1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Giới thiệu gì về Hà Nội cho du khách nước ngoài ?

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi CaChep, 12/04/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Thăng trầm Thăng Long
    Ngót nghìn năm đã qua, kể từ khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, đổi tên thành kinh đô Thăng Long (tức Hà Nội ngày nay). Bao thế hệ người xa đã đóng góp công sức dựng xây, tô điểm kinh đô xa, mà tại sao trên đất Hà Nội bây giờ còn lại quá ít ỏi di tích lịch sử, văn hóa của Thăng Long - Đông Đô?
    Sự tích Lý Công Uẩn dời đô năm 1010 thì mọi người đã biết. Nay nhờ sách, nhờ người am hiểu, cung cấp tài liệu lại được biết thêm: Thành Thăng Long đời Lý đã được xây dựng như một công trình kiến trúc hoành tráng nhất trong các triều đại.
    Đặc biệt, việc kiến trúc khu Hoàng thành đã được tiến hành theo một quy hoạch lớn, vừa đa dạng vừa tráng lệ chưa từng có, thể hiện phong cách riêng của triều đại này. Nơi đây được xây dựng hàng loạt cung điện lộng lẫy: chỗ vua Lý Thái Tổ làm việc thì có điện Kiều Nguyên, điện Tập Hiền, điện Giảng Vũ. Chỗ vua nghỉ ngơi thì có điện Long An, điện Long Thụy. Nơi phi tần ở thì có cung Thúy Hoa, cung Long Thụy... Trước chính điện có sân rồng rộng lớn, bốn bề sân rồng có hành lang, nhà giải vũ và nhiều lầu gác.
    Sang các đời vua sau đều có sửa chữa hoặc xây dựng lại cung điện và đặt tên mới. Đời Lý Thái Tông, ở cạnh sân rồng còn dựng lầu Chính Dương, trên để loại đồng hồ cổ, có người thường trực báo giờ giấc.
    Chẳng những độc đáo về tạo dáng mà các cung điện trong Hoàng thành thuở ấy còn độc đáo về vật liệu xây dựng: gạch, ngói thường chạm trổ các hình hoa văn, rồng phượng và khi xây chỉ việc lắp khít vào nhau không cần mạch vôi nữa. Đặc biệt hay dùng loại ngói ống bằng sứ men trắng, men xanh, men vàng, đầu ống bịt hình rồng, phượng, hoa sen, tạo thành đường diềm mái tuyệt đẹp. Những vật liệu đợc chế tác tinh xảo, mỹ lệ này đã góp phần làm lộng lẫy thêm những lầu son, gác tía của Hoàng thành.
    Trong sách Văn hiến thông khảo của Mã Đoan Luân, sử gia Trung Quốc cuối thế kỷ 12 có đoạn miêu tả cảnh Thăng Long thời Lý nói rằng: Vua Lý ở trong một tòa cung điện nguy nga cao bốn tầng, sơn mầu đỏ, các cột chạm vẽ rồng phượng thần tiên cực kỳ tráng lệ. Cuốn Việt sử lợc (đời Trần) cũng viết: "Các cung điện thời Lý nói chung đều được xây cất đẹp đẽ, chạm trổ trang sức khéo léo. Ngoài các cung điện, khu Hoàng thành còn xây dựng nhiều lầu các, đài tạ vàng son lộng lẫy. Đài Chúng Tiên dựng năm 1161 tầng trên lợp ngói bằng vàng, tầng dới lợp ngói bằng bạc. Hồ ao, vờn ngự cũng đợc đào đắp khá nhiều: hồ Kim Minh, Vạn Tuế (năm 1049) có đắp núi đá cao ba ngọn trên mặt hồ và có cầu Vũ Phượng từ bờ đi vào. Hồ ứng Minh, hồ Thụy Thanh (năm 1051), hồ Phượng Liên (năm 1098)... đều là những hồ đẹp, trên bờ có dựng nhiều lầu các, đình tạ. Trong Hoàng thành còn lập nhiều ngự uyển trồng các loại hoa thơm cỏ lạ và nuôi các thứ muông thú quý hiếm, như vườn Quỳnh Lâm, vườn Thắng Cảnh, vườn Xuân Quang (năm 1048), vườn Thợng Lâm (năm 1085). Đặc biệt, vào giữa thế kỷ 14 có lập một vườn ngự uyển lớn, trong vườn đào một hồ rộng lớn gọi là hồ Lạc Thanh. Trong hồ chất đá làm núi, trên bờ hồ trồng thông, trúc và các thứ cây khác, thêm vào đấy nào cỏ lạ, nào hoa thơm, nào muông kỳ, nào chim quý, bốn mặt lại khơi ngòi cho nước sông thông vào..." (Việt sử thông giám cương mục). Hoàng thành còn được kiến tạo nhiều núi đất, trong đó có những ngọn đã trở thành danh thắng như núi Nùng, núi Tam Sơn, núi Ngũ Nhạc... Núi Nùng là nơi trên đó xây dựng điện Kính Thiên, cũng là quả núi đã trở thành biểu tượng cho non nước kinh thành (Núi Nùng, sông Nhĩ chốn này làm ghi - Chính khí ca).
    Nhà Lý là một triều đại sùng Phật, xây dựng khá nhiều chùa, tháp, đền, miếu ở Thăng Long. Ngay năm đầu định đô, Lý Thái Tổ đã cho dựng các chùa lớn như Hưng Thiên, Vạn Tuế. Năm 1114 xây chùa Thiên Phật rộng lớn đủ bày 1.000 pho tượng (khánh thành năm 1118). Trong số đền chùa nổi tiếng có: đền Quán Thánh, chùa Chân Giáo...
    Ngoài Hoàng thành có một bức tường gạch bao quanh, có bốn cửa thông ra ngoài khu kinh thành: bắc là cửa Diệu Đức, nam là cửa Đại Hưng, đông là cửa Tường Phù, tây là cửa Quảng Phúc.
    Ra khỏi Hoàng thành là khu vực kinh thành có quy mô khá rộng. Bên ngoài đắp một dải tường thành bằng đất bao bọc chung quanh, gọi là Đại La Thành hoặc La Thành. Ở mé đông tường thành cũng đồng thời là đê sông Hồng.
    Nay có thể lần theo dấu vết La Thành: phía bắc là đê sông Hồng từ quanh Hồ Tây đến Kẻ Bởi. Phía đông vẫn là đê này từ Yên Phụ xuống tận Đồng Nhân. Phía nam, đường thành chạy tiếp từ Đồng Nhân qua Thịnh Hào, Yên Lãng, Thủ Lệ song song với sông Tô Lịch. Phía tây, đường thành nối tiếp từ vùng Bưởi về Cầu Giấy... cũng có thể đã mở rộng tới gần sông Nhuệ bao gồm cả vùng Mai Dịch, Cổ Nhuế hiện nay.
    Kinh thành Thăng Long thuở ấy có bao nhiêu cửa thông ra ngoài hiện cha biết đích xác, chỉ biết trong số đó có cửa Tây Dương (sau này là ô Cầu Giấy), cửa Triều Đông mé trên dốc Hòe Nhai, cửa Yên Hoa (ô Yên Phụ), cửa Vạn Xuân (sau này là ô Ông Mạc (Đống Mác), cửa Chợ Dừa sau này là ô Chợ Dừa...
    Khu kinh thành rộng lớn hơn Hoàng thành gấp bội. Các ly cung của nhà vua cùng các phủ đệ, cung viện, dinh thự của các ông hoàng bà chúa, các đại thần được xây dựng nhiều và vô cùng lộng lẫy nhưng đáng tiếc là không được sử sách ghi chép đầy đủ.
    Trong vô số cung, điện, đền, miếu, chùa, tháp... thời Lý phải kể đến tháp Báo Thiên nổi tiếng được xây dựng năm 1057 bên bờ hồ Lục Thủy (Hồ Gươm ngày nay). Tháp cao vài chục trượng gồm 12 tầng, xây bằng đá và gạch, mấy tầng trên cùng đúc bằng đồng. Trong tháp trang trí nhiều tượng người và vật bằng đá rất kỳ xảo. Tháp cao lại xây trên gò đất cao nên thuyền từ xứ Nam lên kinh đô tới bến Yên Duyên (của đất huyện Thanh Trì ngày nay, cách trung tâm Hà Nội hơn 10 km) đã nhìn thấy đỉnh tháp cao vút mây trời.
    Còn có thể chép ra đây nhiều trang về các công trình xây dựng và công phu tô điểm kinh đô Thăng Long dưới vương triều Lý xứng đáng là một đô thành mở nền của kỷ nguyên văn hiến Đại Việt.
    Nhưng đến thời tàn nhà Lý trong khoảng vài thập niên đầu của thế kỷ 13, nội chiến xảy ra liên miên giữa các tập đoàn phong kiến rồi xung đột nổ ra ngay tại đế đô làm cho các cung điện trong khu Hoàng thành bị thiêu hủy gần hết.
    Sử cũ còn chép: Năm 1214, cung thất nhiều nơi bị đốt, vua và hoàng hậu phải trú ở nhà tranh gần cầu Thái Hòa. Tới năm 1216, "thảo điện" (tức cung điện bằng tranh tre nứa lá) phải dựng ở vùng tây Phù Liệt (tức làng Sét, Thanh Trì).
    Từ đầu năm 1225, nhà Trần lên ngôi vua, bắt tay sửa sang và xây dựng mới khu vực Hoàng thành. Năm 1230 xây dựng nơi thiết triều gồm một số cung điện, lầu, gác. Còn khu kinh thành đời Trần thì không có gì khác so với kinh thành thời Lý.
    Thăng Long cuối thời Trần cha xây dựng đợc bao nhiêu thì lại tiếp tục bị giặc giã cớp phá, thiêu đốt, kinh thành đổ nát tan hoang.
    Hồ Quý Ly lên nắm chính quyền không những không sửa chữa kinh thành mà lại còn phá nốt những cung điện còn sót lại ở Thăng Long để lấy nguyên vật liệu đem vào Thanh Hóa xây dựng kinh đô mới.
    Sau đó 10 năm, giặc Minh xâm lợc nớc ta, Thăng Long bị chúng chiếm đóng trong hai mươi năm liền. Chúng bòn rút nốt những gì còn lại trong Hoàng thành, rồi phá phách tới những công trình xây dựng bên ngoài Hoàng thành. Chúng hủy hoại nhiều chùa, tháp, đền, miếu; lấy nhiều cổ vật bằng đồng quý như đỉnh tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền... đem đúc vũ khí.
    Tới đây, hầu hết những công trình kiến trúc ở Thăng Long từ thế kỷ 11, 12 đều bị phá trơ trụi.
    Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đổi tên Thăng Long thành Đông Đô, cuối năm 1430 lại gọi là Đông Kinh.
    Sau đó, Thăng Long là đất đế đô của các triều vua kế tiếp trong suốt 400 năm thời Lê đợc xây dựng lại ngày càng rộng lớn, đẹp đẽ và sầm uất với hàng trăm cung điện.
    Năm 1512, vua Lê Tương Dực sai Vũ Như Tô, một nghệ nhân xây dựng nổi tiếng, đứng ra chỉ đạo xây dựng các cung điện và Cửu Trùng đài cực kỳ nguy nga tráng lệ.
    Nhưng đang xây nửa chừng thì các công trình này phải dỡ bỏ vì nổi loạn.
    Nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê. Sau mấy chục năm đến đời Mạc Mậu Hợp mới có cuộc xây dựng lại các cung điện kéo dài trong một năm. Cả hai lớp thành trong và ngoài đều được sửa lại, ấn định vị trí và diện mạo của Hoàng thành Thăng Long từ cuối thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 17.
    So với Hoàng thành của nhà Lê đầu thế kỷ 15, Hoàng thành do Mạc Mậu Hợp tu sửa có bị thu hẹp chút ít ở hai phía Đông và phía Tây nên một số cung điện bị bỏ ra ngoài khu vực Hoàng thành, lâu dần trở nên hoang phế. Tuy vậy, Hoàng thành thời Lê - Mạc vẫn rộng hơn Hoàng thành thời Lý - Trần rất nhiều, vẫn còn giữ được vẻ nguy nga tráng lệ đến vài thế kỷ sau.
    Cuối thế kỷ 17, Xa-mu-en Ba-rôn, một nhà buôn ngời Anh mẹ Việt, miêu tả Hoàng thành thời Lê - Mạc: "Khi đứng trớc ba lớp thành và cung điện cổ, người ta lấy làm ngạc nhiên. Những di tích còn lại tỏ ra rằng thành ấy xây vững chắc. Cung điện có những cửa lớn và đẹp lát bằng cẩm thạch. Cung điện cổ đó chu vi độ 6 hoặc 7 dặm, cứ xem các cửa ngõ, sân và các gian nhà còn lại, cũng đã biết lâu đài đó trớc kia rất đẹp đẽ, huy hoàng".
    Giáo sĩ người Italy là Ma-ri-ni miêu tả: "Tuy cung vua chỉ xây dựng bằng gỗ nhưng ở đây có rất nhiều đồ vàng, đồ thêu, chiếu thảm rất tốt và đủ các mầu sắc để tô điểm, thật không đâu sánh kịp. Cung điện, nơi vua ở là một lâu đài xây dựng trên một rừng cột rất chắc chắn. Kèo cột trong cung điện làm rất kỹ và rất đẹp, không nhà nào bằng".
    Khoảng từ năm 1527 đến 1597, Mạc Mậu Hợp huy động quân dân bốn trấn (Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dơng) mỗi ngày mấy vạn người đắp thêm ba lần lũy đất ở ngoài thành Đại La, cao và rộng hơn thành cũ rất nhiều.
    Năm 1749 thời Lê - Trịnh lại có cuộc sửa đắp lớn thành Đại La (lúc này còn được gọi là Đại Độ) có tám cửa thông ra ngoài, mỗi cửa đặt hai ô tả và hữu, có người canh gác. Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, các vua Lê chúa Trịnh đã xây dựng nhiều đền chùa và hành cung trong đó có đền Ngọc Sơn, lều Ngũ Long bên hồ Hoàn Kiếm, đền Trấn Vũ, chùa Kim Liên, chùa Trấn Quốc ở khu vực hồ Tây, viện Nghinh Xuân và Trường Thi ở Quảng Bá...
    Nhiều người phơng Tây từng ca ngợi Thăng Long trước thế kỷ 19 là một trong những công trình đô thị được xây dựng đẹp nhất châu á như ông J.B. Se-nhô.
    Cuối thế kỷ 18, cuộc tranh chấp quyền hành giữa vua Lê và chúa Trịnh đã dẫn tới cuộc tương tàn dữ dội trên đất Thăng Long. Ngày mồng 8 tháng chạp năm Bính Ngọ (đầu năm 1787), Lê Chiêu Thống sai người phóng hỏa đốt hết phủ chúa, cháy hơn 10 ngày chưa tắt!
    Thế là lâu đài cung điện xây dựng trong 200 năm bỗng chốc thành bãi đất cháy đen (Hoàng Lê nhất thống chí).
    Dưới chính quyền Tây Sơn (1788 - 1802), Thăng Long có được sửa sang ít nhiều, song về căn bản, kinh thành vẫn không có gì khác trước.
    Năm 1802, triều đại Tây Sơn bị tiêu vong, cả nước thuộc quyền thống trị của triều Nguyễn dời vào đóng đô ở Phú Xuân (Huế). Từ đây, kinh thành Thăng Long chỉ còn là trấn thành và sau đó là tỉnh thành.
    Năm 1803, Gia Long cho triệt phá Hoàng thành cũ. Trên nền đất ấy, xây một thành mới theo kiểu Vô-băng (Vauban), một kiểu thành của Pháp thế kỷ 17, thu hẹp rất nhiều so với Hoàng thành thời trước, mỗi bề chỉ khoảng 1 km. Chân thành bằng đá xanh và đá ong, tường xây bằng gạch hộp, cao hơn 10 trợng, dày 4 trợng. Thành có năm cửa, đông, tây, nam, bắc và đông nam, trên mỗi cửa đều cho xây lầu canh gọi là "thú lâu". Ngoài thành có đào hào, trước bờ hào ở ngoài cửa thành lại dựng một bức tường chắn gọi là "dương mã thành". Trong thành, ở chính giữa vẫn là điện Kính Thiên dựng trên núi Nùng, cột to bằng người ôm không xuể, thềm điện có chính bậc, ở hai bên đặt hai con rồng đá. Gần điện xây hành cung để mỗi khi vua nhà Nguyễn từ Phú Xuân (Huế) ra Thăng Long thì tới ở tại đấy.
    Khu phía đông là dinh thự các quan lại. Khu phía tây là các kho thóc, kho tiền. Phía bắc là Tĩnh Bắc lâu, vừa là cơ quan đặc biệt chuyên theo dõi tình hình Bắc Hà, vừa là một nhà ngục khét tiếng tàn độc.
    Năm 1812 dựng cột cờ hình sáu cạnh cao 60 mét xây bằng gạch gốm ở phía nam thành.
    Năm 1831, vua Minh Mệnh sáp nhập huyện Từ Liêm, phủ ứng Hòa, phủ Lý Nhân, phủ Thường Tín vào Thăng Long và lập ra tỉnh Hà Nội.
    Năm 1848, vua Tự Đức sai phá dỡ cung điện trong thành, lấy các đồ chạm trổ mỹ thuật bằng gỗ, đá, đem về Huế làm cho nhân dân ở dọc đường phải phục dịch vô cùng khốn khổ.
    Thế là một số công trình ít ỏi, mới xây dựng từ đời Gia Long đến đây đã lại bị phá hết. Thực dân Pháp nổ súng đánh thành Hà Nội lần thứ nhất (1873) gặp sự chống trả của khâm sai Nguyễn Tri Phương và các dũng sĩ tại cửa ô Đông Hà (ô Quan Chưởng). Chúng nổ súng đánh thành Hà Nội lần thứ hai (1882) thì tổng đốc Hoàng Diệu cùng quân sĩ bắn trả quyết liệt và nhân dân đốt từng dãy phố, cầm vũ khí thô sơ và khua chiêng gõ trống ầm ầm tạo thành thế trận rộng lớn sẵn sàng diệt giặc.
    Nhng do triều đình nhà Nguyễn mang nặng tư tởng đầu hàng, đã bán rẻ mảnh đất thiêng liêng này cho giặc nên Hà Thành đã thất thủ.
    Từ tháng 10-1888, Hà Nội chính thức trở thành một thành phố thuộc địa của đế quốc Pháp do triều đình Huế ký hiệp ước hiến dâng. Từ đó, cố đô Thăng Long được xây dựng từ thời Lý (thế kỷ 11) bị thực dân Pháp thẳng tay tàn phá. Ngay cái thành mà nhà Nguyễn làm theo kiểu Vô-băng của Pháp cũng bị phá trụi, chỉ còn để lại một cổng thành Cửa Bắc in hằn vết đại bác của chúng. Các cung điện dinh thự trong thành đều bị chúng phá hết, chỉ còn một tháp cột cờ. Trong vài thập niên đầu của thế kỷ 20, thực dân Pháp xây dựng thành phố Hà Nội, biến nơi đây thành một trung tâm cai trị của chúng ở Bắc Kỳ.
    Nhiều làng xóm như: Giáo Phờng, Đức Viên, Đồng Nhân, Vân Hồ đã bị chúng triệt phá để xây dựng các đường phố. Đoạn sông Tô Lịch chảy qua nội thành cùng với nhiều hồ ao đã bị lấp đi để xây nhà, mở đường, chủ yếu là cho các "khu phố Tây".
    Trong quá trình xây dựng, thực dân Pháp phá hoại không thương tiếc nhiều di tích lịch sử, văn hóa của Hà Nội. Khi xây dựng Nhà thờ lớn, chúng đã phá bỏ tháp Báo Thiên nổi tiếng vốn có từ thời Lý. Khi xây dựng nhà Bưu điện, phủ Thống sứ, chúng đã phá bỏ chùa Báo Ân là một công trình kiến trúc rất công phu.
    Ngót nghìn năm qua từ triều Lý Thái Tổ đến trớc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội đã trải bao cuộc thăng trầm, bao lần xây, phá. Nghĩ càng tiếc cho công lao xây dựng của các thế hệ xa, càng yêu quý trân trọng những di tích lịch sử, văn hóa còn lại hiếm hoi đến bây giờ trên mảnh đất thủ đô nghìn năm văn hiến.
    Trường Giang (Báo Nhân dân)

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  2. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Hà Nội đã có bao nhiêu tên gọi
    Thăng Long - Hà Nội là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Mảnh đất địa linh nhân kiệt này từ trước khi trở thành kinh đô của nớc Đại Việt dưới triều Lý (1010) đã là đất đặt cơ sở trấn trị của quan lại thời kỳ nhà Tùy (581-618), Đường (618-907) của phong kiến phương Bắc. Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long - Hà Nội có nhiều tên gọi. Chúng tôi xin chia các tên gọi ấy thành hai loại: Chính quy và không chính quy theo thứ tự thời gian như sau:
    I. Tên chính quy:
    Là những tên được chép trong sử sách do các triều đại phong kiến, Nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra:
    1. Long Đỗ: Truyền thuyết kể rằng lúc Cao Biền nhà Đường, vào năm 866 mới đắp thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ. Thí dụ vào năm Quang Thái thứ 10 (1397) đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có ý định cướp ngôi nhà Trần nên muốn dời kinh đô về đất An Tôn, phủ Thanh Hóa. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: "Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời Kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị (tức sông Hồng ngày nay), núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi". Điều đó cho thấy Long Đỗ đã từng là tên gọi đất Hà Nội thời cổ.
    2. Tống Bình: Tống Bình là tên trị sở của bọn đô hộ phương Bắc thời Tùy (581-618), Đường (618-907). Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay). Tới đời Tùy, chúng mới chuyển đến Tống Bình.
    3. Đại La: Đại La hay Đại La thành nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy kinh đô. Theo kiến trúc xa, kinh đô thờng có "Tam trùng thành quách": Trong cùng là Tử cấm thành (tức bức thành mầu đỏ tía) nơi vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La thành. Năm 866, Cao Biền bồi đắp thêm Đại La thành rộng hơn và vững chãi hơn trớc. Từ đó, thành này đợc gọi là thành Đại La. Thí dụ trong Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ viết năm 1010 có viết: "... Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Biền) ở giữa khu vực trời đất..." (Toàn thư, Tập I. H.1993, tr.241).
    4. Thăng Long: (Rồng bay lên). Đây là cái tên có tính văn chương nhất, gợi cảm nhất trong số các tên của Hà Nội. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết lý do hình thành tên gọi này như sau: "Mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010) vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra Kinh phủ thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long" (Toàn th, Tập I, H.1993, tr.241).
    5. Đông Đô: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: "Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thơng) coi phủ đô hộ là Đông Đô" (Toàn thư Sđd - tr.192). Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sử thần nhà Nguyễn chú thích: "Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô" (Cương mục - Tập 2, H.1998, tr.700).
    6. Đông Quan: Đây là tên gọi Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị kinh đô của nớc ta, chỉ được ví là "cửa quan phía đông" của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết, năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan. Sách Đại Việt sử ký toàn thưchép: "Tháng 12 năm Mậu Tý (1408) Giản Định đế bảo các quân "Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bng tai, tiến đánh thành Đông Quan thì chắc phá được chúng" (Toàn thư Sđd - Tập 2, tr.224).
    7. Đông Kinh: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau: "Mùa hạ, tháng 4 năm Đinh Mùi (1427) Vua (tức Lê Lợi) từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15 vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là thành Thăng Long. Vì Thanh Hóa có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh" (Toàn thư - Sđd. Tập 2, tr.293).
    8. Bắc Thành: Đời Tây Sơn (Nguyễn Huệ - Quang Trung 1787-1802). Vì Kinh đô đóng ở Phú Xuân (tức Huế) nên gọi Thăng Long là Bắc thành" (Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá - Đường phố Hà Nội - H.1979, tr.12).
    9. Thăng Long: (Thịnh vượng lên). Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân (tức Huế), không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn miền bắc và đổi kinh thành Thăng Long làm trấn thành miền bắc. Kinh thành đã chuyển làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời quen dùng trong nhân dân toàn quốc, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ "Long" là "Rồng" thành chữ "Long" là "thịnh vượng", lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ "Long" là "Rồng" (Trần Huy Liệu (chủ biên) - Lịch sử thủ đô Hà Nội, H.1960, tr.81).
    Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805, sau đó vua Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ hoàng thành cũ, vì vua không đóng đô ở Thăng Long, mà hoàng thành Thăng Long lại lớn rộng quá.
    10. Hà Nội: Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện chung quanh như huyện Từ Liêm, phủ ứng Hòa, phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội". (Trần Huy Liệu chủ biên - Lịch sử thủ đô Hà Nội. H.1960, tr.82).
    II. Tên không chính quy:
    Là những tên trong văn thơ, ca dao, khẩu ngữ... dùng để chỉ thành Thăng Long - Hà Nội:
    1. Trờng An (Tràng An): Vốn là tên kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất của nớc Trung Quốc: Tiền Hán (206 tr CN - 8 sau CN) và Đường (618 - 907). Do đó, được các nhà nho Việt Nam xa sử dụng như một danh từ chung chỉ kinh đô. Từ đó cũng được người bình dân sử dụng nhiều trong ca dao, tục ngữ chỉ kinh đô Thăng Long.
    Thí dụ:
    Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
    Dẫu không thanh lịch cũng ngời Tràng An.
    Rõ ràng chữ Tràng An ở đây là để chỉ kinh đô Thăng Long.
    2. Phượng Thành (Phụng Thành): Vào đầu thế kỷ 16, ông Trạng Nguyễn Giản Thanh người Bắc Ninh có bài phú Nôm rất nổi tiếng.
    Phượng Thành xuân sắc phú
    (Tả cảnh sắc mùa xuân ở thành Phượng).
    Nội dung của bài phú trên là tả cảnh mùa xuân của Thăng Long đời Lê. Phụng thành hay Phượng thành được dùng trong văn học Việt Nam để chỉ thành Thăng Long
    3. Long Biên: Vốn là nơi quan lại nhà Hán, Ngụy Tấn, Nam Bắc triều (thế kỷ 3, 4, 5 và 6) đóng trị sở của Giao Châu (tên nớc ta thời đó). Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ văn để chỉ Thăng Long - Hà Nội. Sách Quốc triều đăng khoa lục có đoạn chép về tiểu sử Tam nguyên Trần Bích San (1838 -1877), ghi lại bài thơ của vua Tự Đức viếng ông, có hai câu đầu nh sau:
    Long Biên tài hướng
    Phượng thành hồi
    Triệu đối do hy, vĩnh biệt thôi!
    Dịch nghĩa:
    Nhớ ngươi vừa tự thành
    Long Biên về tới Phợng Thành
    Trẫm còn đang hy vọng
    triệu ngươi vào triều bàn đối, bỗng vĩnh biệt ngay.
    Thành Long Biên ở đây, vua Tự Đức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giờ Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Năm 1877 vua Tự Đức triệu ông về Kinh đô Huế để sung chức sứ thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì mất.
    4. Long Thành: Là tên viết tắt của kinh thành Thăng Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du, quê ở Hải Dơng, từ nhỏ theo ông nội lên Thăng Long mở trường dạy học và làm thuốc. Ngô Ngọc Du là người đợc chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Đống Đa - Ngọc Hồi của vua Quang Trung. Sau chiến thắng xuân Kỷ Dậu (1789), Ngô Ngọc Du có viết bài Long thành quang phục kỷ thực (Ghi chép việc khôi phục Long thành).
    5. Hà Thành: Là tên viết tắt của thành phố Hà Nội được dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bài Hà Thành chính khí ca của Nguyễn Văn Giai, bài Hà Thành thất thủ, tổng vịnh (khuyết danh), Hà Thành hiểu vọng của Ba Giai?...
    6. Hoàng Diệu: Ngay sau Cách mạng Tháng Tám - 1945, đôi khi trong các báo của ta, chúng ta sử dụng tên này để chỉ Hà Nội.
    Ngoài ra, trong cách nói dân gian, còn nhiều từ được dùng để chỉ Thăng Long - Hà Nội như: Kẻ Chợ (Khéo tay hay nghề đất lề Kẻ Chợ - Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ); Thượng Kinh, tên này để nói đất Kinh đô ở trên mọi nơi khác trong nước, dùng để chỉ kinh đô Thăng Long (Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, Chẳng lịch cũng thể con người Thợng Kinh); Kinh Kỳ, tên này nói đất có Kinh đô đóng (Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì phố Hiến). Và đôi khi chỉ dùng một từ kinh như "Ăn Bắc, mặc Kinh". Bắc đây chỉ vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh), Kinh chỉ Kinh đô Thăng Long.
    Loại tên "không chính quy" của Thăng Long - Hà Nội còn nhiều được sử dụng khá linh hoạt trong văn học, ca dao... khó kể hết được.
    Tạp chí Xưa và nay

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  3. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Chiếu dời đô
    Năm 1010, Vua Lý Thái Tổ(1) - người sáng lập ra nhà Lý(1010-1225) nhận thấy Hoa Lư(2), ở vùng rừng núi Ninh Bình đi lại rất khó khăn nên quyết định dời đô ra Đại La (Hà Nội bây giờ). Đại La được đổi tên là Thăng Long (Rồng bay lên) bởi khi tới đất này nhà vua trông thấy một áng mây vàng hình rồng bay lên. Dưới đây là toàn văn Chiếu dời đô (hay Thiên đô chiếu) do nhà vua soạn thảo sau khi đã lấy ý kiến của quần thần:
    "Xa nhà Thương đến Vua Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến Thành Vương ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam Đại(3) theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan việc lớn, tính kế muôn đời cho con cháu, trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Thế mà hai đời Đinh(4), Lê(5) lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi.
    Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương(6) ở vào nơi trung tâm của trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây, lại tiện đường nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chiụ cảnh thống khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tơi. Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi đây là thắng địa. Thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời. Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?"
    Chú thích:
    (1). Lý Thái Tổ tên thật là Lý Công Uẩn (974-1028).
    (2). Hoa Lư : Nay là huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
    (3). "Thời Tam Đại" của Trung Quốc bao gồm:
    · Nhà Hạ (từ thế kỷ XXI đến thế kỷ XVI trước công nguyên).
    · Nhà Thương (từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XI trước công nguyên).
    · Nhà Chu (từ thế kỷ XI đến thế kỷ thứ III trước công nguyên)
    (4). Nhà Đinh (968-980).
    (5). Nhà Tiền Lê (980-1009).
    (6). Cao Biền: là quan đời Đường, xây thành Đại La khoảng năm 866.

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  4. CaChep

    CaChep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/02/2002
    Bài viết:
    1.010
    Đã được thích:
    0
    Đa tạ Ghost2k1 . Chọn chỗ nào đi đánh chén đi Ghost2k1 ơi!
    Phone cho mình nhé: 0903.205.306!
    [​IMG]
    Cùng nhau vươn lên trong Buồn đau và Hạnh phúc
  5. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Cảm ơn về hảo ý của bác CaChep. Hiện nay em rất bận không có thời gian rảnh nên đành phụ ý tốt của bác vậy. Rất mong là có dịp khác sẽ được gặp bác

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  6. Natra

    Natra Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/05/2002
    Bài viết:
    264
    Đã được thích:
    0
    troi oi met qua nhung ma hay.
    Doc bai cua bac ghost2k1 ma em thay chong het ca mat,bac lam em bi say roi day nay.Nhung tu lieu nay bac download o vntourism ha.Em thiet nghi lam nhu the rat la mat cong va mat suc cua bac.Vay tai sao bac khong gioi thieu dia chi web site do cho nhung nguoi can biet.
    That su khi doc topic nay em cung co suy nghi rat nhieu:gioi thieu nhung gi voi du khach nuoc ngoai?????
    Mot nguoi nuoc ngoai khi noi chuyen voi me ho da noi rang khi den viet nam nhat la o Ha Noi cai ma ho muon tim hieu do chinh la lich su,van hoa va phong tuc cua nguoi Viet nam.Khi noi den phong canh cua viet nam ho da bao rang that ra so voi nuoc ho hoac mot so nuoc khac thi phong canh viet nam chua du suc hap dan.
    Nguoi nuoc ngoai biet den viet nam boi chien thang de quoc my va thuc dan phap rat hao hung.do cung la dieu thoi thuc ho den voi Viet nam de nhn ngam tan mat con nguoi viet nam va dat nuoc viet nam.
    Theo kinh nghiem di tour cua em thi em thay khach nuoc ngoai dac biet thich den tham van mieu,den ngoc son.Ho rat thich thu ve nhung truyen thuyet o day.
    Tom lai ,theo em nghi la cai dau tien va cung la cai quan trong nhat la gioi thieu ve lich su cua dat thang lOng kinh ky.
    Em co rat nhieu tai lieu co the tham khao duco nhung khong biet post bai len nhu the nao,cac bac giup em voi.
    bac ca chep oi neu bacc ghost2k1 khong di thi bac cho em di an ke voi.Em khong biet uong ruou dau(nhung chi biet uong moi rod wine thoi)
    red]trang
  7. ghost2k1

    ghost2k1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    2.919
    Đã được thích:
    0
    Chào bạn Natra!
    Những tư liệu này mình lấy từ nhiều nguồn, trong đó có cả vntourism.
    Mình rất mong là bạn sẽ tiếp tục đóng góp những tư liệu về Hà Nội của bạn ở đây.
    Thân ái!

    To be or not to be. That 's a question!

    [​IMG]
  8. CaChep

    CaChep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/02/2002
    Bài viết:
    1.010
    Đã được thích:
    0

    Bạn Natra, CaChep chắc chắn sẽ hẹn bạn đi uống nhé. Lên lịch đi mình tiếp !
    [​IMG]
    Cùng nhau vươn lên trong Buồn đau và Hạnh phúc
  9. gungcayvn

    gungcayvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/02/2002
    Bài viết:
    3.222
    Đã được thích:
    1
    chao tat ca moi nguoi,thoi gían qua tui ban qua nen ko online duoc,hom nay vao thay moi nguoi viet hay qua conhunug ma tiec la tui ko du thoi gian de doc het,ma nhung dieu do neu huc su cac ban quan tam thi co the tim dôcmt so cuon sach rat viet ve hanoi nhu "Thang long Ha Noi","hoi dap 1000nam Thang Long" nhung luu y la cuon sach thu 2 m toi noi thi chat luong ko dam bao lam,no duoc ghi la chu bien boi nha vna To Hoai nhunug thuc su nguoi ta chi muôn ten cua ong thoi,con tac gia thi khac(dieu nay da duoc chung minh boi mot giao su noi tieng),ngoai ra thi con co rat nhiue sach khac nua
    ma tui co mot thong tin dam bao la lam bong moi bat cu mot ai doc no.........................nam sau trong thoi gian dien ra seagame 2003,tai HANOI cung se co Festival du lich han oi luon do,du kiem lam to hon o Hue vi tranh thu luon luông khach toi thma du Seagame luon ma,Hien nay kich ban cho Festival du lich dang ten ban viet cua cac nha to chuc,to xin dam bao thong tin nay xin 100%,ai ko tin thi co the hoi lai,hop thu cua to la gungcayvn@yahoo.com.to se giai thich cho
    thong tin do co nghia la neu ban muon tham du Festival hanoi 2003 thi hay chuan bi money ngay tu bi gio nhe,to cung se xin tinh nguyen la mot huong dna vien cho moi nguoi ,vi hien nay to dang la sv khoa su truong DHQG hanoi
  10. manly_man

    manly_man Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/01/2002
    Bài viết:
    39
    Đã được thích:
    0
    Rất nhiều điều để thăm Hanoi trên sách vở. Nhưng thăm hanoi trên những nẻo đường mấy ai ko khỏi ngỡ ngàng với những gì hằn lên các di tích với đấu tay của con người! Khi thăm hanoi ko mấy ai chẳng tiếc nuối, hoài cảm về một mảnh đất thần kinh.
    Đơn cử một địa danh mà có mấy ai lại ko biết nếu đã ở Hanoi chứ chưa nói đén người hanoi. Ngôi chùa nào nằm trên phố Hàng Lược? Có mấy ai biết?Chắc ít lắm! Hàng thịt chó nào nổi tiếng ở hanoi? Câu hỏi này sẽ dễ có lời giải. Nó nằm ngay bên cổng chùa mà tôi vừa hỏi đó! Một di tích tôn giáo ngày đem được bao trùm với khói, với hương của mùi thịt chó. Hai điều này tiêu biểu cho 2 khía cạnh của nền van hoá: văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể!? Vậy có nên giới thiệu điểm di tịch và dịa chỉ ẩm thực này cho du khách không?
    MMTT

Chia sẻ trang này