1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Giới thiệu sách mới "Để Tiếng Việt ngày càng trong sáng"

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi Giao_Hoang, 01/10/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Giao_Hoang

    Giao_Hoang Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/07/2002
    Bài viết:
    3.697
    Đã được thích:
    0
    Giới thiệu sách mới "Để Tiếng Việt ngày càng trong sáng"

    Để TV ngày càng trong sáng của tác giả Phan Hồng Liên là tập sách tập hợp 24 bài nghiên cứu đề cập đến vấn đề về "giữ gìn sự trong sáng của TV", về giáo dục văn hoá ngôn từ, về thiên chức của nhà giáo. Đó là những vấn đề cập nhật trong giao tiếp cộng đồng mà tác giả từng trăn trở, cũng là vấn đề được mọi người hết sức quan tâm. Tập sách xây dựng theo một nhận thức có tính nguyên tắc như tác giả viết: "Khái niệm sự trong sáng gắn liền với khái niệm ngôn ngữ văn hoá". Việc giữ gìn sự trong sáng của TV gắn liền với việc xây dựng và phát triển TV văn hoá." Sách do NXB Văn học phát hành, 162 trang, giá 16.000đ.
    (trích từ báo Lao Động)


    :: Giáo Hoàng ::
  2. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Nỗi buồn tiếng Việt
    (SGGP) Chuyện như đùa: Bộ Giáo dục - Đào tạo (GD-ĐT) vừa đưa vào chương trình đại học đại cương môn tiếng Việt thực hành, nghĩa là sinh viên đại học sẽ được học lại chính tả, nội dung chương trình cấp... tiểu học. Điều gì đang xảy ra?
    Nói tiếng Việt... kiểu Tây
    Hội ngôn ngữ học TPHCM vừa công bố đề án Chương trình môn tiếng Việt ở trường phổ thông (từ lớp 1 đến lớp 12) với mong muốn góp phần đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Đề án được thực hiện từ năm 1997 với sự tham gia của 6 nhà ngôn ngữ học: TS Bùi Mạnh Hùng, GS Cao Xuân Hạo, TS Hoàng Dũng, Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Đức Dương và Nguyễn Thị Ly Kha. Trong nỗ lực giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, Giáo sư Cao Xuân Hạo bày tỏ nỗi bức xúc: Cách dạy tiếng Việt trong nhà trường không phản ánh thành tựu của công trình nghiên cứu tiếng Việt đã tiến gần tới đích trong quá trình giải thoát tiếng Việt ra khỏi tiếng Pháp. Và nếu cứ giữ cách dạy và học như hiện nay, thì các thế hệ sau sẽ khó hy vọng được học tiếng Việt chuẩn. Một ngày, chúng ta có thể nghe khoảng vài ba chục câu nói của chính người Việt Nam nhưng cách nói, lối hành văn theo kiểu phương Tây, thậm chí sai ngữ pháp trầm trọng. Chẳng hạn câu ?oAnh được yêu bởi em?, ?oBộ phim được tài trợ bởi...?. ?oNhững kỷ niệm đau buồn rồi sẽ qua, chúng ta hãy quên đi chúng?. Những câu nói đơn giản như thế vẫn mắc lỗi, thật khó chấp nhận được. Không thể mượn cách nói của người nước ngoài diễn tả tâm tư, tình cảm của người Việt Nam.
    Nói sai ngữ pháp, lẫn lộn giữa Tây - Ta phổ biến đến nỗi đã trở thành một vấn đề văn hóa - xã hội. Và càng nghiêm trọng hơn khi giáo dục phổ thông không hoàn thành mục tiêu then chốt: học xong lớp 12, học sinh phải đọc thông, viết thạo. Phần đông sinh viên viết một đoạn văn đơn giản vẫn mắc đầy dẫy lỗi chính tả, ngữ pháp, từ vựng. Một tờ báo vừa tổ chức thi tuyển phóng viên, kết quả chỉ có 20% ứng viên - đều đã tốt nghiệp đại học - viết đúng chính tả, hành văn đúng ngữ pháp. Trước tình hình ấy, Bộ GD-ĐT đã ?ochữa cháy? bằng cách đưa vào chương trình đại học đại cương môn tiếng Việt thực hành, nghĩa là sinh viên ĐH được học lại chính tả, nội dung của chương trình tiểu học.
    HS, SV kém cỏi trong việc sử dụng tiếng mẹ đẻ là do đâu? Do thiếu rèn luyện bài tập một cách thường xuyên, do sách giáo khoa còn nặng tính hàn lâm, ít thực hành làm HS, SV chưa biết tránh những lỗi ngữ pháp và từ vựng? Theo ông Trần Chút, Chủ tịch Hội Ngôn ngữ học TPHCM, sách giáo khoa tiếng Việt đang được giảng dạy ở trường phổ thông tuy có những ưu điểm song đồng thời cũng có 3 nhược điểm lớn. Thứ nhất, thiếu nhất quán trong nội dung chương trình. Quy trình xây dựng sách giáo khoa các cấp, các lớp còn chưa hợp lý, chưa mang tính kế thừa, nội dung sách cứ ?ođá? nhau dẫn đến mâu thuẫn tự thân ở một số bài. Thứ hai, sách giáo khoa đã biến môn tiếng Việt dạy trong trường phổ thông thành Việt ngữ học. Thứ ba, chương trình được biên soạn cách nay 2 thập niên, vì thế không tiếp cận được những thành tựu mới về nghiên cứu tiếng Việt của ngành ngôn ngữ học Việt Nam.
    Góp phần nâng chất lượng giảng dạy tiếng Việt
    Hội Ngôn ngữ học TP Hồ Chí Minh cho rằng, để việc giảng dạy tiếng Việt trong trường phổ thông đạt kết quả tốt, cần xây dựng nhiều giải pháp đồng bộ: bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ giáo viên, cải tiến phương pháp giảng dạy ngữ văn ở các trường sư phạm, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu ở các viện... nhưng biện pháp then chốt vẫn là cải tiến sách giáo khoa với kiến thức chuẩn, hiện đại, thiết thực, nhất quán. Sách giáo khoa chính là người thầy, sách ?otốt?, trò chỉ cần đọc sách là làm được ngay; ngược lại, sách sai sẽ làm hỏng nhiều thế hệ.
    Với quan điểm trên, Hội Ngôn ngữ học TPHCM đã xây dựng đề án Chương trình môn tiếng Việt ở trường phổ thông. Đề án nhằm vào mục tiêu, hoàn thành xong giai đoạn phổ thông, HS có thể nói đúng, viết đúng và hiểu đúng những câu thông dụng của văn nói và văn viết. Khi lên cấp học cao hơn, các em đã biết vận dụng thành thạo những cấu trúc cơ bản của ngữ pháp tiếng Việt. Muốn thế, ở cấp tiểu học, sách giáo khoa phải được viết trên tinh thần thực hành giúp HS biết cách tuân thủ các quy tắc ngữ pháp để nói, viết và hiểu đúng những mô hình đặt câu được học mà không cần gọi tên chính xác các mô hình ấy. ở cấp trung học phổ thông, việc học tiếng Việt vẫn lấy thực hành làm kim chỉ nam nhưng các tri thức, cách hiểu và sử dụng tiếng Việt cần được lập thức một cách chính xác bằng những khái niệm ngôn ngữ học, cách hành văn thuần túy Việt Nam. Vẫn tuân thủ mục tiêu của chương trình cũ nhưng đề án trên tinh thần lấy người bản ngữ là trung tâm, dạy người Việt Nam cách tư duy của người Việt. Theo ban soạn thảo, đề án được xây dựng khác với chương trình cải cách giáo dục và dự thảo chương trình tiểu học mới. Hiện đề án đã được gửi đến cơ quan, cá nhân hữu quan để được nghiên cứu, tham khảo và thẩm định. Hồng Liên
    ...........................
    Cù Lần
  3. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Một sự phân biệt bị đánh mất (Dù với tuy và mặc dầu)


    Một ngôn ngữ làm tròn công năng của nó là nhờ những sự phân biệt. Những sự phân biệt về hình thức - âm thanh, trật tự của các dấu hiệu, v.v. - không nhiều thì ít đều báo hiệu những sự phân biệt về nội dung, tức về nghĩa, và những phương tiện phân biệt về hình thức càng phong phú bao nhiêu thì những nội dung được truyền đạt càng minh xác và tinh tế bấy nhiêu.
    Vì vậy, khi những người thuộc thế hệ trước thấy trong tiếng mẹ đẻ có những sự phân biệt bị đánh mất đi, họ tất nhiên phải có phần lo lắng tự hỏi: không biết đây có phải là một bước phát triển có tính quy luật của ngôn ngữ hay chỉ là kết quả của một sự khinh suất nào đó đã dần dần phổ biến để trở thành một thói quen chung được mọi người dung thứ rồi rốt cục chấp nhận như một chuẩn mực?
    Trong bài này, chúng tôi muốn nói đến một hiện tượng rất phổ biến trong cách sử dụng tiếng Việt của các văn bản xuất hiện vào khoảng mươi năm nay trên báo chí, sách vở, kể cả văn bản khoa học và nghệ thuật: đó là lối sử dụng dù (dầu, dẫu, cho dù, dù cho, cho dầu, dầu cho, dẫu cho) thay cho tuy và mặc dầu.
    Ngày nay, dù được dùng phổ biến hơn hẳn tuy và mặc dầu ở những chỗ mà trước những năm 70, người cầm bút vẫn dùng hai từ sau với một ý nghĩa khác hẳn. Vậy sự khác nhau ấy ra sao?
    So sánh cách dùng các từ nói trên với nhau trong các tác phẩm cổ điển của thế kỷ 18 như Truyện Kiều, ta thấy rằng một mặt, dù được dùng theo một nghĩa cũ không còn có trong cách dùng ngày nay: nghĩa của nếu (đánh dấu một câu phụ chỉ điều kiện) chẳng hạn như trong câu:
    Mai sau dù có bao giờ
    Thắp lò hương ấy so tơ phím này,
    Trông ra ngọn cỏ cành cây,
    Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
    Cách dùng theo nghĩa này cũng thấy còn lại trong ca dao tục ngữ cận đại và hiện đại:
    Dù ai lấy được chồng khôn,
    Như hũ vàng cốm anh chôn đầu giường.
    Vào thời ấy, chữ nẻo chưa biến âm thành chữ nếu và được dùng thay cho dù như bây giờ, và ta không được rõ sự phân biệt giữa hai ý nghĩa dù và nếu như hiện nay được diễn đạt như thế nào. Rất có thể là nó được dùng để diễn đạt cả hai nghĩa, vì cả hai đều có chứa đựng ý nghĩa "điều kiện", tức ý nghĩa "giả định". Vậy, mặt khác, giữa dù của thời trước và nếu của ngày nay vẫn có một điểm chung khiến cho hai chữ đó khác hẳn với tuy và mặc dầu, tuy hiện nay giữa dù và nếu đã có một sự phân biệt rất rõ ràng.
    Sự khác nhau này cũng phổ quát không kém gì sự khác nhau giữa dù và tuy. Chữ nếu dùng để đánh dấu tính điều kiện của một sự thể giả định: Nếu trời mưa có nghĩa là "trong trường hợp mà trời có thể mưa (là nói giả dụ như thế)". Sự thể giả định này đưa ra trong phát ngôn là để thông báo một điều gì khác (phần thuyết của câu, thường đi sau chữ thì) sẽ trở thành hiện thực khi nào cái sự thể giả định ấy trở thành hiện thực. Còn Dù trời mưa hay Dù cho trời có mưa có nghĩa là "ngay cả trong trường hợp mà trời có mưa (là nói giả dụ thế)". Như vậy, so với nếu, dù có thêm cái ý "ngay cả", cho biết là người nói tiền giả định rằng "trời mưa" là một hoàn cảnh thường cản trở việc thực hiện điều sẽ được nói ở phần thuyết. Đó không phải là một sự khác nhau ở tính chất hay chiều rộng của khung đề, mà là ở chỗ có hay không có một cái tiền giả định có liên quan đến tác dụng của sự thể (giả định) được trình bày trong khung đề đối với sự thể được trình bày trong phần thuyết.
    Bây giờ ta thử xem trong tiếng Việt hiện đại, ít nhất là trước 1970, dù (dù cho, dầu cho, dẫu cho, v.v.) khác với tuy và mặc dầu (mặc dù) như thế nào. Ta thử so sánh hai câu sau đây:
    (1) a. Tuy/ Mặc dầu hôm qua trời mưa to, tôi vẫn đến.
    b. Ngày mai dù có mưa to gió lớn thế nào tôi cũng sẽ đến.
    Sự khác nhau quan yếu giữa hai bên là ở chỗ: Trong khi chuyện hôm qua mưa to là một hiện thực, thì chuyện ngày mai mưa to chỉ là một giả định. Đây là một sự phân biệt mà loại hình học ngôn ngữ đã nhận thấy tính phổ quát từ khá lâu. Trong khi hành chức, ngôn ngữ không thể không phân biệt giữa việc trần thuật những sự việc có diễn ra thực (nhất là những sự việc mà người nói có chứng kiến, với những giả định, những dự kiến, những phỏng đoán, những suy diễn, vốn chỉ có trong trí óc con người chứ không hề có (hay ít nhất là chưa hề có) trong thế giới hiện thực, dù những dự đoán ấy có chắc chắn đến đâu chăng nữa. Ngôn ngữ học cũng đã dần dần nhận ra mối quan hệ đương nhiên giữa "thì tương lai" và cách diễn đạt tính không hiện thực: trong rất nhiều ngôn ngữ, cái mà người ta vẫn tưởng là "thì tương lai" thật ra là một hình thức diễn đạt ý nghĩa tình thái phi hiện thực, trong những ngôn ngữ có hình thái học có thể làm thành một thức (mood) riêng, thức giả định.
    So sánh hai câu dẫn trên và những câu tương tự, ta thấy sự phân biệt [± Hiện thực] hay hiện thực/giả định giữa dù và tuy/mặc dầu lộ rõ ở chỗ hai từ sau không dùng cho những sự thể được giả định hay dự kiến cho tương lai. Những câu như:
    (2) a.* Ngày mai, tuy/mặc dù trời mưa to, tôi cũng sẽ đến.
    b.* Sau này, tuy không gặp nhau, tôi cũng sẽ nhớ đến anh.
    đều không ổn, và khó lòng có thể gặp trong một văn bản cũ, như trong tiểu thuyết của Tự lực Văn đoàn chẳng hạn. Và ngay cả những người ngày nay thường dùng tuy và mặc dầu cho những câu như thế cũng phải thừa nhận.
    Ngoài ra, tuy và mặc dầu cũng không thể dùng trong những câu chứa đựng một phần đề được đánh dấu là [± bất định/nghi vấn] hay một phần thuyết chứa đựng một tham tố [± bất định/nghi vấn]:
    3. a.* Tuy/Mặc dầu có ai nói như vậy anh cũng đừng tin
    b.* Mặc dù/Tuy cần gì, anh cứ hỏi tôi.
    c.* Tuy/Mặc dầu sao, nó cũng là em tôi.
    d.* Mặc dầu/Tuy có đi đâu nó cũng nhớ về Hà Nội.
    Trong những câu như thế, tuy và mặc dầu đều phải được thay bằng dù.
    Cuối cùng, giữa dù và tuy/mặc dầu còn có một sự phân biệt rõ rệt về cú pháp nữa. Một khung đề mở đầu bằng dù bao giờ cũng có thể được đánh dấu biên giới bằng thì, trong khi những câu trạng ngữ mở đầu bằng tuy và mặc dầu, vốn không phải là khung đề, không bao giờ được đánh dấu như vậy.
    Trên đây là tình hình trong tiếng Việt hiện đại kể cho tới những năm 70 của thế kỷ. Còn hiện nay thì không còn như thế nữa. Cùng với ưu thế ngày càng lấn át của những lối viết bất thành cú, với những câu lẫn lộn chủ đề với khung đề (như: Trong tình hình này đòi hỏi khắc phục ngay các tồn tại), lẫn lộn trạng ngữ với câu (như: Với những cố gắng vượt bậc nhưng họ vẫn không giải quyết được dứt điểm), lẫn lộn giữa trạng ngữ với chủ đề (như: Bằng những hình tượng sắc nét của tác giả đã cho thấy...) (*), cách hành văn của một số người viết gần đây đã đánh mất những sự phân biệt quan trọng cho phép tiếng Việt truyền đạt những sắc thái tinh tế của tư duy, như sự phân biệt giữa xác định và bất định, giữa danh ngữ có sở chỉ và danh ngữ không có sở chỉ, giữa tiêu điểm và chủ đề, và cả những sự phân biệt cơ bản như giữa hiện thực và phi hiện thực.
    Ngày nay ta thấy có rất nhiều người dùng dù vừa như một tác tử điều kiện, vừa như một tác tử "nhân nhượng" (= tuy), chẳng hạn:
    4. a. Dù nói tiếng Anh rất khá, anh ta chỉ có bằng A.
    b. Dù chưa quen anh, tôi đã đọc truyện ngắn của anh từ lâu.
    c. Dù anh đã khuyên tôi nhiều lần, nhưng tôi vẫn chưa thông.
    d. Dù nó rất giỏi môn lý, thì giám khảo cũng đánh trượt nó.
    e. Dân bản xứ vẫn còn lo sợ dù tình hình đã lắng dịu hẳn.
    Có thể nói rằng trong tất cả các câu này, người viết đều có ý muốn nói tuy hay mặc dầu, nhưng cái tập quán dùng đúng những từ cần dùng để diễn đạt cái ý này đã mất đi rồi. Trong tất cả các câu trên không có lấy một lý do nhỏ nào để cho rằng cái mệnh đề bắt đầu bằng dù có tính chất giả định. Việc dùng dù tỏ ra đặc biệt phi lý trong những câu như (4)b, và (4)c, trong đó người nói (tôi) và người nghe (anh) tất nhiên phải biết chắc chắn rằng mệnh đề đi sau dù là đúng sự thật, chứ tuyệt nhiên không có tính giả định. Trong (4)a và (4)d, dù không thể dung hòa với rất, vốn không thể dùng trong những câu phi hiện thực như * Tôi muốn tìm mua một cái xe rất tốt (chỉ có thể nói một cái xe thật tốt).
    Như chúng tôi đã nói ở phần đầu bài này, đây có thể là một sự chuyển biến có tính quy luật khách quan, do yêu cầu phát triển tự nhiên của tiếng Việt mà có. Ngay những kiểu câu như Với những hành động ấy cho thấy họ thiếu trách nhiệm cũng phải xét kỹ xem có phải là phạm lỗi không. Ta cứ nhìn sang tiếng Pháp mà xem: tiếng Pháp trở thành một ngôn ngữ như ngày nay chính là do những lỗi ngữ pháp và từ vựng mà người bản xứ vì không nói đúng được tiếng La-tinh, phạm phải mà ra. Nhưng chúng tôi trộm nghĩ đó là trường hợp khác: những lỗi làm cho tiếng Việt mất đi những phương tiện diễn đạt hữu hiệu và tinh tế như vậy khó lòng có thể coi là một hiện tượng tiến bộ.
    Cao Xuân Hạo
    -----------------------------------
    (*) Theo thống kê của chúng tôi, trên hai đài truyền hình TP Hồ Chí Minh và Hà Nội (do đài TP Hồ Chí Minh tiếp sóng), năm 1986 số lỗi thuộc các loại này chiếm khoảng 1,20% số câu trong một buổi truyền hình, nhưng đến năm 1996, số lỗi ấy lên đến 9,30%. Nếu chỉ lấy những câu có trạng ngữ đứng đầu mà vị từ cần có một chủ ngữ (tức chủ đề) để tính tỷ lệ, ta sẽ có con số khủng khiếp là 66% câu sai. Như vậy, có thể nói rằng viết câu sai kiểu ấy đã thành một cái mốt được nhiều người ưa chuộng. Chẳng hạn những câu như Đội tuyển ta sẽ chiến thắng hay Kinh nghiệm cho ta thấy... hình như bị nhiều người cho là dở hay cổ lỗ gì đó, cho nên cần thay bằng Với đội tuyển, ta sẽ chiến thắng hay Qua kinh nghiệm cho ta thấy... thì mới hay mới hợp thời!

    ...........................
    Cù Lần
  4. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Từ chỉ giống trong tiếng Việt


    Một anh bạn người nước ngoài vào chợ Hôm mua thực phẩm đã nói với người bán gà rằng: "Bà bán cho tôi một cái gà đực". Thế là mấy người bán hàng cạnh đó cười rũ ra. Bà bán gà liền chỉnh lại: "Không phải là "cái gà đực" mà là "con gà sống" chứ". Anh bạn nước ngoài ngẩn ra một lúc rồi lại nói: "Tôi muốn mua gà chết chứ không mua gà sống". Bà bán hàng lại bảo: "Thế thì phải gọi là "gà mổ sẵn" chứ không phải là "gà chết...". Câu chuyện mua gà của anh bạn nước ngoài nọ kết thúc ở đấy. Bởi vì, cuối cùng anh vẫn mua được "gà đực" (tức gà sống) và là "gà chết" (tức "gà mổ sẵn).
    Việc dùng từ chỉ giống trong tiếng Việt thật là phức tạp. Rõ ràng là giống đực mà không ai nói "gà đực", trong khi lại gọi "vịt đực", "trâu đực", "bò đực", "chó đực"... Rõ ràng là giống cái mà không ai nói "gà cái", trong khi lại gọi "vịt cái", "trâu cái", "bò cái" "cáo cái"... Riêng gà, chim thì thay vì dùng "đực, cái" người ta gọi là "sống" (hay "trống") và "mái". Còn lợn là động vật có vú như trâu, bò, chó... lại có thêm một cách gọi nữa là "giống (đực)" và "nái" (cái). Đặc biệt hơn, nếu con "nái" đã đẻ quá nhiều hoặc chỉ được nuôi để sinh sản thì người ta gọi là "sề" (hay "nái sề"). Cũng có trường hợp dùng "nái" với trâu cái, nhưng rất hiếm; chẳng hạn trong tục ngữ có câu "Ruộng sâu trâu nái, con gái đầu lòng".
    Việc sử dụng từ chỉ giống (hay giới tính) đối với danh từ chỉ người trong tiếng Việt lại càng phức tạp. Trong khi giảng dạy về phạm trù giống (ngữ pháp) của các ngôn ngữ trên thế giới, chúng tôi nhận thấy người học thường có sự nhầm lẫn giữa giống - là một loại phạm trù ngữ pháp, với giống - thực chất là giới tính của người và động vật. Giống ngữ pháp gắn liền với hình thức của từ và thường được phân biệt thành bộ đôi là "đực và cái", hoặc thành bộ ba là "đực, cái và trung". Danh từ trong tiếng Pháp có hai giống, danh từ trong tiếng Nga có ba giống. Đối với các ngôn ngữ có phạm trù giống, tất cả các danh từ đều phải thuộc về một giống nhất định, bất kể danh từ đó là danh từ chỉ động vật hay bất động vật. Chính vì vậy, có những trường hợp: cùng là danh từ chỉ bất động vật nhưng danh từ này lại là là giống cái, danh từ kia lại là giống đực; hoặc có trường hợp: một danh từ chỉ động vật có giống ngữ pháp đối lập với giống của động vật trong thực tế.
    Danh từ trong tiếng Việt không có giống ngữ pháp. Vì thế, vấn đề "giống" ở tiếng Việt chỉ còn là chuyện giới tính của người và động vật mà thôi. Tuy nhiên, vấn đề cần bàn chính là việc cấu tạo giống ở danh từ chỉ người và danh từ chỉ động vật lại không giống nhau.
    Đối với danh từ chỉ động vật, giống được thể hiện qua một kiểu kết cấu duy nhất là:
    "Danh từ chỉ loài + yếu tố chỉ giống (đực, cái)"
    - Thí dụ:
    "Gà trống(sống)- gà mái"
    "Trâu đực - trâu cái (nái)
    "Lợn giống - lợn nái"...
    Các danh từ chỉ người trong quan hệ thân tộc phần lớn gắn với giới tính. Điều đó có nghĩa là: yếu tố giới tính nằm ngay trong nghĩa từ vựng của danh từ chỉ người.
    Thí dụ:
    Ông, cha, thầy, tía, chú, cậu, anh... là các từ có ý nghĩa giới tính nam;
    Bà, mẹ, u, má, cô, dì, thím, chị... là các từ có ý nghĩa giới tính nữ.
    Khi sử dụng chúng, người ta không cần phải kèm yếu tố chỉ giới tính nữa.
    Trường hợp "anh trai" và "chị gái" là một ngoại lệ. Ngoài ý nghĩa giới tính chúng còn có ý nghĩa chỉ quan hệ "ruột thịt". Người ta gọi anh ruột là "anh trai", chị ruột là "chị gái"; chứ không gọi anh họ, chị họ bằng cách gọi đó.
    Các danh từ: cụ, bác, cháu, con, em... không mang ý nghĩa giới tính xác định, vì thế lại có khả năng tham gia kết hợp để mang giới tính nam hoặc nữ. Để cấu tạo giới tính cho các danh từ này không gặp khó khăn gì. Người ta chỉ cần đặt các cặp từ "ông - bà" hoặc "trai - gái" vào ngay sau chúng:
    Cụ ông - cụ bà
    Bác trai - bác gái
    Cháu trai - cháu gái
    Con trai - Con gái
    Em trai - em gái
    Ngoại lệ, từ "bác" có thể kết hợp cả "trai - gái" và cả với "ông - bà" để tạo ra hai biến thể:
    Bác trai - bác gái
    và bác ông - bác bà (xuất hiện ở phương ngữ miền trung).
    Có điều đáng chú ý là: khi cấu tạo giới tính cho một số danh từ chỉ người trong tiếng Việt, ta lại dùng những cặp từ vốn có giới tính như cặp "ông - bà" "nam-nữ", "trai-gái" để kết hợp. Như vậy, những cặp từ này là "đa chức năng" chứ không phải là những danh từ chỉ người thuần túy.
    Các danh từ chỉ người trong quan hệ xã hội hoặc các danh từ chỉ nghề nghiệp chức vụ, chức danh của tiếng Việt vì không có ý nghĩa giới tính tự thân, nên việc cấu tạo giới tính cũng chỉ đơn giản bằng cách duy nhất là kết hợp từ chỉ giới tính với chính những danh từ trên.
    Tuy nhiên, nhìn chung, việc lựa chọn "ông-bà", "nam- nữ" hay "trai-gái" để kết hợp với một từ cụ thể nào lại không hoàn toàn giống nhau.
    Có những danh từ chỉ kết hợp với một trong các cặp nêu trên.
    Chẳng hạn danh từ giám đốc có thể dùng với cặp "nam-nữ" chứ không dùng với cặp "trai-gái". Người ta dùng:
    Giám đốc nam - giám đốc nữ
    chứ không dùng:
    Giám đốc trai - giám đốc gái
    Nhưng lại có những danh từ vừa kết hợp được với cặp "nam-nữ" (theo trật tự Hán Việt) kiểu:
    Nam dân quân - nữ dân quân
    Nam sinh viên - nữ sinh viên
    vừa kết hợp được với cặp "trai - gái" (theo trật tự thuần Việt) kiểu:
    Dân quân trai - dân quân gái
    Sinh viên trai - sinh viên gái
    Xin được nói thêm về một nghề trong truyền thống luôn gắn với ý nghĩa "giới tính nam" - đó là nghề "thầy giáo". Với nghề nghiệp này, người Việt chúng ta đã phải dùng một từ đối lập về giới tính - từ "cô" để chỉ người dạy học là nữ - "cô giáo". Các từ Hán Việt khác đồng nghĩa với "cô giáo" hoặc "thầy giáo" vẫn được cấu tạo giới tính bằng quy tắc kết hợp từ chỉ giới tính "nữ hoặc nam" với chúng:
    Nữ giáo viên - nam giáo viên
    Nữ giảng viên - nam giảng viên.
    Với một cách nhìn khái quát, ta có thể nhận thấy: giống và giới tính của danh từ chỉ người và động vật trong tiếng Việt là một vấn đề không đơn giản. Một trong những lý do của hiện tượng này là vì có những danh từ tự thân mang ý nghĩa giới tính, còn một số danh từ khác lại không. Hơn nữa, riêng với các danh từ chỉ người không tự thân mang nghĩa giới tính thì việc cấu tạo giới tính cũng không thuần nhất mà linh hoạt và còn được giải thích bằng ngữa nghĩa của chúng nữa.
    phan hồng liên
    (Tạp chí Hà Nội ngày nay)

    ...........................
    Cù Lần
  5. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Thử nhặt mấy "hạt sạn" trên báo chí


    Từ ngày về hưu, tôi có nhiều thời gian đọc báo, nghe đài, xem truyền hình. Chương trình nào cũng có nhiều cái hay và bổ ích, nhưng cũng thấy không ít tác giả dùng chữ khó hiểu, cầu kỳ, thừa thãi, sai lệch hoặc viết câu nặng nề, lủng củng, làm mất đi vẻ đẹp trong sáng, giản dị và giàu có của tiếng Việt.
    Tôi xin mạnh dạn nêu lên một số hiện tượng tiêu biểu:
    1- Dùng từ nước ngoài, đặc biệt là từ Hán, không cần thiết. Thí dụ: "Thật là hi hữu". Sao không nói "thật là hiếm có" vừa dễ hiểu, vừa nhấn ý? Hoặc: "Mối quan hệ Việt - Mỹ chỉ mới là sơ hữu"! "Sơ hữu" là mới có. "Mới là sơ hữu" tức là "mới là mới có"! Thật chả hay chút nào! Hoặc: "Chỉ cần ấn nút thì mọi nhu cầu sẽ được hiển thị trên máy tính!". "Hiển thị" là hiện ra trước mắt rõ ràng. Nếu sợ dài, tác giả chỉ cần nói: "Hiện ra, hiện lên" hoặc "thấy rõ". Người nghe đỡ phải đau đầu biết bao!
    Sinh thời Bác Hồ thường nói, không nên lạm dụng tiếng nước ngoài, chữ nào ta đã có thì không nên đi vay mượn nữa. Bác không viết: "Nhu yếu phẩm thường nhật" mà là "... tương cà mắm muối cần thiết hằng ngày!" (Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng III - 1960). Văn của Bác dễ thấu lòng người nhờ thế. Theo lời dặn của Bác, chúng ta đã có không ít các từ Việt thật hay: vùng trời, vùng biển, thay cho không phận, hải phận; tay đua, tay súng thay cho "cua rơ, xạ thủ", v.v.
    2- Ghép từ tùy tiện: Xu hướng rút gọn ngôn ngữ là cần thiết. Nhưng nếu rút gọn mà tối nghĩa, mất tình, lạc ý thì rất không nên. Ví như nói: hùng hiểm (hùng vĩ, hiểm trở); bàn thảo (bàn luận, thảo luận); tương thích (tương đương, thích hợp); tai tệ nạn (tai nạn, tệ nạn); quý khán thính giả, v.v. thì quả là tối nghĩa. Rút được một chữ, nhưng lại mất rất nhiều thời gian suy nghĩ, luận nghĩa của người đọc, người nghe. Thiển nghĩ, lợi không bằng hại! Làm sao có thể gộp tai nạn-tức là nạn nhân-với tệ nạn- tức là tội nhân vào cùng một rọ!? Đã "quý" tức là tôn trọng, mà lại gộp cả hai đối tượng lại, để nói cho nhanh thì thật vô tình!
    3- Nói thừa, viết thừa: Thí dụ: xuất khẩu ra nước ngoài; cố gắng hết sức nỗ lực mới hoàn thành nhiệm vụ; tương trợ giúp đỡ lẫn nhau mới nên; họ đã tái hôn trở lại ở với nhau; chương trình đồng dao trẻ em; phải lo cho tương lai mai sau; khắc phục hậu quả sau cơn bão; sở thích của riêng tôi; đón du khách đi du lịch; đột nhập vào xe khách; đồng tâm một lòng với nhau; tự khẳng định mình, v.v.
    Sở dĩ có hiện tượng trên là vì người nói, người viết không nắm vững hàm nghĩa của từ Hán - Việt hoặc quen miệng, quen tay. "Xuất khẩu nếu không là đưa "ra nước ngoài" thì đi đâu? Họ đã "tái hôn" tức là cưới lại, nếu không "trở lại ở với nhau" thì chia tay chắc? "Đồng dao" là những bài hát của trẻ em thường gắn với trò chơi. Làm gì có "đồng dao" của người lớn mà phải gắn hai chữ "trẻ em" vào? "Sở thích" tất nhiên là của mình rồi, v.v.
    Trong tiếng Việt, hiện tượng một từ gốc Hán + một từ gốc Việt tạo thành từ ghép hoặc nhằm mục đích tu từ. Là quy luật tạo từ và ý đồ nghệ thuật khá phổ biến. Nhưng cách viết tùy tiện như trên lại khác. Nó tạo "rơm rác" ngôn ngữ, khác nào: "Nửa đêm giờ tí canh ba - vợ tôi con gái đàn bà nữ nhi..."(!) Xin được kiệm lời cho văn sâu ý và đỡ tốn giấy mực!
    4- Viết câu rất nặng nề. Xin được nêu ba thí dụ điển hình về một lối diễn đạt không hợp lắm với tư duy Việt Nam:
    a) "Những nhược điểm của người đi trước sẽ được phần nào khắc phục bởi các nhà văn đi sau" (Đ.T.D - tiến sĩ văn học - VH và TT số tháng 9-2001: bài: Hồ Biểu Chánh và đoạn trích "cha con nghĩa nặng").
    b) "Cần câu quặm phải được làm ra từ gốc tre già" (TNTP - số 97, năm 1998 - bài "Truy lùng tên khả nghi - truyện ngắn của P.M.D).
    c) "Được sự hỗ trợ bởi bộ trưởng nội vụ và Mỹ, phái Taliban chiếm Kabul ngày 16-9-96". (Tài hoa trẻ số 53, trang 32 - Bài Những người phụ nữ dưới tấm mạng che mặt).
    Đây là kiểu câu bị động rất phổ biến trong cách hành văn của người Pháp. Khi xưa, nếu chúng tôi viết theo kiểu " bị... bởi..., hoặc được... bởi, phải được... từ..." thường bị các thầy phê là văn tây, người Việt nên nói "mèo bắt chuột " chứ không nên viết "chuột bị bắt bởi mèo!"
    Tôi không phủ nhận sự có mặt của thể bị động trong văn phạm Việt Nam. Trong những trường hợp cụ thể, nó lại rất cần thiết là khác. Tuy nhiên, tôi vẫn thấy lời dạy của các thầy khi xưa là đúng. Người Việt mình ưa nói theo thể chủ động hơn. Ta hay nói "Cửa đóng, lúa gặt rồi, áo may khéo... " chứ không nói "cửa bị đóng, lúa bị gặt, áo được may bởi tay thợ khéo" như chính ra sự việc phải thế.
    Trở lại những thí dụ nêu trên. Nếu tác giả sửa:
    Câu a, "Những nhược điểm của người đi trước sẽ được các nhà văn đi sau khắc phục phần nào"; hoặc: "Các nhà văn đi sau đã khắc phục phần nào nhược điểm của người đi trước". Với câu b, nếu bỏ chữ "được", chữ "ra", thay chữ "từ" bằng chữ "bằng" để trở thành. "Cần câu quặm phải làm bằng gốc tre già"; và câu c, chỉ cần thay chữ "bởi" bằng chữ "của": "được sự hỗ trợ của bộ trưởng nội vụ và Mỹ, phái Taliban..." thì sẽ nhẹ nhàng biết bao!
    Những nhược điểm này càng thấy rất phổ biến trong giới học sinh. Có thể các em vô tình "bắt chước" cái sai trên đài, trên báo chăng? Vì thế tôi thành tâm và mạnh bạo viết bài này! Mong sao trên nhiều tờ báo có chuyên mục "dọn vườn" như của "Văn nghệ".
    đặng thêm

    ...........................
    Cù Lần
  6. ha_vy_84

    ha_vy_84 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/08/2002
    Bài viết:
    340
    Đã được thích:
    0
    <BLOCKQUOTE id=quote><font size=1 face="Arial" id=quote>Trích từ:
    1- Dùng từ nước ngoài, đặc biệt là từ Hán, không cần thiết. Thí dụ: "Thật là hi hữu". Sao không nói "thật là hiếm có" vừa dễ hiểu, vừa nhấn ý? Hoặc: "Mối quan hệ Việt - Mỹ chỉ mới là sơ hữu"! "Sơ hữu" là mới có. "Mới là sơ hữu" tức là "mới là mới có"! Thật chả hay chút nào! Hoặc: "Chỉ cần ấn nút thì mọi nhu cầu sẽ được hiển thị trên máy tính!". "Hiển thị" là hiện ra trước mắt rõ ràng. Nếu sợ dài, tác giả chỉ cần nói: "Hiện ra, hiện lên" hoặc "thấy rõ". Người nghe đỡ phải đau đầu biết bao!
    [/QUOTE]
    Khi phê phán một câu, một quan điểm, cần phải rất cẩn thận. Về mặt tiếng Việt mà nói, "hiển thị" có thể thay thế bằng "hiện ra", "hiện lên" v.v... nhưng chữ "hiển thị" dùng ở đây là thuật ngữ tin học, được dùng để chỉ việc xuất thông tin ra màn hình máy tính, dịch từ chữ "display" trong tiếng Anh. Có lẽ tác giả Đặng Thêm chỉ đề cập đến khía cạnh ngôn ngữ mà không biết đây là thuật ngữ chuyên ngành chăng?
    Hạ Vy
    Được ha_vy_84 sửa chữa / chuyển vào 21:47 ngày 06/05/2003
  7. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Đúng đấy HaVy ạ. Ông già này dường như khó tánh quá.
    Mấy câu bị động nghe cũng xuôi tai mà. Còn các dạng như 'xuất khẩu ra nước ngoài'... thì nhiều vô kể.
    Nếu quá khắt khe như ông cụ, thì phải xem lại định hướng của những người trách nhiệm ra sao, mà tiếng Việt ngày nay nên nỗi! Sự phát triển hay đi xuống của ngôn ngữ cũng nằm trong sự đi lên hay đi xuống chung của xã hội, của cả chế độ, phải không?
    Mấy ông ngôn ngữ bảo nào là "nỗi buồn tiếng Việt", sâu xa hơn, còn những nỗi buồn nào nữa mà mấy ông không nói được?
    ...........................
    Cù Lần
    Được culan sửa chữa / chuyển vào 22:24 ngày 06/05/2003
  8. ha_vy_84

    ha_vy_84 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/08/2002
    Bài viết:
    340
    Đã được thích:
    0
    Em hoàn toàn đồng ý với anh. Đúng là tiếng Việt bây giờ nếu ngồi mà "bắt" thì sẽ thò ra không biết bao nhiêu lỗi mà nói, phần thì sai, phần thì lủng củng, phần thì không hợp, không hay... "Bắt" như thế cũng không phải là quá khó, cái khó là ở chỗ có "bắt" thì người ta vẫn dùng, vẫn sai, vì sự vận động của ngôn ngữ nằm trong sự vận động của toàn xã hội. Các giá trị văn hóa, xã hội còn chưa được củng cố thì tiếng Việt sẽ còn đi xuống, rồi nay từ này mất đi, mai từ kia bị dùng sai... Tự thân các nhà ngôn ngữ học không thể cải thiện được điều gì mà phải có sự góp sức của toàn xã hội. Muốn vậy phải hỏi đến những người có trách nhiệm định hướng kinh tế, văn hóa, xã hội.
    Nhưng mà bài này có đi lạc đề không nhỉ [:-D]
    Hạ Vy
  9. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Sử dụng đúng thanh điệu tiếng Việt


    Nhiều người trong chúng ta chắc vẫn còn nhớ câu chuyện Bác Hồ về thăm nhà máy cơ khí Gia Lâm. Hồi ấy, cái biển đề tên nhà máy đã không đánh đủ các dấu của chữ cái lại không đánh cả dấu thanh điệu. Bác Hồ đã phê bình thẳng thắn và nhắc nhở một cách tế nhị rằng, nếu cứ viết ẩu như thế người ngoài đọc nhầm thành "Nhà mày có khỉ già lắm" thì thật nguy to. Trường hợp ấy sẽ được nhận ra và sửa chữa. Tuy nhiên, cũng phải thấy ngay rằng: sử dụng thanh điệu quả là một việc phải cẩn trọng. Đối với các bạn nước ngoài: thanh điệu tiếng Việt lại càng là vấn đề đáng được quan tâm trong học tiếng. Nhiều bạn nước ngoài đưa ra những nhận xét tưởng chừng trái ngược nhau về thanh điệu.
    Có bạn cho rằng: Tiếng Việt rất hay, lúc lên bổng, lúc xuồng trầm, chỉ nói thôi mà nghe đã như hát.
    Có bạn lại nói: học thanh điệu tiếng Việt rất khó, không mấy khi đọc được thật chuẩn, mà chỉ lơ lớ.
    Những nhận xét của các bạn nước ngoài đã giúp chúng tôi nhìn nhận và đánh giá lại một cách nghiêm túc cái hay của thanh điệu tiếng Việt và cái khó khi học thanh điệu tiếng Việt. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với việc dạy tiếng mà còn có ý nghĩa cho chính chúng ta khi học tập và sử dụng tiếng Việt chính xác trên bình diện ngữ âm.
    Trước hết, cái hay của thanh điệu tiếng Việt có lẽ chính là ở khả năng phân biệt cao độ cho âm tiết của chúng. Tiếng Việt có sáu thanh điệu với những cao độ không như nhau, tức là rất đa dạng. Thử làm phép so sánh đơn giản với bảy độ cao của các nốt trong âm nhạc, chúng ta sẽ thấy ngay "tính nhạc" trong ngôn ngữ của dân tộc mình là quá cao. Không rõ đây có phải là điều kiện thuận lợi để cho bất cứ bài thơ nào viết bằng tiếng Việt cũng dễ dàng được phổ nhạc thành ca khúc hay không?
    Tuy các thanh điệu đều có cao độ riêng, nhưng không phải sáu thanh hoàn toàn khác nhau và không liên quan gì đến nhau. Căn cứ vào tính tương đồng về cao độ, người ta chia sáu thanh điệu thành hai nhóm.
    Nhóm cao gồm: thanh ngang (không dấu), thanh ngã, thanh sắc.
    Nhóm thấp gồm: thanh huyền, thanh hỏi, thanh nặng.
    Các thanh điệu còn được phân biệt với nhau bởi tính ổn định hay không ổn định của âm sắc. Theo tiêu chí này, người Việt thường chia thành hai nhóm và gọi tên với cách gọi truyền thống là nhóm bằng và nhóm trắc.
    Nhóm bằng gồm: thanh ngang và thanh huyền.
    Nhóm trắc gồm: thanh sắc, thanh nặng, thanh hỏi và thanh ngã.
    Có lẽ do kém ổn định về âm sắc, nghe lại "không êm tai" mà các thanh trắc không được người xưa dùng để hiệp vần trong thơ lục bát truyền thống. Các vần dùng để hiệp vần chỉ mang thanh bằng mà thôi.
    Qua đình ngả nón trông đình
    Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
    (đình và mình đều mang thanh bằng)
    Hỡi cô tát nước bên đàng
    Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
    (đàng và vàng đều mang thanh bằng).
    Muốn sang thì bắc cầu Kiều
    Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy
    (Kiều và yêu đều mang thanh bằng).
    Các thanh trắc vẫn được sử dụng triệt để trong thơ, nhưng là trong thơ thất ngôn. Người ta thường dựa vào giá trị âm học của nhóm thanh này để tạo ra những hiệu quả tâm lý to lớn trong thơ. Có thế thấy rõ điều này qua hai câu thơ tiêu biểu của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu:
    Tài cao phận thấp chí khí uất (hầu hết là thanh trắc).
    Giang hồ mê chơi quên quê hương (toàn là thanh bằng)
    khi miêu tả các trạng thái đối lập trong thân phận của một con người.
    Sự khó khăn khi nắm bắt các thanh điệu tiếng Việt chủ yếu rơi vào nhóm thanh trắc. Chỉ trong hai thanh cao (sắc và ngã) hay hai thanh thấp (nặng và hỏi) đã có hiện tượng phân hóa rõ ràng. Khi thể hiện các thanh ngã và hỏi, có một động tác phức tạp và bất bình thường - một động tác nghẽn thanh hầu mạnh - đã xảy ra khiến cho các âm tiết chứa các thanh điệu này thường có độ dài lớn hơn các âm tiết khác.
    Cùng kết thúc cao, thanh ngã nghẽn mạnh, thanh sắc lại không.
    Cùng kết thúc thấp, thanh hỏi nghẽn mạnh, thanh nặng lại không.
    Với diễn biến phức tạp như vậy, hai thanh ngã và hỏi thường dễ bị các đối tượng như người nước ngoài học tiếng Việt hoặc trẻ em nói chưa sõi phát âm nhầm sang các thanh sắc và nặng.
    Chẳng hạn: "Mẹ ơi con ngã"
    đọc thành: "Mẹ ơi con ngá"
    hoặc: "Mẹ ơi con hỏi"
    đọc thành: " Mẹ ơi con họi".
    Riêng với người nước ngoài, việc thể hiện hai thanh này có khi còn khó và lâu hơn, vì thực chất đây là hai thanh phức tạp, cần thực hiện chậm mới thể hiện rõ được giá trị âm sắc của chúng.
    Nói chung, sự nhầm lẫn (hay luân phiên tự do) trong nhóm thanh trắc thường diễn ra theo quy luật: thanh phức tạp chuyển sang thanh đơn giản cùng nhóm cao độ.
    Trong các phương ngữ Việt Nam còn có một số hiện tượng biến thanh xảy ra tương đối ổn định, như:
    Biến đổi trong nội bộ nhóm thanh bằng từ thấp đến cao: thanh huyền đọc thành thanh ngang.
    Thí dụ: "Con bò vàng"
    đọc thành: "Con bo vang"
    Biến đổi trong nội bộ nhóm thanh trắc diễn biến không phức tạp từ cao xuống thấp: thanh sắc đọc thành thanh nặng.
    Thí dụ: "Cá có đuôi"
    đọc thành: "Cạ cọ đuôi"
    Biến đổi trong nội bộ nhóm thanh trắc diễn biến phức tạp theo quan hệ hai chiều: thanh ngã đọc thành thanh hỏi, thanh hỏi đọc thành thanh ngã.
    Thí dụ: "Em sẽ là hoa
    Bốn mùa thơm mãi
    đọc thành: "Em sẻ là hoa
    Bốn mùa thơm mải".
    Hoặc: "Em hỏi thế này khí không phải"
    đọc thành: "Em hõi thế này khí không phãi".
    Ngoài ra, ngôn ngữ ở một số địa phương còn có những trường hợp ngoại lệ, tức là sự nhầm lẫn xảy ra không rõ theo quy luật nào. Chẳng hạn, có vùng phát âm thanh ngã chuyển sang thanh nặng: "đã" thành "đạ"; hoặc có vùng lại phát âm thanh sắc sang thanh hỏi: "chiến đấu" thành "chiển đẩu"...
    Một trong những lý do coi tiếng Hà Nội là tiếng chuẩn chính là vì tiếng Hà Nội có đầy đủ sáu thanh điệu. Đây cũng là lợi thế để xây dựng ngôn ngữ văn hóa dân tộc và dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ.
    Như vậy, thanh điệu là một bộ phận không thể thiếu của ngữ âm và góp phần làm nên bản sắc độc đáo cho tiếng Việt - một ngôn ngữ đơn tiết điển hình. Tuy nhiên, chúng ta không thể chỉ coi chúng như một yếu tố của ngữ âm mà còn phải hiểu chúng như một thành tố quan trọng để tạo nghĩa và phân biệt nghĩa cho từ ngữ. Có như thế chúng ta mới thực sự sử dụng chúng một cách chính xác, góp phần tích cực vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên bình diện ngữ âm và ngữ nghĩa.
    phan hồng liên
    (Hà Nội ngày nay)

    ...........................
    Cù Lần
  10. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Ngôn ngữ trong lối nói ngoa của người Việt


    Nói ngoa (hay ngoa ngữ) là cách dùng từ ngữ hoặc cách diễn đạt đặc biệt để làm tăng lên nhiều lần những thuộc tính của đối tượng được nói tới nhằm mục đích làm nổi bật bản chất của đối tượng và gây được ấn tượng mạnh mẽ cho người nghe.
    Nếu cho rằng dùng ngoa ngữ là nói điêu, nói sai thì quả là lầm lẫn. Lối nói này không đồng nhất với nói khoác, nói điêu, nói sai sự thật. Sự phân biệt là ở chỗ: nói khoác, nói sai là thổi phồng sự thật để lừa dối, còn nói ngoa là dùng các phương tiện ngôn ngữ gây sự chú ý và tác động cao nhất, làm người nghe hiểu được nội dung và ý nghĩa đến mức tối đa.
    Trong giao tiếp hằng ngày, đặc biệt là trong khẩu ngữ, khi phải miêu tả hay nói đến những hiện tượng, hoạt động, trạng thái nào đó, nếu chúng ta muốn thể hiện một sắc thái tình cảm cụ thể ghì chắc chắn chúng ta sẽ lựa chọn cho mình những từ ngữ và những lối diễn đạt phù hợp. Xem xét những phương tiện ngôn ngữ mà người Việt dùng trong nói ngoa, chúng ta dễ dàng nhận thấy đầu tiên đó là: người Việt thường rất hay chọn những từ ngữ chỉ các bộ phận cơ thể con người, đặc biệt là phần "lục phủ ngũ tạng". Chẳng hạn: Buồn là một trạng thái tâm lý không có liên quan gì đến "ruột" thế mà người ta nói "buồn nẫu ruột". Tương tự, chúng ta thấy hàng loạt cách dùng: tiếc đứt ruột, đứt từng khúc ruột, tức lộn ruột, giận bầm gan tím ruột, nhớ đến cháy lòng, tan nát cõi lòng, nghĩ nát óc, vắt óc suy nghĩ, cười vỡ bụng, trông lác mắt, điên tiết, sôi máu, làm đổ mồ hôi sôi máu mắt, làm mửa mật, lo sốt vó, nói vỗ vào mặt, mệt đứt hơi, đói rã họng, buốt giá con tim, rụng rời chân tay, sợ hết hồn hết vía, bạt vía kinh hồn, hồn vía lên mây...
    Tín ngưỡng truyền thống Việt Nam sùng bái các hiện tượng thiên nhiên, thần thánh, thậm chí cả ma quỉ. Chính vì thế, khi nói đến điều to tát, vĩ đại, hoặc những việc làm cho người ta phải kinh hoàng, khó có thể đem vật gì ra so sánh, người Việt thường lấy thiên nhiên, thánh thần, ma quỉ ra để so. Người ta nói: long trời lở đất, chuyện động trời, chuyện tày trời, bán trời không văn tự, trời không dung đất không tha, tin sét đánh, quỉ tha ma bắt, thánh cũng phải sợ, trời đất quỉ thần, nhất quỉ nhì ma, nhân bảo như thần bảo...
    Có một điều cũng rất thú vị là người Việt truyền thống có tâm lý ưa dùng các con số để miêu tả và diễn đạt sự so sánh hơn kém giữa các vật và hiện tượng. Tuy nhiên, những con số này không phải là những con số chính xác toán học, mà là số ước lệ, có giá trị biểu cảm: gấp trăm gấp nghìn lần, gấp ti tỉ lần, ba đầu sáu tay, một trời một vực, ăn nồi bảy quăng ra nồi ba quăng vào, yêu nhau tam tứ núi cũng trèo...
    Trong cách nói dân gian truyền thống, người xưa đã khai thác các thành ngữ, tục ngữ để tạo ra những lối nói ngoa mà sau này trở thành chuẩn mực: ruột để ngoài da, vắt cổ chày ra nước, rán sành ra mỡ, ngàn cân treo sợi tóc... Sau này, chúng ta có: chân cứng đá mềm, dời non lấp biển, xoay trời chuyển đất, lấp biển ngăn sông...
    Có thể nói, thơ văn xưa của cha ông ta thường sử dụng và khai thác triệt để lối dùng ngoa ngữ. Riêng trong lĩnh vực này, người Việt thường đẩy cách nói lên đến mức cực đoan, quá quắt, thậm chí bất chấp cả luật cân đối nhằm mục đích nêu bật giá trị đích thực, gây tiếng cười sảng khoái.
    "Không chồng ăn bữa nồi năm
    Ăn đói ăn khát mà cầm lấy hơi
    Có chồng ăn bữa nồi mười
    Ăn đói ăn khát mà nuôi lấy chồng".
    "Chim khôn thì khôn cả lông
    Khôn cả cái ***g, người xách cũng khôn".
    "Tiếng đồn cha mẹ anh hiền
    Cắn cơm không vỡ, cắn tiền vỡ đôi"
    (Ca dao)
    Thúy Kiều là người con gái có ánh mắt và cặp lông mày đẹp đến mức "hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh", là nhân vật tài sắc vẹn toàn hiếm có "một hai nghiêng nước nghiêng thành".
    Những chi tiết Nguyễn Du tả trong truyện Kiều đã trở thành mẫu mực sáng tạo: Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây, lệ rơi thấm đá, đá cũng nát gan, xương trắng quê người, xương mai tính đã rũ mòn, ba thu dồn lại một ngày...
    Gác kinh viện sách đôi nơi
    Trong gang tấc lại gấp mười quan san
    Chùa là nơi Kiều được phái ra để chép Kinh với phòng đọc sách của Thúc Sinh chỉ kề nhau trong gang tấc, thế mà giờ đây đã mười lần cách trở quan san! Bằng phóng đại, Nguyễn Du đã cực tả được cái xa cách một trời một vực trong thân phận và cảnh ngộ của nàng Kiều và chàng Thúc.
    Bên cạnh việc dùng các từ ngữ và các cách diễn đạt sáng tạo để tạo ngoa ngữ, chúng ta còn có thể liệt kê hàng loạt những từ ngữ chuyên dùng để cấu tạo ngoa ngữ: cực điểm, cực kỳ, cùng cực, vô hạn độ, trứ danh, hết cỡ, chúa, kinh hồn, mê hồn, thấu trời, quá xá, đến chết, không chịu nổi, thấy ông bà ông vải, hết chỗ nói, không để đâu cho hết...
    Cùng với thời gian, cách nói ngoa cũng ngày càng phát triển, đa dạng và mang thêm những sắc thái mới của thời đại. Ngày nay, chúng ta vẫn thường gặp những câu khen kiểu: "Cái Hà xinh thì Hà Kiều Anh còn phải gọi bằng cụ", hoặc chê kiểu "... Thị Nở phải khóc thét".
    Với đặc trưng sử dụng rộng rãi về ngôn từ và cách diễn đạt, lối dùng ngoa ngữ có mặt tích cực là gây được hứng thú cho người nghe, nhưng lại có nhược điểm là có thể dẫn đến hiểu lầm nếu người dùng ngôn ngữ không cẩn thận lựa chọn ngôn ngữ và quá lạm dụng cách dùng này.
    Chính vì vậy, chúng ta không nên chỉ diễn đạt bằng ngoa ngữ, đặc biệt là trong văn bản khoa học, hành chính công vụ và chính luận. Tuy nhiên, trong một phạm vi cho phép và chừng mực nhất định, ngoa ngữ vẫn có những giá trị riêng, tạo một nét bản sắc cần thiết cho sự vận dụng tiếng Việt.
    phan hồng liên

    ...........................
    Cù Lần

Chia sẻ trang này