1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Giới thiệu Triết Tây

Chủ đề trong 'Văn học' bởi aoxanhaovang, 26/03/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. aoxanhaovang

    aoxanhaovang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/03/2004
    Bài viết:
    61
    Đã được thích:
    0
    Chú Thích
    (1) Martin Heidegger, Was ist das, die Philosophie? (Pfullingen: Neske, 1956), bản dịch Việt ngữ của Trần Văn Ðoàn, đương sửa soạn xuất bản, tr. 1: "Với câu hỏi này chúng ta đang động tới một luận đề rất rộng lớn, nghĩa là rất bao quát. Chính bởi vì luận đề quá rộng, nên không thể định nghĩa được."
    2) Chúng tôi đã nhắc qua một số ngộ nhận về triết học trong chương thứ nhất, và cũng lập lại phần nào trong chương thứ bẩy khi bàn đến khả thể của một nền Việt triết.
    (3) Dựa theo nguyên lý "phê phạm thuần túy," hay "phê phạm lý tính"'' (rational criticism), chúng tôi đã phê bình nhiều nền triết học hay ý hệ, nên không muốn lập lại trong Việt Triết Luận Tập này. Ðộc gỉa có thể thấy trong các luận văn của chúng tôi: Trần Văn Ðoàn, The Poverty of Ideological Education (Taipei: Ministry of Education, 1993, Washington D.C.: CRVP, 2000); Trần Văn Ðoàn, "The Deception of Ideological Education" (Institute of Philosophy of Education, University of London, Anh quốc, 1990) và in trong The Proceedings of ICANAS 32 (Toronto: Mellin Press, 1991); Trần Văn Ðoàn, "The Dialectic of Violence," trong Philosophical Review, 22 (1997); Trần Văn Ðoàn, "La Logique de Domination" (Institut supérieur de Philosophie, Université catholique de Louvain, Bỉ quốc, 1999); "Die Logik der Herrschaft" (Institut der Soziologie, Linz Universitàt, Aó quốc, 1997); và Trần Văn Ðoàn, Critical Theory and Society, Tập 2: The Critique of Political Ideologies in China - Maoism and The Three Principles of the People (Taipei: National Sciences Council, 1997).
    (4) Ðể biết thêm về lối nhìn của các triết gia kể trên về triết học, xin tham khảo Frederich Copleston, Contemporary Philosophy (London: Seach Press, 1973, in lại); Vincent Descombers, Le Même et l''Autrui (Paris: Minuit, 1979); Rùdiger Bubner, Modern German Philosophy, Eric Matthews dịch (Cambridge: Cambridge University Press, 1981); Alfred J. Ayer, Philosophy in the Twentieth Century (London: Unwin Paperbacks, 1982); John Passmore, Recent Philosophers (London: Duckworth, 1965).
    (5) Xin xem Trần Văn Ðoàn, "Triết Sử hoặc Sử Triết ?" Tham luận trong cuộc Hội Thảo vể Lịch Sử Triết Học, Ðại Học Quốc Gia Ðài Loan, 06. 1996. (Hoa ngữ). Trong luận văn này, chúng tôi đã đúc kết các đường lối và phương pháp của triết học hiện đại. Sẽ in trong Triết Học Tạp Chí, (Ðài Bắc, 11. 2000).
    (6) Chủ trương của René Descartes. Hai quan niệm "claire" (clara) tức trong sáng và "distincte" (distincta) tức phân biệt, được Descartes nhấn mạnh như là hai tiêu chuẩn của chân lý, và là điều kiện để xây dựng phương pháp triết học. Xin xem René Descartes, Discours de la méthode (1637). Bản Pháp ngữ dựa theo Gilson: Étienne Gilson, Discours de la méthode: texte et commentaire (Paris: Vrin, 1976), in lần thứ 5. Ðể giúp sinh viên Việt tại Mỹ và các vùng nói tiếng Anh, chúng tôi dựa theo bản Anh ngữ do Donald A. Cress dịch: René Descartes, Discourse on Method và Me***ations on First Philosophy (Indianapolis: Hackett, 1980).
    (7) Trong các tác phẩm của Kinh Viện, đặc biệt của Thomas Aquinas (Summa Theologiae), John Duns-Scotus (Opera Ominia, 1639), William Ockham (Summa Totius Logicae, 1675), và ngay cả của Baruch Spinoza (Ethics, 1673), một người từng phê bình Kinh Viện, định nghĩa là một tiền đề không thể thiếu cho suy tư, và là một yếu tố quan trọng trong Luận Lý (logic).
    (8) Karl Jaspers, Einfùhrung in die Philosophie (1957) (Zurich: Piper, 1968), tr. 1.
    (9) Chỉ gần đây, vì bị ảnh hưởng của Tây phương các triết gia đông phương đã bắt chước Tây phương đưa ra các định nghĩa triết học. Thí dụ Hồ Thích, bị ảnh hưởng của John Dewey, đưa ra một định nghĩa trong bộ Trung Quốc Triết Học Ðại Cương (Thượng Hải, 1918); tái bản với tựa đề Trung Quốc Cổ Ðại Triết Học Sử (Ðài Bắc: Viễn Lưu, 1994) như sau: "Phàm nghiên cứu những vấn đề thiết yếu, từ nguồn gốc, của nhân sinh để tìm ra một giải quyết căn bản: ta gọi môn học đó là Triết Học." (Bản dịch của Huỳnh Minh Ðức), sđd., tr. 19. Trần Vinh Kết (Chan Wing-tsit), Giáo sư tại Ðại Học Columbia trong tác phẩm rất có giá trị A Source Book in Chinese Philosophy (New Jersey: Princeton University Press, 1961), định nghĩa triết học như là một nền nhân bản học, tr. 3: "Theo nghĩa này, nhân bản thuyết đã chiếm giữ tất cả tư tưởng Tầu từ ngay khi có lịch sử." Phương Ðông Mỹ (Thomé H. Fang), Chính Giáo tại Ðại Học Quốc Gia Ðài Loan, hiểu triết học Trung Hoa như là một hành trình siêu hình. Xin tham khảo Thomé H. Fang, Chinese Philosophy: Its Spirit and Its Development (Taipei: Linking, 1981), phần Dẫn nhập. Trước đó, ông hiểu triết học như là một nền nhân bản. Xin xem thêm Thomé H. Fang, The Chinese View of Life (Taipei: Linking, 1980), tr. 5. Ðường Quân Nghĩa của Viện Tân Á, Hương Cảng, định nghĩa triết học như khoa học về tinh thần. Trong Trung Quốc Nhân Văn Tinh Thần chi Phát Triển (Hương Cảng: Tân Á Thư Viện, 1958), và trong Ðông Tây Triết Học Tư Tưởng Tỉ Giảo Nghiên Cứu Tập (Ðài Bắc: Tông Thanh Ðồ Thư, 1973), họ Ðường theo Hegel, giải thích triết học như là tinh thần tuyệt đối.
    (10) Danh từ triết học, tôn giáo, khoa học là những danh từ tương đối xa lạ với người Á đông. Do ảnh hưởng của Y Ðằng Bác Văn (Ito) trong thời Minh Trị Thiên Hoàng (Meiji), các sách triết học, thần học, và khoa học nói chung, được dịch sang Nhật ngữ. Vào thời Quang Tự (1875-1908), các tân nho như Khang Hữu Vi (1858-1927), Lương Khải Siêu (1873-1929), Nghiêm Phục (1853-1921) và đặc biệt các nhà trí thức Tầu bị ảnh hưởng của Kitô giáo trong Quang Học Hội (1887) tại Thượng Hải, bắt đầu dịch các sách triết học, xâ hội, chính trị, kinh tế từ Nhật ngữ, hay Anh ngữ. Ngược lại các nhà truyền giáo dùng tiếng philosophy để dịch các tư tưởng của Nho giáo, như trường hợp James Legge trong bộ sách thời danh The Chinese Classics, Tập 1 (Hương Cảng, 1861; Oxford, 1893). Xin tham khảo Hsiao Kung-chuan (Tiêu Công Quyền), A Modern China and a New World: K''ang Yu-wei, Refomer and Utopian, 1858-1927 (Seattle, 1975). Ða số các trí thức Tầu theo bản dịch Nhật ngữ, vì người Nhật cũng dùng Hán tự (Kanji). Triết ( tetsu) trong Nhật ngữ có nghĩa là thông minh. Do đó, triết học ( ) là sự học giúp con người thông minh. Trong khi trong Hán ngữ, Triết ( ) nguyên ngữ chỉ nói lên một hành vi tranh luận, bắt bẻ bằng miệng, chính vì vậy mà Phùng Hữu Lan đôi khi coi triết học như là biện chứng pháp (dialectic) theo nghĩa của Plato. Chỉ cho tới thời Vương Dương Minh, chữ Triết mới mang thêm một ý nghĩa phụ biễu tả kinh học, tức một bộ môn chuyên nghiên cứu về kinh sách. Và gần đây, một số đạo gia như Nghiêm Linh Phong (giáo sư tại Ðại Học PhụNhân) giải thích triết học theo nghĩa của truyền thống Ðạo học, chỉ một nền học vấn đi tới cùng đích, tức Ðạo. Chú ý là trong truyền thống Nho học, triết nhân gần giống như thánh nhân. Xin tham khảo tiết "Triết học" trong Triết Học Ðại Từ Thư, tập 4 (Ðài Bắc: Phụ Nhân Ðại Học Xuất Bản Xã, 1997). Ðây là một bộ Từ Thư Triết Học biên soạn rất công phu trong gần 20 năm, dự trù 10 tập, mỗi tập quãng 800 trang giấy, do Ðại Học Phụ Nhân trợ cấp và xuất bản, với sự đóng góp của trên 100 học giả tại Ðài Loan, Trung Hoa, Nhật, Ðại Hàn và Mỹ. Ðã xuất bản 5 tập. Riêng chúng tôi chủ biên phần Triết học Tây Phương. Trong bộ Từ Thư này có một số tiết mục về Việt triết do chúng tôi phụ trách viết.
    (11) Dưới thời Thuận Trị (1644-1661) và Khang Hy (1662-1722), tất cả mọi môn học như thần học, triết học, thiên văn học, toán học, địa đồ học (cartography). do các nhà truyền giáo dòng Tên như Matteo Ricci (1552- 1610), Johann Adam Schall, Ferdinand Verbiest, vân vân, đưa vào Trung Hoa, được gọi là Tây học, hay một cách tôn kính hơn, Thiên học. Xin tham khảo Trần Văn Ðoàn, "Ðối Thoại giữa Khổng Giáo và Kitô Giáo." Tài liệu của Viện Triết Học và Tôn Giáo, Khóa 1, Washingon D.C., 1988. Ngoài ra: Lỗ Thực Cường, Thanh Triều Thời Ðại Ngoaị Giáo đích Vấn Ðề (Ðài Bác: Trung Ương Nghiên Cứu Viện, 1981). Riêng về Thanh Sử: Tiêu Nhất Sơn, Thanh Ðại Sử (Trùng Khánh, 1945), và Thanh Ðại Thông Sử (Ðài Bắc, 1962), Tập 1, chương 1-5, và Tập 2, chương 3-4 cũng như hai tập sách của hai sử gia Nhật: Iwakichi Inaba, Shinchò zenshi (Thanh Triều Toàn Sử) (Ðông Kinh, 1914), và Torajirò Naitò, Sinchòshi tsuron (Thanh Triều Sử Thông Luận) (Ðông Kinh, 1944).
    (12) Xin tham khảo Trần Lai, "Thế Giới Mạc Trung Quốc Triết Học Nghiên Cứu đích Thách Ðố," Luận văn (Ðài Bắc: Trung Ương Nghiên Cứu Viện, 7. 1999); in trong Triết Học Tạp Chí, số 31 (Ðài Bắc, 2000), tr. 8-23. Trần Lai, giáo sư triết học Trung Hoa tại Ðại Học Bắc Kinh. Ông cũng từng dạy tại các đại học Ðông Kinh và Harvard.
    (13) Phùng Hữu Lan, Trung Quốc Triết Học Sử (Thượng Hải: Thần Châu Xuất Bản Công Ty, tập 1, 1931, và tập 2 , 1934). Bản dịch Anh ngữ của Derk Bodde, A History of Chinese Philosophy, Tập 1 do Henri Vetch xuất bản tại Bắc Kinh năm 1937. Toàn tập do Nhà Xuất Bản Ðại Học Princeton xuất bản tại Princeton năm 1952. Vào thập niên 1960, bị áp lực của Mao Trạch Ðông, họ Phùng soạn lại bộ Triết sử này dưới tựa để Trung Quốc Triết Học Sử Tân Biên (Bắc Kinh: Nhân Dân xuất bản xã, 1963). Vào thời Ðặng Tiểu Bình, được tự do hơn, họ Phùng thêm một lần nữa sửa lại bộ sử. Năm 1988, dịp viếng thăm nhà triết học lão thành tại tư gia ở Bắc Kinh, tiên sinh có nhắc qua với chúng tôi lý do phải sửa lại bộ sử. Ông cho rằng, triết học Trung Hoa không hoàn toàn biện chứng như ông từng giải thích trong bản Tân biên (1963). Sự việc cố ý giải thích triết học Trung Hoa theo cái nhìn biện chứng hình như là chính sách. Cho tới năm 1990, hầu hết các sách triết học đều phải gián nhãn hiệu này. Trong luận văn mở đầu cuộc hội thảo triết học giữa Trung Quốc (Ðại Lục) và Trung Hoa (Ðài Loan) tại Bắc Kinh (9. 1995), Trương Ðại Niên (người cùng thời với họ Phùng) vẫn còn nhấn mạnh tới tính chất khoa học, và tuyệt đối của biện chứng. Ðáp lời Trang tiên sinh trong phần kết thúc, chúng tôi nhắc khéo ông bằng cách nhấn mạnh đến sự khác biệt giữa tinh thần khoa học và chủ nghĩa khoa học. Theo tinh thần khoa học, bất cứ phương pháp nào, bất cứ lý thuyết gì tự phong cho mình tính chất tuyệt đối đều rơi vào hố của ý hệ, và như vậy là phản lại tinh thần khoa học.
  2. aoxanhaovang

    aoxanhaovang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/03/2004
    Bài viết:
    61
    Đã được thích:
    0
    (14) Tuy học lại từ Dewey, Hồ Thích không có chú thích xuất sứ, đánh lận con đen khiến độc giả có cảm tưởng như chính họ Hồ là tác giả của một định nghĩa như vậy. Hồ thị từng là học trò của Dewey tại Ðại Học Columbia. Xin tham khảo John Dewey, trong Experience and Nature (New York: Dover, 1929), Preface, tr. xiii, xvi; và Trung Quốc Triết Học Sử Ðại Cương của Hồ Thích, bản Việt ngữ, sđd., tr. 19. Mặc dù sách của Dewey xuất bản muộn hơn sách của Hồ thị, chúng ta không thể chối cãi được ảnh hưởng của Dewey trên Hồ. Lối "mượn văn" (plagiarize) này rất phổ biến trong giới nho gia và học giả Trung Hoa, cũng như Việt Nam, như thấy trong một số biên khảo của Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Ðăng Thục, Nguyễn Hiến Lê, vân vân. Nhiều nhà soạn Tự vị, hay Từ điển, thực ra không có biên soạn, song dịch một cách phóng khoáng từ một bộ Tự vị hay Từ điển Âu, Mỹ, hay Trung hoa nào đó!
    (15) John Dewey, Experience and Nature, sđd., tr. xvi.
    (16) Chính vì tập Trung Quốc Triết Học Sử của Phùng Hữu Lan được dịch sang Anh ngữ, nên gây đựợc tiếng vang. Riêng tập A Short History of Chinese Philosophy (New York: Macmillan, 1948) do chính họ Phùng viết vào năm 1947 khi tiên sinh làm Giáo sư Thỉnh giảng tại Ðại Học Pennsylvania, với mục đích giới thiệu cho sinh viên ngoại quốc. Derk Bodde sửa lại Anh ngữ, biên soạn, và giúp xuất bản. Bản Pháp ngữ Précis d''histoire de philosophie chinoise dịch từ A Short History of Chinese Philosophy và ảnh hưởng sâu rộng nơi học giả Việt như Kim Ðịnh, Vũ Ðình Trác, Nguyễn Ðăng Thục, cũng như giới sinh viên tại Việt Nam trước năm 1975. Bản dịch Việt ngữ ra đời khá muộn vào năm 1968, tiếc thay chỉ là bản dịch từ bản tiếng Pháp. Xin tham khảo Phùng Hữu Lan, Ðại Cương Triết Học Sử Trung Quốc, Nguyễn Văn Dương dịch (Sài Gòn: Ðại Học Vạn Hạnh, 1968). Vì bản này chỉ là một bản tóm lược từ bản Hoa ngữ (1931-1934), tuy có thêm một phần nhỏ mới do họ Phùng viết cho sinh viên Mỹ, nên quá giản dị. Chính vì vậy, chúng tôi dựa theo bản Hoa ngữ. Ðể độc giả tiện việc tra cứu, chúng tôi cũng trích dẫn từ bản Anh ngữ do Derd Bodde dịch: Feng Yu-lan, A History of Chinese Philosophy, sđd., tr. 1-6, phần Dẫn nhập. Vào thập niên 1980s như chúng tôi đã nhắc trong chú thích 13, Phùng tiên sinh viết lại toàn bộ lần thứ 2, có thêm một phần về triết học Trung Hoa hiện thời.
    (17) Fung Yu-lan, A Short History of Philosophy, tr. 1: "Trong văn hóa Trung Hoa, triết học có một chỗ đứng tương đương với tôn giáo trong các nền văn minh khác. Trong nước Trung Hoa, mọi người có học đều chú trọng tới triết học." (Những đoạn trích Việt ngữ do chúng tôi dịch).
    (18) Fung Yu-lan, A Short History of Chinese Philosophy, tr. 2.
    (19) Nhận xét của Lão Tư Quang. Xin tham khảo: Lão Tư Quang, Trung Quốc Triết Học Sử, Tập 1 (Hương Cảng: Trung Văn Ðại Học, 1968), tr. 1-5. Lão Tư Quang, nguyên Giáo sư tại Ðại Học Trung Văn và hiện là Chính Giáo tại Ðại Học Hoa Phạm (Ðài Bắc), phê bình Hồ Thích chỉ trọng sử, mà không hiểu triết học; trong khi họ Phùng không thể đi sâu vào triết, vì ông không thông thạo lịch sử triết học Tây phương, và thường nhầm lẫn phương pháp triết học. Theo họ Lão, bộ sử của Hồ Thích vô giá trị, trong khi bộ sử của Phùng tuy khá hơn, song vẫn còn kém cỏi.
    (20) Xin tham khảo André Lalande, Vocabulaire technique et critique de la philosophie, 2 tập (Paris, 1926). Chúng tôi dựa theo bản in lần thứ 8 (Paris 1962), xuất bản thành một tập duy nhất.
    (21) Một Nhóm Tác Giả, Danh Từ Triết Học (Hà Nội, 1952).
    (22) Trần Văn Hiến Minh, Từ Ðiển Triết Học (Sài Gòn, 1966), tr. 278-279.
    (23) Trần Trọng Kim, "Mời Phan Khôi tiên sinh trở về nhà học của ta mà nói chuyện," trong Phụ Nữ Tân Văn, số 71, 72 và 74. Tái in trong Nho Giáo, tập 2, sđd., tr. 437. Ðịnh nghĩa triết học của Larousse (bản năm 1970) như sau: "Philosophie est une étude rationelle de la pensée humaine, menée du double point de vue de la conaissance et de l''action: ce mot ''philosophie" signifie l''étude de la sagesse, et par la sagesse on n''entend pas seulement la prudence dans les affaires, mais une parfaite connaissance de toutes les choses que l''homme peut savoir."
    (24) Trần Ðức Thảo, Triết Học Ði Về Ðâu? (Paris: Minh Tân, 1950).
    (25) Trần Ðức Thảo, Phénoménologie et matérialisme dialectique (Paris: Minh Tân, 1951), Lời Tựa, tr. 11-12, phê bình triết học tồn tại (hiện sinh) của Heidegger và Sartre. Ông xác quyết về triết học biện chứng duy vật: ".seule la dialectique máterialiste définit le concept authentique." Và phê bình các nền triết học tư sản, tr. 19: "Dans le marxisme la philosophie bourgeoise trouve la forme de sa suppression."
    (26) Kim Ðịnh, Những Dị Biệt giữa Hai Nền Triết Lý Ðông Tây (Sài Gòn: Ra Khơi, 1969), Phần tựa.
    (27) Kim Ðịnh, như trên, tr. 19-23.
    (28) Dương Quảng Hàm,Việt Nam Văn Học Sử Yếu (Sài Gòn, 1968), tr. 458.
    (29) Trần Trọng Kim, sđd., tr. 418; Kim Ðịnh, Việt Lý Tố Nguyên, sđd., phần Việt nho; Vũ Ðình Trác, Việt Nam trong Quỹ Ðạo Thế Giới (Orange: Hội Hữu, 1983), tr. 73.
    (30) Trần Văn Giàu, Sự Phát triển của Tư Tưởng Việt Nam từ Thế Kỷ 19 đến Cách Mạng Tháng Tám (Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, 1973), tập 1, tr. 10, và Trong Dòng Chủ Lưu của Văn Học Việt Nam: Tư Tưởng Yêu Nước (Sài Gòn: Nxb Văn Nghệ, 1983), tr. 7.
    (31) Nguyễn Tài Thư, chb., Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, tập 1 (Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, 1993), tr. 11.
    (32) Nguyễn Khánh Toàn, "Một Số Vấn Ðề về Lý Luận về Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam" (Hà Nội: Viện Triết Học, 1984), tr. 13, 15. Nguyễn Tài Thư, sđd., tr. 12.
    (33) Trích từ Mortimer J. Adler, Ten Philosophical Mistakes (New York: Macmillan, 1985), tr. xiii. Trong phần tiền ngôn, Adler nhận xét về triết học hiện đại đầy những lỗi lầm "nho nhỏ." Những lỗi lầm này "được phổ biến và ảnh hưởng vượt khỏi [giới hàn lâm.] [Cho đến độ mà] Rất nhiều người trong chúng ta khi suy tư thường vấp phạm một cách vô thức một số lỗi lầm, mà không hề để ý đến chúng xuất hiện khi nào hay xuất hiện như thế nào." Mortimer Adler, sđd. tr. xiv.
    (34) Ðại Học, chương 1.
    (35) Lão Tử, Ðạo Ðức Kinh, chương 52.
    (36) Chu Hi (1130-1200) phát triển thuyết cách vật trong Ðại Học. Trong Ðại Học, Khổng Tử chủ trương trí tri cách vật, tức là chỉ khi nào biết sự vật cho tới nơi tới chốn, chúng ta mới đạt được sự khôn ngoan (kiến thức). Chu Tử giải thích: "Ðại học tuy nói về cách vật nhưng lại không bàn đến cái lý. Lý do là tại vì bàn về Lý thì cũng như nói về hư vô, (mà hư vô) thì chẳng có ai (chi) biết được. Chính vì vậy mà khi nói về cách vật, Ðại Học muốn biểu tả rằng, hình nhi thượng chỉ có thể thấy được trong hình nhi hạ." Trong Chu Tử Toàn Thư, quyển 46. Xin tham khảo Chan Wing-tsit, A Source Book in Chinese Philosophy, sđd., tr. 602-604; Giản Chi & Nguyễn Hiến Lê, sđd., tr. 622-623; Cũng xin xem thêm Trần Trọng Kim, Nho Giáo, sđd., tr. 165.
    (37) Trung Dung, chính văn.
    (38) Một lý thuyết dùng đạo đức làm căn bản cho chính trị do Vương Dương Minh (1472-1529) chủ trương. Ðặc biệt trong Truyền Tập lục, in trong Vuơng Văn Thành Công Toàn Thư, 15b. Cũng xin tham khảo Chen Wing-tsit (dịch), Instructions for Practical Living, and Other Neo-Confucian Works by Wang Yang-ming (New York: Columbia University Press, 1963). Ðoạn về Truyền Tập Lục thấy trong tập sách trên.
    (39) Xin tham khảo Joseph Marie Bochenski, Wege zum philosophischen Denken (Mùnchen, 1967); Richard Kearney, Modern Movement in European Philosophy (Manchester: Manchester University Press,1986).
    (40) Filmer S. C. Northrop, "The Complementary Emphases of Eastern Intuition Philosophy and Western Scientific Philosophy," trong Philosophy, East and West, do C. A. Moore, chb. (Princeton: Princeton University Press, 1946), tr. 187. Phùng Hữu Lan bàn tới phương pháp triết học Trung Hoa và phê bình Northrop trong A Short History of Chinese Philosophy, sđd., tr. 23-25.
    (41) Michel Foucault, Archéologie du savoir (Paris: Gallimard, 1969), phần Dẫn nhập; Bản Anh ngữ của Alan Sheridan (London: Pantheon, 1970); Francois Lyotard, La con***ion postmoderne - Rapport sur le savoir (Paris: Minuit, 1979). Bản Anh ngữ do Geoff Bennington và Brian Massumi dịch, The Postmodern Con***ion - A Report on Knowledge (Manchester: Manchester University Press, 1984), phần Dẫn nhập, tr. xxv, và tr. 61 vân vân
    (42) Lão Tử, Ðạo Ðức Kinh, chương 1.
    (43) Ðây là trường hợp giải thích sự biến dạng của Nho học thành Nho giáo, Ðạo học thành Ðạo giáo, Phật học thành Phật giáo, lý thuyết xã hội thành chủ nghĩa xã hội, tư tưởng khoa học thành chủ nghĩa duy khoa học (scientism), và một cách chung, các tư tưởng triết học về các loại tri thức biến thành duy lý, duy tâm, duy vật, duy linh, duy nghiệm. Ngược lại, chúng ta cũng có thể giải thích lý do tại sao bất cứ tôn giáo nào cũng cần một nền triết học để "danh chính ngôn thuận." Triết học bị hạ cấp xuống thành người nữ tì của thần học và tôn giáo (philosophia theologiae ancilla). Cho tới nay, vẫn còn nhiều tranh luận về những câu hỏi như "Có một nền triết học Kitô giáo không?" Thí dụ tranh luận giữa M. Blondel, E. Bréhier, A. J. Festugière, M. Nédoncelle, E. Gilson, J. Maritain, L. Laberthonnière. vào thập niên 1950s. Xin tham khảo Maurice Nédoncelle, Existe-t-il une Philosophie Chrétienne? (Paris: Arthème Fayard, 1956) hay "Có triết học Hồi giáo hay không?" (như thấy gần đây trong giới triết gia tại Iran, Iraq, cũng như ở Á châu tại Mã Lai và Nam Dương. Tại Việt Nam, các nhà lãnh đạo của các giáo hội Cao Ðài, Hòa Hảo cũng đã (khi thành lập hai đại học của hai giáo hội) và đương xây dựng những nền triết học của họ với những nhóm nghiên cứu tại hải ngoại.
    (44) Như thấy trong chủ nghĩa Mao Trạch Ðông, chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên, chủ thuyết nhân vị của Ngô Ðình Diệm, chủ thuyết bất bạo động của Mahamat Gandhi, hay chủ nghĩa (Josif) Tito, chủ nghĩa Phát-xít cùa Benito Mussolini, chủ nghĩa Na-xít của Adolf Hitler, và cả chủ nghĩa (Josif I.) Stalin (tức Mác-Lê do Stalin đề xướng vào đầu thập niên 1930,) cũng như chủ nghĩa tư bản của các đế quốc thực dân. Xin tham khảo J. B. Stalin, "Foundations of Leninism," và "Problems of Leninism" (1934), trong B. Franklin, chb. The Essential Stalin; cũng như Robert Tucker, Stalinism (1977); A. G. Meyer, Leninism (1957).
    (45) Francis Bacon phân biệt 4 loại ý hệ, tức những tri thức thiếu khoa học, không chắc chắn nhưng ảnh hưởng tới con người mà ông cho là sai lầm (false idola). Ðó là idola triboli (ấu tượng bộ lạc, sai lầm dựa vào lối suy tư cổ lỗ, truyền thống, chủng tộc), idola cavii (ấu tượng sơn động, sai lầm do ảo tưởng), idola fori (ấu tượng hội trường, sai lầm khi dựa vào quần chúng), và idola theatri (ấu tượng hí viện, sai lầm cho biểu tượng mới là chân thật). Trong Francis Bacon, New Atlantis (Oxford: Clarendon Press, 1974). Cũng xin tham khảo Paul Ricoeur, Lectures on Ideology and Utopia (New York: Columbia University Press, 1986), tr. 160; Karl Mannheim, Ideology and Utopia, Louis Wirth và Edward Shils dịch (New York: Hartcourt, Brace and World, 1936); Trần Văn Ðoàn, The Poverty of Ideological Education, sđd., tr. 9 và 52.
    (46) Xin tham khảo Jùrgen Habermas, Technik und Wissenschaften als ''Ideologie'' (Frankfurt a. M.: Suhrkamp, 1968).
    (47) Chúng tôi sẽ bàn thêm về vấn nạn kỹ khoa này trong chương 7: "Khả Thể của Việt Triết." Ngoài những tác phẩm phê bình ý hệ kỹ khoa của học phái Frankfurt, của Heidegger, và của học phái Hậu hiện đại (postmodernism), cũng xin tham khảo những phê bình ý hệ kỹ khoa từ giới khoa học gia như: Alvin Toffler, The Future Shock (New York, 1970); Fritjof Capra, The Tao of Physics (Berkeley, 1975); Carl F. von Weissacker, Die Tragweite der Wissenschaft (Stuttgart, 1976); Herbert Pietschmann, Das Ende des naturwissenschaflichen Zeitalters (Wien, 1980); Ilya Prigogine & Isabelle Stengers, Order out of Chaos (New York, 1984).
  3. aoxanhaovang

    aoxanhaovang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/03/2004
    Bài viết:
    61
    Đã được thích:
    0
    (48) Chang Kwang-chih (Trương Quang Trực), Shang Civilization (New Jersey: Yale University Press, 1980); Chang Kwang-chih, The Archaeology of Ancien China (New Jersey: Yale University Press, 1963; tái bản lần 4); Benjamin I. Schwartz, The World of Thought in Ancient China (Cambridge: Harvard University Press, 1985).
    (49) Tư tưởng về sự biến hóa của vũ trụ (Dịch) xuất hiện rất sớm, trước cả thời của Nghiêu và Thuấn (ngàn năm thứ ba trứơc công nguyên). Tương truyền, dịch là do Phục Hy vẽ, trong khi quái từ và hào thì do Văn Vương và Chu Công. Thực ra, đáng tin hơn, đó là Chu Dịch (Dịch Kinh) có lẽ được viết vào thời tiền bán Chiến quốc (403-222 B.C.). Dịch Kinh bàn luận về sự phát triển, định luật, phương thế nguyên lý biến hóa của vũ trụ, và vai trò của con người trong vũ trụ. Ða số các triết gia Trung Hoa đều bàn về vũ trụ, hay đại hóa luận. Từ Ðổng Trọng Thư (đời Hán), Vương Bật (đời Ngụy) tới Trương Hoành Cừ, Trình Y Xuyên (đời Tống), và nhất là các đạo gia. đều chú trọng tới vũ trụ luận.
    (50) Các sách về Kinh Dịch được dịch sang tiếng Việt, và thảo luận khá sôi động ở Việt Nam. Bản dịch của Ngô Tất Tố, Nguyễn Duy Cần, Nhượng Tống, Nguyễn Khắc Hiếu, và gần đây chú giải của Nguyễn Hiến Lê: Nguyễn Hiến Lê, Kinh Dịch - Ðạo của người Quân Tử (Sài Gòn: Nxb Văn Học, 1992). Ngay nhà cách mạng Phan Bội Châu cũng từng bỏ rất nhiều thì giờ vào việc diễn giải Dịch một cách rất công phu: Phan Bội Châu, Quốc Văn Chu Dịch Diễn Giải, trong Phan Bội Châu Toàn Tập (Huế: Nxb Thuận Hóa, 1990), tập 1 và 2.
    (51) Kim Ðịnh, Chữ Thời (Sài Gòn: Thanh Bình, 1967).
    (52) Xin tham khảo Nguyễn Bỉnh Khiêm trong Lịch Sử Phát triển Văn Hóa Dân Tộc, Kỷ Yếu Hội Thảo Khoa Học (Sài Gòn: Trung Tâm Nghiên Cứu Hán Nôm, 1991). Cụ Nguyễn được biết đến nhiều với Sấm Trạng Trình.
    (53) Tác phẩm đại biểu Philosophiae Naturalis Principia Mathematica (1687) (Nguyên Lý Toán Học của Triết Học Tự Nhiên) của Isaac Newton, trong đó nhà bác học phát triển lý thuyết vạn vật hấp lực (gravitation-theory).
    (54) Ðại biểu là Galileo Galilei và Isaac Newton.
    (55) Ðại biểu: de La Mettrie, Ernst Macht, Lévi-Strauss, vân vân.
    (56) Ðại biểu: Macht, d''Holbach,
    (57) Charles Darwin và trường phái tiến hóa như Herbert Spencer.
    (58) Xin tham khảo Aristotle, Metaphysics, IV, 1003a.
    (59) Aristotle, Nicomachean Ethics, I, 1099a.
    (60) Emerich Coreth, Metaphysik (Innsbruck: Tyrol, 1971), tr. xxí; Jean Wahl, Traité de Métaphysique (Paris: Payot, 1968).
    (61) Ferdinand van Steenbergen, Epistemology, bản dịch Anh ngữ của Lawrence Moonan (Louvain-New York, 1970); hay Jacques Maritain, The Degrees of Knowledge (New York: Charles Scribner''s Sons, 1959), tr. 71-246. Trong Từ Ðiển Triết Học, Trần Văn Hiến Minh không phân biệt tri thức khỏi nhận thức. Ông dịch connaissance ra tri thức. Xem các danh từ "tri thức," "tri thức luận," "nhận thức luận," tr. 168, 277. Thực ra, có lẽ đúng hơn phải dịch savoir ra tri thức, trong khi connaissance ra nhận thức, như Lyotard từng phân biệt. Xin xem Jean Francois Lyotard, Les con***ions postmodernes, sđd., phần Dẫn nhập. Tương tự, họ Trần hiểu épistémologie đồng nghĩa với gnoséologie. Thực ra episteme (episteme) là một tri thức theo nghĩa tri năng, trong khi gnosis (gnosis) là một tri thức theo nghĩa kiến năng. Chính vì vậy chúng tôi tạm dịch epistemology ra tri thức luận, và gnoseology là kiến thức luận. Nhận thức luận chỉ chung cho cả tri thức luận lẫn kiến thức luận.
    (62) Fung Yu-lan, A History of Chinese Philosophy, sđd., phần Dẫn nhập, tr. 1-2; cũng như trong A Short History of Chinese Philosophy, sđd., tr. 2, 5 và 11; Trần Trọng Kim, Nho Giáo, tập 2; "Trả lời Phan Khôi tiên sinh;" tr. 404; Kim Ðịnh, Những Dị Biệt Giữa Hai Nền Triết Lý Ðông Tây, sđd., chương 1.
    (63) Trần Văn Hiến Minh dịch noologie ra trí năng. Thực ra, Nous trong triết học của Plato và Aristotle mang nghĩa tâm linh, hay cảnh vực thần linh (the nous sphere), tức phần cao nhất của trí tuệ. Thế nên Hegel hiểu nous như là Geist tức tinh thần (spirit) và tâm thần (mind). Vào thời trung cổ, (thánh) Thomas Aquinas xử dụng danh từ intellectus để chỉ nous. Giáo sư Taylor của Ðại Học Oxford dịch sang Anh ngữ là intuitive reason (trực lý). Chúng tôi chuyển sang Việt ngữ là giác năng (theo danh từ giác ngộ của nhà Phật.)
    (64) Jacques Maritain, sđd., tr. 54-55.
    (65) Trong các trường đại học tại Mỹ, các môn triết đông chỉ được bàn đến trong các phân khoa về tôn giáo, văn hóa hay Á châu học (Department of Religious Studies, Asian Studies). Như chúng tôi biết, may lắm mới có một phân khoa triết học cho mở một vài lớp về triết đông (như Ðại Học Hawaii tại Manoa; Ðại Học Công Giáo Mỹ tại Thủ đô; Ðại Học New Mexico, vân vân). Trong các đại học tại Âu Châu, môn triết đông thường được xếp trong các phân khoa về Á Ðông học. Ngay trong các trường thần học, thỉnh thoảng mới có một lớp về các tôn giáo trên thế giới.
    (66) Thực ra, những người chủ trương phủ nhận Trung Hoa không có khoa học đã không nắm vững bản chất của khoa học, hay chỉ nhìn khoa học theo một khía cạnh thực nghiệm, thực chứng. Thí dụ, Phùng Hữu Lan, trong luận văn "Why China has no Science" (in trong The International Journal of Ethics, 1922), hiểu khoa học theo quan niệm của thực chứng. Theo Phùng tiên sinh, chính vì Trung Hoa theo vô vi, chú trọng nội tâm, đạo đức. nên không có khoa học. Trích bởi Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê (Ðại Cương Triết Học Trung Quốc, tr. 127). Hai ông Chi và Lê phê bình cho rằng các lý do họ Phùng đưa ra chưa được vững (tr. 127-8). Tiếc thay, nhị vị tiên sinh cũng hiểu sai khoa học khi quả quyết: "Tóm lại, người Trung-hoa sở dĩ không có khoa học, nguyên do chỉ tại ba đặc điểm - trọng thực tế, trọng trực giác, hợp nhất Trời và người - trong triết học của họ." (tr. 128). Theo hai ông, khoa học đồng nghĩa với luận chứng và thực chứng. Song quý ông quên rằng, trực giác là một phương pháp then chốt trong toán học, và nhất là hình học. Trọng thực tế là một động lực làm kỹ thuật tiến bộ (cách mạng kinh tế, kỹ nghệ hàng hải, canh nông, quân sự, vân vân). Ngay cả "trọng Thiên" cũng chẳng phản khoa học chi hết. Các nhà bác học vĩ đại nhất đều tin vào tôn giáo, từ Galileo tới Newton, từ Copernig tới Einstein, từ Leibniz tới Heisenberg và Max-Planck. Einstein viết: "Chính sự thần bí là một điều chi mỹ lệ nhất mà chúng ta kinh nghiệm được. Nó là cội nguồn của tất cả mọi nghệ thuật và khoa học chân thực." (The most beautiful thing we can experience is the mysterious. It is the source of all true art and science). Nhà bác học viết tiếp: "To know that what is impenetrable to us really exists, manifesting itself as the highest wisdom and the most radiant beauty which our dull faculties can comprehend only in their primitive forms - this knowledge, this feeling, is at the center of true religiousness." Trích từ Albert Einstein, The World as I See It (viết năm 1929) (New York: Covici Friede, 1934). Cũng thấy trong Leopold Infeld, Albert Einstein (New York: Charles Scribner''s Sons, 1950), tr. 122. Giản chi thị và Lê thị cũng quên rằng, luận chứng, thực chứng tuy rất quan trọng, song chỉ là một trong những phương pháp (giống như phân tích, quy nạp, kiến cấu, kết cấu, phát sinh, vân vân) của khoa học. Chúng không đồng nhất với khoa học.
    (67) Bộ Science and Civilization in China của Joseph Needham (sđd.) chứng minh một cách hùng hồn sự sai lầm của những người từng phủ nhận nền khoa học Ðông phương.
    (68) Albert Einstein, The World as I See It, sđd.; cũng như trong "Only Then Shall We Find Courage." Einstein viết: "Science has brought forth this danger (atomic bomb), but the real problem is in the mind and hearts of men." Trích bởi L. Infeld, sđd., tr. 129.
    (69) Henri Poincaré, La Valeur de la science (Paris, 1905). Bản dịch Anh ngữ của G. B. Halsted, The Value of Science (London, 1907); và Henri Poincaré, The Foundations of Sciences, G. B. Halsted dịch (Lancaster: The Science Press, 1913).
    (70) Ludwig Wittgenstein, Tractatus logico-philosophicus (1921-2). Tái bản trong Ludwig Wittgenstein Schriften (Frankfurt a.M,: Suhrkamp, 1969), Tập 1.
    (71) Những triết gia như Alfred J. Ayer trong tác phẩm Language, Truth and Logic (London, 1936), và R. M. Hare trong tác phẩm Language and Moral (London 1957). Những triết gia này thực ra phần bị ảnh hưởng của Wittgenstein, phần do chủ thuyết kinh nghiệm, cũng như thực chính (positivism). Chúng ta biết, John Locke (trong Essay concerning Human Understanding, Lá thư gửi độc giả) từng gán cho triết học công tác "cu li" (under-labour) quét dọn loại bỏ những tối tăm, làm ngôn ngữ rõ ràng (philosophy is concerned with eliminating linguistin confusion). Theo Locke, và đi quá đà hơn, T. W. Weldon, một trong những người theo trường phái này từng tuyên bố một cách mạnh bạo như sau: "Hiện nay giới triết gia đặc biệt ý thức được tầm quan trọng của ngôn ngữ. Họ phát hiện một sự thực, đó là tất cả mọi vấn nạn mà những người đi trước cho là huyền bí, vô phương giải thích; thực ra, chỉ là những vấn nạn phát sinh từ sự quá lố của ngôn ngữ mà chúng ta dùng để diễn tả thế giới." Xin tham khảo T. D. Weldon, Vocabulary of Politics (London, 1953), tr. 35. Không cần phải nói, lối nhìn trên về bản chất của ngôn ngữ, cũng như về sự tương quan giữa triết học và ngôn ngữ quá một chiều và thiếu đứng đắn. Peter Winch, giáo sư triết học tại King College, Ðại Học Luân Ðôn cực lực phản đối lối nhìn sai lầm trên của trường phái thực nghiệm. Theo Wittgenstein, Winch cho rằng, trường phái thực chứng và thực nghiệm đã quên rằng, ngôn ngữ không thể tạo lên con người và thế giới nhân sinh; song ngược lại chính thế sinh mới tạo ra ngôn ngữ. Xin xem Peter Winch, The Idea of a Social Science and Its Relation to Philosophy (London: Routledge & Kegan Paul, 1958), tr. 2. Cũng xin tham khảo: Trần Văn Ðoàn, "Peter Winch''s Conception of Reason," trong Review of Philosophy của National Chengchi University (Ðài Bắc, 1989), in lại trong Trần Văn Ðoàn, Reason, Rationality and Reasonableness, sđd., chương 2.
    (72) Noam Chomsky, Synthactic Structures (The Hague: Mouton, 1957); và Language and Mind (New York : Harcourt Brace, 1968)..
    (73) Như thấy trong chủ trương của Michel Foucault. Xin tham khảo Michel Foucault, Les mots et les choses (Paris: Gallimard, 1966).
    (74) Trần Ðức Thảo từng xuất bản một tập sách về triết học ngôn ngữ: Recherche sur l''origine du langage et de la conscience (Paris: E***ions sociales, 1977). Tập sách này gần như không được để ý. Chúng tôi rất chú trọng và đọc đi đọc lại nhiều lần. Song phải thành thật mà nói, là triết gia họ Trần quá lạc hậu trong lãnh vực ngôn ngữ, sau hơn hai mươi năm không được giao tiếp với những phát triển mới trong giới triết học. Ông đứng khựng lại nơi Marx, và với vài tác phẩm của Ferdinand de Saussure (Cours de Linguistique générale 1901), và Jean Piaget (La Formation du symbole chez l''enfant, 1945), Sigmund Freud (Totem et Taboue), và một số tác giả Nga về sinh vật. Có lẽ ông không có dịp đi sâu hơn vào các tác phẩm của các nhà ngữ học Anh Mỹ và Ðức như Gottlob Frege, Noah Chomsky, John Austin, và nhất là những người gần đây như William V. Quine, Nelson Goodman, John Searle, P. F. Strawson, Michael Dummett, Ernst Tugendhat, vân vân. Lẽ tất nhiên, chúng tôi biết là tại Pháp, tác phẩm Cours de linguistique générale (Génève, 1916) của de Saussure vẫn còn tiếp tục gây một ảnh hưởng trên các tác giả như Lévi-Strauss, Jean Piaget, Michel Foucault, Jacques Lacan, Roland Barthes và ngay cả Jacques Derrida, tác giả của De la grammatologie. Ðiểm yêu nhất của tác phẩm là Trần tiên sinh không nghiên cứu ngôn ngữ và ý thức theo quan điểm khoa học, hay đi sâu vào phân tâm, song dựa trên ý hệ của Marx và Lenin coi nó như là tiền đề, như ông tự quả quyết trong phần đầu, tr. 11-15. (75) Công Dã tràng: " Khổng Tử nói về Tư Sản, là một người có được bốn đức tính làm đạo người quân tử; (đó là) tự trọng đối với chính mình; kính trọng người trên; làm ơn cho dân chúng; và có nghĩa với dân." Trong Luận Ngữ và Trung Dung, người quân tử là người có đạo nhân, tức người ý thức được mình, được người, được hành vi cũng như ý nghĩa của cuộc sống. Chữ quân tử thường gắn liền với chữ nhân. Luận Ngữ có 9 đoạn nói riêng về người quân tử; 16 đoạn phân biệt với tiểu nhân, và, quãng 17 đoạn nói về đức tính quân tử. Chan W.T., A Source Book in Chinese Philosophy, sđd., tr. 16-18; Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê, Ðại Cương Triết Học Trung Quốc, sđd. tập 2, tr. 572-577.
    (76) Nguyễn Hùng Hậu, Góp Phần Tìm Hiểu Tư Tưởng Triết Học Phật Giáo Trần Thái Tông (Hà Nội: Nxb Kho Học Xã Hội, 1996).
    (77) Xin tham khảo Vũ Ðình Trác, Triết Lý Chấp Sinh của Nguyễn Công Trứ, Triết Lý Nhân Bản Nguyễn Du, các sđd. Ngoài ra, Kim Ðịnh, Nhân Bản (Sài Gòn: Thanh Bình, 1969); Nguyễn Lang, Phật Giáo Việt Nam Sử Luận (Hà Nội: Văn Học, 1992), 2 tập, in lần thứ 3.
    (78) Alghieri Dante (1265-1321), La commedia divina (1318); Bản Anh ngữ do A. Toynbee chủ biên (London 1900). Các đại nghệ sỹ như Leonardo da Vinci (họa sỹ, thiên văn, y sỹ, toán học và tư tưởng gia), Michaele Angelo (họa sỹ, điêu khắc gia). Xin tham khảo Will và Ariel Durand, A Story of Civilization, Tập 6: The Renaissance (Los Angeles 1957). Về Dante, tr. 1056 và tiếp theo.
    (79) Xin tham khảo Emmanuel Mounier, l''Existentialisme (Paris: Presses Universitaires de France, 1949); cũng như Introduction aux Existentialismes (Paris: Gallimard, 1946); Jean-Paul Sartre với tác phẩm đại biểu L''Etre et le Néant (Paris: Gallimard, 1943), và L''Existentialisme est un humanisme, (Paris: Gallimard, 1953); Martin Heidegger, Brief ùber Humanismus, sđd. Ngoài ra, Frederich Copleston, Contemporary Philosophy, sđd., phần Triết học Hiện sinh. Tại Việt Nam, xin tham khảo: Trần Thái Ðỉnh, Triết Học Hiện Sinh (Sài Gòn, 1961).
    (80) William & Martha Kneale, The Development of Logic (London, 1962).
    (81) Bertrand Russell, The Principles of Mathematics (Cambridge, 1900); và với North Alfred Whitehead, Principia Mathematica, 3 tập (Cambridge 1910-1913).
    (82) Ludwig Wittgenstein, Tractatus logico-philosophicus, sđd.
    (83) Kurt Gòdel, "On Formally Undecidable Proposition of Principia Mathematica and Related Systems," in trong: Ernest Nagel và James R. Newman, Gòdel''s Proof (New York: New York University Press, 1960). Bản dịch Anh ngữ.
    (84) Jean Ladrière, "La Thèse de Gòdel," trong Dialectica, XIV (1960), tr. 321. Trích dẫn trong Jean Piaget, Structralisme (Paris: Presses universitaires de France, 1968), tr. 31.
    (85) G. F. Hegel, Vorlesung ùber die Philosophie der Geschichte, trong Hegel, Werke in zwangzig Bànden, sđd., tập 12.
    (86) G. F. Hegel, Phànomenologie des Geistes (1807), sđd., bản dịch Việt ngữ của Trần Văn Ðoàn.
    (87) Charles Darwin, The Origin of Species (1859) và The Descent of Man (1871) trong Darwin, do Philip Appleman chọn lựa và chủ biên trong A Norton Critical E***ion (New York: Norton, 1970), tr. 98-276.
    (88) Karl Marx, Das Kapital (1861), sđd., Tựa 2 (1873).
    (89) Trần Hưng Ðạo chủ trương nhân hòa trong cuộc trưng cầu dân ý Hội Nghị Diên Hồng; Nguyễn Trãi với chủ trương "ý dân là ý Trời;" trong khi Nguyễn Huệ với khẩu hiệu "vì dân," cũng như việc đại đế cho quan binh ăn tết trước khi tổng tấn công quân Thanh. Xin tham khảo thêm Nguyễn Tài Thư chb., Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, sđd., tập 1; phần về nhà Trần , tr. 15-197, và Nguyễn Trãi, tr. 259-294.
    (90) Xin xem Ðỗ Tất Lợi, Những Cây Thuốc và Vị Thuôc Việt Nam (Hà Nội: Khoa Học và Kỹ Thuật, 1977); Ngô Huy Quỳnh, Tìm Hiểu Lịch Sử Kiến Trúc Việt Nam (Hà Nội: Nxb Xây Dựng, 1986); Vũ Ðình Trác, Kiến Trúc Việt Nam (Orange: Trung Tâm Công Giáo Việt Nam, 1996); cũng như Vũ Ðình Trác, Những Cây Thuốc Vạn Linh (Orange: Hội Hữu 1991).
    (91) Immanuel Kant, Kritik der Urteilskfraft (1792). Chúng tôi dựa theo bản của Karl Vorlànder (Hamburg: Felix Meiner, 1924; 1968, lần thứ 6).
  4. aoxanhaovang

    aoxanhaovang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/03/2004
    Bài viết:
    61
    Đã được thích:
    0
    (92) Wilhem Dilthey, một triết gia và sử gia sau Hegel, người đã ''lịch sử hóa'' và ''kinh nghiệm hóa'' triết sử của Hegel. Quan trọng hơn cả là ông đưa ra một nền triết học văn hóa xây dựng trên ''nhãn quan thế giới'' (Weltanschauung) mà ông gọi là khoa học tinh thần (Geisteswissenschaft). Tác phẩm đại biểu bao gồm Einleiung in die Geisteswissenschaften (1883) và Jugendgeschichte Hegels (1905).
    (93) Vào thế kỷ 18, chúng ta đã thấy những người như Leibniz, Voltaire chú ý tới triết học đông phương. Vào thế kỷ 19, các triết gia như Artthur Schopenhauer, Hegel và Nietzsche; vào thế kỷ 20 những vị như Heidegger, Jaspers. cũng đã phần nào từng bị ảnh hưởng của tư tưởng Ðông phương. Song tuy chú trọng văn hóa Ðông phương, họ vẫn xác tín tính chất ưu việt của văn hóa Tây phương.
    (94) Oswal Spengler, Der Untergang des Abendlandes (Hamburg, 1967, tái bản).
    (95) Francis Fukujama, The End of History (Cambridge: Harvard University Press, 1991).
    (96) E. E. Evans-Pritchard, Nuer Religion (1956) và Theories of Primitive Religion (Oxford: Oxford University Press, 1965); Peter Winch, Understanding a Primitive Society (London, 1963).
    (97) Claude Lévi- Strauss, Tristes tropiques (Paris: Plon, 1955): "Ngày hôm nay, có những lúc tôi ngỡ ngàng thấy mình bị một nền nhân học hấp dẫn, mặc cho có vẻ kỳ quặc, bởi sự tương tự trong kết cấu giữa những nền văn minh mà tôi nghiên cứu và quá trình tư duy của tôi. Tri năng của tôi vẫn có tính chất cổ đại." Một tư tưởng như vậy cũng được Lévi-Strauss trình bày trong các tác phẩm khác như La Penséee sauvage (Paris: Plon, 1962) ; Le Cruit et le cuit (Paris: Plon, 1964), và nhất là Anthropologie structurale (Paris: Plon, 1958).
    (98) Roman Jakobson, Six Lectures on Sound and Meaning, John Mepham dịch (Cambridge: MIT Press, 1978).
    (99) Clifford Geertz, The Interpretation of Cultures (New York: Basic Books, 1973).
    (100) Thí dụ như trường phái Pháp gia của Hàn Phi, Thương Ưởng; hoặc duy luật của Niccolo Machiavelli; hoặc quan niệm văn dĩ tải đạo của Nho gia từ thời Tống, và tại Việt Nam cho tới thời Nguyễn mạt.
    (101) Chúng tôi đã bàn về luận đề này một cách rộng rãi hơn trong tiểu luận "Phê Phạm dữ Tiên Tri." Bài thuyết trình tại Ðại Học Providence, Ðài Trung (5. 2000), và in trong Luận Tập Toàn Quốc Hiện Ðại Tư Triều Học Thuật Nghiên Thảo Hội của Ðại Học Providence. (Hoa ngữ)
    (102) Karl Marx, Thesen ùber Feuerbach, 1845, trong Marx-Engels Werke (MEW), 3, tr. 5. Luận đề 11. Hoặc trong Die heilige Familie (1844-45), trong MEW 2, tr. 204; Pariser Manuskripte (1844), trong Ergànzung Band 1, tr. 542, cũng như trong MEW 2, tr. 38. Về vai trò của phê bình, Marx nhận định: phê bình là điều kiện tiên quyết của triết học (Kritik des Hegelschen Staatsrechts (1843), MEW 1, p. 296); là điều kiện để thay đổi thế giới (trong lá thư gửi Ruge): "Chúng ta không đặt thế giới ra một cách giáo điều, (ngược lại) chúng ta chỉ ước mong khám phá ra thế giới mới nhờ vào việc phê phạm thế giới cũ." (103) Xin tham khảo Immanuel Kant, "What is Enlightenment?" trong The Enlightenment (New York, 1997).
    (104) Ðại biểu của phái này bao gồm John Dewey (1859-1952) với tác phẩm tiêu biểu Experience and Nature (1925); William James (1842-1910) với tác phẩm Pragmatism (1907); Charles Sanders Peirce (1834-1914), với Collected Papers, (1931-35).
    (105) Martin Heidegger, Sein und Zeit, sđd. , phần 2. Hoặc mạnh bạo hơn trong tác phẩm về Nietzsche: Martin Heidegger, Nietzsche (Pfullingen: Neske, 1961), tập 2, phần kết luận về dự án siêu hình học. Cũng xin tham khảo thêm Lê Tôn Nghiêm, Heidegger Trước Sự Phá Sản của Tư Tưởng Tây Phương (Sài Gòn: Lá Bối, 1970).
    (106) Martin Heidegger, The Question Concerning Technology and Other Essays, do William Lovitt dịch (New York: Harper & Row, 1977), tr. 35: ".we bear witness to the crisis that in our sheer preoccupation with technology we do not yet experience the coming to presence of technology." Cũng xin them phê bình của Husserl, The Crisis of European Sciences and Transcendental Phenomenology, sđd, tr. 52, và của Herbert Marcuse, "On Science and Phenomenology," trong Anthony Giddens, chb., Positivism and Sociology (London: Heinemann, 1974), tr. 234.
    (107) Karl Jaspers, Einfùhrung in Philosophie, sđd. Bản dịch của Lê Tôn Nghiêm, Triết Học Nhập Môn (Sài Gòn, 1967), phần về Ðấng Tuyệt Ðối. Cũng phải nói thêm là đối với Jaspers, Ðức Phật, Ðức Khổng, Ðức Kitô và Socrates là những triết gia vĩ đại nhất của nhân loại. Xin tham khảo: Karl Jaspers, Die grossen Philosophen, (Tứ Ðại Thánh Triết) (Mùnchen: Piper, 1955-1957).
    (108) Alfred North Whitehead, Religion in Making (New York: Macmillan, 1926), nhận định về vai trò của triết học đối với tôn giáo như là một công chuyện giúp tôn giáo sáng sủa, minh bạch. Ông viết: "Khi mà tôn giáo không tiếp tục tìm kiếm đào sâu vào tính chất minh bạch (của mình), thì nó sẽ rơi xuống, trở lại với những hình thức thấp lè tè." tr. 83.
    (109) Trần Trọng Kim dùng tiếng tông giáo (Nho Giáo, sđd. tr. 41). Thực ra, tông hay tôn đều dịch tự Hán ngữ. Tông nói về nguồn gốc; tông hay tôn cũng chỉ ông tổ thứ hai sau tổ phụ hay nguyên tổ. Xin xem bài "Sinh Tử Trong Nho Giáo" của chúng tôi, chú thích 19.
    (110) Chú ý là người Việt rất trọng lễ giỗ. Mừng sinh nhật là một tập tục mới lai nhập từ Tây phương. Xin xem Toan Ánh, Nếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam (Sài Gòn: Nxb Tph Hồ Chí Minh, 1997), Tập 1, tr. 38-68. Cũng xin tham khảo Quyên Dy, "Sống Chết trong Truyền Thống Việt," bài thuyết trình tại Viện Triết Học và Tôn Giáo Việt Nam (Orange, 14. 8.1999).
    (111) Như chúng tôi đã nhấn mạnh trong phần thứ nhất trong chương này, triết học khác biệt với ý hệ. Tuy nhiên, trong Việt triết, chúng ta thấy có những yếu tố thuộc ý hệ mà chúng ta không thể gạt bỏ, nhất là Việt triết ở giai đoạn dựng nước, và cứu nước.
    (112) Trong bậc thang giá trị của người Việt, cấp tổ là cấp cao nhất; thứ tới là cấp tông, rồi cấp thần, thánh, nhân và liệt. Thế nên các triều đại thường theo bậc thang giá trị này để đặt hiệu cho các vua. Thí dụTổ (Thái), Thánh, Nhân như thấy trong các triều Lê, Lý và Trần. Ngoài Tổ (Hùng Vương, hay Bành Tổ) Hoàng Ðế là cấp bậc cao nhất, tức tông của một triều đại (Ðinh Tiên Hoàng). Thánh chỉ những người có tài, công đức giúp lập quốc như Thánh Gióng giúp lập nhà Ðinh, Thánh Trần (Hưng Ðạo) đánh đuổi quân Nguyên giữ được nhà Trần.
  5. aoxanhaovang

    aoxanhaovang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/03/2004
    Bài viết:
    61
    Đã được thích:
    0
    VÀI NÉT VỀ GIÁO SƯ TRẦN VĂN ÐOÀN
    Giáo sư Trần Văn Ðoàn sinh ngày 04 tháng 10 năm 1948 tại Quy Hậu. Ông tốt nghiệp Tiểu Chủng Viện Simon Hoa Dalat năm 1969 ( lớp đầu tiên, Giuse 1) và được gửi sang học tại Roma, Ý. Năm 1971, Ông đậu cử nhân Triết học tại đại học Urbano, Roma hạng Tối Ưu. Năm 1973 Thạc sĩ Triết học đại học Latran, Roma Tối ưu hạng. Năm 1974 đậu cử nhân Thần học Ưu hạng tại đại học Innsbruck, Áo. Năm 1975, Ông là người Á châu đầu tiên lấy bằng Tiến Sĩ Triết học tại đại học này với luận án Ưu hạng nhan đề Friedrich Nietzsche''s Nililismus. Cũng năm này Ông vào ban Thạc sĩ Thần Học, đại học Tubingen, Ðức Quốc và bắt đầu giảng dạy tại Ðại học Innsbuck. Năm 1979, Ông qua Ðài Loan với dự định đi vào quỹ đạo Triết Học Trung Hoa. Ông bắt đầu học Hoa ngữ, nghiên cứu Triết Ðông tại Ðại hoc Fujen (Phụ Nhân). Năm 1980 Ông là người Việt Nam đầu tiên được mời dạy học tại một Ðại học Trung Hoa, Ðại học Fujen. Năm 1988, Ông được mời làm Chính giáo (Giáo sư cơ hữu) tại Ðại Học Quốc Gia Ðài Loan. Ngoài ra Ông còn là Thỉnh giảng (Visiting professor) của các Ðại Học thời danh khác trên thế giới: Nagasaki (Nhật Bản 1985), Kennyatta (Kenia 1987), Frankfurt (Ðức 1988), Duquesne (Hoa Kỳ 1989), Vienna (Áo 1991), Ðại học Ateneo (Phi Luật Tân 1992), Ðại học Kualalumpur (Mã Lai Á 1992), Louvain-la-Neuve (Bỉ 1994), Ðại học Lisbon (Bồ Ðào Nha 1994), Ðại học Bắc Kinh (Trung Quốc 1994), Ðại học Oxford (Anh Quốc 1995) và Ðại học Mạc Tư Khoa (Nga 1998). Ông đã đoạt nhiều giải thưởng Văn học giá trị của Roma, Trung Quốc , Ðài Loan và của các Hội Văn Học Âu Châu và Quốc Tế.
    Ông giỏi cả Triết Ðông lẫn Triết Tây lại thông thạo nhiều ngôn ngữ nên đã tham gia nhiều sinh hoạt quan trọng trong các hội nghị Văn học Quốc tế và đóng góp cho đời nhiều tác phẩm triết học giá trị, nhiều bài báo và khảo cứu các vấn đề Triết học, Thần Học, Khoa Học, Giáo dục bằng Ðức Ngữ, Anh văn, Pháp văn, Ý ngữ, Hoa văn và Việt văn đăng trên 30 tạp chí khắp thế giới.
    "Một giáo sư, một học giả, một danh sĩ trẻ tuổi như Giáo sư Trần Văn Ðoàn, thực sự đã gây kinh ngạc và thán phục cho mọi giới hàn lâm cũng như thức giả và bình dân trên thế giới" (Petrus Vũ Ðình Trác, CGVN trong truyền Thống VHDT, Orange 1996, p486). Năm 1987, trong Hội Nghị Khổng Học tại Ðài Bắc, Ðức TGM LoKuang, Viện Trưởng Ðại Học Fujen đã nói về Giáo Sư Ðoàn như sau: "Câu nói ''Hàn Lâm Mặc Hải'' có thể áp dụng cho giáo sư họ Trần, ông là một bộ óc vượt thời không. Không biết con đường thăng hoa của ông còn đi tới đâu". (Sđd. p486)
    Nguon: http://www.simonhoadalat.com/
  6. onlyou

    onlyou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/04/2003
    Bài viết:
    161
    Đã được thích:
    0
    Thế còn bác Trần Văn Thảo, aoxanhhoavang có biết tài liệu gì ko???
    o doi phai biet minh la ai chu
  7. gioioi

    gioioi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/03/2003
    Bài viết:
    126
    Đã được thích:
    0
    Bác này đang xuất hiện tại thị trường sách Việt Nam với cuốn sách bán chạy nhất trong mấy tháng qua- cuốn: Bàn Về Cái Nhạt- đọc rất thú vị.
    1 đêm nhớ nhớ- nhớ sao mình 1 mình...
  8. gioioi

    gioioi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/03/2003
    Bài viết:
    126
    Đã được thích:
    0

    Xời ơi- bác Trần Đức Thảo chứ.
    1 đêm nhớ nhớ- nhớ sao mình 1 mình...

Chia sẻ trang này