1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Giới thiệu thơ tân hình thức.

Chủ đề trong '1982 - Cún Sài Gòn' bởi Tao_lao, 05/11/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Tao_lao

    Tao_lao Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    2.152
    Đã được thích:
    1
    Giới thiệu thơ tân hình thức.

    Mark Jarman và David Mason


    Những thiên sứ nổi dậy: 25 nhà thơ tân hình thức




    Cách mạng, như nhà phê bình Monroe Spears nhận xét, vốn được nuôi dưỡng từ trong cốt tuỷ của cá tính Hoa kì. Cá tính đó đã hiển hiện đặc thù trong thi ca Hoa kì hiện đại. Vậy không lạ gì trong sự phát triển trong thi ca Hoa kì gần đây là sự trỗi dậy lại của luật âm tiết (meter) và phép gieo vần (rhyme), cũng như tính chất kể chuyện tự sự (narrative), trong số lớn những nhà thơ trẻ, sau một thời kì mà những thành tố thiết yếu này của văn vần đã bị vùi dập. Chúng tôi hi vọng chứng minh rằng những nhà thơ được biết là Tân Hình thức đã làm ra những bài thơ đáng chú ý về vẻ đẹp, sự chuẩn xác và sự đáng nhớ trong ngôn ngữ, cũng như về tình và ý. Tuyển tập này nhằm tiêu khiển, nhưng cũng nhằm truyền thụ bằng cách thu thập tuyệt tác của 25 nhà thơ mới quan trọng viết trong nhiều hình thức - một số là truyền thống, một số vừa mới ra lò - rút ra từ kinh nghiệm trong thế hệ của họ. Những nhà thơ này đại diện cho một sự thay đổi nền tảng, phải gọi là một cuộc cách mạng, trong nghệ thuật thi ca như đang thực hành ở đất nước này.

    Những nhà thơ trong tuyển tập này đều sinh từ 1940 trở lại. Họ trưởng thành viết văn làm thơ khi phần lớn các nhà thơ Hoa kì đã từ bỏ luật âm tiết và phép gieo vần. Những chấn động văn hoá của các thập niên 1960 và 1970, nối gót theo chủ nghĩa hiện đại (modernism) và hai cuộc thế chiến, đã sản sinh một nền thi ca mà trong đó những khuôn khổ truyền thống bị coi là tương phản với sự thật. Sự nở rộ của thơ tự do (free verse) trong cuộc Chiến tranh Lạnh tự thân đã là một thay đổi, một cuộc cách mạng nuôi dưỡng bằng tính cách Hoa kì. Những nhà thơ ít tuổi hơn thời đó đã đọc tác phẩm của Allen Ginsberg, Amiri Baraka, Diana Wakoski, Denise Levertov, và học hỏi sự chuyển dời trong phong cách từ thơ luật (formal verse) sang thơ tự do nơi những nhà thơ như Robert Lowell và Adrienne Rich. Khi họ bắt chước các bậc trưởng thượng, rất thường khi kết quả là một thứ thơ nói đến những mối quan tâm xã hội, nhưng họ làm thế trong một ngôn ngữ có tầm hạn hẹp về hình thức. Thơ và văn xuôi đã trở nên gần như không phân biệt nổi và "văn vần" (verse) thành ra một từ mang nghĩa xấu. Di sản điệp phụ âm đầu (alliterative) và kho từ vựng phong phú của tiếng Anh cũng bị tổn hại nữa, khi phạm vi thính âm của thơ co rút lại trong cú pháp tầm thường nhất khả dĩ.

    Dĩ nhiên cũng có những nhà thơ Hoa kì lớn tuổi chẳng hề từ bỏ những hình thức truyền thống, và một số là nhà giáo vẫn giữ cho sống động những giá trị thẩm mĩ luống tuổi, cầm cự trước những tấn công vào tác phẩm của họ bởi những nhà phê bình ngỡ là hễ cứ vận luật là trái với tính cách của dân tộc Hoa kì. Người ta nghĩ đến những người như J. V. Cunningham, Anthony Hecht, Howard Nemerov, và Richard Wilbur, cùng với X. J. Kennedy và Mona Van Duyn, chủ trì những tạp chí như Counter/Measures [Đối/Vận luật] và Perspective [Viễn kiến] vẫn từng thân thiện với những người viết luật thi. Người ta nhớ lại rằng Donald Justice, đã từng rời bỏ vận luật trong tác phẩm thời đầu, đã quay trở lại với vận luật vào giữa thập niên 1970. Những nhà thơ này can đảm trong chí nguyện với nghệ thuật. Nhưng thời tuổi trẻ họ đã từng được tập luyện trong nghề thơ ấy và thấm đậm trong mĩ học khuôn khổ của Yvor Winters, John Crowe Ransom, Allen Tate, và những nhà Tân Phê bình (New Critics). Họ khởi hứng từ cái có thể gọi là "qui phạm cao cấp của văn học" (the high canon of literature), được nuôi dưỡng bằng những ý tưởng về nghệ thuật, phản ngữ, là lễ tiết từ thời Phục hưng của văn học Anh.

    Dù thừa nhận mang nợ trước những vị thầy trọng tuổi này, những nhà thơ Tân Hình thức gốc rễ lại khác biệt rất xa. Những nhà thơ trẻ này trưởng thành trong kỉ nguyên của âm nhạc rock, Chiến tranh Việt Nam, Phong trào Dân quyền [tranh đấu cho người Da đen bình quyền], hạn chế sinh sản [giải phóng phụ nữ], thử nghiệm với các dược liệu tâm ảo, và phong trào nữ quyền (feminism). Không phải chỉ nước Hoa kì mà họ cư ngụ đã khác biệt một cách triệt để so với thời thập niên 1930 và 1940, là thời gian phần lớn các thầy dạy của họ trưởng thành, mà ngay cả nền văn học bao quanh họ cũng ít gắn bó với truyền thống. Ngay từ ngữ "truyền thống" cũng đã bị kết nối một cách sáo mòn với một số quan điểm riêng tư của T. S. Eliot [bảo thủ, Kitô giáo, giai cấp ưu tú], và bị thẳng thừng gạt bỏ như lời nguyền rủa. Những nhà thơ trẻ học được cách phi trường ốc.

    Học thức và kĩ xảo bị xem như những chuyện khả nghi về mặt chính trị. Thi ca Hoa kì đã bước vào một giai đoạn lãng mạn nữa, giống như một thời dậy thì muộn màng.

    Điều đáng kể không phải ở chỗ một vài nhà thơ lớn tuổi đã bám đất trước sự công hãm này, cho bằng những nhà thơ trẻ suốt quang phổ chính trị, văn hoá, và sắc tộc đã bắt đầu quay mặt đi với những trào lưu văn học chủ lực. Bằng nhu cầu và tình tự, họ đã khám phá lại sức mạnh cố hữu của tiếng nói khuôn khổ, ngay cả vần điệu, và sức mạnh của chuyện kể để chuyển tải kinh nghiệm, bao gồm luôn cả kinh nghiệm thiểu số hoặc bị gạt bên lề. Họ cũng hiểu rằng toàn bộ cả một cõi lạc thú đã bị khước từ đối với họ bởi phần lớn thi ca đương đại. Một số những nhà thơ trẻ này đã thụ huấn với Robert Fitzgerald tại Đại học Harvard, với Yvor Winters và Donald Davie ở Đại học Stanford, với Allen Tate ở Đại học Sewanee, với John Hollander ở Đại học Yale, và với J. V. Cunningham ở Đại học Brandeis. Nhưng một số rất lớn những nhà thơ trẻ hoàn toàn không có cơ may được đào luyện như thế, đã tìm kiếm thông tin về vận luật ở bất kể nơi nào họ có thể, bằng bản năng họ cảm thấy rằng những kĩ thuật chung cho âm nhạc đại chúng, chẳng hạn, cũng có giá trị sử dụng trong thơ.

    Nhà phê bình Robert McPhillips đã nhận xét rằng những tập thơ đầu tay của Charles Martin, Timothy Steele, và những nhà thơ khác, phần lớn chẳng được chú ý. Đến cuối thập niên 1970, ít nhà phê bình thấy được những gì đang xảy ra, hoặc hiểu được tại sao một thế hệ các nhà thơ trẻ lại cảm thấy bị giới hạn bởi những loại thơ tự do thường được xuất bản nhất. McPhillips gợi ý rằng chính việc xuất bản tập thơ đầu tay của Brad Leithauser mang tên Hundreds of Fireflies [Hàng trăm đom đóm] năm 1982 đã lần đầu tiên lôi cuốn sự chú ý lớn đến trào lưu này. Điều đó có thể đúng, và vào giữa thập niên 1980, đã có những tuyển tập như Strong Measures [Nhịp mạnh] do Philip Dacey và David Jauss chủ biên, và tập Ecstatic Occasions, Expedient Forms [Cơ hội xuất thần, thể thức thích nghi) do David Lehman chủ biên, đã báo hiệu sự quan tâm mới này về vận luật. Tập trước quá rộng rãi trong định nghĩa về hình thức, khó thích hợp cho các thầy cô sử dụng lâu bền; và cả hai tập đều ôm đồm cả những nhà thơ lớn tuổi và trẻ tuổi, xoá nhoà sự khác biệt giữa các thế hệ. Tuyển tập của chúng tôi có tính chuẩn xác hơn trong việc định nghĩa cả về hình thức thơ và về giai đoạn lịch sử.

    Từ ngữ Tân Hình thức (New Formalism) thoạt tiên là một thuộc từ được các nhà phê bình thù nghịch sử dụng để bác bỏ phong trào này và ngay cả những người theo phong trào cũng thường coi là khiếm khuyết. Một số nhà thơ như Frederick Turner và Frederick Feirstein ưa sử dụng từ Expansive Poetry (Thơ Mở rộng) hơn, bởi nó có thể bao gồm cả hiện tượng liên hệ là thơ Tân Tự sự (New Narrative) mà phần nhiều cũng theo vận luật. Thơ Tân Tự sự được những tạp chí như The Hudson Review, The New England Review, và The Reaper [Người gặt lúa] ủng hộ, đã giới thiệu một dòng hiện thực mới vào thi ca đương đại, do ảnh hưởng của Robinson, Frost, và Jeffers, và cũng chịu ảnh hưởng của toàn lãnh vực tiểu thuyết hiện đại. Nhà thơ Vikram Seth, sinh tại Calcutta, một phần thụ huấn ở California, nhưng nay đã quay về quê hương Ấn độ, năm 1986 đã xuất bản tập The Golden Gate [Kim môn] một tiểu thuyết bằng thơ về hai mươi mấy cư dân San Francisco bằng những khổ thơ gieo vần kĩ lưỡng hay mượn từ Pushkin. Julia Alvarez đã viết một tự truyện tiểu thuyết hoá trong thể sonnet chuỗi, gọi là "33." Tác phẩm After the Lost War [Sau cuộc chiến bại] của Andrew Hudgins, là một xử lí trường thiên mới mẻ về cuộc Nội Chiến của Hoa kì và hậu cảnh. Đó là chưa kể đến một loạt những thơ tự sự của Dana Gioia, Paul Lake, Robert McDowell, và Mary Jo Salter, hoặc những thử nghiệm về kịch thơ của Tom Disch.

    Vậy mà chúng tôi chọn giữ từ ngữ Tân Hình thức, bởi nó mô tả đúng nhất phong trào này và sự phân biệt giữa thơ tự do và thơ hình thức. Ta hiểu rằng một người thuộc khuynh hướng hình thức chủ yếu viết trong vận luật của truyền thống văn học Anh và thường trong những hình thức thi ca gắn bó với những vận luật ấy. Đó là trường hợp của những nhà thơ tập hợp ở đây. Tuy nhiên, những nhà thơ Tân Hình thức cũng phản ánh những trào lưu có ý nghĩa văn hoá rộng, chẳng phải không liên hệ tới sự trở về với giai điệu trong âm nhạc nghiêm túc, với sự hình dung trong các nghệ thuật tạo hình, và với nhân vật và cốt truyện trong tiểu thuyết. Sự lơ là với tay nghề về thi pháp trong thơ đã đưa lại hậu quả là một khí hậu văn học mà trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử, đời tư của nghệ sĩ cũng như sự phải đạo của các thái độ chính trị của nghệ sĩ ấy trở thành những tiêu chuẩn mĩ học quan trọng. Cũng đúng thực là hầu như chẳng có nhà phê bình văn học mới đáng kể nào, ngoại trừ những người theo chủ nghĩa nữ quyền, xuất hiện trong số các nhà thơ vào thập niên 1960 và 1970. Khi các nhà Tân Hình thức đã đảm nhận việc phê bình được tín phục, những nét đại cương của phong trào mới này hiện hình rõ hơn. Trong khi sự từ bỏ đại qui mô các hình thức truyền thống - và luôn trọn những loại hình như thơ trào phúng châm biếm, thơ tự sự, và kịch thơ - đã chứng tỏ là quá hạn hẹp, thì những hiện tượng đại chúng và đa dạng như là thơ cao bồi (đồng quê) và nhạc rap minh chứng rằng vận luật đặc trưng của Emily Dickinson cũng mang tính cách Hoa kì chẳng khác nào thơ tự do của Walt Whitman.
  2. Tao_lao

    Tao_lao Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    2.152
    Đã được thích:
    1
    Một trong những công kích xôm trò nhằm vào những nhà thơ đã có cái táo tợn là dám dùng vận luật là bài bình luận của Diana Wakoski "Chủ nghĩa Tân Bảo thủ trong thơ Hoa kì" (Đăng trên tạp chí American Book Review [Điểm sách Hoa kì], số tháng 5&6 năm 1986) tố giác những nhà thơ đủ loại như John Hollander, Robert Pinsky, T.S. Eliot, và Robert Frost là đã sử dụng những kĩ thuật mà Wakoski xem là trọng tâm thuộc châu Âu (Eurocentric). Bà đặc biệt nổi nóng với những nhà thơ trẻ viết theo khuôn khổ. Đánh đồng các chủ trương chính trị với mĩ học, bà qui chiếu về "cái thế hệ mới đang đi tới này không có cách gì xử lí được nỗi âu lo suốt mặt vậy nên muốn một loạt những công thức và qui luật an toàn, cho dù là đối với hình thức thơ hoặc với cung cách đối trị với khiếm ngạch trong ngân sách quốc gia." Vấn đề với những phát biểu như của bà Wakoski là chúng làm mù mờ bất cứ sự phân biệt mĩ học hữu ích nào. Trong trường hợp này, bà thật sự qui chiếu nhà thơ Hollander là 'quỉ vương Satan'. Wakoski nói về "một truyền thống Whitman", nhưng bà trông chờ độc giả phải cứ thế mà tin những lời lảm nhảm mơ hồ này, mà bà chẳng hề làm sáng tỏ tại sao những nhà thơ như Frost và Pinsky lại thiếu tính cách Hoa kì, và chẳng hề vật lộn với những mâu thuẫn trong lí thuyết về thơ của Williams. Bài luận văn của bà về mặt ngôn từ tương đương với một võ sĩ chỉ biết quạt túi bụi để trả đòn.
    Gạt bỏ quan niệm uỷ mị cho rằng vận luật là phi-Hoa kì, những nhà thơ Tân Hình thức đã góp sức một sự đồng thuận mới, bảo vệ giá trị chất liệu của thơ chống sự xâm lấn của văn xuôi, trong khi đồng thời bảo vệ những chủ đề đại chúng chống lại sự cáo buộc là dung tục. Sau hết, đây là những nhà thơ trưởng thành khi truyền hình là phương tiện truyền thông mạnh mẽ nhất. Tuy thế, rốt ráo ra, sự khám phá lại về vận luật do những cây bút trẻ nhắc nhở chúng ta rằng ngôn ngữ đòi hỏi mỗi thế hệ tiếp nối lại phải canh tân.
    Hành vi làm những bài thơ bằng tiếng nói có chừng mực khuôn khổ đã thừa nhận một lễ độ văn minh được quí trọng, là đề cao không chỉ về kĩ thuật, mà còn về cả một tầm nhìn văn hoá rộng lớn hơn đó là phục hồi sự hài hoà và cân xứng cho mọi nghệ thuật. Đó là một ý tưởng có tầm quan trọng lớn lao trong những tác phẩm phê bình như cuốn Chủ nghĩa cổ điển tự nhiên (Natural Classicism) của Frederick Turner, cuốn Thơ có thể quan trọng chăng? (Can Poetry Matter?) của Dana Gioia và cuốn Những tiên tri và những giáo sư (Prophets & Professors) của Bruce Bawer. Như Timothy Steele đã viết trong thiên luận văn uyên bác Thất luật: thơ hiện đại và cuộc nổi loạn chống vận luật (Missing Measures: Modern Poetry and the Revolt Against Meter):
    "Cái thiết yếu cho đời sống con người và sự tiếp nối của nó vẫn là một tình yêu cho thiên nhiên, một hăng say vì công lí, một sẵn sàng về hoà khí, một nhạy cảm bột phát trước cái đẹp và lạc thú, một quan tâm về quá khứ, một hi vọng trước tương lai, và trên hết, là một mong mỏi rằng mọi người cũng có được cơ hội và khuyến khích để san sẻ những phẩm tính đó. Một nghệ thuật bằng tiếng nói có chừng mực khuôn khổ nuôi dưỡng những phẩm tính đó trong một cung cách mà không sự theo đuổi nào có thể sánh bằng."
    Một thế hệ mới những nhà thơ Hoa kì ắt là phải khám phá ra nền tảng chung về mĩ học này dẫu cho khởi đi từ những bối cảnh xã hội và chính trị phức biệt. Tuyển tập này sẽ phô bày sự phức biệt ấy. Tân Hình thức kết hợp những nhà thơ khác biệt nhau đến như là Marilyn Hacker và Sydney Lea, Rafael Campo và R.S. Gwynn, những nhà thơ tâm sự có, ai vãn có, phúng thích có, và dịu dàng xúc động cũng có. Phạm vi các chủ đề và hình thức đã phục hồi sinh lực cho nghệ thuật thi ca một cách phì nhiêu. Tuyển tập này đánh dấu sự đơm hoa và việc qui tụ những nhà thơ cá tính riêng biệt này vào chung một chiếu ngồi giữa hai bìa sách như thế này là lần đầu tiên. Hai mươi lăm nhà thơ này nằm trong số những người sẽ dẫn nền thơ Hoa kì vào trong thế kỉ 21.
    Những người biên tập sách này đã đặt ra vài tiêu chuẩn để kết tụ. Thứ nhất, chúng tôi chỉ tập hợp những nhà thơ Hoa kì sinh trong năm 1940 hoặc về sau, là những nhà văn xuất đầu lộ diện trong những thập niên 1970, 1980, và 1990 và còn đang phát triển nghề thơ. Khi nhuận sắc tuyển tập, chúng tôi loại ra nhiều nhà thơ sáng giá, một số vì những lí do khiên cưỡng như là quốc tịch, một số khác vì họ chưa xuất bản tập thơ nào. Thứ hai, chúng tôi chỉ chọn những bài thơ trong đó việc sử dụng hình thức là nghiêm nhặt và chủ trì. Những nhà thơ Tân Hình thức không phải là những người luôn luôn câu nệ vào luật trọng âm trong âm tiết. Một số sử dụng luật âm tiết hoặc trọng âm. Một số trong những bài thơ tuyển ở đây mang tính thử nghiệm về âm tiết, nhưng chúng tôi quả thực muốn có sự tín nhiệm cả trong câu thơ và phép tu từ. Không có bài thơ nào là "giả hình thức" (pseudo-formal), theo như một từ ngữ của Dana Gioia. Thứ ba, chúng tôi không muốn những bài thơ nào chỉ thuần là hình thức. Nghĩa là những bài thơ thao tác vững vàng trong thi luật, nhưng không gây xúc động hoặc thuyết phục chúng tôi về mặt con người, đều bị loại trừ.
    Chọn tiêu bản từ tác phẩm của một số nhà thơ là cả một sự gay go. Nơi một số người tuyệt tác lại nằm ở những chuỗi thơ và thơ tự sự dài cả tập. Chúng tôi cố trích diễm khi khả dĩ, hoặc chọn những bài thơ ngắn hơn, tự nén hơn. Sau chót, chúng tôi muốn kết tụ tác phẩm của vài nhà thơ mới góp mặt với ít nhất đã có một tập thơ vấn thế, cùng với những nhà thơ quen thuộc hơn. Điều này gợi ra rằng Tân Hình thức là một vận động không hạn hẹp, mà vẫn liên tục thu hút những người gia nhập mới từ nhiều bối cảnh. Vấn đề loại ra và gom vào trong các tuyển tập bao giờ cũng bất toàn trong đề đạt, và tuyển tập này không phải là ngoại lệ. Độc giả có thể thấy những đề nghị đọc thêm ở cuối sách.
    Nếu chúng tôi đặc biệt đề bạt những nhà thơ Tân Hình thức, đó là vì trong cung cách họ xúc tiến đến hình thức và chủ đề có phần đa dạng hơn so với một số tác phẩm của những thế hệ trước. Có lúc trong tác phẩm của họ chúng tôi thấy sự thanh nhã và kĩ xảo lưu loát, có lúc lại thô phác sinh động. Trong thơ của họ nghe ra có sự khám phá ra cái gì đã bị lạc mất, một cảm thức về chất phế thải được tôi đúc lại, một sự tái phát minh ra bánh xe, và những hình thức mới nở bừng từ những hình thức cũ. Là người Hoa kì, những nhà thơ này san sẻ một tình yêu với những kẻ không chữ nghĩa. Họ tìm ra những chủ đề giấu mặt nơi không ngờ. Bởi những người theo chủ nghĩa hình thức, họ ban một đời sống nôm na mới cho những hình thức xưa, nhưng họ cũng phát minh ra những hình thức mới của riêng họ. Chắc chắn đây là một chức năng của chất cách mạng bẩm sinh hằng nuôi dưỡng trong cá tính Hoa kì. Hễ khi nào một sự thay đổi nền tảng xảy ra, và những hình thức cũ, đã bị liệng đi, được khám phá trở lại, sự hồi sinh ấy hẳn sẽ bao gồm một sự tái sự bài bố hình thế. Trong tay những nhà thơ này, những hình thức truyền thống như không vần (blank verse) và thể sonnet [thơ 14 hàng] trong khi vẫn tuân thủ những qui luật xưa, dường như lại mới tinh khôi.
    Những độc giả thú vị về hình thức hoặc muốn có một bản đồ hướng dẫn qua cảnh sắc biến cải, và đa dạng, và kì thú không cùng của nền thơ Hoa kì đương đại, ắt sẽ tìm được sự hân thưởng trong hội hoa đăng nơi những bài thơ sau đây.
    _________
    Nguyễn Tiến Văn dịch toàn văn bài tựa cho tuyển tập Rebel Angels: 25 Poets of the New Formalism, chủ biên: Mark Jarman và David Mason, (1996), 280 trang, Nxb Story Line Press, Ashland, Oregon. tr. xv - xx.
    (Tạp chí Thơ, số mùa Thu 2002)
    tapchitho@aol.com
    www.vietnamesepoetry.com
  3. co_khong_anh_new

    co_khong_anh_new Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    28/03/2002
    Bài viết:
    880
    Đã được thích:
    0
    Trùi ui , công lao thật to lớn ...post cả một bài dài như vậy....hichic...ớn ăn quá....tự nhiên hết muốn làm thơ luôn
    Em cứ ôm vào biết bao nhiêu mảnhvỡ
    Rồi tự hỏi lòng sao lại chẳng bình yên

  4. Tao_lao

    Tao_lao Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    2.152
    Đã được thích:
    1
    Những Bài Thơ
    Tân Hình Thức Tiếng Anh


    Lts: Chúng tôi chọn tiếng Anh để đăng thêm nguyên tác vì là ngôn ngữ được nhiều người biết. Thơ không thể dịch. Trong tình trạng thơ ngoại quốc dịch ra tiếng Việt hiện nay, người dịch chỉ đơn thuần dịch nghĩa theo tự điển và làm nhuần nhuyễn theo ngữ điệu tiếng Việt, gây nên ngộ nhận, những bài thơ dịch chính là thơ và tạo ra những sáng tác giống như thơ dịch. Dịch thơ cũng không phải là sáng tác một bài thơ khác, mà tìm cách giúp người đọc tiếp cận được với nguyên bản, và như thế vai trò của người dịch sẽ thay đổi, ở vào một vị trí khiêm tốn hơn. Chúng tôi đề nghị, dịch sát ý, đơn giản và dễ hiểu, và người dịch cần ghi chú cách đọc hoặc vắn tắt quan điểm thẩm mỹ của bài thơ, để người đọc đọc thẳng vào nguyên bản.
    Thơ của Frededrick Turner khó dịch, do đó chúng tôi dùng bản dịch của hai dịch giả. Bài Spring Evening viết theo thể quatrain (đoạn 4 dòng) có vần. Nếu là không vần, thường là iambic pentameter, như trong bài On the Pains of Translating Miklós Radnóti. Bài April Wind, viết theo thể quintet, mỗi đoạn 5 dòng, có vần, iambic pentameter (dòng 10 âm tiết), riêng dòng thứ 5 mỗi đoạn viết theo iambic tetrameter (dòng 8 âm tiết).
    Bài thơ Saints and Strangers của Andrew Hudgins viết theo thể Không Vần (Blank Verse), iambic pentameter. Dịch giả Cù An Hưng dịch theo 10 âm tiết trong thơ tiếng Việt, nên có nhiều dòng phải thêm thắt vào cho đủ nhưng vẫn dễ hiểu khi so với nguyên bản tiếng Anh.
    Bài The Black Cat do nhà thơ J. Đỗ Vinh dịch từ tiếng Việt ra Anh, cũng theo thể Không Vần, iambic pentameter.
    Tất cả những bài thơ trên đều dùng kỹ thuật vắt dòng. Trong tiếng Anh, luật thơ chỉ là luật của một dòng thơ (verse), đơn vị là foot. Trong dòng thơ 10 âm tiết gồm 5 foot iamb (không nhấn, nhấn) và trong dòng thơ 8 âm tiết gồm 4 foot iamb. Iambic pentameter là dòng thơ thông dụng nhất trong thơ tiếng Anh, nhưng không phải cứ đúng, không nhấn, nhấn rồi lại không nhấn, nhấn cho đến hết 10 âm tiết vì như vậy sẽ nhàm chán và đơn điệu. Luật cho phép người làm thơ thay vào một foot khác (thường là trochee, nhấn, không nhấn, ngược với iamb, và cũng có thể dùng các foot như anapst, không nhấn, không nhấn, nhấn, hoặc dactyl, nhấn, không nhấn, không nhấn) vào bất cứ chỗ nào trong dòng thơ, và chỉ được thay thế 1 foot trong mỗi dòng thôi. Và vì thế nhịp điệu của bài thơ sẽ thay đổi, bất ngờ và phong phú, đọc lên, nghe gần với ngôn ngữ nói thông thường. Thật ra, không nhấn, nhấn, chỉ là sự liên hệ giữa hai âm tiết, một âm tiết này nhấn mạnh hơn âm tiết kia, nghe sao cho thuận tai mà thôi, do đó, vấn đề là nắm bắt được ngôn ngữ tự nhiên trong cách nói thông thường, làm sao phân biệt sự khác biệt tinh tế giữa các âm tiết. Điều này thật khó đối với những người tiếng Anh chỉ là một ngôn ngữ thứ hai vì ngôn ngữ tự nhiên ấy tiếp nhận từ người mẹ, được hoàn tất ngay từ tuổi ấu thơ, lúc chưa cắp sách tới trường.
    Những bài thơ trên, bạn đọc đọc lớn lên, ghi dấu sắc (?~) trên nhưng âm nhấn, gõ nhịp bằng tay. Nếu có hai âm tiết không nhấn liên tiếp nhau, có nghĩa là chúng ta phải đọc nhanh hơn, và nếu có hai âm tiết nhấn liên tiếp, có âm tiết phải đọc nhẹ hơn âm tiết kia. Chúng ta đọc sao cho khi gõ nhịp, nghe ra có hai nhịp đập (beat).
    Về bài thơ The Black Cat, cũng đọc theo cách trên, nhưng xin bạn đọc so với bài thơ tiếng Việt để nhận ra sự khác biệt giữa âm nhịp của hai ngôn ngữ, trọng âm và bằng trắc, cùng thể Không Vần giữa thơ Anh và Việt. Nên nhớ, những chữ lập lại không được coi như vần trong thơ truyền thống Anh. Bài dịch tiếng Anh, nghe âm hưởng như một loại nhạc Rap, còn thơ Việt luyến láy theo giọng trầm bổng, cả hai cùng đọc một hơi không dừng lại.
    Chúng tôi xin cám ơn các anh chị Nguyễn tiến Văn, Cù An Hưng, Nguyễn Thị Ngọc Nhung và J. Đỗ Vinh đã đồng ý với quan điểm của chúng tôi, với tinh thần xuề xòa và thoải mái cho phép chúng tôi ghi chú vài điều nêu trên.





    SPRING EVENING

    By Frederick Turner

    Above the baby powder clouds
    The sky is china blue.
    Soon, young and chattering, the crowds
    Of stars come pushing through.

    And this is the first dispensation,
    The setting up of the odds;
    This is the eve of creation,
    This is the time of the gods.


    Spring Evening

    Trên cụm mây trắng mịn như phấn trẻ con
    Bầu trời xanh lam,
    Rồi, trẻ trung nhộn nhịp, nhóm
    Sao vén mây bước ra.

    Đấy là thiên mạng đầu tiên,
    Sắp xếp may rủi;
    Đây là tối sáng tạo,
    Đây là thời của thánh thần.

    Nguyễn Thị Ngọc Nhung dịch

    Chiều Xuân

    Trên mây phấn bé thơ
    Bầu trời men lam cao
    Rồi trẻ trung lao xao
    Đàn sao chen chúc ra

    Đây trật tự sơ nguyên
    Dựng thiên sai vạn vật
    Đây chiều tiền sáng tạo
    Đây thời của chư thiên

    Nguyễn Tiến Văn dịch




    APRIL WIND

    By Frederick Turner

    for Ann Weary

    Wind, gigantic, wrestles the April leaves;
    The mares are nervous, elated, tossing their manes;
    We pass in file under the forest eaves
    Where a magic bodarc shakes an emerald free
    From each of its branched black veins;

    The path is narrow, we are fingered at elbow and knee
    By the grape and the cedar elm. All goes dazzling bright:
    The sun has come out and now we suddenly see
    How this green is the white of the plant world, the blanch
    Of its secret kinship with light;

    And my friend turns ?" the artist, who owns this ranch ?"
    And tells how a painter will throw on a gout of white,
    Anf feather a green glaze thereover, for a branch;
    And now, strangely, we both fall silent and ride
    As if we were chilled by slight;

    For through the woodland is blowing a perfume, a tide
    Of sweetness from some blossoming out of our sight,
    Mysterious, innocent, heavenly, known on the inside
    Only, unfading; and the mares are dancing, and we,
    Like disciplined riders, pull tight

    On the rein and grasp with the strength of the thigh and the knee
    The huge bodies that move, prehistoric and blind,
    Through the now darkening glades. And we are quite free
    To speak, or not, as we making for the gate we shall find
    In the waves of the fragrant wind.


    Gió Tháng Tư


    Gió, cuồng, xô đẩy lá tháng tư;
    Mấy con ngựa bôàn chồn, rạo rực, lắc bờm;
    Chúng tôi lần lượt đi dưới mái rừng
    Nơi cụm cây gai* huyền ảo lay động hạt bích ngọc
    rơi ra từ gân đen của cành nhánh;

    Con đường mòn hẹp, khuỷu tay và đầu gối của chúng tôi bị châm chọc
    Bởi chùm nho và cây bách hương. Tất cả đều sáng chói lòa;
    Mặt trời đã lên và bỗng chúng tôi nhận thấy
    Cái màu xanh này là màu trắng của thế giới cây cỏ, sự nhuộm trắng
    Trong quan hệ mật thiết của nó với ánh sáng;

    Và bạn tôi day lại ?" người nghệ sĩ, chủ trại này ?"
    Và nói về chuyện một họa sĩ sẽ quệt một đốm trắng ra sao,
    Và phẩy ***g theo đó màu xanh lá, một nhánh cây;
    Và giờ, rất lạ, chúng tôi vụt im lặng cưỡi ngựa
    Thể như hơi buốt lạnh bởi;

    Hương gió thổi ngang rừng cây, một con sóng
    ngọt ngào từ chùm hoa nở đâu đó khuất mắt nhìn của chúng tôi,
    Một cách bí ẩn, vô tội, thiên thần, chỉ được biết tận trong tâm tư,
    Không phai màu; và mấy con ngựa đang vờn múa, và chúng tôi,
    Như những người cưỡi ngựa đào luyện, gò chặt

    Cương và kềm giữ với sức mạnh của đùi và đầu gối
    Những cơ thể to lớn đang chuyển động, tiền sử và mù lòa,
    Ngang qua những vũng tối dần. Và chúng tôi gần như tự do
    Để nói, hoặc không, trên đường đến cổng chúng tôi sẽ tìm thấy
    Qua những luồng gió ngát hương.

    Nguyễn Thị Ngọc Nhung dịch


    *bodarc: đến từ chữ bois d?Tarc của Pháp, dùng gọi những cụm cây có gai hoặc cây nhỏ có nhánh dẻo,
    thường là osage orange (gốc Texas) trồng làm hàng rào.
    Ngoài ra, dân da đỏ Osage thời xưa dùng nhánh cây này để làm cung.



    Gió Xuân

    Tặng Ann Weary

    Gió khổng lồ vật vã lá tháng Tư
    Ngựa cái ***g, căng, bờm tung bay
    Chúng ta đi luồn dưới mái rừng già
    Nơi cây cam dại vàng lay ngọc bích
    Khỏi mỗi mạch máu đen chia cành

    Đường mòn hẹp, sờ vào khuỷu tay và đầu gối
    Là những chùm nho và cây du đàn hương. Mọi thứ chói loà
    Mặt trời đã ló ra và chúng ta chợt thấy
    Màu xanh này là màu trắng của cỏ cây
    Tráng hồ mối thân tộc thầm kín bằng ánh sáng

    Và bạn tôi quay lại ?" người nghệ sĩ chủ trang trại này ?"
    Và kể một hoạ sĩ sẽ vẩy một giọt trắng,
    Và phớt trên một lớp lục để làm cành;
    Và bây giờ, kì lạ thay, cả hai chúng tôi lặng im cưỡi ngựa
    Như thể buốt nhói vì một thoáng vu vơ

    Vì suốt rừng thổi một làn hương, một trào dâng
    Ngọt ngào từ sự đơm hoa kín ẩn
    Huyền bí, ngây thơ, thiên tiên, chỉ biết được
    Từ thâm tâm, không nhạt nhoà; đôi ngựa cái nhẩy quẫng
    Là kị mã từng trải, chúng tôi gò cương

    Chặt và dùng đùi cùng đầu gối
    Xiết những thân thể kếch xù di động, tiền sử mù loà
    Qua rừng thưa đang sẫm dần. Và chúng tôi hoàn toàn tự do
    Nói hoặc không, khi tiến về phía cổng sẽ thấy ra
    Trong những làn sóng của hương gió đưa.

    Nguyễn Tiến Văn dịch
  5. Tao_lao

    Tao_lao Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    2.152
    Đã được thích:
    1
    ON THE PAINS OF TRANSLATING MIKLÓS RADNÓTI

    By Frederick Turner

    (The great Hungarian poet shot by the Nazis in 1944. His mother and twin brother died in childbirth.)


    And now I too must wrestle with a brother
    Whose dead limbs cumber me in the womb,
    Whose grief I pity, but whose cord of nurture
    Glides dreadful and unseen in this blind gloom.

    That angel, who took Cain to be his mirror,
    Knew how to die, knew how to share a grave;
    Sometimes he almost overcrows my spirit,
    His great feathered wings beating in the **** ?"


    My elder brother died as I first opened
    My lips in speech instead of in a scream;
    Now he returns to claim the voice I borrowed,
    Now he returns, the hero of my dream.

    How can I share the lifeblood of our mother?
    How can I let his dead voice steal my breath?
    But how indeed could I deny my brother
    Who, reckless, bought my birthright with his death?

    For all alone among that generation
    He kept the faith that I have made my name,
    That ancient grace, that hard emancipation,
    The love of form that touch that us like flame.

    What can I do but open to his service
    The pulse and wordstream of the mother tongue?
    Thus I subdue myself and hear him singing
    Out of the land of shades where none have sung.

    Could I, the Western democrat, professor,
    Father, essayist, of middle age,
    Be given any great gift than this is,
    To share the passion of his vassalage?


    Nỗi đau khi dịch thơ Miklós Radnóti

    Và bây giờ thì tôi cũng phải đánh vật với một người anh
    mà tay chân đã chết của anh gây trở ngại cho tôi trong bụng mẹ,
    mà tôi thương hại nỗi bi cảm của anh, nhưng cuống nhau nuôi dưỡng của anh
    lướt qua trong kinh hãi và không ai thấy trong nỗi ảm đạm mù lòa này.

    Thiên thần ấy, người đã nhận Cain là gương soi,
    Đã biết cách chết, cách chia sẻ nấm mồ;
    Đôi khi anh gần như phủ lấp linh hồn tôi,
    Cánh lớn của anh vỗ trong hang ?"

    Anh tôi chết khi tôi lần đầu hé
    Môi để nói thay vì la;
    Giờ anh trở lại đòi tiếng nói tôi đã mượn,
    Giờ anh trở lại, người anh hùng trong mơ của tôi.

    Làm sao tôi có thể san sẻ huyết mạch của mẹ?
    Làm sao tôi có thể để mặc tiếng nói đã chết của anh cướp lấy hơi thở của mình?
    Thật ra thì làm sao tôi có thể từ chối anh mình
    Người, không quản gì, đã mua lấy quyền kế thừa của tôi bằng cái chết của anh?

    Một mình đơn độc trong thế hệ ấy
    Anh giữ niềm tin rằng tôi đã tạo nên danh,
    Cái ân sủng xưa ấy, nỗi giải phóng khó khăn ấy,
    Là hình thức tình yêu như lửa chạm đến chúng ta.

    Tôi không thể làm gì khác hơn là nhận lấy sự phục dịch của anh
    Nỗi rung động và dòng suối chữ của tiếng mẹ?
    Cho nên tôi dịu người xuống và nghe anh hát
    Từ bóng tối của vùng đất chưa có người hát,

    Làm thể nào để tôi, một người dân chủ phương Tây, một nhà giáo,
    Người cha, tiểu luận gia, tuổi trung tuần,
    Lại được tặng món quà quí giá hơn bất cứ món quà nào khác,
    Chia sẻ được nỗi đam mê lệ thuộc của anh?

    Nguyễn Thị Ngọc Nhung dịch




    Về những nỗi đau của việc dịch Miklós Radnóti


    (Nhà thơ lớn Hungrari bị bọn Quốc xã bắn năm 1944. Mẹ và
    người anh em song sinh của nhà thơ cùng chết khi ông ra chào đời.)

    Và bây giờ tôi cũng phải vật lộn với một anh em
    Mà tứ chi chết vướng víu tôi trong lòng mẹ
    Người tôi thương nỗi buồn, nhưng sợi dây nuôi dưỡng
    Trượt kinh hoàng và chẳng thấy trong tối đen mù loà này

    Thiên sứ ấy, ngỡ Cain là gương mình
    Biết cách chết, biết cách san sẻ nấm mồ
    Đôi khi anh hầu như lấn tinh thần tôi
    Đôi cánh chim lớn anh đập trong hang động ?"

    Anh tôi chết ngay khi tôi vừa mở
    Môi để nói thay vì để hét
    Nay anh trở lại đòi giọng nói tôi đã mượn
    Nay anh trở lại, người anh hùng trong mộng tưởng tôi

    Làm sao tôi san sẻ được máu đời sống của mẹ
    Làm sao chịu cho giọng chết của anh cướp hơi thở mình
    Nhưng làm sao tôi khước từ nổi người anh em mình
    Đã liều mạng lấy cái chết mua cho tôi quyền sống?
    Vì riêng cô đơn trong cả một thế hệ ấy
    Anh đã giữ niềm tin mà tôi đã lấy làm danh nghĩa
    Ân phước xưa, giải thoát nhọc nhằn
    Tình yêu hình thức xúc động ta như ngọn lửa

    Tôi làm được gì ngoài mở đón phụng vụ anh
    Mạch và dòng chữ của tiếng mẹ?
    Vậy tôi khuất mình và nghe anh cất tiếng ca
    Từ miền bóng tối chưa có ai từng hát.

    Làm sao tôi, một người dân chủ phương Tây, một giáo sư,
    Một người cha, viết luận văn, tuổi trung niên,
    Có được món quà nào lớn hơn thế nữa.
    Là san sẻ thương khó của lệ thuộc người?

    Nguyễn Tiến Văn dịch

    Frededrick Turner
    [Sinh năm 1943, là Giáo sư tước Sáng lập về Nghệ thuật và Nhân văn thuộc Đại học Texas ở Dallas. Ông sinh ở Anh và là con của nhà nhân học lừng danh chuyên về biểu tượng và sinh hoạt tông giáo châu Phi là Victor Turner. Vì theo cha mẹ đi nghiên cứu thực địa, ông lớn lên ở châu Phi. Nhập tịch công dân Hoa kì năm 1977. Luận án tốt nghiệp ở Đại học Oxford của ông được Ấn quán Clarendon của Đại học này xuất bản mang tên: Tân thế giới: một sử thi hoành tráng (The New World: An Epic Poem). Ông là tác giả của những sách như là: Chủ nghĩa Cổ điển: những Luận văn về Văn học và Khoa học (Natural Classicism: Essays on Literature and Science, 1985); Sáng thế kí: một Sử thi Hoành tráng (Genesis: An Epic Poem); Tái sinh của Giá trị: Trầm tư về cái Đẹp, Môi sinh, Tông giáo, và Giáo dục (Rebirth of Values: Me***ations on Beauty, Ecology, Religion, and Education) một tác phẩm triết lí có cao vọng kết hợp tâm linh và khoa học làm nền cho một mĩ học mới; thi tập Gió Xuân (April Wind) và nhiều tác phẩm khác. Ông công tác với những tạp chí như Poetry, Harper?Ts và nhiều xuất bản định kì khác.]

  6. Tao_lao

    Tao_lao Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    2.152
    Đã được thích:
    1
    At the Piano

    By Andrew Hudgins

    One night two hunters, drunk, came in the tent.
    They fired their guns and stood there stupidly
    as Daddy left the pulpit, stalked toward them,
    and slapped them each across the mouth. He split
    onê?Ts upper lip.
    They beat him like a dog.
    They propped their guns against the center pole,
    rolled up their sleeves as Daddy stood and preached
    about the desecration of God?Ts house.
    They punched him down, took turns kicking his ribs,
    while thirty old women and sixteen men
    sat slack-jawed in their folding chairs and watched.
    Just twelve, not knowing what to do, I launched
    into ?oAmazing Gracê? ?" the only hymn
    I knew by heart ?" and everyone sang.
    We sang until the hunters grew ashamed
    ?" or maybe tired ?" and left, taking their guns,
    their faces red and gleaming from the work.

    They got three years suspended sentence each
    and Daddy got another tale of how
    Christians* are saints and strangers in the world.
    I guess he knows. He said that I?Td done right
    to play the song. God?Ts music saved his life.
    But I don?Tt know. I couldn?Tt make a guess.
    Can you imagine what meant to be
    just barely twelve, a Christian and a girl,
    and see your father beaten to a pulp?
    Neither can I, God knows, and I was there
    in the hot tent, beneath the mildewed cloth,
    breathing the August, Alabama air,
    and I don?Tt know what happened there, to me.
    I told this to my second husband, Jim.
    We were just dating then. I cried a lot.
    He said, Hush, dear, at least your father got
    a chance to turn all four of his cheeks.**
    I laughed. I knew, right then, I was in love.
    But still I see that image of my father,
    his weight humped on his shoulders as he tried
    to stand, and I kept plunging through the song
    so I could watch my hands and not his face,
    which was rouged crimson with red clay and blood.



    Ng"i 'àn dỈỈng cầm

    Đêm hôm ấy hai thợ sfn say vào ngôi lều.
    Họ n. súng và 'ứng sững dáng 'ần 'Tn lúc
    ba tôi rời bục giảng kinh, uy nghiêm bỈ>c t>i
    và vung tay 'ấm cả hai ngay mi?ng. MTt tên
    bn ngôi lều,
    xắn tay áo trong lúc ba tôi 'ứng thẳng giảng
    về sự mạo phạm ngôi nhà của Chúa.
    Họ 'ấm cho ông gục, xoay ngỈời 'á mạng sỈờn.
    Cả ba mỈỈi bà già và mỈời sáu 'àn ông
    mi?ng ú > trên ghế xếp, ch? biết ng"i trông.
    M>i mỈời hai tu.i, chẳng biết làm gì, tôi bèn
    phóng vào khúc ?o Amazing Gracê? ?" bài tụng ca
    duy nhất tôi thuTc lòng ?" và ai ai cũng hát.
    Chúng tôi hát mãi t>i lúc bọn họ h. thẹn
    ?" hốc giả họ chán ?" và bỏ 'i, 'em súng theo,
    hai khuôn mặt ửng 'ỏ héo hắt.
    R"i bọn họ bi mỈời hai, mTt con chiên Chúa, mTt cô bé
    thấy ba mình bi vải m'c
    hít thY không khí Alabama, tháng tám,
    và tôi chẳng biết cái gì 'ã xảy ra cho tôi.
    Tôi 'ã kf cho Jim, ngỈời ch"ng sau của tôi.
    Chúng tôi ch? m>i hẹn hò. Tôi 'ã khóc nhiều.
    Jim nói, Sụyt, em yêu, ít ra ba em có
    di.

    Từ tập thỈ REBEL ANGELS, 25 POETS OF THE NEW FORMALISM,chủ biên: Mark Jaman và David Mason , nxb Story Line Press l998, Second American Printing.

    Andrew Hudgins, Thi sĩ Mỹ ( Texas 1951 - ) phái Tân Hình Thức, 'ang dạy tại trỈờng 'ại học Cincinnati. "ng 'ốt nhiều giải thỈ tại Mỹ, trong 'ó có các giải Wallace Stegner của 'ại học Stanford, Alfred Hodder của 'ại học Princeton, và Academy of American Poets Award.
    Các tập thỈ 'ã xuất bản: After the Lost War ( Giải Poets?T Prize ) Saints and Strangers, The Never ?" Ending, The Glass Hammer




    THE BLACK CAT

    By Khe Iem
    Translated by J. Do Vinh
    The black cat with my soul and a piece of
    my rib, wakes up every morning not
    washing its face, every morning not
    brushing its teeth; the black cat with clay-like
    eyes, opening and closing, or open
    -ing and never closing, as it climbs up
    and down the stairs, dragging with it my soul
    and a piece of my rib, forgetting that
    i had lived much darker days, since when and
    why it was i had buried them in my
    pocket full of allusions, gathered from
    many different tales, strung together
    to make up this story about the black
    cat with my soul and a piece of my rib;
    of course, that is the black cat with clay-like
    eyes, not any other kind of eyes; even
    as, the black cat climbs up and down the stairs.

    Con Mèo Đen


    Con mèo 'en có linh h"n và chiếc
    xỈỈng sỈờn của tôi, m-i bu.i sáng thức
    dậy không bao giờ rửa mặt, m-i bu.i
    sáng thức dậy không bao giờ 'ánh rfng;

    con mèo 'en có 'ôi mắt bằng 'ất
    sét, mY ra và nhắm lại, hay cứ
    mY ra và không bao giờ nhắm lại,
    trong lúc lên thang xu'ng thang, mang theo

    linh h"n và chiếc xỈỈng sỈờn của tôi,
    mà quên rằng, tôi 'ã s'ng những ngày
    hôn ám biết bao, tự thuY nào và
    tại sao thì tôi 'ành chôn kín, trong

    cái túi 'ựng 'ầy những 'ốn chú thích,
    'Ỉợc lỈợm lặt từ rất nhiều mẫu chuy?n,
    'f cấu thành câu chuy?n về con mèo
    'en, mang linh h"n và chiếc xỈỈng sỈờn

    của tôi; dĩ nhiên, 'ó là con mèo
    'en có 'ôi mắt bằng 'ất sét, chứ
    không phải bất cứ 'ôi mắt nào khác;
    mù 'ặc, trong lúc lên thang xu'ng thang.

  7. Tao_lao

    Tao_lao Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    2.152
    Đã được thích:
    1
    Chào mọi người,
    Box này thiệt là đông vui quá. Nhiều người thú vị, nhiều chủ đề hấp dẫn nhất là liên quan đến thi ca, chủ đề mà tao_lao quan tâm. Trước đây thì tao_lao cũng có lần thảo luận, tán dóc với một anh về thơ và các bản dịch thơ tiếng anh bên CLB tiếng anh Sài Gòn (SEC) nhưng sau đó thì có chuyện mạng tạm ngưng hoạt động. Đến khi hoạt động lại thì anh bạn cũng đi mất. Thật là tiếc.
    Hiện tại thì cũng tham gia tán dóc ở bên trường cũ của tao_lao là ĐH BKSG, nhưng quả thực là bên đấy có vẻ khó mà thảo luận mấy chủ đề thơ thẩn như thế này. Nói thế thì mong mọi người đừng hiểu nhầm là dân BK khô khan tội nghiệp ( tao_lao cũng từng học ở BK mà), nguyên nhân chủ yếu là mọi người ở đó đang có chuyện qui hoạch lại box nên đối với các chủ đề thì có hơi khắc khe. Tao_lao thì là người ưa nổi loạn nên khuôn phép như thế thật khó mà thích hợp.
    Nói đến chuyện thi ca thì thật ra tao_lao không rành lắm. Đọc thơ văn vì để giết thời gian, quên đi hiện tại...ban dầu thì là thế (như miah bảo đó thôi, làm kẻ tha hương thì cô đơn trống vắng như thế nào,trở nên cứng cỏi và..mềm yếu như thế nào). Đọc được một ít thì cũng cố gắng học một ít, có hiểu được đôi chút thì thấy nó thú vị.
    Bắt đầu với Đường thi (quyển thi pháp thơ đường của Quách Tấn,một trong Bàn Thành tứ hữu), rồi tiền chiến xong nhảy qua tự do.Thích Xuân diệu yêu điên và mạnh mẽ với những câu thơ đọc lên thấy ngỡ ngàng:
    Hãy sát đôi đầu hãy kề đôi ngực
    Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài
    Đôi bàn tay hãy quấn riết đôi vai
    Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt...
    Từ thời phổ thông tao_lao đã được học Xuân Diệu với Thơ Duyên, Biển..nhưng những câu thơ như trong bài Xa cách ở trên thì tao_lao khoái hơn. Có cái mạnh và cái thực mà văn chương trong trường chắc là chẳng bao giờ dám đề cập tới.
    Hay Nguyễn Bính nhẹ nhàng, có pha cái giản dị của đồng quê với Chân quê,Tương tư...(tao_lao cũng là người quê mùa sinh ra và lớn lên ở quê nên đối với những cái gần gũi vẫn luôn có tình cảm đặc biệt),Thế Lữ với Giây Phút Chạnh Lòng (phía sau quyển Đoạn Tuyệt của Nhất Linh) và Lưu Trọng Lư với Một ngày mùa đông...Thật là thiếu xót nếu không kể Hàn Mạc Tử với nhiều bài thơ thật tuyệt vời:
    Vô tình để gió hôn lên má
    Bẻn lẽn làm sao lúc nửa đêm
    Em sợ lang quân em biết được
    Nghi ngờ cho cái tiết trinh em.
    Kể ra các nhà thơ như thế tất nhiên tao_lao không có tham vọng làm một cuộc điểm thơ hay giới thiệu tác giả hoành tráng. Họ thì chắc là ai cũng biết, cũng đã đọc nhiều. Kể ra đây để mọi người có lúc nào đó đã đọc qua những bài này có dịp được nhớ lại phút giây nào đó trong đời mình.
    Mỗi bài thơ ở trên đều gắn với những kỉ niệm của tao_lao. Đọc lúc chia li, đọc lúc đang yêu nồng nhiệt, đọc lúc giân hờn trách móc người yêu...Nhắc lại đây giống như mình được sống thêm lần nữa những giây phút đó, được sống hai lần trong đời một khoảnh khắc tuyệt vời thì thật là hạnh phúc.
    Những nhà thơ tiền chiến và thơ tư do kể ra chắc là phải đến tận hôm sau. Nếu mà mọi người ở đây thích thì xin hẹn lại lần sau. Bây giờ xin được chuyển qua nói đôi điều về thơ tân hình thức.
    Tao_lao biết đến nó gần đây trên diễn đàn talawas tại địa chỉ: www.talawas.org .Đọc nhiều bài thảo luận,hiểu thêm một chút thì thấy thật mới lạ. Chưa hiểu nó hay hơn tư do ở chỗ nào và hiện tại chưa có nhiều bài thơ đỉnh cao hơn (ít ra là tao_lao chưa đọc ) nhưng nó khác hẳn với thơ truyền thống về mặt thị giác và thính giác. Nhạc tính của nó khác hẳn và cách bố trí câu chữ cũng khác hẳn.
    Phong trào thơ này bắt đầu trong văn chương Mỹ trong khoảng chỉ hơn 20 năm và các bài thơ Việt chỉ bắt đầu xuất hiện trong khoảng đầu thập niên 90 (chủ yếu là văn chương hải ngoại ).Các bạn có thể tham khảo thêm trên mạng về tân hình thức Việt tại địa chỉ: www.vietnamesepoetry.com do ông Khế Iêm chủ trương (tác giả của nhiều bài thơ và lí luận về tân hình thức). Hai bài báo ở trên được lấy từ tạp chí thơ ,một là bài của văn chương Mỹ rất nổi tiếng trích từ tuyển tập Rebel Angels: 25 Poets of the New Formalism (những thiên thần nổi loạn:25 nhà thơ tân hình thức).Bài thứ hai là trích một số bài thơ dịch của một số tác giả trên tạp chí thơ (coi như là minh hoạ một số ý về tân hình thức và thử khẩu vị của mọi người).
    Mọng nhận được nhiều phản hồi từ phía các bạn:khen chê hay các bài thơ tân hình thức của các bạn đều được hoan nghênh. Xin cảm ơn. Chúc mọi người vui.
    Thân.
    Life is a journey - not a destination
    Được tao_lao sửa chữa / chuyển vào 10:49 ngày 06/11/2002
  8. miah

    miah Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    21/03/2002
    Bài viết:
    310
    Đã được thích:
    0
    Tao-lao ơi hichic ..Tao_lao học Engineering uổng quá à hichic.. hihi miah chỉ đọc bài sau này thôi ..hichic vì đoạn trước dài quá. hichic ko có thời gian đọc hết .. Lần sau Tao_lao viết bài nhớ chia ra từ từ chờ mọi ng` đọc xong, cảm nhận xong rồi mới tip nha ..
    hihih nhưng mà cũng khâm phục tao_lao thiệt
  9. Rubi19

    Rubi19 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    25/07/2002
    Bài viết:
    113
    Đã được thích:
    0
    Dân BK mà thế ah!! Khâm phục....khâm phục.........
  10. javel

    javel Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/03/2002
    Bài viết:
    1.288
    Đã được thích:
    0
    hơ...hơ.... bạn mà đánh hết nhiêu đây mình phục bạn sát đất... nhưng công nhận... good...hic
    Nothing impossible

Chia sẻ trang này