
    Người Hà Nội ăn quà
    Ngoài hai bữa cơm hàng ngày, thường tình ra ai mà chẳng thích ăn quà. ở đâu mà chẳng có hàng quà ngon, món quà ngon, nhất là Hà Nội có những món quà mới chỉ nghĩ đến đã bâng khuâng cả dạ.
    Hà Nội có những món quà ngon khiến ngòi bút của Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân từng phải rung lên như dây đàn. Và người Hà Nội đã ăn những món quà ngon đó như thế nào, ăn vào lúc nào, có khác gì những nơi khác, người khác ăn?
    Người Hà Nội ăn quà cũng có cách riêng.
    Món nào ăn sáng thì không dùng ăn trưa. Món ăn trưa thì tối không ăn. Chiều, tối, khuya, mỗi thời điểm có món riêng, mỗi món có "tri kỷ" của nó.
    Xôi lúa không ăn chiều. Xực tắc không ăn sáng. Lục tào xá không ăn trưa. Lạc rang ít ăn vào mùa nắng. Mùa rét ít ăn chè đỗ đen...
    Bát bún riêu không cần đầy ụ. Lát rau chuối phải thái mỏng tang trông như vành trăng thượng huyền giữa nền xanh rau muống chẻ, rau xà lách. Ngổ ba lá như cánh hoa điểm xuyết, lát ớt đỏ tươi. ớt xanh là hỏng. Người ngồi bên cạnh cũng không hề nghe tiếng và xụp xoạp, tiếng nhai tóp tép, tiếng nuốt ừng ực... Người ăn cứ nhẹ nhàng như không, như vừa lắng nghe điều gì vừa ngẫm nghĩ vừa ăn.
    Quà Hà Nội thường không phải ăn cho no, nó tựa như lời yêu cầu chỉ cần nói nửa chừng, để ngỏ một khoảng trời cho sự mơ màng.
    Cái tủ kính con, đĩa xôi vò bát chè đường mới hấp dẫn làm sao. Bát chè (đúng ra phải gọi là chén) chỉ nhỉnh hơn cái chén quả hồng. Chè đường trong vắt. Những hạt đỗ xanh như hoa vàng chập chờn ẩn hiện. Còn xôi vò đựng trong cái đĩa nhỏ xíu, chỉ mấy nhúm ngón tay đã hết. Từng hạt xôi tưởng như rời rạc mà lại quyện vào nhau khi ta nhai với cảm giác ngọt ngào mềm ấm. Cái hạt xôi vò kỳ lạ, mềm mà không nát, khô mà không cứng, đỗ xanh phủ mỏng ngoài còn bên trong là hạt gạo nếp căng phồng như cái bụng con ong non. Một chút xôi chè ấy ăn vào buổi tra, thật đúng là Hà Nội. Xôi xéo lại khác, từng cục to nhỏ khác nhau là món ăn sáng. Thật ra "vò" với "xéo" khác nhau lắm nhỉ? Còn con người, khi tấm lòng bị vò bị xéo, chắc cũng khác nhau lắm.
    Món cốm cũng cần cách ăn hương hoa. Không thể dùng đũa và lùa cốm vào miệng. Nhìn các bà các chị nhúm một nhúm cốm đặt vào lòng bàn tay, ngửa cổ cho cốm rơi vào đầu lỡi, như thả cốm rơi lơ đãng, người ngồi bên cạnh cũng cảm thấy hương thơm hạt cốm lây sang cả mình.
    Phở đang là món ăn thông dụng. Phở cần ăn thật nóng. Người Hà Nội không dùng thìa mà chỉ cầm đôi đũa đứng ngay cạnh nồi nước dùng mà ăn. Phải nóng đến miếng cuối cùng. Cầm thìa vớt bánh phở lên thìa rồi mới đưa lên miệng, như vậy sẽ giảm độ nóng đi mất nhiều, bánh phở không ngấm kỹ nước dùng, bớt độ ngon, bởi phở ngon phần lớn nhờ nước dùng. Có người ăn, cuối bát phở, còn nguyên nước, thật phí và không biết ăn. Các gánh phở gánh đầu phố xa, khách ăn đứng là có lý lắm chứ đâu phải vội vàng hoặc tham ăn.
    Ngay như món ốc luộc. ở Hà Nội cũng có nhiều cửa hàng chuyên bán. Chỉ một thứ thôi. Khách quen thì đến. ở phố Nhà Chung và vài phố khác có hàng nh thế. ốc nhồi, ốc bơu, ốc đá, loại nào ra loại ấy, bằng nhau chằn chặn. Bát nước chấm vàng nhạt, những miếng gừng vàng sẫm, lát ớt đỏ chói, con ốc giòn sần sật, nóng hôi hổi. ăn để mà nhớ nó, ăn để thay đổi cảm giác, chứ không phải phục vụ cái dạ dầy cần đầy
    Cái xốn xang của Hà Nội sang thu nó lạ lắm. Chớm đông Hà Nội cũng làm lòng mình không yên. Nó cứ mang mang trong tâm dạ, khiến mình phải đến một nơi nào đó, gặp một ai đó, ăn một món gì đó. Sang thu, nếu chưa được ăn con chim ngói, cha được ăn chút cốm Vòng thì ít ra cũng phải đi ăn mươi con ốc luộc cho đỡ nhớ, cho yên cái thắc thỏm.
    Bao nhiêu quà là miếng chín, người Hà Nội ăn cho thơm thảo, ăn cho ngon miệng, ăn cho đỡ nhớ, ăn cho thời tiết được mình hưởng ứng, ăn để mình hoà vào thời tiết, hoà vào thiên nhiên, ăn như để đáp ứng một nhu cầu nội tâm hơn là vị giác.
    Tấm mía là món quà phổ thông, ở đâu chẳng có. Người Hà Nội ăn mía cách riêng. Không vừa đi vừa tước mía như thổi sáo ngang, vừa ăn vừa hít, vừa dứt, vừa nhả bã dọc đường như Mỵ Châu rắc lông ngỗng. Tấm mía được rửa sạch, róc cẩn thận, tiện thành từng khẩu, để lên đĩa, hoặc để trong lòng bàn tay sạch, đa từng khẩu lên miệng. Có người ớp hoa nhài, hoa bưởi một lát rồi mới ăn, vừa ăn cái ngọt, vừa ăn cái thơm.
    Quả sấu chín không thể cắn mà phải gọt, phải biến nó thành cái vòng xoắn ruột gà, để nguyên thì hình tròn, nhấc lên nó như cái lò xo. Thật đẹp mắt.
    Chuối cũng là quả thông thờng dù là thứ quả quý. Người Hà Nội ăn chuối không ai bóc tuột cả vỏ, cũng không cầm cả quả mà bóc. Phải bẻ đôi quả chuối rồi mới bóc bốn phía. Nửa quả chuối biến thành bông hoa bốn cánh, thịt chuối là cái nhuỵ hoa vậy.
    Tháng sáu, mùa nhãn. Nhãn ***g sen ngâm trong nước đường trong vắt, dần dần biến thành màu trắng ngà... Nếu ăn nhãn quả cũng không đưa cả quả nhãn vào miệng, phùng một bên má như con khỉ vội ăn để dành cạnh lưỡi; người Hà Nội ngắt một quả, lấy móng tay bóc một nửa vỏ nhãn, lộ cái cùi trắng, rồi nhằn hạt nhãn trong răng. Thật ngon lành, vệ sinh mà cũng thanh lịch.
    Còn bao thứ quà nữa của khắp vùng đất nước được chuyển về Hà Nội, người Hà Nội ăn không xô bồ, vội vã. Thanh cảnh, tao nhã, lịch sự, văn minh, ăn cho ngon, ăn thật đẹp... đã thành nếp sống thường xuyên hàng ngày, nó giống như dáng đi, nét mặc, lời nói, người Hà Nội đi đâu cũng không lẫn, và ở giữa lòng Hà Nội, người không phải Hà Nội cũng toát ra ngay cái chất của mình.
    Bắp ngô nướng đêm đông, ngô luộc buổi sáng đâu cứ cầm mà gặm nham nhở. Cầm trong lòng bàn tay, dùng ngán tay khẽ tẽ ra từng hạt theo từng hàng, hạt ngô như viên ngọc trai được nghiềm khẽ khàng giữa hai hàm răng để cái ngọt thơm thấm dần vào vị giác. Thế mới là ngon, mới là ngọt, là thơm, là quý...
    Và người Hà Nội cũng ít khi mặt đỏ gay ra đường. Họ xấu hổ, không muốn ra đường, sợ bị hiểu lầm là bê tha rượu chè (cái này dễ đi với cờ bạc, đĩ bợm) mà người đến thế thì còn ra cái gì. Mặt đỏ, nói chuyện với ai, phả hơi rượu vào mặt người ta, lại càng kinh lắm. Tửu sắc, có gì đáng khen đâu. Thật chí lý.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  3. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Ngoài Phở, xin được giới thiệu tiếp một số đặc sản Hà Nội
    Cốm làng Vòng
    Ở Việt Nam, vào mùa thu bạn có thể cảm nhận thấy khi đi qua những cánh đồng xanh mà hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi, mùi thơm ngát của hương lúa còn non không? Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm là những chất tinh tuý nhất của thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Dưới ánh nắng, giọt sữa dần dần đông lại, bông lúa càng ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quý trong sạch của trời, nói như Thạch Lam đã nói.
    Nhiều nơi biết cách gặt thứ lúa ấy, chế biến ra cốm. Nhưng cốm ở làng Vòng là nổi tiếng nhất. Làng Vòng thuộc huyện Từ Liêm, cách trung tâm Hà Nội về phía Tây Bắc độ dăm cây số, chia ra làm nhiều thôn là: Vòng Tiền - Vòng Hậu - Vòng Sở - Vòng Trung, chỉ có hai thôn Vòng Hậu, Vòng Sở là làm cốm ngon.
    Lúa gặt ở cánh đồng về, không được đập, vò hay đạp mà phải tuốt. Rồi bí quyết của cốm vòng là việc đảo thóc trong lúc rang.
    Tất cả sự khéo tay cộng với những kinh nghiệm lâu đời khiến cho người dân làng Vòng đảo thóc trong những nồi rang kia lúc nào cũng giữ được đều lửa bằng thứ củi cháy âm.
    Đảo cốm xong mang giã ngay, không được để nguội. Công việc xay giã cũng cần phải tiến hành rất tinh tế: khi giã phải đều, không được nện nặng tay quá. Trong khi giã phải luôn luôn đảo cốm từ trên xuống, từ dưới lên cho đều, sau đó phải sàng, phải hồ. Cuối cùng cốm được trải ra thật mỏng trên những mảnh lá sen còn tươi.
    "Cốm không phải thức ăn của người vội, ăn cốm phải ăn từng chút ít, thong thả và ngẫm nghĩ. Lúc bấy giờ ta mới thấy thu lại cả trong hương vị ấy cái mùi thơm phức của lúa mới, của hoa cỏ dại ven bờ, trong màu xanh của cốm cái tươi mát của lá non và trong chất ngọt của cốm cái dịu dàng thanh đạm của loài thảo mộc. Thêm vào cái mùi hơi ngát của lá sen già, ướp lấy từng hạt cốm một, còn giữ lại cái ấm áp của những ngày mùa hạ trên hồ" (Thạch Lam).
    Cốm có thể cùng ăn với chuối tiêu trứng cuốc nhưng hoà hợp nhất là ăn với trái hồng chín đỏ. Xa kia vào mùa cốm, người con trai muốn lấy lòng bố mẹ vợ tương lai thường mua cốm và hồng đem biếu.
    Từ hơn nửa thế kỷ nay bánh cốm trở thành thứ bánh cưới. Vuông vắn, bốn cạnh, tám góc, bọc lá chuối xanh, buộc dây lạt đỏ như những sợi tơ hồng buộc chặt nhân duyên.
    Mình bánh có màu xanh tươi mát của lá non, tuy đã xào với đường và mỡ vẫn còn phảng phất hương thơm của loài lúa nếp. Nhân bánh là đậu xanh giã nhuyễn, vương mấy sợi dừa trắng muốt.
    Có thể là nhiều nơi làm được loại bánh cốm này nhưng chỉ có Hà Nội mới nổi tiếng. Mà nổi tiếng nhất là bánh cốm của hiệu Nguyên Ninh ở phố Hàng Than mà hiện nay đã phục hồi phát triển, đồng thời có thể tìm mua ở các cửa hàng bánh ở phố Hàng Đường hay Hàng Điếu.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  4. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Bánh tôm Hồ Tây
    Là người Hà Nội, chắc bạn đã thưởng thức bánh tôm Hồ Tây hay chí ít bạn cũng đã một lần ngồi bên bàn đá ven hồ, gọi một chai bia Trúc Bạch và một đĩa bánh tôm nóng rồi nhâm nhi...
    Chỉ một lần như thế thôi mà đã thành ấn tượng khó quên. Bởi lẽ ăn bánh tôm Hồ Tây đâu chỉ phải là ăn để mà ăn mà còn để ngắm trời, ngắm đất, ngắm người, ngắm cảnh.
    Thưởng thức bánh tôm trong khung trời tạnh ráo, se se hơi gió lạnh đầu mùa thì thật tuyệt. Này nhé, con tôm nước ngọt Hồ Tây vừa chín tới nằm trên mặt chiếc bánh vàng ươm, phổng phao bột trắng ngần, nhai cứ ròn tan như miếng bánh đa vừa nướng chấm với dấm mắm chua cay, phảng phất hương vị cà cuống ruộng đồng ven đô. Cứ thế nhai tan một miếng, nhấp tiếp một hơi bia lạnh, hít thở hơi gió thoảng qua đượm mùi mỡ béo ngậy thơm từ lò bếp lọt ra, ôi còn miếng ngon nào ngon hơn?
    Ngày nay bánh tôm Hồ Tây vẫn giữ đợc hương vị cổ truyền của nó. Bất cứ ai thưởng thức cũng phải bất ngờ cảm nhận được mùi vị ngon lành của bánh tôm rất nóng, rất ròn, rất thơm ngậy với thứ nớc chấm chua, ngọt mặn và xe cay lẫn trong thoang thoảng hương sen mơ hồ chiều mùa hạ ngay sát cạnh sóng nước Hồ Tây.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  5. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Chả cá Lã Vọng
    Hầu như tất cả khách nước ngoài đến Hà Nội đều tìm đến phố Chả Cá để thưởng thức đặc sản chả cá. Xưa kia phố này là nơi bán các loại sơn ta nên có tên là phố Hàng Sơn. Tới cuối thế kỷ XIX gia đình họ Đoàn ở số nhà 14, cụ bà thờng làm món chả cá thết khách. Được bạn bè thích thú và giúp đỡ nên họ Đoàn mới mở cửa hàng bán chả cá.
    Tiếng lành đồn xa, cửa hàng đón khách khắp trong Nam ngoài Bắc. Trong tiếng nói của dân, phố Hàng Sơn ít đợc nhắc đến, thay vào đó là tên Chả cá, lâu dần, thành tên phố chính thức.
    Còn gọi là chả cá Lã Vọng vì sau này đến đời cụ Đoàn Xuân Hựu nhân dịp tết trung thu cụ dẫn người con gái út ra hàng thiếc mua ông Lã Vọng cho con chơi. Từ đó nhà hàng chả cá có thêm cái tên "Lã Vọng" và ngay cửa ra vào có hình ông Lã Vọng một tay cầm cần câu và một tay xách xâu cá.
    Khách tới ngồi vào bàn. Nhà hàng đem đến bày giữa bàn một cái lò đất con rừng rực than hồng, trên có đặt một cái chảo con mỡ đang sôi... các thứ gia vị được bày ra: mắm tôm, chanh, ớt, lạc rang, bánh đa vừng, các thứ rau thơm mà nhất thiết phải có thì là và hành hoa. Cá để làm chả có thể là cá chiên, cá nheo, cá quả nhưng ngon nhất là cá lăng, được lạng thành miếng rồi ướp sả, hạt tiêu... Chả được mang ra, khách cho hành hoa vào mỡ nóng reo lét bép, rộn ràng. Khách nhúng từng miếng chả vào đó rồi một miếng bún, hành, rau thơm, mùi, thì là, lạc rang kèm theo hai miếng chả chấm đẫm mắm tôm chanh ớt, có thể điểm thêm vài giọt cà cuống. Ngon lành, ấm bụng, khách đảo mắt nhìn chung quanh gian nhà mờ mờ trong góc tối, mỗi bàn có khói xanh nghi ngút bốc lên cao, rồi nhẹ toả trên những cái xà nhà vàng thẫm màu bồ hóng mà nớc vôi không thể che lấp được. Không khí thoang thoảng những hương vị thơm phức, đậm đà, đầy quyến rũ.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  6. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Bánh cuốn Thanh Trì
    Bánh cuốn ở Hà Nội ngon và nổi tiếng nhất là bánh cuốn của làng Thanh Trì. Làng ở ven đô, phía Đông Nam Hà Nội, ven đê sông Hồng. Người dân nơi đây có nghề tráng bánh cuốn độc đáo: bánh mỏng như tờ giấy, trong như men sứ. Vị bánh thơm, bột mịn và dẻo. Ngày trước, sáng sáng những cô gái Thanh Trì đem bánh vào bán ở phố. Hàng được đựng trong một cái thúng, đậy cái mẹt. Thúng được đội trên đầu. Có khách gọi, cô hàng hạ thúng xuống. Gia vị đi kèm có một chai nước mắm, chai dấm, chén ớt. Dăm cái bát, cái đĩa, mơi đôi đũa và lớp lớp bánh cuốn xếp theo kiểu bậc thang. Từng lá bánh đã được xoa mỡ và rải rác những lát hành phi vàng rộm. Cô khoan thai bóc từng lá bánh, cuốn lại, bày trên chiếc đĩa, mời khách. Chấm thoáng một chút nước mắm cay chua. Bánh cuốn chay là một thứ quà ngon miệng và rất bình dân. Khi nhu cầu của người dân thành thị đòi hỏi cao hơn thì cùng với bánh có bán kèm giò bò, giò lụa, hoặc chả lợn, mỗi thứ ngon một cách riêng. Bánh cuốn Thanh Trì vẫn còn được nhiều người dân Hà Nội yêu thích đến tận ngày nay, dù sau này xuất hiện những loại bánh cuốn mới.
    Cách đây nửa thế kỷ, ở Hà Nội xuất hiện một số bánh cuốn cải tiến. Có người dùng bánh cuốn Thanh Trì nhưng làm thêm nhân tôm thịt (thịt lợn nửa nạc nửa mỡ cùng tôm tơi bóc nõn đem băm nhỏ), nấm hương, mộc nhĩ thái nhỏ cộng với hành, nước mắm, hạt tiêu. Tất cả được xào chín qua mỡ rồi cuộn vào trong lớp áo bánh. Trước khi ăn, bánh được bỏ vào nồi hấp nóng. Trong chén nước mắm chanh ớt có rỏ vài giọt tinh cà cuống làm dậy lên mọi hương vị.
    Nay, các nhà bánh cuốn Hà Nội vừa tráng bánh vừa cuốn nhân tại chỗ. Khách ngồi ăn, chờ đợi từng đĩa, ngắm nhìn các thao tác uyển chuyển của người làm, trong làn khói thơm ấm áp, nhất là những ngày se lạnh. Chỉ tiếc là giống cà cuống đã mất dần nên ngày nay hầu hết nhà hàng dùng tinh dầu cà cuống nhân tạo. Tuy nhiên, riêng hiệu bánh cuốn ở 17- phố Chả Cá vẫn đáp ứng khách hàng bằng cà cuống đích thực.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  7. On4U

    On4U Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    05/03/2002
    Bài viết:
    3.578
    Đã được thích:
    0
    Ôi thật tuyệt vời, nhất là các món ăn.... hehehehe... có dịp ra Hà Nội chắc làm phiền bác ghost2k1 cho mình chu du 1 chuyến há.
    All for you
  8. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Bún chả
    Nhà văn Thạch Lam đã dùng những âm hưởng của thi ca để miêu tả cái hấp dẫn của những gánh hàng bún chả ở phố Hà Nội vào những năm 30: "Khi ngồi cuối chiều gió, đói bụng mà đón lấy cái khí chả thơm thì ngài dễ thành thi sĩ lắm. Khói lam cuộn như sương mờ ở sườn núi, giọt mỡ cháy xèo trên than hồng như một tiếng thở dài và tiếng quạt khẽ đập như cành cây rung động..."
    Thịt nướng chả có hai loại: chả băm dùng thịt nạc vai, chả miếng dùng thịt ba chỉ mà phải dùng cặp tre tơi nướng trên hộp than nhỏ, tay người bán hàng phe phẩy cái quạt nan cho cháy vưà hồng để thịt vừa chín bên trong, bên ngoài không bị cháy, chỉ se mặt đủ giữ lại mùi thơm, vừa bùi. Thứ bún để ăn bún chả sợi mảnh và cuộn tròn thành lá mỏng, khác với các thứ bún thường. Người bán xếp những lá bún óng mượt vào trong một cái mẹt con lót lá chuối xanh non, một góc mẹt để rau xà lách, rau thơm, mùi, tía tô, kinh giới, đặc biệt là thứ rau húng tại làng Láng ngoại ô Hà Nội. Nước chấm phải gia giảm giữa nước mắm, đường, chanh, tỏi, ớt, hạt tiêu sao cho không mặn, không chua gắt. Việc pha nước chấm cho bún chả là cả một nghệ thuật.
    Trước đây các hàng bún chả ngon của Hà Nội thường là gánh hàng rong bán ở phố hay chợ. Nay đều đã thành cửa hiệu và có ở khắp nơi. Nhưng không còn nướng bằng cặp tre tơi nữa mà bằng cặp lưới thép, bún cũng không còn dùng loại lá mỏng nữa mà là bún rối cho nên càng hao hụt phần nào phong vị độc đáo của bún chả xưa kia của Hà Nội.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  9. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Nhân đây xin gới thiệu loạt bài của nhà văn hoá Hoàng Đạo Thuý về Hà Nội xưa.
    Người Tràng An
    Tràng An ( Trường An) là nơi ở lâu dài và yên ổn. Người ta đặt tên ấy cho Thủ đô. ở nước ta, nhà Đinh và nhà Tiền Lê đóng kinh đô ở Hoa Lư, đến giờ chỗ ấy vẫn gọi là xã Trường Yên (thượng và hạ).
    Đời Lý, Tràng An là đất Thăng Long. Ngư ời ta bảo: Đất Thăng Long "Địa linh, nhân kiệt" - Đất thiêng, người giỏi.
    Vua Lê Thánh Tôn ( 1460) nói rằng: "Kinh kỳ là nơi tập hợp tinh hoa của tứ tuyên". Nhà Lê gọi các tỉnh là "thừa tuyên". Nghĩa là: Kinh kỳ là nơi tập hợp tinh hoa của các tỉnh, 4 hướng.
    Kinh đô Thăng Long, dài từ sông Hồng bên Đông, đến sông Tô, bên Tây. Tỉnh Sơn Tây (xứ Đoài) có huyện Từ Liêm, là huyện "phụ quách", tức là dựa vào thành Thăng Long. Sơn Tây, trong lòng có Phong Châu là nơi phát tích của nước Văn Lang ta xưa, góp cho Kinh kỳ những người mộc mạc, ngay thắng và vững chắc. Điều này thấy rõ trong văn chương, trong cách xây dựng đình còn giữ kiểu nhà sàn mái cong như xa. - Phía Bắc là tỉnh Kinh Bắc (nay là Bắc Ninh, Hà Bắc), trước kia gồm có Sóc Sơn, Đông Anh và Gia Lâm. Kinh Bắc, bộ Võ Ninh cũ, cũng là một tỉnh cổ, có lăng An Dương Vương (ở A' Lữ, Thuận Thành). Dân tỉnh có đến 100 họ . Đình chùa chạm trổ đẹp, nhng vẫn giữ kiểu đời Hùng. Kinh Bắc lại là tỉnh bảo vệ phía Bắc của thủ đô trên con đờng xâm lược thiên cổ, tỉnh có thành Loa, có thành Xương Giang, có sông Cầu, núi Nham Biều, đồn Bình Than, đất trăm trận đánh anh hùng. Vì thế mà nam giới quen chinh chiến, các bà người đẹp, hát hay, mà khi cần cũng búi tóc ngợc, cầm quân, xung trận, Lúc náo loạn, cũng có tryện "Cầu Ông Bảo", "Quán Trời ơi ! ". ấy thế mà vùng núi Thiên Thai có tiếng hát hay; Thuận Thành, Lang Tài có tiếng văn học. Đời Lê, Kinh Bắc có nhiều ông "nghè" nhất nước. Quê nội của bà ỷ Lan, quê ngoại của Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương, đất chiến đấu của Hoàng Hoa Thám. Đó là đóng góp của "Kinh Bắc Thừa Tuyên". Tỉnh Đông là Hải Hưng, với hai huyện là Thượng Hồng và Hạ Hồng, nức tiếng văn và võ. Quê của Phạm Ngũ Lão, trường hoạt động của Quận He, làng Mộ Trạch "lò tiến sỹ", làng Kiệt Đặc với bà "nữ tiến sỹ", Lũng động của họ Mạc. Núi Phượng Hoàng, trại Côn Sơn, núi Yên Tử, nơi ở của các cao tăng, các chí sỹ, các người giang hồ. Sông Lục Đầu, núi Phao Sơn, thôn Vạn Kiếp còn uy phong của Hưng Đạo Vơng, một trong mấy danh tướng của thế giới, một trụ đá của đất nước trong những ngày gian nan, đã đánh bại đế quốc Nguyên Mông không phải chỉ một lần. Con đường 5, mười năm là một trận địa ráo riết. - Phụ cận với Kinh kỳ là "Sơn Nam Thừa Tuyên". Các nghề khéo như khảm, thêu, trồng hoa, rau, quả xây nhà, từ đó vào Kinh. "Sơn Nam thượng" có sông Tô Lịch. Sông chảy đến đâu là có danh nhân đến đó : Đoàn Thị Điểm, Lý Văn Phức. Mọc có Đặng Trần Côn, Lủ có Nguyễn Công Thể và Nguyễn Siêu ; Định Công là làng của Bùi Bình Uyên và Bùi Tồn Am, làng Quang có Chu Văn An, Nhị Khê có Nguyễn Trãi. Một độ lừng tiếng ở "Trờng An Tứ Hổ", thì cả bốn hổ đều ở bên sông Tô . "Sơn Nam Hạ" xa kia nhiều trạng nguyên. Đời Nguyễn, có hai "Tam nguyên" đầu là ngời Nam Hạ: Trần Bích San và Nguyễn Khuyến. Lại cũng là đất "lấn biển" của Nguyễn Công Trứ, đất vùng vẫy của "vua Ba Vành" . Làng Mỗ có nhà 18 đời tiến sỹ. Linh Đàm có nhà 12 đời đại vương.
    Tứ tuyên đóng gó p cho Hà Nội những nét như thế.
    * *
    *
    Các nét ấy, cộng với cái gốc của Hà Nội, các chiến tướng đời Lý và đời Trần đã vây giặc hai tháng ở Hà Nội.
    Dân thủ đô ta xa, hay tự hào mình ở thủ đô một nước "văn hiến", ở đất "nghìn năm văn vật" . Các cụ sống theo nền nếp "lễ giáo" từ nghìn xa để lại. Xã hộị gồm sự liên hệ của những nhóm người : Vua và tôi (dân), cha và con, thầy và trò , anh và em, chồng và vợ , bè và bạn. Người nọ có nhiệm vụ với người kia. Vua được tôn, vì chăm dân; nhưng giữa vua và dân, thì dân là trọng. Sự mong mỏi của người dân có một thế giới "đại đồng", được "coi trẻ nhà khác như trẻ nhà mình, coi người già nhà khác như người già nhà mình" . Ai cũng lo " dạy con" vì sợ rằng "nuôi mà không dạy, thì con gần như cầm, thú". Dạy con, bắt đầu là Hiếu , rồi Đễ, Trung với nước, Tín với bạn bè . Lễ là việc có tổ chức, sắp xếp , lễ phép. Nghĩa là công bằng, bổn phận phải làm, Liêm là trong sạch. Sỉ là biết xấu hổ. Ngoài giáo dục cổ truyền ấy, ngời ta cũng học đức "bác ái" của Phật, tính thanh tao của Lão.
    Tiếng nói là chung cho cả nước , nhưng nhiều địa phương có tiếng nói hơi khác nhau. Tiếng ở Hà Nội, không có giọng riêng, nói dễ quen.
    Đất Kinh kỳ ngàn năm, nơi có triều đình, có những trường học lớn, diễn ra những khoa thi cao nhất, cả những khoa đặc biệt, như "Bác học hoành từ", "Minh kinh ", nơi có những thầy đạo cao, đức vọng, như Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An. Nơi có "Lăng Yên Các" treo tranh vẽ các danh tướng, có cảnh vườn Thượng Lâm, có cảnh hồ, sông bát ngát, đã tạo nên những người dũng cảm và tài hoa, khéo tay và lịch sự. Được thêm đóng góp của các tỉnh, con người ấy càng đẹp và càng mạnh hơn.
    Ngoài ra, các khu vực phố phường, vì công việc , vì phong khí mà con người có những nét riêng. Phía Tây Hồ Gươm, một vùng từ thôn Tự Tháp , Hàng Trống, Chân Cầm, Vũ Thạch, Kim Cổ , quanh phường Báo Thiên, là nơi đi lại của các văn nhân, sỹ tử, ảnh hưởng các trường Dưỡng Am, Hồ Đình. Phía cửa sông Tô Lịch lên Hàng Đậu, các trường Phương Đình và Cúc Hiên; hễ gần đến ngày "Bình văn" là các đình chùa chật ních, những thầy đồ từ các tỉnh về, trọ để đi nghe giảng. Từ Hàng Buồm, Hàng Bè, đến Cầu Đất, đi lại những ngời da sạm, râu hùm, những ngời hồ hới, đi mành ra Bắc, vào Nam. ở Ngũ Xã với Hàng Bừa, rộn tiếng bễ, tiếng búa quai của những ngời lực lưỡng, đúc đồng, nấu gang. ở giữa thành, Hàng Gai, Hàng Đào như là khu vực của các vị ngoài hào hoa và trong phong nhã .
    Các dãy làng quanh thành có tên là Kẻ Bưởi, Kẻ Mọc, Kẻ Lủ, Kẻ Mơ, thì bà con nông thôn cũng hay gọi Hà Nội là " Kẻ Chợ". Vì là kẻ chợ, nên lịch lãm có khi hóa ra kênh kiệu, buôn bán cũng có lúc lá phải, lá trái.
    Nhưng "người Tràng An" rõ ràng là người cần cù, cứng rắn, vẻ thanh lịch, đôi lúc hào hoa, yêu văn, yêu hoa, sành mỹ thuật, ăn mặc đơn sơ và trang nhã, nói lời văn vẻ dễ nghe, dễ hòa hợp với bà con phường, xóm, hay động lòng vì việc nghĩa, tình người, ghét cay ghét đắng những chuyện tục tằn kệch cỡm, hoạnh họe, lố lăng, đê tiện... Người Tràng An ở với nhau, "biết nhịn", "biết nể", "biết ngượng", " suy bụng ta ra bụng người". Trong thôn phố, có việc là chạy sang thăm hỏi ngay, ở với nhau chu tất, ăn ý, không "bỏ được lòng nhau". Tình người rõ ràng ở chỗ: Nhà ai có trẻ lạc, là chạy đến nhà cụ Phúc Hậu, bận gì cụ cũng bỏ, đi rao, tìm khắp nơi; khách nhà quê ra, đi mãi, nóng, nhọc thì thấy ngay bên đường một vại nước vối ngon với mấy cái bát sạch. Người ta tóm cả cái thanh, cái cao, cái lịch sự, ẩn ý vào hai chữ "thanh lịch".
    Và khi đón bà con các tỉnh về, tiếp các khách phương xa đến, người ta nhắc nhau giứ lấy "vẻ thanh lịch của người Tràng An".

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  10. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Ăn uống
    Ngày xưa, nước ta nghèo. Phần đông, làm vất vả mà chỉ "vặt mũi đủ đút miệng" thôi . ở Hà Nội thì chỉ có những nhà địa chủ miền bể mà có dinh cơ ở Thủ đô là ăn uống "ra trò" thôi. Nhưng người cao nhất trong xã hội, là những nhà văn học, thì lại hay "nghèo rớt mùng tơi" . Bọn Tây đến, họ bảo: "Các cụ" ốm đói", nhưng về ngoại giao lại đáng gờm" . C ác gia đình dạy con, hay đem chuyện cụ Bùi Bỉnh Uyên, làng Định Công, được phong tước "hầ", mà vẫn mặc áo vải, ăn cơm hẩm. Cụ Mạc Đĩnh Chi, đỗ "trạng", làm Tể Tướng, mà vua phải cho khéo, sai bỏ vào nhà cụ l0 quan tiền, mà lại thấy cụ đem nộp vào kho, cho là tiền vô chủ. Làm quan thì lương bổng ít, làm thầy đồ thì một năm hai cái " lễ". Nói rằng "trai không rượu như cờ không có gió ", nhưng tiền đâu mà uống.
    * *
    *
    ở chỗ "phồn hoa", mà ăn uống vẫn cứ "thanh đạm" . Hàng quà gánh rong các phố có "bún bung", "bún chả". Chả thơm lắm! ngửi thấy mùi là thèm. Người ta rỉ tai: có phết mỡ chó đấy. "Bún riêu cua" nhắc nhở cái vị nông thôn. Bánh đúc có đủ loại : "Bánh đúc gạo ", "bánh đúc ngô ", "bánh đúc sốt", chấm tơng Bần. Cũng ăn với "nộm" cua và vừng. "Bánh bèo ", "bánh xèo " , "bánh khoái". Cái thú "bánh nếp", "bánh tẻ", "bánh khoai" làm ở phường Huyền Thiên, sạch và thơm, ngon. "Bánh khúc", "bánh mảnh cộng" , "bánh su sê", "bánh cốm" .
    "C ốm" là thứ quà đặc biệt của dân ta . Thóc nếp, khi hạt vừa mới đông, là.đập và sao, giã ngay. Thơm, mùi lúa mới ăn không biết chán. Ngon nhất là "cốm Vòng" làng Mai Dịch. Làng Lủ làm "cốm Lủ", hạt to và già hơn, để gói bánh.
    Một món nhắm đặc biệt của Thủ Đô là "chả cá". Chỗ phố Hàng Cá bây giờ, ngày trước sông Tô qua đấy mà có một chợ cá. Người ta đem "cá chiên", "cá lăng", "cá anh vũ", nướng chả, chấm "mắm tôm" . Thơm mà không tanh. Ai cũng thích. Nhưng trước sau cũng chỉ có vài hàng thôi . Vì cái cớ khách "lưu linh" thường không có tiền.
    Một thứ đồ nhắm nữa, mà người ta đi ăn về hay giấu. Các ông gọi tên lóng là "mộc tồn" - "cây còn", nói lái là "con cầy", bí danh của thịt chó. Các ông thích ăn "chả chó", "rựa mận". . . nhưng vẫn thấy không được yên lòng, vì đã "nhẫn tâm" ăn thịt con vật quấn quýt nhất với con ngời.
    Buổi tối, làm việc khuya, có hàng "bánh ngỗng" cứ rao réo rầt.
    * *
    *
    Các thứ đồ ăn ngày thường, cũng "thanh cảnh" lắm. Người ta hay nấu canh bằng "trứng cáy", trứng con cáy mà dân miền bể đã đóng thành những bánh nhỏ. "Trứng cua" đùm trong cái lá khoai sọ. Vị ngon, rất tinh, không ngấy tí nào . "Hoa hiên" là hoa của cây "cỏ huyên" , tượng trưng cho người mẹ. Nhị hoa có chất ngọt ăn mát thân kinh, ngủ được. Những người bán hoa hiên phải đem lên các phố trung tâm, mới có nhiều người mua.
    Rau thanh nhất là "rau sắng" chùa Hương. Rau "ngót" vị ngọt. Thông dụng nhất là "rau muống". Người ta chọn "rau giải" là những mầm rau muống mọc dài ra, trên mặt ao. Ăn giòn. Sơn Tây và Hiên Vân ( Kinh Bắc) có "rau muống tiến" nõn nà. Rau muống là rau "đầu vị", ăn cả đời không chán.
    Một mục rất phong phú là các "rau gia vị". Có nhiều thứ lắm, làm cho các thức ăn tầm thường bỗng nhiên hóa "ngon", "hấp dẫn". Huyện Từ Liêm là nơi trồng nhiều rau. Nhất là làng Láng, có những rau gia vị nổi tiếng. Làng Láng có thứ "rau thơm" , thơm mà không hắc, thơm nhẹ nhàng. Chỉ có đất Láng, là có "thổ nghi" trồng rau thơm. Đem đi trồng ở nơi khác thì lạc giống. Mùi, tía tô cải cúc thìa là, xơng sông, lá lốt, răm, hành, tỏi, kiệu, ớt, hồ tiêu, húng, ngổ , mơ, me , cần, gừng. . .
    "Cà cuống" lấy ở nách con cà cuống đực, cho một mùi thơm đặc biệt.
    Các thứ rau cải: cải sen, cải bẹ, cải thìa, cải Lạng Sơn, cải làn. Rau mùng tơi. Rau khoai lang. Lá khoai sọ non, dọc sơn hà.
    Từ Ngọc Cục ( Nam Định) mang lên một thứ bắp cải tròn, dài, trồng bằng mầm , ăn mềm, nấu quá không nhũn. Không gieo như hạt bắp cải tây,
    Có tiếng là đậu phụ làng Hòa Mã, bún Đình Gạch.
    Làng Mơ nấu các thứ rượu. Các làng Ngâu, Tựu, gần Văn Điển nấu rượu sen, rượu cúc, rượu tăm. Từ sông Hát, từ làng Vân Bắc Ninh, cũng đem rượu đến. Lại có rượu nếp , nhẹ và thơm.
    Cá rô đầm Sét, cá chép Hồ Tây, chim sâm cầm Hồ Tây, cua, tôm, lươn, ốc, ếch, ba ba.
    Gạo Mễ Trì ngon có tiếng. Gạo tám thơm từ Bắc Ninh sang.
    * *
    *
    Nhà có việc vui mừng, đám cưới, lên lão ( mừng thọ), khao, thì "làm cỗ". Có nhà làm lấy, nhiều nhà phải thuê "thợ nấu". Làm cỗ có hai kiểu: kiểu cung đình và kiểu "sơn hào, hải vị" .
    Trong cung vua, ăn thật cầu kỳ. Nói chung thì cũng dùng đồ ăn thường thôi nhưng chế một cách kỹ lưỡng. Ví dụ món "cá", thì bóc lấy toàn bộ da ngoài, còn thịt thì rút thật hết xương, giã nhỏ, trộn với giò giã, gia vị, rồi nhồi cả vào trong bộ da cá, đem hấp. Thế là ăn cá không xương.
    Các nhà hàng phố dùng "sơn hào, hải vị", đồ ăn lấy từ núi và bể. Núi có thịt hươu, nai, lợn lòi. Bể có hải sâm, bào ngư (thạch quyết minh), vây cá, bóng cá, long tu. Bóng có hai thứ : bóng thủ, bóng da, lại có bóng giả làm bằng da lợn. Cua và tôm bể, tôm he, tôm hùm. Vị quý nhất là "yến sào" - tổ chim yến. Chim yến ( én), đến mùa lạnh thì về các đảo miền Nam. Nó lấy dãi trộn với lông, làm tổ ở những vách đá cheo leo . Người ta mạo hiểm trèo lên lấy một số thôi, còn để dành một số cho yến khỏi bỏ đi. Ngâm tổ yến vào nớc ấm, nhặt lông, đợc một thứ "thạch". Có khi có vết máu, vì chim đã cố khạc ra dãi, để xây tổ. Tổ có máu, gọi là "huyết sào " quý nhất hạng. Vì cho yến sào là quý nhất nên con cháu mua để cha mẹ già ăn, cho biết mùi. Nhưng thật ra yến không có vị gì, phải có nước ngọt và "chân tẩy" tốt mới ăn được. Nhà vua thết cơm các quan, cũng gọi là "ban yến".
    Mâm cỗ thường có 4, 6 hay 8 bát : bóng, vây ( cá Đờng), long tu (râu rồng, một thứ lấy ở cá gần như sụn), bào ngư, hải sâm, mực, măng, nấm hơng. . . Ngoài ra có các thứ phụ, có nước chấm và gia vị. Thế nào cũng có chả, mực nướng để nhắm rượu, đồ ăn mặn để ăn cơm.
    Thết bạn thân, thì không làm cỗ, mà nấu "giả cầy", tức là om lối thịt chó nhưng dùng thịt lợn; làm "gỏi", đồ ăn sống dùng với nhiều gia vị, các thứ "mắm", sò , hà. Có khi ăn gỏi "sinh cầm", bắt sống, ăn con cá con đang bơi trong chậu với gia vị và lá sung, lá lộc vừng.
    Họa hoằn có nhà bắt chước bọn khách trú, ăn những thứ "kì quái", ví dụ làm thịt rắn, thịt mèo , gọi là món "Long hổ hội". Có khi khách ngồi quanh cái bàn, trớc mỗi ngời, bàn có một lỗ. Mỗi lỗ kề đầu đã cạo trọc của một con khỉ sống. Trên bàn sẵn có búa dao, thìa . Khách tự tay khoét đầu khỉ, múc óc mà ăn sống, cho là bổ lắm? Những bứa ăn thế này cũng rất ít có. Nhưng người ta hay kể khi nhìn bụng bọn phú thương phềnh phềnh, bầy ra ở Hàng Buồm.
    * *
    *
    Sau mâm "cỗ", các nhà sang, lại có mâm "tráng miệng" đó là cả một mâm bánh. Giữa mâm là một đĩa đựng "tăm bông". Những cái tăm, nhỏ bằng nửa cái đũa, nhưng dài hơn cái đũa. Một đầu tăm đã đập nhỏ như bông và cuộn chỉ ngũ sắc cắm vào một mảnh giấy đỏ kết hình số 8. Xung quanh là bánh bao (nhân ngọt), bánh bẻ (nhân thịt và nấm), bánh mảnh cộng, bánh gấc, bánh củ cải bánh gừng, xấp (thịt giã nớng) . . .
    Mâm bánh này là công trình của các bà, các cô, ăn làm sao hết được. Thế là nhà chủ phải lấy giấy phong các thứ bánh vào, mỗi gói có chiếc tăm bông cài ngang. Mỗi ông bà khách mang một gói về gọi là "lấy phần" .
    Giò , chả, là một mục quan trọng, dân Ước Lễ ( Thanh Oai) làm. Có giò lụa, giò hoa (giò lụa trộn hạt mỡ), giò mỡ (thịt ba dọi), chả quế, nem. Không dùng giò chả trâu bò.
    Nói chung các thứ sơn hào hải vị, tự nó không ngon mấy. Phải có "chân tẩy" tốt và có bỏ thêm "thuốc nấ". Chân tẩy gồm thịt, tôm, măng, nấm, . .
    * *
    *
    Ngày thường đi đâu về, phải ăn ngay thì người ta hay gọi gánh "da Đình Gừng" vào, da lúc nào cũng chua, ngon. Lại ra Hàng Bạc, đầu ngõ Miếu, có hàng đậu rán giòn, một xu bốn miếng.
    * *
    *
    Có khá nhiều thứ quà. Vải "tiến" và nhãn ngon đem từ các làng Quang (Thanh Liệt), Bằng ra. Cam và bưởi của các làng Canh và Tiền Lệ, da làng Đăm (Tây Tựu), mơ M ỹ Đức, chuối Tế Tiêu. Khế ngọt Phủ Từ (Từ Sơn), mít xứ Đoài, na, ổi, chay, táo, hồ ngư hạc (Bạch Hạc ,Việt Trì) .
    Khoản chè là một khoản tốn nhiều công phu trong các nhà phường phố, các nhà văn học. Ở giữa phố Cầu Gỗ, có một phố nhỏ đi ra Bờ Hồ. Ít ai còn biết đấy là hàng chè. Đến bây giờ mỗi ngày còn thấy vài bà gánh lá "chè tươi" ra đấy bán.
    Những người cầu kỳ cứ phải lên "hiệ" mua chè. Các chú (trú khách) đem sang bán những hòm chè dán tranh đẹp núi Vũ Di, có con khỉ hái chè, các thạp xanh, các thạp to da lơn đựng những bao chè bằng thiếc, "chè tầu" nổi tiếng. Vài năm sau, những nhà buôn tinh khôn ấy, chỉ còn chở sang những bao bì thôi. Còn "nội dung" thì họ đã phát hiện ra chè Thái và chè Phú Thọ, có chất chè (théine) gấp hai chất chè của họ . Thế là họ bí mật mua về, đem "lấy hương", chế thành hai thứ chè: Thanh Tâm và Ô Long. Thanh Tâm cánh nhỏ, nước loãng; Ô Long cánh to nước đặc. Từ hôm mà hàng hiệu báo tin là chè "đầu xuân" đã sang, là các vị nghiện chè lũ lượt kéo đi mua hết hòm ấy đến hòm khác, bỏ vào chai, gắn xi lại để giử lấy hương đầu xuân. Mấy chục năm sau, nhà buôn ta mới thấy rõ cái mưu mô của họ. Nhà chè Đồng Lương của ta mở cửa, nhưng thật ra vẫn chưa bao giờ "lấy hương" được tốt. Nhưng mà thời thế đổi mới, số người nghiện chè bớt đi, người ta đã ít để lòng đến hương mà chú ý đến "chè đặc!' . Ngày xưa mà pha chè đặc thì người ta bảo là tục .
    Một thứ nữa là "chè Mạn", thứ tốt mua từ thượng lưu sông Hồng đem về. Thứ thường của rừng ngang là lá già giã rồi nhét vào ống tre, gác bếp .
    Quý hơn vàng là "chè sen". Dùng chè mạn lâu năm. Nhiều nhà mua hàng tạ chè mạn, cho vào chum, đậy kỹ, mươi năm mới đem ra dùng. Lúc ấy chè đã gần như hết chất chát. Mua hoa sen về, chuốc thứ sen bẩy mầu thơm nhất, vặt gạo sen mà ướp với chè ba hôm rồi sàng gạo đi, đem sấy, ướp ba lần mới tốt. Không dùng loại sen "quỳ", không có cánh hoa con ở trong.
    Một nước uống đặc biệt, là nước "lão mai". Trẩy hội Chùa Hơng, mua gỗ cây mai già, đổ. Nấu nước uống có vị thơm. Bữa cơm người ta hay uống nước lá vối, nụ vối lá đỏ ngọn, nhân trần, dễ tiêu cơm.
    Có một khoản, là "ăn trầu" , mà thực là không ăn, chỉ "nhai" thôi. Phần lớn các bà, một ít ông, có thú quen "ăn trầu". Lá trầu trồng nhiều ở Quốc Oai. Thứ ngon là "trầu quế". Cau tơi hay cau khô. Người "kỹ tính" chọn thứ "cau liên phòng" tức là cây cau có quả suốt năm, hạ buồng nọ có buồng kia tiếp. Người ta ngâm: "Cau có liên phòng, nhá mới ngon! ". Khi nhiều cau quá thì bổ và phơi khô để ăn dần. Tỉnh Phú Yên lắm cau. Hàng hiệu chở ra bán cho hàng cau ( Hàng Bè), coi như là cau nước ngoài. Nhai trầu, cau, phải thêm "rễ " vỏ đỏ. Nông thôn lại thích "vỏ quạch" da nâu. Thêm tý vôi, cho "mặn" miếng trầu. Người ta kể chuyện cảm động về trầu, cau. Dùng thì chặt răng và đỡ bệnh, nhưng đỏ răng và nước "quết trầu? nhổ ra, đỏ cả rãnh.
    * *
    *
    Các thầy đồ thích đi "đánh chén" ở các hàng bún chả cửa ô. Mấy người, mà chỉ 15 đồng tiền đen, là say "túy lúy". Các thầy đồ lên kinh kì nghe "bình văn", hay các thầy từ thành ra nghe giảng ở trường quan nghè Đông Tác và Thượng Đình, là thế nào, lúc về , cũng la cà vào hàng bún chả .
    Cơm ăn ít, rượu lại nhiều, nhiều thầy thành "ma men", cứ nhại cái chuyện nhà thơ Lí Bạch, mà lè nhè . Có những bọn kết bạn với nhau thành "bạn rượu", một cái cớ mà làm cho các thầy "trói gà không chặt! ". Một thầy say mềm rồi, nắm lấy bạn, bảo: "Mày bảo tao, tên mày là gì, để tao chửi. . . ." Bạn cũng là tay "nhất quỷ, nhì ma", say chưa đến nỗi nào, bảo : "Tên tao là Nguyễn Thị Mai !". Thế là ông bạn quý ra về vừa đi vừa chửi thằng Nguyễn Thị Mai. Thất thểu về đến nhà, bà vợ đón, hỏi: "Tôi làm gì mà ông chửi tôi ?". Ông gân cổ: "Tôi chửi bà đâu? Tôi chửi cái thằng Nguyễn T hị Mai đấy chứ ?". Thì ra ông trạng đã quên khuấy tên vợ rồi. Bà Mai vừa mếu vừa nói: "Ông ơi là ông, tôi lạy ông cả nón thôi ! Từ rầy uống rượu thì uống ở nhà, mời các ông bạn quý về nhà. Nguyễn Thị Mai là tôi đấy. " .
    - Thế à ? ... Câu chuyện này thành ra một "giai thoại" trong làng Văn, cũng giúp cho các thầy biết ngại "cái vật ở trong chén" ấy.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]

Chia sẻ trang này