1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Giới thiệu sách mới "Để Tiếng Việt ngày càng trong sáng"

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi Giao_Hoang, 01/10/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Tản mạn về từ mới


    Người lính đích thực nào cũng muốn luôn trau dồi thứ vũ khí mà mình sử dụng trong chiến đấu, để không ngừng nâng cao tính năng tác dụng của nó. Vũ khí của nhà văn là ngôn từ và việc nhà văn nào cũng khát khao rèn rũa thứ vũ khí đó cho sắc bén, trong đó có nhu cầu sáng tạo ra những từ ngữ mới là một nhu cầu chính đáng và bức thiết. Từ xưa đến nay đều như vậy.
    Tuy nhiên, sáng tạo được một từ mới thật sự có sức sống trong công chúng và thời gian để có thể bổ sung cho vốn từ vựng của dân tộc là một điều vô cùng khó khăn. Trong hai câu thơ nhằm cực tả cảnh tù túng, quẩn quanh của Kiều ở lầu xanh khi mà trong lòng thì ngổn ngang trăm mối, Nguyễn Du viết:
    Song sa vò võ phương trời
    Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
    Vào thời ấy mà dám lật ngược từ "hoàng hôn" thành "hôn hoàng" thì quả là một sự táo bạo chỉ có ở một bản lĩnh lớn.
    Nhưng táo bạo nhất thì phải kể đến người đàn bà nổi loạn có cái tên dịu dàng Hồ Xuân Hương:
    Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm
    Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom
    Giữa cái cảnh ao tù nước đọng ngày ấy, một từ như từ "phòm" ném ra ở đây thì đúng là một quả bom - như cách nói bây giờ đó còn là một quả bom *** nữa kia. Đây là một từ thuần Việt trước Hồ Xuân Hương chưa ai dùng và sau bà cũng chẳng ai dám dùng. Vì nó độc quá, tức là nó đúng quá, nó theo nguyên tắc dùng cấu trúc phát âm để tượng hình, nó được dùng tuyệt đối đúng chỗ và đúng thần, nó là độc đắc, không thể tùy tiện nhấc sang chỗ khác. Cái tài của người dùng chữ ở đây là đặt nó lên ngai rồi lại phải bày ra tả phù hữu bật để giữ cho cái ngai ấy vững như bàn thạch: tả phù hữu bật ở đây là từ "nứt" và đặc biệt là cụm từ "hỏm hòm hom", một nhóm từ cũng độc đáo và tài tình không kém, như nét mực bổ sung tô đậm thêm cho lý do tồn tại của từ "phòm". Hãy thử hình dung, nếu không có cụm từ bổ trợ ấy thì từ "phòm" sẽ chân không bén đất, cật không bén giời, lơ lửng thế chưa chừng đổ cũng nên! Có lẽ chính vì thế mà mặc dù xưa nay thiên hạ đều bái phục cái cách dùng từ tài tình hy hữu này, nhưng từ sau lần ra mắt đó đến nay, chưa một ai dám dùng lại nó, vì nếu không thì phải dùng luôn cả cụm từ hỗ trợ sau đó, mà như thế thì bất tiện quá, thành ra "đạo văn" rồi còn gì. Cũng tài tình và độc đáo như thế là hai câu:
    Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông
    Nó bảo nhau rằng: ấy ái uông
    Sự chính xác và giản dị đến mực hồn nhiên làm nên tính bất ngờ mà hợp lý không chê vào đâu được của cụm từ "ấy ái uông". Đấy là thứ của báu trời cho, là mẫu mực cho cái mà ta vẫn gọi là "xuất khẩu thành thơ" mà chỉ những thiên tài của nghệ thuật ngôn từ như Bà Chúa thơ Nôm mới có được mà trong đời cũng chỉ có được đôi ba lần thôi. Gọi đây là "lăng xê" từ mới có thể chưa chính xác về khái niệm vì mấy tiếng "ấy ái uông" có thể chưa phải là từ mà chỉ là những âm thanh biến dạng của người ngọng, nhưng ít ra thì đó cũng là một cách diễn đạt bằng âm thanh tài tình thuộc loại độc nhất vô nhị, bởi nó vẫn hàm chứa ngữ nghĩa ở bên trong, nên không có cách gì khác hơn là phải coi đó như một cụm từ mới sáng tạo của thi sĩ.
    Trong văn chương hiện đại, ta cũng thỉnh thoảng gặp những từ ngữ mới được sáng tạo khá tài tình. Những bậc thầy về chữ nghĩa như Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao... trong văn xuôi; Tú Xương, Tản Đà, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử... trong thơ ít nhiều đã có những đóng góp trong lĩnh vực này, nếu không phải là khai sinh ra những từ hoàn toàn mới, thì chí ít cũng mở rộng đất đai sử dụng, thổi thêm sinh khí cho một số từ ngữ và như thế cũng có thể gọi là sáng tạo ngôn từ.
    Đặc biệt, có vẻ như chính thế hệ nhà văn, nhà thơ đương đại mới là những người say sưa làm công việc này nhất, với một ít thành công và rất nhiều thất bại.
    Trong truyện ngắn Con gái thủy thần của Nguyễn Huy Thiệp, đoạn kết có một dòng nghe thật da diết: "Trước mặt tôi, dòng sông đang thao thiết chảy". Có thể kiến văn của tôi còn hẹp, nhưng trước Nguyễn Huy Thiệp, tôi chưa từng biết đến hai tiếng thao thiết - một từ đặt vào văn cảnh này thật tuyệt vời. Hình như nó được biến báo từ "tha thiết", nhưng chỉ thay đi một chút thôi mà nội hàm bỗng bao trùm hơn rất nhiều, sức biểu cảm cũng mạnh, mạnh mẽ hơn hẳn, nhờ vào sự mù mờ, không rõ ràng như chính tâm trạng con người vào những giây phút ấy. Tôi nghĩ, sức cuốn hút của những dòng sông trong văn Nguyễn Huy Thiệp ngoài sự lý thú của những câu chuyện, nhất định có sự đóng góp của vẻ đẹp những câu văn với những từ ngữ đầy chất thơ và giàu sáng tạo như thế. Phải chăng sức huyễn hoặc ấy đã lôi cuốn được cả một nhạc sĩ như Phó Đức Phương để ông cho ra đời một ca khúc mang đúng tên một truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp - ca khúc "Chảy đi sông ơi" - một ca khúc cũng đầy cái chất "thao thiết" mà ta vừa nói tới.
    Có một nguyên lý mà đến giờ này tôi vẫn tin là đúng: Hình thức mặc dù cũng có những giá trị tự thân, nhưng về cơ bản vẫn là để chở nội dung; và do vậy, cũng về cơ bản, chỉ những sáng tạo hình thức bắt nguồn từ nhu cầu có thực của nội dung mới hy vọng có sức sống - đương nhiên là với những sáng tạo thành công. Chính vì vậy, một cuộc sống tù đọng thì vốn từ ngữ cũng quẩn quanh. Ngược lại, một cuộc sống sinh sôi, năng động như thời hiện đại thì buộc phải có những ngôn từ mới, để có thể chuyển tải những chất liệu sống ngày càng rộng hơn và sâu sắc, tinh vi hơn.
    Dạo ở Trường Sơn tôi thường nghe lính tráng ca cẩm tình trạng "bang bách" để chỉ công việc bộn bề, ngổn ngang; lại có nhà văn hay nói từ "khảng tảng" mà thú thực tôi cũng không thật hiểu nghĩa là gì. Nhà thơ Trần Đăng Khoa thì nhắc lời Xuân Diệu chỉ sợ đến lúc mình như gái già không ai "ỏ ê" đến nữa. Anh Khoa cũng hay diễu mấy ông phê bình tầm chương trích cú cứ thích "vạch vòi" câu chữ, hoặc một nhà văn khác thì bảo mấy vị ấy có ít thì cứ nói "vóng vót" lên thành nhiều, đến mức thành ra "vóng véo"! Rõ ràng ở đây có những nhu cầu thực sự đang cựa quậy bên trong khiến cho người nói khổ sở như người đau đẻ, phải cố mà rặn cho ra cái sinh linh đang đòi ra mà chưa biết hình hài sẽ như thế nào. Nhà thơ Hữu Thỉnh viết:
    Chị không thể làm như con rắn que cời
    Lột cái xác già nua dưới gốc cây cậm quẫy
    Từ "cậm quẫy" có vẻ như là sáng tạo của nhà thơ này.
    Nguyễn Du cũng thích nhào nặn từ ngữ, trong bài Vợ ốm, ông viết:
    Thình lình em ngã bệnh ngang
    Phang anh xất bất xang bang thế này
    Tôi không tin trong từ điển có cụm từ "xấc bất xang bang", nhưng đặt vào đây thấy được, không đến nỗi bật ra - nó có vẻ như là bà con xa với từ "bang bách" vừa nói ở trên:
    Trong những thời khắc chuyển giao thiên niên kỷ, riêng tôi đặc biệt hứng thú với việc rút gọn cụm từ này thành chỉ hai tiếng - "thiên kỷ" - bởi vì về nội hàm, nó bảo đảm chở được một nội dung đầy đủ và duy nhất, tức là nó toàn quyền tồn tại độc lập, không cần đến từ "niên" ở giữa. Nói "thiên kỷ" thì cũng như nói "thập kỷ", tức chỉ khoảng thời gian mười năm, hoặc "thế kỷ", tức khoảng tồn tại của một kiếp người, một cõi thế, vì xưa nay kiếp người vẫn được ước lệ là một trăm năm ("trăm năm nào có gì đâu...").
    Nhưng nhào nặn khác với vặn vẹo. Tôi muốn nói là có những người do quá khát khao "lăng-xê" từ mới, nên đôi lúc lạm phát lối cưỡng bức từ ngữ một cách tùy tiện, thiếu nội lực để đẻ ra những từ ngữ thiếu tháng oặt ẹo, nên tạm gọi là vặn vẹo. Tạm lấy thí dụ như đã nói trên kia: Từ nói "vóng" lên (gốc từ "vống") mà đẻ ra "vóng vót" (liên tưởng đến "chót vót") hoặc thậm chí "vóng véo" (liên tưởng đến "véo von") thì còn khả dĩ chấp nhận, nhưng cứ đà ấy mà kéo thành "vóng vánh", "vóng vít", "vóng víu'... thì đích thị là vặn vẹo rồi. Còn nhớ, khi đọc tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của nhà văn Nguyễn Khắc Trường tôi có bắt gặp một từ lạ - "hấp hoảng", liền hỏi anh Trường nghĩa là gì thì được trả lời: nghĩa của nó là chỉ trạng thái dưới "hốt hoảng" một chút! Tôi không rõ ở quê nhà văn có ai dùng từ này thật không, nhưng tôi thì từ bé chưa nghe qua bao giờ. Hay là ông ấy đấu "hốt hoảng" và "hấp tấp" lại mà thành? Chịu. Có điều là đọc một cuốn sách mà học thêm được một từ lạ cũng thấy sướng.
    Trở lại với nhận xét chính cuộc sống phát triển năng động đẻ ra từ ngữ mới, xin lấy ngay thí dụ ở cái hoạt động vẫn khiến nhiều người ở xứ ta phát điên, tức là bóng đá, thì sẽ rõ. Tôi thực sự khâm phục cái cách mà những người yêu bóng đá ném ra hàng loạt những từ mới nhằm diễn đạt những gì diễn ra trên các chảo lửa, từ cách gọi những vị trí thi đấu trên sân như "hậu vệ thòng, hậu vệ dập, hậu vệ quét", rồi "tiền vệ trụ, tiền vệ lùi", cho đến "tiền đạo cắm"... đặc biệt là những từ mô tả các hành vi và động thái rất chính xác và đầy biểu cảm: dãn biên, chồng cánh, bắt người, rướn, nhịp, vuốt, lốp, vẩy, chọc khe, xâu kim, v.v... và v.v... Nhưng ấn tượng nhất là gần đây tôi đã nghe từ miệng một huấn luyện viên khen cầu thủ trụ cột của đội mình là: "Cậu ấy có khả năng "đọc" được trận đấu" Thật tuyệt vời - văn đấy chứ còn ở đâu nữa!
    anh ngọc

    ...........................
    Cù Lần
  2. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Các bạn mến.
    Tôi cố gắng gởi lên "hơi bị nhiều" các bài sưu tầm được. Dự định là gởi từ từ, nhưng sắp tới có nhiều việc và không thể vào mạng được, nên đành gởi ào ạt thế. Thôi cứ để dành đấy, đọc từ từ các bạn nhé.
    Xin tạm biệt "mọi người" và hy vọng sẽ gặp lại sau 2 tháng nữa.
    Trong thời gian này tôi sẽ cố gắng vào xem 'mặt' các bạn, còn viết bài thì e không có điều kiện.
    Hẹn gặp lại, các bạn cũ và bạn mới!
    ...........................
    Cù Lần
  3. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Tài Cẩn - Con đường từ ngôn ngữ đến văn hoá
    Năm 1970, khi từ khu sơ tán về Hà Nội, tôi được học dịch Việt - Nga với thầy Butstrov, một dịch giả người Nga, một nhà Hán học. Khi giảng bài, thỉnh thoảng thầy lại chen vào một vài câu tiếng Việt giọng Nghệ khiến cả lớp bò ra cười. Ban đầu không hiểu, sau hiểu ra thầy bảo mình vốn là học trò tiếng Việt Nguyễn Tài Cẩn mà! Tôi nghe tên ông từ dạo ấy. Rồi biết ông lấy vợ đầm, dù là đầm Liên Xô, tôi lại càng phục. Thuở ấy hôn nhân với nước ngoài, kể cả nước XHCN anh em còn chưa được "tháo khoán", nên chuyện đó được coi là động trời. Ngoài áp lực của đạo đức xã hội, đương sự đôi khi còn bị sức ép chính trị, nhất là vào thời xét lại. Nguyễn Tài Cẩn đã bỏ tất cả để giữ lấy sự lựa chọn của mình, bà N.V. Stankêvich và ngữ học. Và may hơn nữa (để khỏi phải có một lựa chọn nữa, biết đâu đấy) là vợ ông cũng là một nhà ngữ học tài ba.
    Vào đầu những năm 80, tôi có dịp gặp ông bà Nguyễn Tài Cẩn nhiều lần, bởi ông tham gia hội đồng biên tập của Etudes Vietnamiennes, cố vấn những vấn đề ngôn ngữ của tạp chí. Bấy giờ cuốn Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt của ông được dư luận bàn tán sôi nổi. Tôi phải viết một đọc sách cho bản chí của mình. Nguyễn Tài Cẩn lúc ấy ở chợ Trời. Ðến nhà ông phải vượt qua một rừng các rổ rá, thúng mẹt, bao tải đựng trăm thứ bà rằn. Hà sự? Bao giờ ông cũng hỏi tôi một câu như vậy, sau khi đã cẩn thận khoá cổng. Còn bà thì lặng lẽ chào tôi, rồi lui vào phòng trong, tay vẫn không rời cuốn sách còn để mở.
    Trò truyện với Nguyễn Tài Cẩn, tôi thấy ông là người hết sức thận trọng, nhất là khi đụng đến các vấn đề chuyên môn hoặc những nhận xét về người khác. Vậy mà nhiệm vụ nhà báo của tôi lại là cứ phải thóc mách, nên đôi khi chúng tôi rơi vào thế làm bất tiện cho nhau. Tôi nhớ bấy giờ Ký hiệu học còn hết sức lạ ở Việt Nam, chỉ có một vài nhà ngữ học là đã có dịp làm quen. Thấy có hội thảo về Ký hiệu học văn học do một nhà nghiên cứu nọ chủ trì, tôi hỏi khéo Nguyễn Tài Cẩn, rằng một người không biết gì về ngữ học cấu trúc như ông ta liệu có thể hiểu được (để mà ứng dụng) ký hiệu học vào nghiên cứu văn học không? Cảnh giác, Nguyễn Tài Cẩn chỉ ậm ừ không trả lời. Lần khác, tôi đến đặt ông một bài viết về chữ Nôm. Ông giới thiệu sang anh Trần Nghĩa, bấy giờ là Viện trưởng Viện Hán-Nôm. Tôi không chịu. Ông bảo, nếu vậy ông chỉ nhận khi đứng chung tên với Trần Nghĩa. Nguyễn Tài Cẩn hầu như không nói chuyện gì ngoài chuyên môn của mình. Về điều này, ông giống Từ Chi. Biết mười nói một chứ không như ai biết một nói mười. Sự thận trọng thái quá đó ở ông, gần như một bản năng thứ hai. Phải chăng ông muốn tránh mọi thứ nhiễu để được yên thân làm khoa học? Tuy nhiên, điều mà tôi muốn nhấn ở Nguyễn Tài Cẩn là ông dám và biết dừng (tri chỉ), thậm chí chối từ, không chỉ ở trong đời sống mà, quan trọng hơn, cả trong khoa học.
    Một anh bạn vong niên của tôi (cũng là bạn không vong niên của ông) kể Nguyễn Tài Cẩn đã nhiều lần từ chối chức vụ. Lần đầu, chiếc ghế Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học, ông giới thiệu Hoàng Tuệ. Lần hai, Viện trưởng Viến Hán Nôm, ông lại từ chối. Nguyễn Tài Cẩn cho rằng người khác ngồi vào các chức vụ ấy thì "thuận" hơn ông mọi nhẽ và nếu ông không nhận thì "được việc" hơn cho mình cũng là cho người. Mỗi lần đứng trước các quyết định như vậy, Nguyễn Tài Cẩn đều "hỏi ý kiến" bạn ông để củng cố thêm "cái việc đã rồi" của mình. Sau cùng là chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội. Lần này bạn ông nói: "Không nên nhận. Mình sợ rằng tam ba bận như vậy người ta sẽ nói mình làm cao. Nhưng nếu anh nhận thì người ta sẽ nói là hai lần trước anh chê thấp!"
    Sống trong xã hội quan phương khó vậy đấy. Thế này cũng không được, thế kia cũng không được. Bàn tay thì nhỏ mà miệng thế thì lớn. Thôi thì hãy tự mình quyết định, dẫu gặp cảnh một mình mình biết một mình mình hay cũng đành.
    Nguyễn Tài Cẩn xuất hiện lần đầu trên thị trường đọc với tư cách là một nhà ngữ pháp học. Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam. Mà sóng gió nổi lên từ chỗ tiếng Việt là một ngôn ngữ không biến hình. Bởi vậy, việc xác định từ loại là khởi điểm của những khởi điểm. Cuốn Từ loại danh từ tiếng Việt hiện đại (NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975), thoát thai từ luận án Phó Tiến sỹ bảo vệ ở Liên Xô của ông năm 1959, bước đầu lãnh nhận công việc nầy. Từ quan điểm cấu trúc, Nguyễn Tài Cẩn đưa ra một mô hình lý tưởng của ngữ danh từ, để rồi trên cơ sở đó có thể phân loại các danh từ:
    Tất cả ba cái con mèo đen ấy
    1 2 3 4 5 6 7
    trong đó:
    tất cả: đại từ số lượng
    ba: từ chỉ số lượng
    cái: từ nhấn mạnh
    con: từ chỉ loại
    mèo: danh từ trung tâm
    đen: từ miêu tả
    ấy: đại từ chỉ định
    Các yếu tố này nằm trong một trật tự nghiêm ngặt bao giờ cũng bắt đầu bằng 1 và kết thúc bằng 7.
    Vì là mô hình lý tưởng nên trong thực hành ngôn ngữ sẽ không có trường hợp nào gồm đủ cả 7 yếu tố kể trên. Và, dĩ nhiên, cũng còn có chỗ mà mô hình ấy chưa bao hàm hết. Ví dụ, nếu thay con mèo bằng áo dài thì định ngữ miêu tả có thể dài dài như đen (mầu sắc), lụa (vật liệu), cổ đứng (kiểu dáng), thêu (cách làm)... Vì thế, vấn đề ở đây là các yếu tố này được phát ngôn ra theo một trật tự nào? Hoặc, theo Cao Xuân Hạo, danh từ trung tâm trong ngữ đoạn này không phải là mèo mà là con, bởi lẽ, mèo xét cho cùng chỉ là bổ nghĩa cho con (con mèo, con chó, con trâu)...
    Dĩ nhiên, bất kỳ một mô hình khoa học nào đều có thể bị (hoặc được) bổ sung và sửa đổi. Và mô hình trên, tôi nghĩ, cũng không là ngoại lệ. Ðiều đáng lưu ý ở đây là nó đã trình ra một cách làm, một phương pháp nghiên cứu. Và các nhà khoa học sau ông (ở ta gọi là nghiên cứu viên, mà chữ viên trong đó tôi cứ muốn hiểu là tròn), có thể dùng nó như một công cụ để nghiên cứu và miêu tả các từ loại khác trong tiếng Việt và các ngôn ngữ của những tộc người khác cư trú trên dải đất Việt Nam.
    ...........................
    Cù Lần
  4. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Từ cuốn thứ nhất đến cuốn thứ hai, Ngữ pháp tiếng Việt, tiếng - từ ghép - đoản ngữ (NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội 1975) là một tiếp bước tự nhiên. Ở công trình này, Nguyễn Tài Cẩn đã chứng minh được trong tiếng Việt âm tiết là hình vị và cũng là từ. Dĩ nhiên, đây là những từ đơn chiếm toàn bộ vốn từ vựng cơ bản. Ông gọi thứ "tam vị nhất thể" này là tiếng. Từ đặc điểm tiếng này, người ta có thể nhận diện dễ dàng từ ghép (từ song tiết trở lên), từ láy, đoản ngữ. Hơn nữa, đặc điểm tiếng này còn chi phối và tạo ra nhiều đặc sắc của tiếng Việt, làm cơ sở cho những trò chơi chữ, chơi câu đối, chơi thơ kỹ thuật (Thuận nghịch độc...). Mặc dù có nhiều người đề cập đến đặc điểm này, nhưng, theo Cao Xuân Hạo trong Tiếng Việt, văn Việt, người Việt (NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2001), người "phát hiện" ra nó là Nguyễn Tài Cẩn, người "anh cả" của ngành ngữ học Việt Nam.
    Như vậy, trong lĩnh vực ngữ pháp, Nguyễn Tài Cẩn đã xây được những Trấn ba đình ở các huyệt chủ chốt gây sóng gió. Và, với phương pháp nghiên cứu cấu trúc này, ông là người đầu tiên. Nhưng cấu trúc thì hữu hạn và, nếu đã nắm được thủ pháp nghiên cứu thì bất kỳ một nghiên cứu viên nào cũng có thể giải quyết được những gì còn lại. Bởi thế, Nguyễn Tài Cẩn đã dừng đúng lúc và đúng chỗ để chuyển sang một lĩnh vực ngữ học khác còn là mảnh đất trinh và muốn phá hoang nó, ngoài phương pháp cấu trúc, đòi hỏi một vốn văn hoá chung rộng rãi. Ðó là Ngữ âm học lịch sử tiếng Việt.
    Diễn biến của ngữ âm tiếng Việt trong lịch sử còn lưu dấu tích không nhiều trong các văn bản Nôm. Nhưng người ta có thể nghiên cứu nó từ một cạnh khía khác bất ngờ với khá nhiều người là cách đọc Hán -Việt. Trong quá trình tiếp xúc trực tiếp và dài lâu, tiếng Hán đã để lại những ảnh hưởng to lớn, trong đó có cách đọc chữ Hán theo kiểu Việt. Thực ra, cách đọc riêng này hình thành từ thế kỷ VIII - IX dưới ách đô hộ nhà Ðường. Sau đó Việt Nam giành được độc lập và không còn tiếp xúc trực tiếp với tiếng Hán nữa, nên bảo lưu Ðường âm. Và từ đây, người Việt học tiếng Hán như một tử ngữ. Trong khi đó, ở Trung Hoa, ngữ âm tiếng Hán không ngừng thay đổi và trở nên khác xa với Ðường âm. Như vậy cách học Hán-Việt của Việt Nam chẳng những lưu giữ ngữ âm tiếng Việt thời ấy, mà còn giữ luôn cả ngữ âm lịch sử tiếng Hán theo quy luật văn hoá bảo lưu ngoại biên. Với tri thức quảng bác, Nguyễn Tài Cẩn có thể so sánh cách đọc Hán-Việt với các phương ngữ Nam Trung Hoa (vốn là đất Bách Việt cũ), hoặc cách đọc chữ Hán của Nhật Bản và Triều Tiên. Bởi vậy, trong cuốn Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán-Việt (NXB Giáo dục, Hà Nội 1979), chúng ta không chỉ bắt gặp những phát hiện lý thú, bất ngờ mà cả một chùm đảo chìm được làm nổi. Và, từ cách đọc Hán-Việt, Nguyễn Tài Cẩn là người có thẩm quyền hơn ai hết để giảng dạy Lịch sử ngữ âm tiếng Việt (NXB Giáo dục, Hà Nội 1975). Và từ đó, viết lịch sử tiếng Việt.
    Tiếng Hán, sau khi Việt Nam giành được độc lập, vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng đến các nhà thơ Việt Nam sáng tác bằng cả Hán lẫn Nôm. Trong tác phẩm Ảnh hưởng Hán văn Lý Trần qua thơ và ngôn ngữ thơ Nguyễn Trung Ngạn (NXB Giáo dục, Hà Nội 1988), Nguyễn Tài Cẩn đã nghiên cứu kỹ vốn từ vựng và thi pháp thơ Nguyễn Trung Ngạn để chứng minh thơ chữ Hán Việt Nam nói chung và thơ chữ Hán Nguyễn Trung Ngạn nói riêng vẫn có những điểm khác với thơ chữ Hán Trung Hoa. Và chính điều này đã có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển ca thơ chữ Nôm (ví dụ, thơ lục ngôn của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm...), đặc biệt là cách gieo vần.
    Vậy là, từ lĩnh vực ngôn ngữ, Nguyễn Tài Cẩn đã bước sang lĩnh vực Thi học (bộ phận chuyên nghiên cứu về thơ của Thi pháp học). Thoạt tiên, có lẽ Nguyễn Tài Cẩn chỉ chú ý đến thơ như là một bằng chứng, một thứ vật liệu để nghiên cứu ngữ âm. Nhưng rồi để giải quyết được những vấn đề ngữ âm ấy, ông phải xử lý trước những vấn đề thơ, như cách gieo vần, câu thơ, luật thơ, câu đối... Và như vậy, vô hình trung, Nguyễn Tài Cẩn đã đụng đến những điểm mấu chốt của thi học. Và cũng vô tình như vậy, theo Ðặng Tiến, ông là "người nghệ sỹ đặt nền móng đầu tiên và thiết yếu cho ngành thi học lịch đại, nói rộng thành nền thi pháp Việt Nam hiện đại" (Ðọc "Một số chứng tích về ngôn ngữ văn tự và văn hoá" của Nguyễn Tài Cẩn, Tạp chí Văn học, Số 4.2002).
    Nhiều người nói Nguyễn Tài Cẩn tìm cách đối lại câu đối Da trắng vỗ bì bạch (mà hay chữ như Trạng Quỳnh cũng phải đánh bài chuồn!) bằng một vế rất chỉnh: Rừng sâu mưa lâm thâm, hoặc câu thách đối của cụ Nguyễn Khoa Vy: Tết tới túng tiền tiêu, tính toán toan tìm tay tử tế được ông đưa ra ba trường hợp mà đáp án có thể sa vào, nhưng trong mỗi trường hợp lại có vô số câu đáp, chỉ là có ý khoe tài. Họ cũng cho rằng việc Tìm hiểu kỹ xảo trong bài Vũ Trung Sơn Thuỷ của Triệu Trị (NXB Thuận Hoá, Huế, 1998, 450 tr.) là lãng phí thời gian. Tôi không nghĩ như vậy. Câu đối là hiện tượng dồn ép ngôn ngữ, một trận đồ chữ, nên hơn ở đâu hết nó làm rõ chức năng thơ của ngôn từ. Nguyễn Tài Cẩn chấp nhận thách đố của nữ sỹ Ðoàn Thị Ðiểm (mà bao người không đối được Ðiểm đích đáng) và của cụ Nguyễn Khoa Vy là vì vậy.
    Bài thơ Vũ Trung Sơn Thuỷ tuy là trò chơi kỹ xảo, nhưng thật hấp dẫn đối với "thói quen nghề nghiệp" của nhà ngữ học. Một bài thơ mà có thể triển khai thành 256 bài. Ðiều này minh chứng cho một chân lý thơ phổ quát: thơ là sự quay trở về. Và sự biến hóa thiên hình vạn trạng này chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở chữ Hán là một ngôn ngữ: 1) đơn âm (khoảng 1300 âm tiết = từ); 2) mỗi từ rất nhiều nghĩa (30 nghĩa) nên kho đồng nghĩa rất lớn và 3) chữ xếp thành khối vuông (hoặc theo hình bát quái) nên mỗi con chữ đều có nhiều trục ứng đối và liên kết với nhau thành một ma trận. Ðiều này thì không một ngôn ngữ đa âm tiết nào làm nổi. Tiếng Việt tuy không đa nghĩa và ít âm tiết (khoảng 6000) như chữ Hán, những cũng là một ngôn ngữ đơn âm. Chúng ta cũng có các truyền thống khác như thuận nghịch đọc... Ðiều này gợi ý cho các nhà thơ Việt Nam hiện đại khai thác mỏ vàng này của tiếng Việt để hiện đại hoá thơ. Một trò chơi biến thành chuyện nghiêm túc, xưa nay, cũng là thường (như con chuột nhắt đỏ đen đẻ ra quả núi lý thuyết xác xuất), miễn là người chơi không phải là một con bạc mà có một đầu óc và một trái tim.
    Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá (NXB Ðại học Quốc gia, Hà Nội, 2001) cho thấy từ nghiên cứu ngôn ngữ đến nghiên cứu văn hoá chỉ là một bước. Nhưng cái bước quyết định ấy không phải ai cũng bước được. Ðể truy nguyên một tên gốc của trống đồng Ðông Sơn, (về) tên gọi con rồng của người Việt, hoặc (về) cách đọc tước hiệu Bố Cái Ðại Vương... phải có một tri thức liên ngành về ngôn ngữ học, dân tộc học, sử học. Nhưng chỉ một những cái tên ấy thôi sẽ mở ra lớp lớp những trầm tích văn hoá, và toàn cảnh một địa tầng tâm thức dân tộc...
    Con đường khoa học của Nguyễn Tài Cẩn như vậy là đi từ ngữ pháp học, sang cách đọc Hán-Việt, ngữ âm học lịch sử, rồi lịch sử tiếng Việt, thi học và cuối cùng, văn hoá học. Ông đã xuất phát từ cái hữu hạn của các cấu trúc ngôn ngữ để đi đến cái vô cùng của văn hoá, hay nói cách khác là từ mã ngôn ngữ đến mã văn hoá. Có thể nói ông đã tự khai phá cho mình một đường đi không chỉ cho Việt ngữ học. Trước đây, trong ngữ học cũng như trong nhiều khoa học xã hội và nhân văn khác, mỗi nhà nghiên cứu chiếm giữa một khúc do hoặc được phân công hoặc do tự khai thác. Và người ta an lòng sống trong và bằng mảnh ruộng phần trăm ấy của mình. Sự chiếm hữu lâu ngày mặc nhiên trở thành sở hữu nên mọi người tự dựng lên quanh mình những hàng rào "nội bất xuất ngoại bất nhập". Ai ngữ âm cứ ngữ âm cấm không được dở dương sang ngữ pháp. Nguyễn Tài Cẩn, bằng đường đi của mình, đã vạch rõ ai muốn thành công phải vượt qua những biên giới quân khu đó, bởi con người cũng như khoa học là toàn vẹn và thống nhất. Ðiều này không chỉ là phương pháp luận khoa học mà còn là phương pháp tư tưởng.
    Như vậy, Nguyễn Tài Cẩn với tư cách con chim đầu ngành đã tạo ra được một "chiến lược nghiên cứu" có cơ hình thành môn đệ và trường phái. Có được điều này, tôi nghĩ một phần nhờ vào tài năng và sự định hướng tài năng của ông, phần khác nhờ đội ngũ đông đảo các nhà ngữ học Việt Nam. Trước đây, do có lúc đồng nhất các khoa học xã hội với chủ nghĩa duy vật lịch sử nên chúng ta ít gửi người đi nước ngoài đào tạo các chuyên ngành trên. Ngôn ngữ học thì ngược lại, vì người ta coi nó như là khoa học tự nhiên (không có giai cấp tính). Nhưng phần lớn các nhà du học ở Liên Xô và Ðông Âu về đều lấy cái khung lý thuyết ngữ học châu Âu áp vào tiếng Việt, nên kết quả chỉ là đóng góp thêm một ví dụ để minh hoạ cho cái phổ quát (hoặc tưởng là phổ quát). Ít người như Nguyễn Tài Cẩn hoặc như Cao Xuân Hạo đã từ những đặc điểm riêng của tiếng Việt để chứng minh rằng cái lý thuyết ngôn ngữ phổ quát kia chỉ là trường hợp châu Âu, tức bác bỏ thuyết lấy châu Âu làm trung tâm. Và, nếu Cao Xuân Hạo có nhiều đóng góp cho lý thuyết ngôn ngữ chung, đặc biệt là bộ môn âm vị học còn khá xa lạ với bạn đọc Việt Nam, thậm chí cả với các nhà ngữ học (xem Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng, NXB Khoa học xã hội, 1991; Tiếng Việt - Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, NXB Giáo dục, 1998; Âm vị học và tuyến tính, NXB Đại học Quốc gia, 2001) thì Nguyễn Tài Cẩn có đóng góp lớn cho tiếng Việt và phương pháp nghiên cứu tiếng Việt. Chả thế mà Nguyễn Tài Cẩn thích người ta gọi mình là nhà Việt ngữ học hơn bất cứ một danh hiệu nào khác.
    Nguyễn Tài Cẩn dường như có một người bạn thân là Trần Ðình Hượu. Hượu, như người ta thường nói, khôn trong học thuật mà dại trong cuộc sống. Còn Cẩn, cũng như người ta thường nói, khôn cả đạo lẫn đời. Họ thân nhau, ngoài sự quý tài nhau, hẳn còn tìm thấy ở nhau cái chất mà mình thiếu: sự thơ dại ở Trần Ðình Hượu và sự tinh nhạy ở Nguyễn Tài Cẩn. Nhưng, tôi nghĩ rằng trong xã hội bao cấp, khôn trong đời sống cũng rất cần cho nhà khoa học, cũng là một thứ tài, nhất là khi người ta biết và dám chối từ. Và sau khi Trần Ðình Hượu mất, Nguyễn Tài Cẩn hẳn cô đơn. Nhưng chỉ có "cô đơn toàn phần mới sinh năng lượng" (Ðặng Ðình Hưng), nên ở phía trời Nga kia Nguyễn Tài Cẩn vẫn tiếp tục gửi về tập sách: Tư liệu Truyện Kiều - Bản Duy Minh Thị 1872 mà NXB Ðại học Quốc gia sắp sửa in. Vả chăng, xét cho cùng, nhà khoa học chân chính nào mà chẳng cô đơn, nhất là khi anh ta đi trước đám đông không chỉ một bước, như Nguyễn Tài Cẩn.

    (Đỗ Lai Thuý)
    ...........................
    Cù Lần
  5. minh_le

    minh_le Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/12/2002
    Bài viết:
    780
    Đã được thích:
    0

    "Tìm về linh hồn tiếng Việt" của Nguyễn Đức Dương do NXB Trẻ vừa ấn hành là cuốn sách phân tích tỉ mỉ những lỗi thường gặp trong chính tả, cấu trúc ngữ nghĩa, cấu trúc ngữ pháp của tiếng Việt. Ông tiếp thu một cách nhuần nhuyễn phương pháp quan sát và phân tích của ngữ pháp chức năng nhằm giúp bạn đọc hiểu rõ và chính xác bản sắc, đặc trưng của tiếng Việt. Bởi như nhà ngôn ngữ Wilhelm Humboldt từng nói, "ngôn ngữ của một dân tộc chính là linh hồn của dân tộc đó, linh hồn của một dân tộc chính là ngôn ngữ của dân tộc đó". Sách được mở đầu bằng lời giới thiệu khá sắc sảo của nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo
    9399
    Welcome to Box Quảng Trị.. Click here,please!

Chia sẻ trang này