1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Giới thiệu sách mới "Để Tiếng Việt ngày càng trong sáng"

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi Giao_Hoang, 01/10/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Tiếng lóng trong tiếng Việt hiện đại


    Sơ lược về tiếng lóng
    Tiếng lóng là một thực tế đầy sinh động mà hầu như bất kỳ ngôn ngữ nào cũng có, dù muốn hay không. Văn hào Victor Hugo (1802-1885) từng chú ý sử dụng tiếng lóng trong tác phẩm Ngày cuối cùng của một tử tù (Le dernier jour d'un condamné; 1828); thậm chí còn dành hẳn cả quyển VII trong phần thứ tư của bộ tiểu thuyết đồ sộ nổi tiếng Những người khốn khổ (Les Misérables; 1861) để bàn riêng về tiếng lóng. Đây là những nhận định của Victor Hugo: "Tiếng lóng là gì? Là quốc gia, đồng thời là quốc âm; đó là sự đánh cắp dưới hai hình thức: nhân dân và ngôn ngữ. Tiếng lóng vừa là một hiện tượng văn học vừa là một kết quả xã hội. Tiếng lóng, căn bản là gì? Là ngôn ngữ của tiếng lóng khốn cùng. Mọi nghề, mọi nghiệp, có thể mọi ngẫu nhiên của hệ thống xã hội và hết thảy các hình thức của trí tuệ, đều có tiếng lóng của nó. Về phương diện thuần túy văn học, nghiên cứu tiếng lóng có thể kỳ thú hơn nhiều khoa học khác...".
    Ngày nay, phần lớn giáo trình ngôn ngữ học đại cương, tiếng lóng là nội dung không thể thiếu đối với chuyên đề từ vựng học. Trong các hội nghị, hội thảo khoa học - như hội nghị "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ" được tổ chức quy mô vào cuối tháng 10-1979, một số báo cáo nghiên cứu về tiếng lóng đã thu hút sự quan tâm của nhiều người. Cho đến nay, tồn tại lắm định nghĩa, cách phân loại và đánh giá khác nhau về tiếng lóng.
    Tiếng lóng (Hán: lí ngữ; Pháp: argot, Anh: slang cant/jargon) được Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (1992) cắt nghĩa: "Cách nói một ngôn ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, nhằm chỉ để cho trong nội bộ hiểu được với nhau mà thôi". Từ điển Petit Larousse illustré (1973) định nghĩa tiếng lóng: "Từ vựng riêng biệt của một nhóm, một nghề hoặc một giai tầng xã hội". Hiện đại Hán ngữ từ điển xuất bản ở Bắc Kinh (Trung Quốc -1998) giải thích về li yu (lí ngữ); "Những phương ngôn thô tục hoặc lưu hành hạn hẹp". Advanced learner's English dictionary (1993) viết về tiếng lóng: "Các từ, cụm từ rất thân mật, không nghi thức, thường dùng trong lời nói, nhất là giữa những người cùng một nhóm xã hội, làm việc cùng nhau và không được xem là thích hợp cho những bối cảnh nghi thức, cũng như chẳng thể sử dụng lâu dài". Qua loạt định nghĩa vắn gọn và phổ thông ấy, một số yếu tố của tiếng lóng đã bộc lộ:
    1. Đây là loại khẩu ngữ đặc thù dùng để giao tiếp phi chính thức trong một phạm vi xã hội hạn chế.
    2. Hoàn toàn thuộc lĩnh vực từ vựng và có tính chất lâm thời, bất ổn định.
    Tuy nhiên, các từ điển vừa dẫn đã không phân biệt tiếng lóng với biệt ngữ và tiếng nghề nghiệp. Giáo sư Đỗ Hữu Châu biên soạn Giáo trình Việt ngữ (Tập II: Từ hội học - NXB Giáo dục 1962) cho rằng: "Tiếng lóng (argot des déclassés) bao gồm một số từ bí hiểm để che dấu tư tưởng của người nói, không cho nhiều người ngoài tập đoàn xã hội của mình biết". Cũng Giáo sư Đỗ Hữu Châu, qua giáo trình Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt (NXB Giáo dục 1981), lại chỉ ra: "Tiếng lóng bao gồm các đơn vị từ vựng thuộc loại thứ hai trong các biệt ngữ, tức là những tên gọi "chồng lên" trên những tên gọi chính thức. Hiện tượng tiếng lóng là phổ biến đối với mọi tập thể xã hội. Hầu như tất cả các tập thể xã hội nào đã có cái gì chung về sinh hoạt hay về sản xuất, làm việc... thì đều có những tiếng lóng của riêng mình. (...) Do nhiều động lực khác nhau, như do ý muốn "tự bộc lộ" cái vẻ riêng của tập thể mình, do muốn gây được những sự chú ý đặc biệt, muốn che giấu những điều mà những người ngoài tập thể không nên biết, muốn biểu thị thái độ một cách mạnh mẽ... mà hằng ngày hằng giờ trong các tập thể xã hội đều xuất hiện tiếng lóng. Những tiếng lóng này rất "phù du", không hệ thống, lẻ tẻ, xuất hiện rồi mất ngay". Một số nhà nghiên cứu như Lưu Vân Lăng (1960), Hoàng Thị Châu (1989)... liệt tiếng lóng vào loại không lấy gì làm tốt đẹp vì phạm vi lưu hành "là trong đám người làm những nghề bất lương, bị xã hội ngăn cấm như bọn cờ bạc bịp, bọn ăn cắp, bọn buôn lậu". Sách Ngôn ngữ học: khuynh hướng - lĩnh vực - khái niệm của nhiều tác giả (NXB Khoa học Xã hội 1994) còn khẳng định: "Khác biệt ngữ, tiếng lóng có nghĩa xấu".
    Thực tế thì ở một số trường hợp, ranh giới giữa tiếng lóng với biệt ngữ và tiếng nghề nghiệp khó phân lập rạch ròi. Do đó, nhà nghiên cứu Da Zhaomin của Trung Quốc (1996) đề xuất cách gọi khác: ấn ngữ / ám ngữ / hắc thoại. Tác giả này lại chia ra hai loại lớn, gọi là "ẩn ngữ nghề nghiệp" và "ẩn ngữ giang hồ". Nếu thế thì cũng chưa lấy gì làm rành mạch!
    Một thực tế nữa: chưa hẳn tiếng lóng "chỉ thuộc bọn người xấu", là "ngôn ngữ dưới đáy xã hội". Giáo sư Đỗ Hữu Châu từng nêu thí dụ về tiếng lóng của giới sinh viên một thời, như mẹ đốp nhằm trỏ các nữ sinh đáo để, nhuận sắc có nghĩa là "đẹp một cách tươi mát", ngỗng để chỉ điểm hai, gậy - điểm 1...
    Tùy quan niệm rộng hẹp mà có những cách nhìn nhận khác nhau về tiếng lóng đối với công cuộc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt hiện nay.
    Tiếng lóng với ngôn ngữ toàn dân
    Tiếng lóng Việt Nam đã được bao học giả trong lẫn ngoài nước chú ý nghiên cứu từ đầu thế kỷ 20. Một trong những công trình đầu tiên về đề tài lý thú này là của J.N. Cheon, mang tiêu đề L'argot anamite (Tiếng lóng Việt Nam) đăng trên tập san trường Viễn Đông Bác Cổ (BEFEO) từ năm 1905. ứng Hòe Nguyễn Văn Tố (1889-1947) từng có khảo luận L'argot anamite de Hanoi (Tiếng lóng Việt Nam ở Hà Nội) công bố năm 1925. Nhiều chuyên gia về Việt ngữ học thời gian qua cũng dành công sức nhất định để nghiền ngẫm về tiếng lóng. Đến nay, tồn tại hai quan điểm trái ngược nhau trong việc nhìn nhận hiện tượng ngôn ngữ đặc thù này.
    Một quan điểm cho rằng tiếng lóng là hiện tượng không lành mạnh trong ngôn ngữ, nó chỉ tồn tại ở xã hội có giai cấp và mất dần đi, vì vậy phải triệt để chống tiếng lóng và kiên quyết gạt nó ra khỏi ngôn ngữ văn hóa. Đó là ý kiến của Nguyễn Văn Tu và Nguyễn Kim Thản... trình bày qua các ấn phẩm Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại (NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp 1976) hoặc Tiếng Việt trên đường phát triển (NXB Khoa học Xã hội 1982). Hãy đọc một đoạn trong tài liệu vừa dẫn đề cập đến tiếng lóng; "...không có tác dụng tích cực, không làm giàu thêm ngôn ngữ toàn dân" (tr.188)
    Quan điểm khác thì đề nghị chấp nhận những tiếng lóng tốt, tích cực, nhằm bổ sung cho ngôn ngữ toàn dân. Đó là ý kiến của Trịnh Liễn và Trần Văn Chánh... phát biểu trong hội nghị "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ" được tổ chức tại Hà Nội năm 1979. Đồng quan điểm ấy, Nguyễn Thiện Giáp soạn sách Từ vựng học tiếng Việt (NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp 1985) đã đặt tiếng lóng trong mối quan hệ với toàn bộ lớp từ tiếng Việt rồi cho rằng: Chỉ nên lên án những tiếng lóng "thô tục"; còn loạt tiếng lóng "không thô tục: là tên gọi có hình ảnh của sự vật, hiện tượng nào đó thì có khả năng phổ biến và thâm nhập dần vào ngôn ngữ toàn dân. Sách này còn chỉ ra rằng tiếng lóng chính là một phương tiện tu từ học được dùng để khắc họa tính cách và miêu tả hoàn cảnh sống của nhân vật trong các tác phẩm văn học nghệ thuật. Đây cũng chính là điều mà nhiều nhà nghiên cứu về tu từ học (rhétorique) về phong cách học (stylistique), cũng như nhiều cây bút văn chương, báo chí quan tâm tìm hiểu và vận dụng.
    Học giả Nguyễn Hiến Lê rất có lý khi cho rằng một trong những đoạn hay nhất trong Truyện Kiều của Nguyễn Du chính là lời thoại độc địa phát ra từ miệng Tú Bà lúc mụ "Nổi tam bành mụ lên" trước Thúy Kiều:
    Này này sự đã quả nhiên
    Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi!
    Bảo rằng đi dạo lấy người
    Đem về rước khách kiếm lời mà ăn
    Tuồng vô nghĩa ở bất nhân
    Buồn mình trước đã tần mần thử chơi
    Màu hồ đã mất đi rồi
    Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma!
    Con kia đã bán cho ta
    Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây
    Lão kia có giở bài bây
    Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe
    Cớ sao chịu tốt một bề
    Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!

    ...........................
    Cù Lần
  2. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Có thể tìm thấy trong đoạn lục bát đó ngồn ngộn tiếng lóng của giới "buôn phấn bán son" ở xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 19: đi dạo, rước khách, buồn mình, màu hồ, bài bây... Ví như thay loại từ ấy bằng chữ nghĩa "nghiêm chỉnh", ắt đoạn văn không chỉ mất hay mà còn hỏng nặng!
    Tương tự như thế, nếu không tích lũy vốn tiếng lóng phong phú để sử dụng phù hợp, thì bao phóng sự và tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng (1912-1939) làm sao cuốn hút độc giả. Từ thiên phóng sự Cạm bẫy người viết năm 1933, nhà báo - nhà văn Vũ đã "đưa ra ánh sáng" cả lô tiếng lóng tồn tại trong giới cờ bạc bịp thời đó: mòng, mẻng, bắt, viên đạn, hòn đạn, của, lộ tẩy, cản, quýnh... Đến các tác phẩm Kỹ nghệ lấy Tây (1934), Số đỏ (1936), Làm đĩ (1936), Lục xì (1937)... thì Thiên Hư Vũ Trọng Phụng trình thêm vô số "ẩn ngữ giang hồ" mà công chúng bình thường bấy giờ khó biết nổi: chạy làng, chánh, chúa, hao đào, ngày phiên, trô, xé giấy... Một tiểu thuyết nổi tiếng cũng vào giai đoạn ấy là Bỉ vỏ của Nguyên hồng (1918-1982) được xem đã chứa đựng một lượng lớn tiếng lóng, từ tiêu đề cho đến nội dung, với nhiều câu mà bạn đọc hẳn chưa quên:
    Anh đây công tử không vòm.
    Ngày mai kện rập biết mòm vào đâu?
    Trong số tiếng lóng thời kỳ qua, giờ dây có bao nhiêu đơn vị từ vựng trở thành quen thuộc và đi vào ngôn ngữ phổ thông? Chắc chắn không ít. Giáo sư Đỗ Hữu Châu từng trưng dãn cả loạt tiếng lóng được chấp nhận vào vốn từ ngữ chung: ba hoa, lộ tẩy, nguội điện, cổ lỗ sĩ, gạo, phe phẩy... Các tác giả sách Tiếng Việt trên đường phát triển (sđd, tr.188) cũng ghi nhận những tiếng lóng đã hội nhập vào ngôn ngữ toàn dân: quay cóp, móc ngoặc, phớt lờ... Tra cứu các từ điển tiếng Việt hiện đại, chúng ta còn phát hiện bao tiếng lóng từng hiện hữu trong quá khứ.
    Tiếng Việt, cũng như các ngôn ngữ khác, luôn cần được cộng đồng sử dụng cố gắng gìn giữ sự trong sáng đồng thời với việc tích cực phát triển. Nói cách khác, phát triển vừa là nguyên nhân, vừa là mục đích trong công cuộc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Theo quy luật chung, phát triển mạnh nhất luôn là từ vựng. Đóng góp vào khía cạnh này, rõ ràng có tiếng lóng. Sau một thời gian tồn tại chính thức, bất ổn định trong một phạm vi xã hội hạn hẹp, biết bao tiếng lóng sẽ không còn là... tiếng lóng. Hoặc chúng biến mất. Hoặc chúng trở thành đơn vị từ ngữ của toàn dân, được mọi người sử dụng rộng rãi, không chỉ tồn tại trong các tác phẩm văn chương báo chí, hoặc trên màn bạc, màn nhung, mà còn xuất hiện cả ở nhiều văn bản hành chính. Từ xì ke, xuất xứ bởi tiếng lóng scag, là một ví dụ.
    Quanh một từ điển tiếng lóng
    Như đã nói, tiếng lóng là một hiện tượng ngôn ngữ học xã hội có vai trò đáng kể đối với vốn từ vựng của toàn dân. Từ trước tới nay, nhiều chuyên gia về Việt ngữ đã quan tâm nghiên cứu tiếng lóng, song chỉ mới trình bày qua một vài chương đoạn trong các công trình liên quan đến từ vựng học, tu từ học, phong cách học; hoặc mới chỉ dừng lại ở báo cáo khoa học - như của Trịnh Liễn và Trần Văn Chánh năm 1979; hoặc mới giới hạn trong khuôn khổ bài báo - như bài Tiếng lóng trong giao thông vận tải của Chu Thị Thanh Tâm (Ngôn ngữ và đời sống, 1998). Cũng có vài sinh viên làm khóa luận tốt nghiệp đại học với đề tài tiếng lóng, như Lê Lệnh Cáp (1989) hoặc Lương Văn Thiện (1996). Tuy nhiên, một ấn phẩm độc lập đề cập về tiếng lóng và được phát hành rộng rãi thì mãi tới gần đây mới thấy xuất hiện. Đó là sách Tiếng lóng Việt Nam của tác giả Nguyễn Văn Khang, do NXB Khoa học Xã hội ra mắt vào tháng 4-2001.
    Sách Tiếng lóng Việt Nam gồm 236 trang (khổ 13x19 cm) được chia làm hai phần. Phần đầu là khảo luận Đặc điểm của tiếng lóng Việt Nam chiếm 39 trang (từ trang 9 đến 48). Phần còn lại là Từ điển từ ngữ lóng tiếng Việt. Do đó, xét về dung lượng, sách chính là pho từ điển tiếng lóng Việt Nam - một công trình biên soạn rất hữu ích với nhiều người. Song le, nếu mua và sử dụng cuốn sách công cụ này, bạn đọc ắt không tránh khỏi phân vân.
    Điều đầu tiên là soạn giả bỏ sót một thao tác tuy đơn giản song bất kỳ nhà từ điển học nào cũng đều chú ý nêu bật trước tiên: Thống kê số lượng mục từ hiện hữu trong từ điển. Kế tiếp, đặc trưng của từ điển này là tiếng lóng Việt Nam - mà soạn giả đã xác định rõ tính chất của nó là dạng ngôn ngữ "ký sinh" và "lâm thời" - thì điều cần thiết là phải hạn định thời gian chặt chẽ. Một đơn vị từ vựng ở thời điểm này là tiếng lóng, nhưng thời điểm sau đấy thì hết còn là tiếng lóng nữa rồi. ấy thế mà từ điển này thu thập tiếng lóng suốt thời gian dài và lại... ngắt quãng: Trong tác phẩm Bỉ vỏ của Nguyên Hồng (vào những năm 1930); rồi từ ngữ lóng xuất hiện cuối những năm 1970, đầu 1980, liên quan đến nhóm xã hội "vượt biên - di tản"; và từ ngữ lóng trong khoảng 10 năm trở lại đây, tức thập niên 1990...
    Đi vào nội dung từ điển tiếng lóng của Nguyễn Văn Khang, bạn đọc có hiểu biết ít nhiều về lĩnh vực này ắt không tránh khỏi thất vọng vì cách biên soạn thiếu khoa học. Buồn cười nhất là tồn tại khá lớn tiếng lóng bị định nghĩa... sai! Trong một ý kiến ngắn đăng trên tờ Tuổi Trẻ chủ nhật 24-6-2001, Bùi Cát đã sơ bộ chỉ ra chín đơn vị từ vựng mà từ điển này cắt nghĩa trật lất: khâu chẳng phải "cây vàng" (lạng/lượng vàng); nhạc sến chưa hẳn "nhạc buồn"; tài pán không phải "chủ chứa"; mắt trừu không phải "bao cao su tránh thai"; hết xí quách không có nghĩa "hết tiền"; mặt rô (maquereau/ma cô) cũng chưa chắc "dân giang hồ, dao búa"; còn bà già không phải chỉ mọi loại "máy bay cánh quạt".
    Có thể trưng dẫn thêm cả lô tiếng lóng đã bị từ điển này định nghĩa hoặc chưa đầy đủ, hoặc nhầm lẫn đến mức... phi thực! Từ ái chẳng hạn, đâu chỉ là "con trai có tính cách, cử chỉ, điệu bộ rụt dè (sic!) như con gái". Thế con gái cũng bị gọi ái thì sao? Chẳng qua, đấy là rút gọn cụm từ "ái nam ái nữ", dùng để chỉ trường hợp lưỡng giới tính (bi***ual), có khi còn được hiểu là đồng tính ái (homo***ual). Tiếng lóng đó cũng đồng nghĩa gai/ bóng / pê-đê / bê-đê (do chữ gay hoặc pédérastre, chỉ đồng tính ái nam); chứ bê-đê không phải là "giật đồng hồ" (tr.65). Giới "xã hội đen" thường gọi hành động giật đồng hồ bằng các tiếng lóng thổi đổng hoặc bốc hồ / múc hồ / tát hồ... Từ bắt dế cũng đâu chỉ có nghĩa "chép tài liệu vào miếng giấy nhỏ quấn lại bằng con dế mang vào phòng thi" (tr.63) mà còn là hành động nhặt tàn thuốc lá. Từ chặt hẻo chẳng phải chỉ mọi hình thức "chơi bài ăn tiền", mà là cách gọi một lối chơi với bộ bài tây: tiến lên. Chứ đánh xì phé, binh xập xám... dù ăn tiền hay không, chẳng ai gọi là chặt hẻo cả. Hàng tiền đạo có nghĩa dãy răng cửa, chứ nào phải "hàm răng hơi bị vẩu". Kết mô-đen không chỉ "quan hệ yêu đương" mà nói chung là thích, là khoái, là muốn. Mátximum đâu phải "nhậu hết cỡ", mà là bất kỳ cái gì đạt tới ngưỡng cực đại do chữ maximum (trái với minimum).
    Từ điển lại ghi sai chính tả không ít từ ngữ, điều khó chấp nhận đối với loại sách dùng để tra cứu. Thí dụ như rụt dè (rụt rè), sui (xui/rủi) thấy mồ... Nhiều tiếng lóng bị ghi không đúng hình thức ngữ âm. Chẳng hạn bá chảy (bá cháy / bá chấy), chè nghim (chè ghim), đam chuột (đâm chuột)... Từ chè ghim vốn do nói lái từ "chìm ghe" mà có. Từ đâm chuột, tức đâm tí, nói lái chệch thành "đi tắm". Do thiếu khảo sát kỹ về từ nguyên, đặc biệt là những tiếng lóng có nguồn gốc ngoại ngữ hoặc được cấu tạo bởi phương thức nói lái, nên soạn giả chưa đưa được lời giải thích đúng, đủ và có sức thuyết phục. Đó là trường hợp loạt từ đai, mo, xuya, bứt cỏ, chà đồ nhôm, hạ cờ tây...
    Lại thấy ngồn ngộn trong từ điển bao đơn vị từ vựng lâu nay thuộc ngôn ngữ toàn dân, thậm chí đã đi vào văn chương, ai ai cũng biết, cũng hiểu, cớ sao soạn giả xếp vào kho tiếng lóng? Như các từ mây mưa hoặc gò bồng đảo vốn là các điển cố mà bạn đọc quá quen thuộc qua thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương... Hoặc loạt từ ngữ bình thường, chẳng mang nghĩa đặc biệt và bí hiểm gì cả, như ấm đầu, bà xã, bộ cánh, bộ đồ vía, của quý, gà mờ, keo (kiệt), bao (cao su), ô dù, phê, đã, quỹ đen, sa lưới, sâu mọt, tồ, trồng cây si, viêm màng túi, vượt cạn, xe ôm... mà cho là tiếng lóng e chưa thích đáng.
    Trong Việt ngữ hiện đại, tiếng lóng ngày càng có xu hướng phát triển mạnh, nhất là đối với giới trẻ ở các đô thị, tạo nên hiện tượng mà các nhà nghiên cứu gọi là ngôn ngữ đường phố (street language). Hiểu biết và vận dụng tiếng lóng đạt mức độ cần thiết sẽ tạo nên những tác phẩm văn học, báo chí giá trị và có sức hấp dẫn. Jacques Prévert (1900-1977) ở Pháp là một minh chứng sinh động: thơ của ông đầy rẫy tiếng lóng, có tập được xuất bản tới hàng triệu cuốn. Đó là "hiện tượng thi ca" vô tiền khoáng hậu, khiến mọi người suy nghĩ. Ngay đến việc dịch thuật, với những văn bản nhất định, cũng rất cần tiếng lóng. Tiểu thuyết The Godfather (Bố già) nổi tiếng của Mario Puzo đã được nhiều người dịch ra tiếng Việt, song bản chuyển ngữ của Ngọc Thứ Lang được xem thành công nhờ biết tìm được nhiều tiếng lóng tương ứng.
    Rõ ràng, không chỉ các cây bút viết lách, dịch thuật, mà nhiều ngành hoạt động khác (như kịch nghệ, phim ảnh, giáo dục, từ thiện xã hội, công an...) đều cần có từ điển tiếng lóng. Đông đảo bạn đọc cũng cần để tra cứu cuốn sách, công cụ ấy bao giờ mới ra lò?.
    võ ngân vương
    ...........................
    Cù Lần
  3. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Thế nào là chuẩn?


    Trên báo chí gần đây hay gặp những bài viết kêu ca về việc dùng từ này sai nghĩa, từ kia đọc không đúng, thậm chí còn chê bai những cách hiểu sai, dùng không đúng chỗ một thành ngữ, một danh ngôn. Không ít những bài đó được "trao đi đổi lại". Và một vài vấn đề về quan điểm ngôn ngữ lộ ra quanh một chữ "chuẩn": Cần hiểu như thế nào? Sự vận dụng chuẩn như thế nào là đúng? Vai trò của các nhà văn hóa trong việc bảo vệ chuẩn?
    1. Chuẩn không bất biến
    Chuẩn trong ngôn ngữ là cách dùng ngôn ngữ (từ phát âm, ngữ nghĩa, đặt câu...) được số đông chấp nhận và dùng theo, vào một thời điểm nào đó trong một cộng đồng ngôn ngữ.
    Chuẩn là cái được số đông coi là đúng. Vì vậy nhiều người đã căn cứ vào những quyển từ điển (tập hợp những từ chuẩn) để phê phán những người dùng sai. Tất nhiên, tám chục triệu dân mà hằng ngày không có hàng trăm nghìn từ dùng sai thì mới lạ! Những cái sai cần chấn chỉnh, dọn vườn là những cái sai trong những môi trường văn hóa, những người cần thể hiện trình độ ngôn ngữ có văn hóa . (1)
    Tuy nhiên, trong khi phê phán những trưỡng hợp dùng sai so với chuẩn, người ta lại quên khá nhiều điều! Cái quên thứ nhất là có sự không hoàn toàn thống nhất giữa ngôn ngữ (chung) và lời nói (riêng). Người ta nói năng, một mặt tuân theo cái chuẩn, mặt khác lại tùy vào hoàn cảnh cụ thể mà vận dụng lệch chuẩn. Thế mới có "con vỏi con voi", mới có "ứ chịu"... mới có "thằng tiểu Phù Luông nó chửi mày" v.v... Thế là bên cạnh những "lệch chuẩn" do thiếu hiểu biết, do sơ suất... có những "lệnh chuẩn" cố ý của cá nhân thường là có trình độ sử dụng ngôn ngữ tốt. Những cái "lệch chuẩn" rất sinh động trong khẩu ngữ được cộng đồng chấp nhận và sử dụng. Một từ vô tư (rút gọn của "vô tư lự") ban đầu chỉ là "không phải lo nghĩ" nay thì đã có những nghĩa vui vui, hàm ý an ủi động viên nhau có tính chất vui đùa. Một từ xài (Từ điển tiếng Việt chỉ ghi nghĩa "tiêu dùng"), người ta đã có thể dùng với rất nhiều ý tứ:
    - Tôi mới xài cho con mẹ một trận
    - Thằng cha nọ thật hết xài!
    - Con nhỏ đó ngó bảnh chớ bị xài rồi. (2)
    Không có những "lệch chuẩn" tích cực ấy và sự lựa chọn của số đông trong cộng đồng thì ngôn ngữ làm sao phát triển phong phú được. Có thể nói ngôn ngữ tồn tại và phát triển trong mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, giữa cái chuẩn và những lệch chuẩn (của cá nhân, nhóm xã hội, địa phương).
    Chính vì thế mà chuẩn ngôn ngữ không hề bất biến. Nó cũng có sự sinh ra và cũng bị mất đi trong quên lãng. Khư khư giữ cái đúng cũ trong khi số đông (có các nhà ngôn ngữ, nhà văn, nhà báo...) đã công nhận cái đúng mới chính là bảo thủ, khó được đồng tình.
    "Khư khư giữ cái chuẩn cũ" đối với từ mượn (nhất là từ Hán Việt) lại có biểu hiện rất phổ biến là sự níu giữ từ nguyên không chấp nhận những biến đổi về ngữ âm, ngữ nghĩa hợp lý. Kể ra người có văn hóa, nhất là biết ngôn ngữ gốc, rất khó chấp nhận biến đổi kiểu thăm quan, cốt pha... vì sự biến đổi này quá mới và "kém văn hóa". Nhưng còn điền kính (điền kinh), ủy mĩ (ủy mị), cốc (coupe), tách (tasse) thì sao? Chả lẽ lại không công nhận? Sự biến nghĩa kiểu cứu cánh (từ "mục đích cuối cùng" thành "cái cứu giúp mình") thì dễ công nhận hơn (nhưng có người chỉ coi là một đồng âm mới!). Rất lạ là cho đến đầu thiên niên kỷ này mà vẫn có những người không công nhận sự sáng tạo và đóng góp của quần chúng nhân dân vào việc phát triển ngôn ngữ, tạo và khẳng định những chuẩn mới. Có người vẫn còn nghĩ rằng có thể có những "Ban" ở trung ương, có thể định ra những chuẩn cho mọi người theo các chuẩn cấm đoán, kiêng kỵ ngày xưa!
    2. Vai trò của số đông - Vai trò của "người dẫn đường"
    Như trên đã nói, số đông trong cộng đồng khi thấy những lệch chuẩn hay (trong khẩu ngữ và cả trong sách báo) đã chấp nhận và sử dụng rộng rãi. Những nghĩa mới của từ theo cách dùng mới của số đông được các nhà từ điển học đưa vào từ điển coi là một nghĩa nhánh hay một từ mới. Chuẩn mới được chính thức công nhận. Tuy nhiên các nhà từ điển học thường thận trọng trong việc này và đôi khi không phải không có những quan điểm không thật hợp lý trong việc chọn chuẩn. Vì vậy từ điển là công cụ tin cậy khi xác định chuẩn ngôn ngữ thật, nhưng cũng không phải là cứ nhất nhất theo từ điển. Từ xài Nguyễn Tuân dẫn ra cách đây bốn chục năm đến nay vẫn chưa được đưa vào từ điển. (3)
    Nói "số đông" là nói cả những người có văn hóa, có trình độ sử dụng ngôn ngữ cao, có nắm được lý luận ngôn ngữ. Đương nhiên, trong "số đông", tiếng nói của những người này có trọng lượng, có quyền uy hơn. Vì vậy, số đông sử dụng rộng rãi tạo thành những chuẩn mới được là có sự tham gia tích cực của những người này. Vai trò "dẫn đường" của họ thể hiện rõ khi họ căn cứ vào những thành tựu nghiên cứu ngôn ngữ học giải thích rõ những cái hợp lý, hợp quy luật trong những cách dùng mới và phân tích những cái chưa hay, chưa hợp lý của một cách dùng nào đó cũng như chủ động tạo từ kiểu Hoàng Xuân Hãn... Vai trò dẫn đường của các nhà văn hóa còn ở chỗ gương mẫu trong việc vận dụng chuẩn một cách hợp lý, đúng theo những quan điểm tiến bộ (như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, Tô Hoài v.v...). Nhờ sự dẫn đường tích cực của họ mà ngôn ngữ chung của toàn dân đúng chuẩn văn hóa phát triển ngày càng theo hướng tiến bộ, đáp ứng được yêu cầu của xã hội và thời đại.
    Có cần phải nói thêm rằng không phải không có những bậc thầy uyên bác cũng mắc sai lầm khi bảo vệ những chuẩn cũ? Ngay cụ Hoàng Xuân Hãn cũng muốn dùng sa vông thay xà phòng, cụ Hoàng Thúc Trâm cũng muốn khôi phục điền kính thay điền kinh... Những cái lầm kiểu ấy thật ra ai cũng có thể mắc, có đáng trách gì lắm đâu. Đáng trách là nhiều người không chịu vận dụng những hiểu biết, những quy luật ngôn ngữ học để đánh giá những lệch chuẩn, cứ nói bừa đi vì những định kiến của mình. Cũng có trường hợp người ta còn nhân danh dân tộc để chế giễu những phương thức tạo từ hợp lý, những từ mượn đáng mượn bằng những lời rất thiếu thận trọng.
    Thực ra quanh một chữ "chuẩn" còn có nhiều chuyện phải bàn mà chỉ riêng bài viết này thì không thể giải quyết đầy đủ. Có thể bài viết không tránh khỏi sai sót, hời hợt nhưng mong gợi ra được sự quan tâm bàn bạc chung.
    Lê Xuân Mậu

    ...........................
    Cù Lần
  4. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Viết và nói... thừa?


    Câu chuyện dòng sông
    Xin bắt đầu vấn đề "rắc rối và phức tạp" bằng chuyện sông nước cho có vẻ... thơ mộng. Vả lại, sông là một thực thể vốn quen thuộc, gắn bó với đời sống của tất cả chúng ta... Nhưng bạn có biết từ sông hiện hữu trong tiếng Việt có từ bao giờ không?
    Bằng công trình Nghiên cứu chữ Nôm (NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội 1981), tác giả Lê Văn Quán nêu nhiều chứng cớ và đi đến kết luận: Từ sông từng được dân ta sử dụng chậm nhất là vào thời nhà Lý (thế kỷ 11). Rất có thể từ này đã xuất hiện sớm hơn nhiều nữa. Biến thể ngữ âm của nó là song, sung, suông, thông, thỏỏng. Thí dụ: nậm Song và nậm Suông (phụ lưu của sông Chảy phía thượng nguồn), khe Sung (phụ lưu của sông Cả), nậm Thỏỏng tức Thông Lênh (thuộc tỉnh Lạng Sơn), An Thông (một tên cũ của sông Sài Gòn bây giờ)...
    Tác giả Nguyễn Văn Âu, qua sách Địa danh Việt Nam (NXB Giáo dục 1993), còn chỉ thêm: liên quan tới từ sông là từ krông rất phổ biến, chủ yếu trong cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên. Chẳng hạn Krông Knô và Krông Ana ở Đác Lắc, Krông Pôkô ở Gia Lai, Kon Tum... Biến âm của nó chính là kôn/côn. Sông Côn ở Bình Định là thí dụ. Ca dao:
    Côn giang cá chép mép son
    Lại Giang cá bống trắng non vóc ngà
    Biến âm kôn/côn cũng thấy tồn tại tít tận Quảng Ninh, như Côn Tát, Côn Nao, Côn No... Từ này, đối với tiếng Mường là khôông, đối với tiếng Cham là kraung/krôn. Thí dụ KrônBiynh ở Phan Rang. Người Thái tại khu vực Tây Bắc lại gọi sông là khung: Khung Giang, Khung Bích...
    Mở rộng biên giới khảo sát, chúng ta còn ngạc nhiên khi thấy sự tương đồng ngữ âm của từ đang đề cập. Với người Lào thì sông là kông/công: Mê Công. Các dân tộc cư ngụ phía nam Trung Quốc lại đọc là kôông, và viết bằng chữ "công" kèm theo bộ "thủy". Đó chính là chữ giang (theo âm Hán - Việt).
    Từ ấy, hàng loạt con sông được định danh trên văn bản bằng chữ giang: Trường Giang, Tây Giang, Hắc Long Giang, Bắc Giang, Bằng Giang, Lô Giang, Đà Giang, Nhuệ Giang, Hương Giang, Lại Giang... Xét về ngữ âm học lịch sử, phải chăng giang trong tiếng Hán khởi nguồn từ sông trong tiếng Việt cổ hoặc các từ tương đương trong ngữ hệ Nam á xa xưa?
    Những biến thể ngữ âm của sông trong tiếng Việt cổ như đã nêu, theo Nguyễn Văn Âu, còn chuyển thành slong. Phụ âm đầu "s" rơi rụng khi đã Hán hóa ra long. Và tùy cách hiểu khá chủ quan mà âm long được ghi bằng các dạng Hán tự khác nhau: hoặc chữ "long" có nghĩa là rồng, hoặc chữ "long" mang nghĩa phát đạt. Cứ liệu ngôn ngữ học này chính là lời giải thích đầy sức thuyết phục trước câu hỏi oái ăm: Tại sao trên đất nước ta có quá nhiều dòng sông mang tên Long? Nào là sông Long Đầu (Lạng Sơn), Long Hầu (Thái Bình), Long Môn (một đoạn sông Đà), Hoàng Long (Ninh Bình), Thị Long (tức sông Cang ở Thanh Hóa), Kim Long (Huế), Minh Long (Quảng Ngãi), Dương Long (Bình Định), Xuân Long (Phú Yên), Phước Long (tức sông Đồng Nai)... Nào là sông Long ẩn, Long Phương, An Long, Vĩnh Long, Long Mỹ, Long Xuyên, Long Hổ, Long Phú... là các chi lưu, phụ lưu của sông Tiền và sông Hậu chằng chịt khắp đồng bằng sông Cửu Long.
    Vâng, thì long chính là sông đấy thôi. Một số trường hợp, âm này còn biến thành lòng: sông Ba Lòng (Quảng Trị), sông Lòng Sông (Ninh Thuận - Bình Thuận), kinh/kênh Lòng Tàu (tên chữ là Long Tào, ở TP Hồ Chí Minh)...
    Như thế, rõ ràng krông, kôn, khôông, krôn, khung... hoặc giang, long, lòng... gì cũng mang nghĩa "sông" cả. Vậy hóa ra chúng ta dùng từ "hơi bị" thừa khi gọi con sông ở Thái Nguyên là sông Công (sông Sông ư?), sông ở Quảng Trị là sông Ba Lòng (sông Ba Sông?), sông ở Bình Định là sông Côn (sông Sông?), sông ở Đác Lắc là sông Krông Knô (sông Sông Chồng?) và sông Krông Ana (sông Sông Vợ?)... Lâu nay, mọi người cứ quen gọi sông Mê Công (sông Sông Mẹ) mà chẳng hề thắc mắc. Hỡi ôi!
    Cần nói thêm rằng, cũng tương tự ngôn ngữ của nhiều dân tộc trên thế giới, từ chỉ sông của cộng đồng dân tộc Việt Nam - bao gồm người Kinh và các dân tộc thiểu số anh em - thường xuất phát từ một từ chỉ nước. Trong tư duy người cổ, sông nước là khái niệm không tách bạch. Với người Thái, đó là nậm: nậm Nu, nậm Na... Tiếng Chăm là êa: êa Yeng, êa Gip... Tiếng Ê Đê và Gia Rai là ia/ya: ya Dran, ya Lap... Tiếng Mạ và Lạch là đa: Đa Nhim, Đa Lát, (biến âm thành Đà Lạt)... tiếng Mơ Nông là đạ Đạ Tẻh, Đạ Đờng (tức Đồng Nai)... Tiếng Ba Na là đăk: Đăk Tô, Đăk Sut, Đăk Lăk... Tiếng Mường là đác, được người Kinh gọi trại ra đức: Thiên Đức (sông Đuống), Chiêm Đức (sông Đáy), Nhật Đức (sông Thương), Nguyệt Đức (sông Cầu)... Tiếng Hoa là sui, ghi chữ Hán thành thủy: Hồng Thủy (sông Hồng), Thanh Thủy (sông Lô)... Chừng ấy đủ thấy bao từ ngữ liên quan từng giao thoa, tiếp biến trên cả địa bàn rộng lớn suốt thời gian dài dằng dặc.
    Đến đây, chắc bạn đủ giật mình nhận ra rằng tất cả chúng ta, chẳng từ một ai, thảy đều... nói lắp, còn viết thì theo kiểu... cà lăm! ở Tây Bắc, ta gọi sông Nậm Thỏỏng (sông Sông Sông?) và sông Khung Giang (sông Sông Sông?). ở Quảng Trị có sông Đakrông (lại sông Sông Sông?)... Lật bản đồ du lịch Việt Nam do Saigontourist in năm 1998, bạn sẽ thấy biết bao thủy danh bị ghi trùng lặp: Ia Krông Pôkô river (sông Sông Pôkô?), Ea Krông Ana river (sông Sông Sông Vợ), Đa Nhim river (sông Sông Nhim?)...
    Xin lưu ý rằng hiện nay nhiều ngôn ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số đang tồn tại và phát triển, một số còn được dùng để giảng dạy chính thức trong nhà trường, thì cách gọi địa danh trùng lặp như trên liệu có nên chăng? Nhằm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, bao phen chúng ta phản đối cách nói và viết thừa như "sông Hồng Hà", "sông Hương Giang" hoặc "núi Cấm Sơn", "chùa Thiếu Lâm Tự"... Vậy chúng ta sẽ xử lý sao đây trước vô số tên sông bấy nay cứ bị nói lắp và viết theo lối... cà lăm như tôi đã trình bày?
    Các từ tố ngỡ vô nghĩa
    Một giáo viên môn văn ở trường phổ thông nọ, nhiều năm liền nổi tiếng dạy giỏi, song lần ấy thực sự lúng túng khi học trò tò mò hỏi nghĩa một loạt từ quá ư quen thuộc:
    - Thưa, tăm trong tối tăm, nghĩa là gì? Bầu bạn, gìn giữ, thì bầu và gìn nghĩa là gì? Chợ búa, chùa chiền, đất đai, ít ỏi, thì búa, chiền, đai, ỏi, nghĩa là gì?
    Quả thật, trong hệ thống từ ghép của tiếng Việt hiện đại, nhất là những từ ghép song tiết, bên cạnh các từ mà mỗi yếu tố đều có nghĩa rõ rệt, lại tồn tại khá nhiều từ chứa một yếu tố rất khó cắt nghĩa tỏ tường. Yếu tố không mang ý nghĩa từ vựng cụ thể đó thường được các nhà ngôn ngữ học gọi là "từ tố vô nghĩa".
    Thực ra, gọi "từ tố vô nghĩa" là với cách nhìn hiện thời ở dạng tĩnh tại. Nếu truy cứu từ nguyên, sẽ thấy rằng chúng là những "từ tố có nghĩa". Xét theo trục lịch đại, như thế chúng chính là "từ tố mất nghĩa". Bàn vấn đề này, tác giả Nguyễn Ngọc San đã viết trong sách Tìm hiểu về tiếng Việt lịch sử (NXB Giáo dục 1993): "Hiện tượng mất nghĩa đồng thời cũng là hiện tượng xuống giá của một số từ bị loại ra hoặc bị hạn chế ở phạm vi sử dụng của một ngôn ngữ. Việc tìm hiểu giá trị ngữ nghĩa của những yếu tố mất nghĩa này là một bộ phận của việc nghiên cứu từ vựng lịch sử. Nó giúp ích nhiều cho việc định vị các lớp từ cũng như việc giải thích các văn bản lịch sử".
    Tìm hiểu ý nghĩa những từ tố vô nghĩa là việc làm khá thú vị và tốn lắm công phu. Tại hội nghị Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ tổ chức ở Hà Nội vào tháng 10-1979, Phạm Hùng Việt (Viện Ngôn ngữ học) đã nêu con số thống kê: trong tổng số khoảng 24.500 từ đa âm của tiếng Việt, có khoảng 2.800 đơn vị mang yếu tố vô nghĩa. Giải quyết đầy đủ chừng ấy khối lượng, nào phải chuyện dễ dàng. Lại thêm phải tham khảo biết bao tài liệu về tiếng Việt cổ và nhiều thứ tiếng của các dân tộc có quan hệ với tiếng Việt, về tiếng địa phương các vùng miền trên toàn quốc, về thuật ngữ của một số nghề truyền thống, về những tác phẩm folklore cũng như văn thơ từ thế kỷ 19 trở về trước, v.v... Nghĩa là phải vận dụng kiến thức đa ngành, liên ngành và xuyên ngành - chuyện cũng chẳng dễ dàng chi.
    Trên tạp chí Ngôn Ngữ số 2 năm 1970, tác giả Vương Lộc bước đầu tìm được ý nghĩa của 34 yếu tố. Năm 1979, Phạm Hùng Việt công bố thêm 22 yếu tố khác vừa được khôi phục nghĩa. Đến nay, tổng số từ tố vô nghĩa đã tìm lại ý nghĩa chỉ xấp xỉ con số 100. Nói chung là công việc tiến triển rất chậm. Tuy nhiên, với những kết quả đã đạt được, bạn có thể phần nào "vén màn bí mật" hiện hữu ngay trong "kho tàng của chúng ta": tiếng mẹ đẻ.
    Từ tố vô nghĩa thật sự
    ở đây, chúng ta sẽ không xét đến trường hợp từ ghép theo kiểu chính phụ mà trong đó một yếu tố tuy mang nghĩa rõ ràng, ai cũng biết, song đóng vai trò "hờ hững cũng như không". Chẳng hạn như cửa trong nhà cửa, hoặc ăn trong ăn nói, ăn mặc...
    Các yếu tố trong hàng loạt từ phiên âm đích thị là vô nghĩa nếu tách rời. Thí dụ: xà bông / xà phòng (do tiếng Bồ Đào Nha sa bão và tiếng Pháp savon), hủ tíu / hủ tiếu (do tiếng Triều Châu cổ chéo mà âm Hán Việt là quả điều), phô mai / phó mát (do tiếng Pháp formage), mít tinh (do tiếng Anh meeting ), lô cốt (do tiếng Đức blockhaus), ghi ta (do tiếng ý gitarre và tiếng Pháp guitare, tiếng Anh guitar), sát na (do tiếng Sanskrit ksana, phiên âm qua tiếng Hán), lì xì (do tiếng Quảng Đông mà âm Hán - Việt là lợi thị)... Có thể nói trừ một ít trường hợp ngoại lệ, thì đại đa số từ tố phiên âm tiếng nước ngoài đều không mang nghĩa và chúng chỉ có nghĩa khi tập hợp đủ yếu tố cần thiết.
    Tương tự như thế, các yếu tố trong những tổ hợp song tiết hoặc đa tiết sau đây thực sự vô nghĩa: tùm lum, thè lè, lớ ngớ, ba lăng nhăng... Nhiều người xác định đây là những từ láy thuần Việt. Đúng ra, chúng là từ gốc Môn - Khmer đã được du nhập vào tiếng Việt. Tlum, tiếng Cam-pu-chia, có nghĩa là rộng, ta phiên âm và phát triển nghĩa thành tùm lum. Còn thè lè thì phiên từ thle (nghĩa gốc là giơ ra, thòi ra), lớ ngớ vốn từ lngơ (nghĩa gốc: lạ lẫm), ba lăng nhăng xuất phát bởi blanhang (nghĩa gốc: vớ vẩn)... Tiêng Malaysia cũng góp nhiều từ vào kho tàng tiếng Việt qua con đường phiên âm: xà ích (do chữ saìs), mã tà (do chữ mata-mata)... Thí dụ một câu trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của cụ Đồ Chiểu: Kẻ đâm ngang, người chém dọc làm cho mã tà ma ní hồn kinh.
    Dương xuân thương

    ...........................
    Cù Lần
  5. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Những cặp từ song song tồn tại


    B>M
    Theo các nhà nghiên cứu chuyên ngành tiếng Việt lịch sử, thì cách đây 1.000 năm, người Việt sử dụng tiếng Việt - Mường chung. Từ khi xuất hiện cách phát âm Hán - Việt, tiếng Việt bắt đầu tách riêng, mặc dầu trước đấy trong tiếng Việt - Mường vẫn có một bộ phận từ vựng chịu ảnh hưởng tiếng Hán khẩu ngữ và đọc theo âm thượng cổ.
    Trải quá trình tách tiếng Việt khỏi tiếng Việt - Mường, hệ thống âm đầu của tiếng Việt dần chuyển biến. Dựa trên cứ liệu các ngôn ngữ họ Việt - Mường, đối chiếu cách ghi chữ Nôm và tư liệu điền dã về phương ngữ tiếng Việt, A.Haudricaurt đã chỉ ra nhiều dấu hiệu của quá trình này. Chẳng hạn sự chuyển biến phụ âm đầu b>m mà ngày nay chúng ta vẫn còn gặp. Thí dụ: bồ hóng ---> mồ hóng; bồ côi ---> mồ côi; bồ hôi ---> mồ hôi...
    Dễ thấy rằng phụ âm m tỏ ra thắng thế. Vậy nhưng, một nhà thơ thế kỷ 20 là Lưu Trọng Lư (1912 - 1991) đã có hai câu được xem là tuyệt bút, nguyên văn như sau:
    Giật mình ta thấy bồ hôi lạnh
    Mộng đẹp bên chăn đã biến rồi
    Sự chuyển hóa âm đầu (có thể kéo theo biến đổi thanh điệu hoặc không) hiện còn lưu dấu trong tiếng Việt, mà chẳng phải trường hợp nào cũng dễ dàng phân định hơn thua. Rõ ràng hiện tại, rách bướp đã nhường chỗ cho rách mướp. Nhưng bặm môi / mắm môi hoặc buồn ngủ / muốn ngủ thì vẫn song song tồn tại.
    G>NG
    Sự biến chuyển phụ âm đầu g>ng cũng vậy. Thực tế, ngước nhìn đã thay thế hẳn gước nhìn. Nhưng nhiều trường hợp vẫn tồn tại song song: ghé/nghé; gẫm/ngẫm; ghếch/nghếch... Hãy đọc lại bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống, tương truyền của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương (cuối thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19):
    Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
    Kìa đền thái thú đứng cheo leo
    Ví đây đổi phận làm trai được
    Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?
    Và sau đây là một khổ trong bài Thành phố hoa xuân, trích từ tuyển tập Đà Lạt thơ do Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 1996:
    Lắng tiếng ngàn thông
    Tỏ tình cùng gió
    Nghé trông sóng hồ
    Say hôn bờ cỏ...
    Chúng ta thấy rõ: ghé=nghé. Từ này được Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, 1992) giải thích bằng hai nghĩa: 1. Nghiêng đầu và đưa mắt nhìn; 2. Trông chừng, thỉnh thoảng chú ý đến.
    Có thể nói suy gẫm hoặc suy ngẫm; ghếch cổ hoặc nghếch cổ... Còn trường hợp ghiền/nghiện thì sao?
    Ngày nay, xu hướng dùng từ nghiện có vẻ chiếm ưu thế: nghiện rượu, nghiện thuốc lá, cai nghiện ma túy, nghiện ngập... Thế nhưng, diễn tả cảm giác "phê", thiên hạ lại dùng từ ghiền như đã ghiền, đỡ ghiền..., chứ chẳng ai nói đã nghiện hay đỡ nghiện... cả.
    Đ>D
    Hiện tượng xát hóa đ>d xảy ra trong quá khứ đã để lại sự tồn tại song song cả hai hình thức đối với tiếng Việt phổ thông cũng như giữa các phương ngữ tiếng Việt hiện nay. Thí dụ: đứt / dứt; đao / dao; đập / dập...
    Nghĩa tuy y hệt, nhưng tùy văn cảnh mà chúng ta dùng từ này hoặc từ kia. Tơ tình đã đứt thì cũng giống tơ tình đã dứt chăng? Chưa hẳn. Đứt còn có thể nối, chứ dứt thì xem như "thôi đã thôi rồi!". Nói đao kiếm cũng như dao kiếm. Song, chẳng ai nói đao mác, đao phay, đao thớt... mà phải nói dao mác, dao phay, dao thớt...
    Trường hợp đ thay d, tức ngược quá trình đ>d, cũng thấy xảy ra: cây da / cây đa; da thịt / đa thịt... Chỉ còn một số ít địa phương miền bắc dùng cây da, một vài làng quê miền trung dùng đa thịt.
    Có người đặt câu hỏi: Trong tiếng Việt phổ thông hiện đại, dùng đĩa hay dĩa thì chuẩn? Thí dụ: băng đĩa / băng dĩa; bát đĩa / chén dĩa... Xét về diện sử dụng, một nửa nước (các tỉnh phía bắc) quen dùng đĩa, một nửa nước (các tỉnh phía nam) lại xài dĩa. Xét về quá trình biến chuyển ngữ âm thì đ>d là hợp quy luật. Vậy nên chăng, xem đĩa / dĩa song song tồn tại và hình thức nào cũng đều được cộng đồng chấp nhận - tương tự hàng loạt trường hợp như nhầm / lầm; nhanh / lanh hoặc hoa / bông; lợn / heo... mà chúng tôi sẽ đề cập đầy đủ hơn vào một dịp khác.
    B>V
    Xu hướng xát hóa b>v xảy ra khá muộn, có lẽ vào cuối thế kỷ 17. Tra cứu Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của, bản in năm 1898, chúng ta còn bắt gặp lắm từ chưa biến đổi: bã bọt mép (vã bọt mép), bổng (vổng), bái (vái), béo (véo)... Về từ béo, từ điển này giải thích: "Dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ để vào một chỗ trong người mà cặp lại". Cần lưu ý rằng từ béo hoặc bẹo với nghĩa véo hiện vẫn còn được sử dụng ở nhiều tỉnh thành như Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng...
    Không hiếm trường hợp v không lấn nổi b. Thí dụ: phân bua / phân vua; ăn lận / ăn vận; bận áo / vận áo...
    Còn hầu hết trường hợp, cả hai hình thức đều song song tồn tại như bái lạy / vái lạy; cúng bái / cúng vái; bốc / vốc; băm / vằm... Thế nhưng, cũng tùy thuộc văn cảnh mà chúng tôi chọn từ để sử dụng cho thích hợp. Chẳng hạn có thể nói bốc một nắm gạo hoặc vốc một nắm thóc. Nhưng lại nói Đông y sĩ xem mạch bốc thuốc, chứ không phải vốc thuốc. Còn cô bé vốc nước đùa nghịch, chứ chẳng thể nói bốc nước đùa nghịch. Người ta thường bảo: Có bệnh thì vái tứ phương. Chứ chưa nghe ai bảo bái tứ phương bao giờ.
    NGuyễn tâm

    ...........................
    Cù Lần
  6. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Chuyện lai ghép từ Hán - Nôm


    Trong tiếng Việt có rất nhiều từ gốc Hán đọc theo âm Hán - Việt (âm Hán - Việt) này thành hình vào thời Đường và được người Việt dùng, khác với âm chuẩn và địa phương hiện nay ở Trung Quốc). Khối từ này vào tiếng Việt bằng con đường sách vở, được gọi là "chữ" để đối lại với các từ dân gian dùng gọi là "nôm". Nho sĩ xưa coi tiếng nôm là "nôm na", nhiều khi là "mách qué" nữa, dùng không sang bằng "chữ", gắn với trình độ học vấn của người dùng. Khối chữ nôm na này được các nhà ngôn ngữ ngày nay gọi là "thuần Việt" đỡ phần rẻ rúng hơn. (Thực ra cái khối "thuần Việt" này cũng chẳng "thuần" lắm, nó có nguồn gốc từ nhiều nơi, từ Tày, Thái, Khmer... và cả từ tiếng Hán mượn qua con đường dân gian cổ xưa như buồng, múa, xét... tương đương với phòng, vũ, sát ở khối Hán - Việt).
    Phải nhắc lại một chút như vậy để hiểu những lời chê trách của nhiều bậc thức giả nhiều chữ nghĩa (Hán và Hán - Việt), các vị bảo có nhiều chữ ghép "vô lối" nửa chữ, nửa nôm, nôm không ra nôm, chữ không ra chữ, lại còn thừa nữa: In ấn, vô bờ, đa phần, chung cư...
    Sự thực không thể chê trách đơn giản như thế được. Cái chuyện lai ghép kiểu nửa nôm nửa chữ, "Việt - Hán giao duyên" này có nhiều điều vừa lý, vừa thú lắm.
    1. Một kiểu tạo từ khoa học
    Khi đã mượn và dùng quen nhiều từ Hán - Việt như bất bình, bất kính, bất đắc dĩ... thì người ta nhận ra cái giá trị tạo từ của yếu tố bất. Có thể chưa ý thức đầy đủ về phương thức dùng "tiền tố" như được biết ở ngôn ngữ học sau này, nhưng người ta cũng đã biết dùng công thức bất + x. Với người Việt bình dân (có cả nho sĩ bình dân), sự phân biệt "chữ" với "nôm" không thật rạch ròi. Vì vậy có thể ghép bất + kể, bất + thình lình. Cái lối lai ghép có vẻ "bừa bãi" ấy cũng được thực hiện với vô, ta có vô kể... vô lối!
    Cũng như vậy, cái cảm thức ngôn ngữ đã cho bà con ta thấy cái kiểu dùng hậu tố hóa là hay nên từ các hình thức hợp tác hóa, công nghiệp hóa, người ta tạo ra trẻ hóa, ngói hóa rồi cho cả "tây tàu giao duyên": bê-tông hóa.
    Thiết tưởng kiểu tạo từ dùng tiền tố, hậu tố này là rất hay. Nó giúp ta phát triển vốn từ mạnh mẽ phục vụ nhu cầu diễn đạt chung. Rồi đây chắc ta cũng sẽ tách ra được nhiều tiền tố, hậu tố khác để dùng. Đương nhiên, một số từ tạo ra có thể không đạt yêu cầu về mặt nào đó sẽ bị loại bỏ (ví dụ thô thiển quá kiểu như "cứng hóa!").
    2. Ghép hai yếu tố đồng nghĩa chữ và nôm
    Nhiều người đã phát hiện hình thức lai ghép mà họ coi là "thừa" và "mách qué" vì chữ không ra chữ, nôm không ra nôm. Đó là những hình thức như in ấn, ca hát, lý lẽ. Thật ra ở hình thức lai ghép này có nhiều cái "lý" ngôn ngữ học rất đặc sắc.
    Giáo sư Hoàng Xuân Hãn cho rằng vì chú ý đến âm hưởng, đến nhạc tính khi đặt câu, dùng từ đã tạo ra "từ đôi" chỉ có một âm có nghĩa, âm kia thì không thêm một ý nào. Đó cũng là trường hợp "chắp một âm ta với một chữ nho, mà hai chữ cũng đồng một nghĩa như tùy theo, thờ phụng, thì giờ, danh tiếng...".
    Ngoài lý do tạo âm hưởng, giáo sư Hoàng Xuân Hãn còn nêu ra lý do nữa. Đó là "chữ đơn âm tiết dễ thoảng qua tri giác, chữ kép dễ gây chú ý hơn, giúp ta dễ hiểu câu hơn". Điều đó cũng giải thích việc thêm một âm nôm "dịch" luôn "chữ" đi trước để thành từ kép.
    Theo tôi, còn phải thêm rằng khi đặt hai âm "nôm" - "chữ" đồng nghĩa bên nhau để tạo thành một từ, người Việt cũng chỉ thực hiện một kiểu ghép đẳng lập: Ghép hai từ gần nghĩa để tạo ra một từ ghép có tính khái quát, tổng hợp. Lý lẽ, ca hát, in ấn không còn giữ nghĩa của các từ đơn tiết nôm, hán nữa. Cũng chính vì thế không thể nói "Cô ấy ca hát bài Tình ca Tây Bắc rất hay" hoặc "Tôi vừa đưa in ấn quyển tiểu thuyết ấy". Cũng có khi tạo từ như thế người ta đã tạo ra một sắc thái nghĩa riêng. Ví như danh + tiếng sẽ thành từ chỉ "tiếng tăm tốt" không chỉ là "tiếng tăm" nói chung. Hơn nữa đây có thể là do thói quen gắn "nôm" với "chữ" (khi có thể được) để bà con bình dân dễ hiểu. Thấy thuận tai, thuận miệng dễ hiểu và đạt yêu cầu diễn đạt, cộng đồng đã chấp nhận như một phương thức tạo từ.
    Cách tạo từ bằng các yếu tố gần nghĩa là cách làm quen thuộc, ở tiếng Hán cũng có nhiều từ tạo ra như thế: đẳng cấp, hoa mỹ, mỹ lệ... có ai chê là thừa đâu! Còn như lai ghép chữ - nôm thì cũng là bình thường, ta đã làm quen cả rồi mà. Những người biết chữ Hán thì kêu là thừa, nhưng nếu các nho sĩ dịch luôn để người bình dân hiểu ngay thì có gì đáng trách. Còn người bình dân vì những lý do ngôn ngữ học như đã nói, họ thấy chả có gì trái tai, khó đọc, khó hiểu cả, chả có gì thừa cả! Họ tiếp nhận cả khối cái ngữ nghĩa ấy. Thực ra đối với họ, gốc gác từ nguyên, đâu có quan trọng, để ý làm gì, hiểu nhau là được.
    3. Còn nhiều kiểu ghép
    Không chỉ có những kiểu lai ghép có thể "mô hình hóa" như trên. Còn có những kiểu như chung cư... cứ tưởng như Hán - Việt "xịn" hóa ra không. Có đến mấy từ "chung" Hán - Việt: cuối hết, trọn, chén uống rượu, - cái chuông, đồ dùng để đong v.v... không có chữ Hán - Việt nào có nghĩa là "cùng với nhau" (Từ điển Tiếng Việt) như ở đây cả. Vì vậy người ta bảo là "vô lối" không ra thể thống gì. Nhưng bà con ta thấy dùng rõ nghĩa mà lại gọn hơn "nhà tập thể" nên cứ dùng.
    Thật ra có lẽ cũng có nhiều chữ lai ghép kiểu này. Chữ kết tủa, chữ tá tràng là thế cả. Các nhà khoa học tạo ra theo các mô hình tạo từ đã có và được chấp nhận, đi vào từ vựng Việt. Chẳng ai thắc mắc là nó có phải là chữ nghĩa thánh hiền hay không!
    Cái ý thức tạo từ ấy còn được vận dụng vào việc dùng cả hai yếu tố Hán nữa. Nhờ vậy từ vựng Việt phát triển mạnh những năm 1940 khi mà nhu cầu giảng dạy, xây dựng các ngành khoa học Việt Nam trở thành cấp bách. Các ngành khoa học xã hội (Văn, Luật, Triết...) đến các ngành khoa học tự nhiên (Toán, Lý, Hóa, Y, Dược...) nhiều khi chỉ có hình thức Hán - Việt. Các từ này chỉ là của người Việt dùng (Hoàng Thúc Trâm gọi là "Việt dụng"), chắc chắn viết ra chữ Hán thì người Hán chịu, chả hiểu mô tê gì!
    Và nói cho cùng, có lẽ hiện tượng "lai ghép" này rất gần với kiểu "bình dân hóa", "đại chúng hóa", từ Hán - Việt mà những người "nặng đầu óc dân tộc" quen gọi là "Việt hóa" - như ta thường gặp là đảo trật tự các thành tố từ ghép: hiếu đạo - đạo hiếu, nội hướng - hướng nội, biên mậu - mậu biên (mậu dịch biên giới)... Cũng có thể đảo kết hợp với dịch một yếu tố: trung quy mô - quy mô vừa, vũ điệu - điệu múa...
    Xung quanh cái chuyện chữ nghĩa lai ghép này thỉnh thoảng lại có tiếng kêu ca. Thành thử cũng phải xin nói đôi điều để "biện minh" cho bà con bình dân mình.
    lê xuân mậu

    ...........................
    Cù Lần
  7. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Lại nói về việc dùng tiếng nước ngoài


    Mặc dù đã có không ít tiếng nói nhắc nhở việc không nên dùng tiếng nước ngoài bừa bãi, nhưng trong nhiều bài viết, bài nói trên các phương tiện thông tin đại chúng, một số người vẫn cứ "xài" tiếng nước ngoài một cách... "vô tư"! Có một nghịch lý là cái tệ hại ấy xuất hiện nhiều hơn cả trong lĩnh vực văn hóa! Sau đây xin đề cập một số trường hợp tương đối phổ biến:
    - Trong lĩnh vực ca, nhạc: Về tên gọi các nhạc cụ có nguồn gốc phương Tây, có thể chấp nhận việc dùng các từ tiếng nước ngoài (trong nguyên dạng hay được phiên ra chữ quốc ngữ), dù từ đó đã từng được dịch nghĩa ra tiếng Việt, vì chúng là những thuật ngữ ít nhiều mang tính quốc tế. Thí dụ như từ "vi-ô-lông" - đã được dịch là "vĩ cầm" - phiên ra từ tiếng Pháp: "violon", còn trong tiếng Anh là "violin" đều do từ nguyên "violone" trong tiếng Italy ra. Hay từ "ghi-ta" - đã được dịch là "lục huyền cầm" - là phiên từ tiếng Pháp "guitare" ra, còn trong tiếng Anh là guitar (cũng đọc là ghi-ta), trong tiếng Italy là "gitarre", đều bắt nguồn từ từ "guitarra" trong tiếng Tây Ban Nha. Thế nhưng không thể dùng các từ "guitarist", "pianist", vì tiếng Việt vốn không có biến hình: người (hay nghệ sĩ) chơi đàn ghi-ta, người (hay nghệ sĩ) chơi đàn pi-a-nô. Tương tự như vậy, tiếng Việt đã có "người đơn ca", "người độc tấu", sao lại cứ phải viết theo tiếng Pháp: là "soliste", hay theo tiếng Anh là "soloist"?
    Với các hoạt động nghệ thuật, người ta không chịu nói một cách đơn giản "cuộc thi âm nhạc" mà phải nói "concours pi-a-nô", "concours vi-ô-lông"... cho có vẻ long trọng (!) (ấy là chưa kể nhiều khi người viết quên đi chữ "s" cuối, chỉ còn "concour" trơ trụi). Còn "đại hội liên hoan" các ngành nghệ thuật thì gọi là "festival", "hội diễn ghi-ta" thì gọi là "guitar gala", "chuyến lưu diễn" thì gọi là "tour diễn". Phổ biến nhất hiện nay là từ "show" (có người viết là "sô") để chỉ việc trình diễn, buổi (hay tiết) trình diễn nghệ thuật. Từ đó đẻ ra một lô từ phát sinh: chạy show (sô), đi show (sô), nghệ sĩ show (sô), bầu show (sô), và cả "sô Tây" nữa. Không bằng lòng với từ "ngôi sao" (sân khấu, điện ảnh), người ta dùng từ "vơ-đét"; cho rằng nói "tiền thù lao cho nghệ sĩ" có vẻ không được lịch sự, người ta phải dùng từ "cát-sê" (có khi còn viết là "cát-xê"). Không chỉ mượn các danh từ, người ta còn "nhập khẩu" cả động từ vốn nhạy cảm về tính dân tộc của ngôn ngữ hơn: người ta lấy từ "lăng-xê" (lancer) trong tiếng Pháp để viết "lăng-xê" một tác phẩm, một ban nhạc, một giọng hát, một tác giả. Tại sao không nói "tung ra", hay "quảng cáo cho" hay "tán dương"...?
    - Trong lĩnh vực điện ảnh, sao cứ phải gọi "máy quay phim" là camera và "người quay phim" là cameraman? Sao không nói "phần giới thiệu phim" mà phải nói "générique phim"! Thật chỉ khổ cho người không học tiếng Anh, tiếng Pháp.
    - Trong lĩnh vực thể thao cũng không hiếm kiểu dùng tiếng nước ngoài vô lối như vậy. Để nói đội bóng này "kỵ lối chơi" của đội bóng kia, người ta hay nói "kỵ rơ" (phiên âm không chính xác từ "jeu" của tiếng Pháp); để nói lối chơi ép sân (hay siết chặt) người ta dùng "lối chơi pressing"; để chỉ "vận động viên xe đạp" (có cách nói hay: tay đua xe đạp), người ta thích gọi là cua-rơ xe đạp; để chỉ người "hâm mộ", "say mê" thể thao, người ta gọi là "fan".
    Ngoài ra, còn một số từ khác liên quan đến hoạt động văn hóa, mà gần đây báo chí thường dùng như từ "băng-rôn" (phiên âm từ "banderole" trong tiếng Pháp) thay cho từ "biểu ngữ" vốn đã thông dụng từ lâu...
    Hẳn có người sẽ nói rằng, những từ đó là thông dụng trong giới nghệ thuật, thể thao, thậm chí một số người ngoài cuộc cũng đã quen thuộc. Tuy nhiên ở đây lại trở lại những vấn đề rất cơ bản đối với người viết báo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra cách đây hàng bốn mươi năm: "Viết cho ai xem?" "Viết để làm gì"? (*)
    Thiết nghĩ việc xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc phải bắt đầu từ những cái gì thông thường trong cuộc sống hằng ngày, trước hết là tiếng mẹ đẻ.
    lê hoài nam
    ------------------------------
    (*) Hồ Chí Minh: "Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ ba của Hội nhà báo Việt Nam" (8-9-1962)

    ...........................
    Cù Lần
  8. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Quanh một chữ "tự"


    Trong từ vựng tiếng Việt hiện đại, chữ tự mang nhiều nghĩa khác nhau tùy ngữ cảnh:
    1. Như chữ từ, song có ý nhấn mạnh. Thí dụ: Ngay tự phút đầu.
    2. Tại, bởi vì: Tự mày nên xôi hỏng bỏng không.
    3. Tên chữ - một loại tên riêng mà các nho sĩ ngày xưa thường đặt thêm cho mình bên cạnh tên chính thức và thường dựa vào mối quan hệ ý nghĩa giữa tên chính thức với điển cố, điển tích nào đó: Cao Bá Quát tự là Chu Thần.
    4. Từ Hán - Việt dùng chỉ chùa là nơi thờ Phật: Tòng Lâm tự viện. Chữ này còn có biến âm là từ, dùng để gọi người giữ chùa, đền, miếu: ông tự/ông từ. Tục ngữ: Lừ đừ như ông từ vào đền.
    5. Từ dùng để chỉ bản thân chủ thể nhằm biểu thị:
    - Việc nói đến là do chủ thể làm hoặc gây ra bằng ý chí, sức lực và khả năng của riêng mình: Nàng tự đan lấy chiếc áo...
    - Chủ thể đồng thời là khách thể chịu sự ảnh hưởng của hoạt động do chính mình thực hiện: Anh ấy tự phê bình một cách thành thật và thẳng thắn.
    Chữ tự theo nghĩa thứ năm là yếu tố quan trọng tạo thành động từ tự phản (verbe pronominal) hoặc tự động từ (mot automatique). Với khả năng chuyển hóa, biến đổi từ loại một cách mạnh mẽ và phong phú của tiếng Việt, những kết hợp từ ấy có thể là động từ hoặc danh từ, tính từ... tùy trường hợp nhất định. Thí dụ: Vì nóng giận, nó không tự chủ nổi. Trong công việc, cô bộc lộ tính tự chủ rất cao.
    ở bài này, xin nêu vài kết hợp từ có yếu tố tự mà chúng ta dễ nhầm lẫn, hoặc chưa rõ nghĩa tường tận khi sử dụng.
    Tự tử chưa hẳn là tự vẫn
    Một học sinh làm bài tập làm văn đã viết: Hai Bà Trưng nhảy xuống sông Hát để tự vẫn. Còn đây là một câu trích nguyên văn từ bài tường thuật đăng trên tờ báo nọ: Ông X đã treo cổ tự vẫn bằng dây điện thoại ở nhà riêng. Dùng từ như thế là sai! Sai chỗ nào?
    Tự vẫn/tự vận chỉ riêng trường hợp chủ thể tự tay dùng dao cắt cổ mà chết. Nếu gieo mình xuống nước, tự dìm thân vào nước để chết thì gọi là tự trầm. Nếu chủ thể tự thắt cổ, treo cổ khiến ngạt thở rồi chết, phải gọi là tự ải. Còn tự bản thân tìm đường "chầu ông bà ông vải" bằng cách dùng lửa nung đốt châu thân thì gọi là tự thiêu.
    Tất cả trường hợp vừa nêu được gọi chung là tự tử. Từ này đồng nghĩa với tự sát, hoặc tự tận, hoặc quyên sinh, hoặc quyên mệnh. Tuy nhiên, như đã chỉ rõ, không phải ai tự tử hoặc quyên sinh thảy đều tự vẫn hay tự thiêu đâu! Học giả Đào Duy Anh đã phân biệt rạch ròi ý nghĩa các từ này trong Hán - Việt từ điển bằng cách chua thêm tiếng Pháp:
    Tự tử/tự tận/tự sát: Se suicider (mình giết mình)
    Tự ải: Se pendre (tự treo cổ chết)
    Tự trầm: Se noyer (tự dầm mình xuống nước mà chết)
    Tự vẫn: Se couper la gorge (tự cắt cổ mà chết)
    Tự kiểm và tự phê
    Tự kiểm là nói tắt, viết gọn cụm từ tự kiểm điểm hoặc tự kiểm thảo. Vậy "kiểm thảo" nghĩa gốc là gì?
    Nhà văn kiêm nhà báo Vũ Bằng, trong tập Nói có sách (Nhà xuất bản Đồng Tháp tái bản năm 1996, trang 81), ghi nhận: "Kiểm thảo nguyên là một chức quan trong Hàn lâm viện thời phong kiến, hàm tùng thất phẩm (Hàn lâm kiểm thảo). Sở dĩ người ta hay nhắc đến chữ kiểm thảo nhiều là vì tổ chức hay dùng chữ kiểm thảo, tức là kiểm soát và thảo luận xem có đúng hay không, để tìm nguồn gốc những khuyết điểm hay ưu điểm. Tự mình kiểm thảo lấy mình, là tự kiểm thảo; phê bình lấy mình, không do ai bắt buộc là tự phê bình".
    Tra bộ Hán - Việt từ điển do Đào Duy Anh soạn năm 1931, chỉ thấy giải nghĩa "kiểm thảo" là "chức quan trong Hàn lâm viện, hàm tòng thất phẩm" mà thôi. Vậy phải chăng "kiểm thảo" là từ ghép tĩnh lược "kiểm tra + thảo luận" xuất hiện về sau? Riêng từ "kiểm điểm", bộ từ điển này cắt nghĩa là "chú ý đếm xét lại" (examiner).
    Cũng theo tập Nói có sách của Vũ Bằng, thì tự phê bình là "chữ tắt của tự ngã phê bình, nói tắt hơn nữa có thể dùng từ tự phê, tức là tự mình phân tích những hành động và tư tưởng của mình, tìm nguyên nhân đã tạo ra ưu điểm và khuyết điểm để phát huy cái hay và khắc phục cái xấu".
    Xét chung, tự kiểm và tự phê là từ đồng nghĩa. Song trong thực tiễn sử dụng hiện nay, tự kiểm dùng chỉ thao tác phân tích, rà soát lại mặt mạnh lẫn mặt yếu của bản thân, còn tự phê thì thiên về nhận khuyết điểm, nhược điểm. Tự phê thường dùng cho việc phát ngôn: Buổi họp tự phê. Còn tự kiểm thường dùng khi vận dụng văn tự: Viết bản tự kiểm. Hai từ này có thể hoán đổi cho nhau trong hầu hết trường hợp.
    võ ngân vương

    ...........................
    Cù Lần
  9. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Viết hoa - chuyện không đơn giản


    Một trong những mục tiêu mà công cuộc "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt" hướng tới là chuẩn hóa và thống nhất về mặt chính tả, trong đó có vấn đề viết hoa. Tưởng chừng đây là "chuyện dễ", song đi vào lý thuyết cũng như thực tiễn sử dụng thì mới thấy... rắc rối muôn vàn!
    Xưa, ông cha ta dùng chữ Hán, chữ Nôm, hoàn toàn chẳng cần viết hoa hay viết thường. Từ khi chữ quốc ngữ sử dụng các mẫu tự Latin được hình thành và phổ cập rộng rãi, vấn đề viết hoa mới đặt ra.
    Có lẽ nên ghi chú điều này: Hiện nay, cũng tương tự chữ Hán, trên thế giới còn một số hệ thống văn tự chẳng có lối viết hoa. Như chữ ả Rập, chữ Thái, chữ Lào, chữ Khmer... Ngay cả những ngôn ngữ sử dụng mẫu tự Latin để ghi chép thì tùy từng dân tộc, từng cộng đồng mà quy cách viết hoa cũng khác nhau. Văn tự Đức chỉ viết hoa chữ đầu câu và viết hoa mọi danh từ trong câu; không phân biệt danh từ chung với danh từ riêng, mà chỉ phân biệt danh từ với tất cả các từ loại khác. Văn tự Pháp có cách viết hoa gần giống Việt Nam, song cũng có những khác biệt nhất định.
    Không kể lối viết hoa trang trí trong nghệ thuật đồ họa, vì lý do thẩm mỹ, chữ chẳng đáng viết hoa vẫn viết hoa và ngược lại (thường thấy trên bìa sách báo và các bao bì hàng hóa, bích chương) thì viết hoa trong tiếng Việt hiện đại nhằm thể hiện bốn chức năng cơ bản: cú pháp; tu tù; đối lập danh từ riêng với danh từ chung; biệt hóa tên cơ quan, đoàn thể, tổ chức, sản phẩm... Chúng ta thử xem xét lần lượt từng loại.
    Viết hoa cú pháp
    ấy là đánh mốc sự bắt đầu một câu. Cứ mở đầu một câu, chữ đầu tiên phải viết hoa, bất kỳ đó là chữ gì. Điều này tạo phân đoạn về phương diện cú pháp, khiến ý tưởng trình bày được mạch lạc, khúc chiết, dễ tiếp thu. Đây là lối viết hoa bắt buộc của chuẩn chính tả Việt ngữ hiện đại, nhìn chung được thực hiện thống nhất khắp toàn quốc, từ bắc tới nam. Kể cả người nước ngoài và bà con Việt kiều dù ở phương trời nào, khi soạn thảo văn bản tiếng Việt đều nghiêm túc tuân thủ quy định này.
    Thực ra, quy định này được xác lập cách đây chưa lâu lắm. Theo nhiều nhà nghiên cứu, giai đoạn chữ quốc ngữ hình thành vào thế kỷ 17 thì lối viết hoa cú pháp chưa xuất hiện. Sách Phép giảng tám ngày của Alexandre de Rhodes in song ngữ Latin - Việt vào năm 1651, cũng như các thư từ viết bằng chữ quốc ngữ thời ấy còn lưu lại, cho thấy: người ta chỉ viết hoa sau đoạn xuống hàng và chữ viết hoa được viết thụt đầu dòng; còn các câu trong đoạn văn thì viết thường chữ đầu cả. Phải đến tháng 4-1865, khi Gia Định báo - tờ báo Việt ngữ đầu tiên ở nước ta - ra đời thì lối viết hoa cú pháp như hiện nay mới thực sự được khẳng định.
    Căn cứ tín hiệu nào mà chúng ta viết hoa cú pháp? Dấu chấm (.). Cứ chấm hết câu thì viết hoa mở đầu câu kế tiếp. Đó còn là dấu chấm hỏi (?) và dấm cảm thán (!). Rắc rối là dấu chấm lửng... (...) vì nó có thể kết thúc một câu, nhưng nó có thể nằm giữa câu trong trường hợp liệt kê hoặc do chủ ý người viết muốn gây bất ngờ hay diễn tả sự ngắt quãng, sự kéo dài về âm thanh, v.v. Hãy so sánh mấy thí dụ sau:
    - Lòng ta rộn rã nỗi yêu thương... (thơ Hàn Mạc Tử)
    - Cờ bạc là bác thằng... ăn trộm.
    - Bước chân ra đi, nó khóc mãi... khóc mãi...
    - Trang trại được trồng cam, quýt, xoài, điều... thành từng luống ngay hàng thẳng lối.
    Dấu chấm phẩy (;) cũng là tín hiệu tương tự dấu chấm lửng: sau dấu này, có khi viết thường, có khi viết hoa. Đọc nhiều tác phẩm, ta thấy các phần tương đối độc lập trong câu được ngăn cách bằng dấu chấm phẩy, chữ tiếp theo vẫn viết thường. Thế nhưng, ở nhiều văn bản hành chính, nhất là phần "căn cứ", "chiếu theo", "xét đề nghị"... nêu đầu tiên, thì sau các dấu chấm phẩy lại là xuống dòng và viết hoa.
    Sau dấu hai chấm :-)) cũng thế. Có trường hợp viết hoa. Có trường hợp viết thường. Lắm khi rơi vào tình trạng "chín người... mười ý"!
    Viết hoa tu từ
    Danh từ chung, theo nguyên tắc là không viết hoa nếu nó không nằm đầu câu. Thế nhưng, trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định, muốn nhấn mạnh một từ nào đấy, làm cho từ ấy mang sắc thái biểu cảm, thì người ta viết hoa. Thí dụ:
    - Con Người, hai tiếng vang lên đầy kiêu hãnh!
    - ý niệm về Mẹ thường không thể tách rời ý niệm về Tình Thương...
    Viết hoa, qua những thí dụ vừa nêu, thường biểu lộ sự tôn kính, góp phần làm câu văn thêm độc đáo. Có thể gọi đây là lối viết hoa tu từ.
    Viết hoa tu từ còn được áp dụng khi ghi tước vị, cấp bậc, chức vụ hoặc các yếu tố khác gắn với tên riêng, đặc biệt là các bậc danh nhân. Điều này dẫn tới nhiều cách viết, tạo ra sự không thống nhất.
    Thử so sánh:
    - Phù Đổng Thiên Vương
    - Phù Đổng thiên Vương
    - Phù Đổng Thiên vương
    - Phù Đổng thiên vương
    Người ta tỏ ra phân vân, chẳng biết nên viết Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn hay viết chúa Trịnh, chúa Nguyễn. Nếu viết hoa chữ "Chúa", thì phải viết Vua Lê, Vua Nguyễn. Nếu viết thường chữ "chúa", chữ "vua" ắt phải viết trạng Quỳnh, nghè Tân, đồ Chiểu, tú Xương... Vậy cũng đủ thấy rằng viết hoa hay viết thường chưa dễ đạt tới sự nhất trí trong một sớm một chiều!
    So với lối viết hoa cú pháp, thì lối viết hoa tu từ đã xuất hiện sớm hơn: ngay từ khi chữ quốc ngữ hình thành vào thế kỷ 17. Đến nay, dù có đôi điểm chưa thống nhất như đã nêu, song cả hai lối viết hoa trên đại thể đều đã đạt đến quy cách sử dụng tương đối ổn định trong cộng đồng người Việt.
    Phức tạp, rắc rối là chuyện viết hoa để đối lập danh từ riêng với danh từ chung, và nhất là lối viết hoa nhằm biệt hóa tên gọi cơ quan, đoàn thể, tổ chức, sản phẩm...
    Viết hoa để đối lập danh từ riêng chung
    Danh từ riêng là gì? Danh từ chung là gì? Chúng khác nhau chỗ nào? Theo công trình Hoạt động của từ tiếng Việt do Đái Xuân Ninh biên soạn (NXB Khoa học xã hội, HN 1978), thì: "Danh từ riêng là tên gọi của một người, một vật, một tập thể riêng biệt. Danh từ riêng phân biệt rõ rệt với danh từ chung về mặt chức năng ngữ nghĩa. Danh từ chung là tên gọi của một loạt sự vật, chứ không phải của từng sự vật riêng biệt. Chúng khác với danh từ riêng ở chỗ bao giờ chúng cũng chứa đựng một nội dung ý nghĩa nhất định, kể cả những trường hợp mà chúng chỉ là tên gọi của một đối tượng duy nhất (mặt trời, quả đất...)".
    Thể hiện trên văn bản tiếng Việt, danh từ riêng mang dấu hiệu hình thức đặc thù là viết hoa. Song, như Nguyễn Văn Tu nhận xét trong chuyên luận Tiếng Việt trên đường phát triển (NXB Khoa học xã hội, HN 1982) thì: "Viết hoa các danh từ riêng như thế nào là một vấn đề không ổn định và cho đến nay hầu như không có sự thống nhất".
    Để tiện khảo sát, ở đây chúng ta tập trung xem xét quy cách viết hoa nhân danh (họ tên người) và địa danh (tên đất). Chừng ấy cũng đủ thấy... phức tạp lắm rồi!
    Về nhân danh, từ trước đến nay, tồn tại nhiều cách viết hoa khác nhau dù cùng một họ tên người. Ví dụ:
    - Công Huyền Tôn Nữ Lưu Ly
    - Công huyền Tôn nữ Lưu Ly
    - Công huyền tôn nữ lưu Ly
    - Công - huyền Tôn - nữ Lưu-Ly
    - Công - Huyền - Tôn - Nữ - Lưu - Ly
    Về địa danh, cũng có nhiều cách viết. Thí dụ: Sài Gòn, Sài gòn, Sài-Gòn, Sài-gòn, Saigon...
    Sau này, theo Quyết định số 240/QĐ do Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thị Bình ký ngày 5-3-1984, thì chuẩn chính tả được thống nhất trên toàn quốc như sau:
    Đối với tên người và tên nơi chốn, viết hoa chữ cái đầu tất cả các âm tiết, không dùng gạch nối.
    Thí dụ: Trần Quốc Toản, Quang Trung, Hà Nội, Bình Trị Thiên, Vũng Tàu.
    Điều ấy đã được áp dụng trong tất cả văn bản từ bấy tới nay. Thế nhưng, không ít trường hợp vẫn còn khiến mọi người băn khoăn. Viết miền Nam hay Miền Nam, viết Bắc bộ hay Bắc Bộ, viết kiểu nào? Nếu thêm tọa độ, phương hướng vào, càng lúng túng: nên viết Miền Cực Nam Trung Bộ hay miền cực Nam Trung Bộ, miền cực nam Trung Bộ, miền cực nam Trung bộ đây? Viết hoa chữ cái đầu tất cả các âm tiết, thì viết sông Hồng hay Sông Hồng, viết Hồng hà hay Hồng Hà, viết đồng bằng sông Cửu Long, hay Đồng Bằng Sông Cửu Long đây? Lại thấy có sách báo in Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng Sông Cửu Long, kiểu nào đúng?
    Có viết hoa tước vị, cấp bậc, chức vụ hoặc biệt hiệu không? Mặc dù điểm này từng đề cập ở phần viết hoa tu từ, song giờ đây cũng nảy thêm thắc mắc. Viết Đại úy út Đen hay hay đại úy út Đen, đại úy út Đen nhỉ? Viết Xuân tóc đỏ hay Xuân Tóc Đỏ nhỉ?
    Nhân danh và địa danh tiếng Việt là thế, còn không phải tiếng Việt thì sao? Bản "Quy định về chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt" ban hành kèm theo Quyết định 240/QĐ nêu trên có chỉ cách viết tên riêng không phải tiếng Việt, gồm tám trường hợp:
    1. Nếu chữ viết của nguyên ngữ dùng chữ cái Latin thì giữ đúng nguyên hình, kể cả các chữ cái f, j, w, z; dấu phụ ở một số chữ cái trong nguyên ngữ có thể lược bớt. Thí dụ: Shakespeare, Paris, Petofi...
    2. Nếu chữ viết của nguyên ngữ thuộc một hệ thống chữ cái khác thì dùng lối chuyển từ chính thức sang chữ cái Latin. Thí dụ: Lomonosov, Moskva...
    3. Nếu chữ viết của nguyên ngữ không phải là chữ viết ghi từng âm bằng chữ cái thì dùng lối phiên âm chính thức bằng chữ cái Latin, thường là cách phiên âm phổ biến trên thế giới. Thí dụ: Tokyo, Kyoto...
    4. Trường hợp những tên riêng mà trong thực tiễn sử dụng rộng rãi trên thế giới đã quen dùng một hình thức viết bằng chữ cái Latin khác với nguyên ngữ thì dùng tên riêng phổ biến đó. Thí dụ: Hungary (dù nguyên ngữ là Magyarorszag), Bangkok (dù nguyên ngữ là Krung Thep)...
    5. Sông núi thuộc nhiều nước, nên có những tên riêng khác nhau, thì dùng hình thức tương đối phổ biến trên thế giới, song vẫn có thể dùng theo ngôn ngữ địa phương trong những văn bản nhất định. Thí dụ: sông Danube / Donau / Duna / Dunares...
    6. Những tên riêng hoặc bộ phận tên riêng mà có nghĩa thì dùng lối dịch nghĩa phù hợp. Thí dụ: Biển Đen, Guinea xích đạo...
    7. Những tên riêng đã có hình thức phiên âm quen thuộc trong tiếng Việt thì không cần thay đổi, trừ khi có yêu cầu đặc biệt. Thí dụ: Pháp, Hi Lạp, Bắc Kinh, Lỗ Tấn..., nhưng thay ý bằng Italia, thay úc bằng Australia... Tuy vậy cũng chấp nhận sự tồn tại khác nhau của một số tên riêng trong những phạm vi sử dụng khác nhau. Thí dụ: La Mã / Roma...
    8. Tên riêng trong các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng thuộc trường hợp không phải tiếng Việt (Kinh).
    Xét tám trường hợp đã được quy định, chúng ta thấy ngay rằng có những trường hợp vẫn khó thống nhất (trường hợp 5 hoặc 7). Không hiếm trường hợp tồn tại nhiều kiểu viết khác nhau trong thực tiễn áp dụng cho đến nay đối với cùng một tên riêng: Shakespeare / Xêchxpia / Sếch-xpia; Moskva / Moscow / Moscou / Matxcơva / Mát-xcơ-va / Mạc Tư Khoa...
    Như vậy, rõ ràng hiện trạng viết hoa vẫn còn lúng túng và lung tung lắm lắm.
    Ngay các từ mặt trời hoặc quả đất dù đã được xác định là danh từ chung, song sách báo vẫn in Mặt trời / Mặt Trời hoặc Quả đất / Quả Đất. Nếu căn cứ vào tiêu chí viết hoa để đối lập danh từ riêng với danh từ chung, thì trong trường hợp này, các em học sinh bị nhầm lẫn là điều rất dễ xảy ra.
    Viết hoa để biệt hóa tên cơ quan, đoàn thể, tổ chức, sản phẩm...
    Tên cơ quan, đoàn thể, tổ chức, xí nghiệp, công ty, sở, phòng, ban, trường học, sản phẩm... được dùng như những tên riêng - dù chúng không phải là danh từ riêng hoặc chỉ chứa một vài danh từ riêng. Toàn bộ tên gọi này được viết hoa ra sao?
    Bản "Quy định về chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt" ban hành kèm Quyết định 240/QĐ nêu trên cũng chỉ rõ:
    Đối với tên tổ chức, cơ quan, chỉ viết hoa chữ cái đầu của âm tiết đầu trong tổ hợp từ dùng làm tên.
    Thí dụ: ĐCS Việt Nam, Trường đại học bách khoa Hà Nội...
    Trong giáo trình Tiếng Việt thực hành do Bùi Minh Toán chủ biên (NXB Giáo dục, 2000), phần phụ lục đã đăng toàn văn quyết định cùng quy định ấy. Thế nhưng, trong cả hai văn bản đều in rõ: Bộ Giáo dục. Vậy là ngược với quy định! Bởi, theo quy định được nêu kèm ví dụ như vừa dẫn, lẽ ra phải viết Bộ giáo dục thì mới phù hợp chứ. Qua thực tế, quy định này vẫn không được áp dụng nghiêm túc vì rất nhiều lẽ.
    Một tên gọi cơ quan, đoàn thể, công ty, xí nghiệp... lắm khi rất dài, mang đầy đủ ý nghĩa về cấp độ trong một hệ thống tổ chức nào đấy, về chức năng và nhiệm vụ, lại kèm theo danh hiệu cùng địa điểm. Thí dụ: Trường đại học nông nghiệp Hôxê Máctin Hà Nội; Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất, thương mại, dịch vụ và xuất nhập khẩu lương thực, thực phẩm và nông ngư cơ huyện Châu Thành...
    Lắm khi, danh từ chung được dùng làm danh từ riêng trong tên gọi cơ quan hoặc sản phẩm, tuy nhiên cách viết tồn tại rất nhiều kiểu. Thí dụ: Nhà xuất bản Giáo Dục / Giáo dục; Báo Giáo dục và Thời đại / Giáo Dục và Thời Đại/Giáo dục và Thời đại; Tạp chí Tài Hoa Trẻ / Tài hoa trẻ; Tủ sách Hai Tốt / Hai tốt... Thông thường, người ta viết hoa cả cụm từ; Nhân Dân, Tài Hoa Trẻ, Thế Giới Mới, Kiến Thức Ngày nay, Khoa Học Phổ Thông... Nhưng có người lập luận: Nếu thế thì tên các tác phẩm cũng phải viết hoa cả cụm từ. Chẳng hạn phóng sự Tôi Kéo Xe, tiểu thuyết Gánh Hàng Hoa, tập truyện Anh Phải Sống, bài thơ Màu Tím Hoa Sim, ca khúc Nhìn những Mùa Thu Đi, bức tranh Thiếu Nữ Bên Hoa Huệ...
    Thậm chí, có người đề nghị viết hoa tất cả: Nhà Máy Vòng Bi - Xích-Líp Đông Anh; Xí Nghiệp Bóng Đèn-Phích Nước Rạng Đông Hà Nội; Công ty Bảo Tồn Di Tích Cố Đô Huế... Viết kiểu này, cộng thêm các lối viết hoa khác (viết hoa cú pháp, viết hoa tu từ, viết hoa danh từ riêng), nếu không khéo sẽ xuất hiện những văn bản toàn viết hoa và viết hoa!
    Xu hướng hiện nay là viết hoa không theo âm tiết mà theo từ trong các tên gọi cơ quan, tổ chức. Thí dụ: Bộ Thông tin, Tuyên truyền, Văn hóa và Du Lịch Lào; Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh ; Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang... Cũng chưa ổn! Vì theo cách này, viết Nhà hát Tuồng Đào Tấn e dễ gây ngộ nhận, mà phải viết Nhà hát tuồng Đào Tấn. Vậy phải xây dựng mô thức thế nào để khỏi "lúc viết kiểu kia, lúc ghi kiểu nọ" rất ... phi hệ thống?
    Hội nghị khoa học "Chuẩn mực hóa chính tả và thuật ngữ khoa học" do Viện Ngôn ngữ học kết hợp tổ chức với Trung tâm biên soạn sách cải cách giáo dục (Bộ Giáo dục) đã diễn ra rất quy mô, liên tục từ Hà Nội (7-1978) - vào Huế (8-1978), TP Hồ Chí Minh (10-1978) rồi Hà Nội (6-1979), vậy mà vẫn không đạt đến sự nhất trí về quy tắc chuẩn chính tả chung. Nhiều hội nghị, hội thảo mang chủ đề tương tự lại tiếp tục được tổ chức bấy nay với kết quả chẳng có gì khả quan hơn. Một vị giáo sư ngôn ngữ học lão thành phát biểu:
    - Dù muốn dù không, việc chuẩn hóa chính tả tiếng Việt cũng phải được xúc tiến để đạt đến sự nhất trí cao dựa trên cơ sở khoa học. Việc này sẽ thuận lợi nếu các chuẩn mực ngôn ngữ khác của tiếng Việt được xác định một cách vững chắc. Riêng quy cách viết hoa, muốn khắc phục tình trạng rối rắm như hiện nay, cũng cần phải dựa trên nhiều thành quả khảo sát và nghiên cứu thật triệt để.
    Phúc Đường

    ...........................
    Cù Lần
    Được hoa thuong thich du thu sửa vào 20:03 ngày 07/05/2003
  10. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Có nên phân biệt đối xử với từ Hán Việt?


    Cần coi là từ Việt
    Trong sự giao lưu giữa các cộng đồng sử dụng ngôn ngữ khác nhau, việc mượn từ ngữ của nhau là việc hết sức bình thường. Vấn đề là mượn như thế nào để có thể bảo tồn và phát triển ngôn ngữ của mình. Trong tiếng Việt, người ta đã chỉ ra khá nhiều từ mượn từ gốc Thái, Khmer... mà ta vẫn coi là thuần Việt. Với người bình thường, khó mà nhận ra gốc Pháp của các từ cốc, tách, xăm, lốp... Vì vậy gọi từ Hán Việt để phân biệt từ thuần Việt cũng chỉ nên coi là một "thủ pháp" trong học tập nghiên cứu. Chẳng nên quá "phân biệt đối xử" khi coi từ Hán Việt như nguyên nhân làm tiếng Việt giảm đi sự thuần nhất và trong sáng của nó.
    Ta đã có khá nhiều giải pháp hay khi mượn từ Hán Việt và khối từ này đã ngày càng Việt hóa cao. Cố nhiên ta phải phấn đấu cho tiếng Việt ngày càng phong phú, hay và đẹp hơn. Muốn thế, các nhà văn hóa, những người sử dụng ngôn ngữ nhiều phải góp phần sàng lọc các yếu tố tiêu cực trong các lớp từ, kể cả lớp từ mượn Hán Việt, mượn "quốc tế" hiện nay lẫn lớp từ được coi là thuần Việt. Bởi vì lớp từ nào cũng có những yếu tố tiêu cực cần sàng lọc cả.
    Những yếu tố Hán Việt "tiêu cực"
    Do "quen thuộc" về mặt ngữ âm nên nhiều khi gặp từ lạ trong tiếng Hán, các phiên dịch "ngại nghĩ" cứ phiên thẳng âm ra tiếng Việt mà không quan tâm ý nghĩa của nó trong tiếng Việt có phù hợp không. Vì vậy phân xưởng rèn từng có lúc được gọi là phân xưởng gia công áp lực. Ngành đường sắt sau năm 1954 có rất nhiều từ Hán Việt nặng nề; ngành giáo dục cũng dịch ra đủ các từ như giáo cụ trực quan, sĩ số hiện hữu, kiến tập, thực tập... Và bây giờ trên báo, thỉnh thoảng vẫn xuất hiện các từ nghiệp dĩ, biên mậu... Đó là căn bệnh mượn ẩu, mượn bừa, nhập lậu trong việc mượn từ Hán Việt.
    Chữa căn bệnh này cũng không khó. Trách nhiệm trước hết là ở các nhà phiên dịch tiếng Trung. Gặp các từ không quen thuộc, các vị hãy đề cao tinh thần trách nhiệm với ngôn ngữ dân tộc, vận dụng các cách mượn từ thông minh của dân tộc ta để xử lý. Hãy dịch ra các từ quen thuộc (thuần Việt hay từ tố Hán Việt quen thuộc) cho dễ hiểu. Kinh nghiệm tạo danh từ khoa học của các bậc đi trước như Giáo sư Hoàng Xuân Hãn và những người khác rất cần được học tập. Nếu cứ lười nhác thì các cụ đã dùng Précipiter hoặc trầm điện chứ chả cần tạo ra kết tủa, và ta cũng chẳng có cái từ rất "hóm hỉnh" là tá tràng nghe như "Hán Việt xịn" mà thật ra là "Hán Việt dởm" gồm tá là 12, tràng là ruột để dịch chữ duodénum (tiếng Hán dùng từ khác). Cũng như vậy, nếu chỉ dùng kiểu "phiên âm" thì làm gì ta có những tên gọi Việt Nam cho các cán bộ ngành y mà nếu viết ra chữ Hán thì người Trung Quốc cũng không hiểu được họ làm công việc gì: bác sĩ, hộ lý...
    Cố nhiên ngăn chặn các nguồn có khả năng "nhập lậu" là một mặt. Quan trọng nữa là "người tiêu dùng" cần có ý thức, không làm sang bằng cách dùng các từ có vẻ "bác học".
    Tuy nhiên, đã thận trọng với từ Hán Việt mượn ẩu, lại rất cần thận trọng khi muốn thay thế các từ Hán Việt đã quen thuộc. Các từ đã được cộng đồng chấp nhận, dùng quen trong đời sống đều là các từ cần mượn. Những từ "thuần Việt" có thể thay thế nó thường không đáp ứng được yêu cầu, hoặc là thiếu những nét nghĩa chuyên biệt, hoặc là không có được sắc thái cần có. Hãy xem vài trường hợp, quan sát không hoàn toàn đồng nghĩa với xem xét. Các từ thể thao như (chạy) việt dã, hậu vệ sao có thể thay bằng (chạy) vượt ruộng, giữ mặt sau; gia phong không thể thay bằng lệ nhà; phong trần không phải lúc nào cũng có thể thay bằng gió bụi!
    Thái độ sáng suốt ở đây là mượn cái gì cần mượn, Việt hóa tối đa khi có thể và không "dị ứng" với việc mượn từ. "Đóng cửa" là không nên và cũng không thể.
    Tôn trọng cuộc sống riêng của từ ngữ
    Từ ngữ có cuộc sống riêng của nó. Khi đã được cộng đồng sử dụng, chấp nhận, nó đi vào cuộc sống chung. Tùy theo khả năng hoạt động của nó, nó sẽ kết hợp với các yếu tố khác, từ ngữ khác để làm nảy sinh những nghĩa nhánh (phái sinh) và có thể tạo ra các sắc thái mới, các từ cùng họ thuận hay ngược chiều. Từ quả là một thí dụ. Ngoài hai nghĩa "trái cây" và "kết quả" mượn ở gốc Hán, nó đã có thêm các nghĩa nhánh chỉ có ở tiếng Việt: chỉ đơn vị, các vật có hình giống trái cây (quả cân, quả đấm) hay đồ đựng bằng gỗ hình hộp tròn có nhiều ngăn và có nắp (quả sơn)... và rồi nó có thêm những kết hợp mới: quả lừa, trúng quả...
    Cũng như vậy, từ Hán Việt, do đặc điểm ngoại lai của nó, rất dễ bị biến dạng. Cần tôn trọng các hình thức biến dạng về ngữ âm, ngữ nghĩa mà phần lớn giới bình dân đã dùng, đó thường là sự phát triển đúng các quy luật ngôn ngữ chứ không phải chỉ là do thiếu hiểu biết mà ra cả đâu! Cứ khư khư theo từ nguyên mà dùng ủy mĩ (ủy mị), đồi tệ (tồi tệ), a du (a dua), quá kích (quá khích) xem có buồn cười không! Không thể cố chấp mà bảo tử tế (tốt bụng) là "xem xét tỷ mỉ", lỗi lạc (có tài khác đời) là "trong sạch thẳng thắn", vô tình (không cố ý) là "không có tình" v.v.
    Từ những biến dạng xa dần nghĩa gốc, rất nhiều từ Hán Việt đã có một bộ mặt hoàn toàn xa lạ. Tồn tại đã đi qua bước trung gian vấn đề tồn tại, những cái tồn tại để đi tới một danh từ mới có nghĩa là "những khuyết điểm, yếu kém chưa được khắc phục"; cập nhật từ cái nghĩa đen là "kịp từng ngày" đã đi tới cái nghĩa bóng "theo sát từng ngày những cái mới của thời đại". Do đó, nói kiến thức cập nhật là sáng tạo từ mới theo hướng này.
    Từ chuyện chuyển nghĩa, cũng nên nói đến hiện tượng mất nghĩa của các từ tố. Trong các từ song tiết thuần Việt cũng đã có nhiều yếu tố bị mất nghĩa (mà phải nghiên cứu mãi mới truy ra): đường xá, tre pheo, gà qué, chợ búa... Từ mượn Hán Việt càng có nhiều lý do để mất nghĩa các từ tố của nó. Do tính cách tên riêng mà những yếu tố sơn, hà, giang... đã không còn giữ nguyên nghĩa trong Thái Sơn, Hoàng Hà, Trường Giang. Vì vậy nói "đi lên núi Thái Sơn", "qua sông Trường Giang" đâu phải là thừa! Nói như Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, cái âm hưởng Việt nhiều khi cũng đòi hỏi tạo các từ gồm các yếu tố Hán Việt và thuần Việt đồng nghĩa như in ấn...
    Trong phạm vi bài báo, tôi chỉ xin được trao đổi sơ lược về khối từ Hán Việt rất lắm vấn đề cần khảo sát này và mong được sự quan tâm chung.
    Lê Xuân Mậu

    ...........................
    Cù Lần

Chia sẻ trang này