1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Giới thiệu về quê hương Kinh Bắc ( nghiêm cấm spam )

Chủ đề trong 'Bắc Giang - Bắc Ninh' bởi donkihote_xxx, 29/10/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    Đã có Ngọc Nữ, thì không thể thiếu Kim Đồng. Đây là ảnh chụp tượng Kim Đồng. Kim Đồng- Ngọc Nữ đứng hai bên điện thờ, phía trước bà Pháp Vân trong chùa Dâu.
    [​IMG]
    Vì sao Kim Đồng- Ngọc Nữ, những hình ảnh- vẻ đẹp của con người được trừu xuất từ đời thường, lại được đặt cùng quần thể tượng Phật; tượng Pháp Vân, Pháp Vũ?
    Đến chùa Cổ Pháp hoặc chùa Kim Đài- Những nơi gắn liền với các tích về vua Lý Thái Tổ, ta thấy bố cục thờ tiền thần hậu phật, trái với quy tắc chung là tiền phật hậu thần. Nhưng liệu có thể coi Kim Đồng- Ngọc Nữ là thần không?
    Cho nên sự xuất hiện Kim Đồng- Ngọc Nữ và cách bày bố như trong chùa Dâu quả thực lạ lùng, không thuộc lối tiền phật hậu thần hay tiền thần hậu phật, đó là nét riêng vậy.
    @ Kara: có ý kiến gì không?
    [nick] [nick]
    Được thieulambacphai sửa chữa / chuyển vào 16:21 ngày 02/04/2008
  2. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    [​IMG]
    Pho tượng Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi trong chùa Dâu. Năm 1313 , trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi được vua Trần Anh Tông- một ông vua sùng đạo Phật, sai kiến thiết lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp.
    Để tưởng nhớ công sức ông, người xưa đã làm tượng ông thờ trong chùa.
    Mạc Đĩnh Chi (1280 ?" 1346)
    1. Tướng mạo xấu, nhưng trí tuệ ?ođẹp?
    Mạc Đĩnh Chi người làng Lan Khê, huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Dương ngày nay, sau dời sang làng Luỹ Động, huyện Chí Linh. Thuở nhỏ, ông rất linh lợi, thông minh, nhưng tướng mạo xấu xí. Thân hình ông lùn, da đen, mồm rộng, mũi tẹt, trán dô...
    Bấy giờ, thời nhà Trần có Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc, là người hay chữ, mở học đường, Mạc Đĩnh Chi xin vào học. Lúc đó cậu mới 4 ?" 5 tuổi, nhưng đã tỏ ra hết sức thông tuệ, được mệnh danh là thần đồng.
    Đến năm 1304, đời vua Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 12, triều đình mở khoa thi, lấy 44 người đỗ Thái học sinh (tiến sĩ). Mạc Đĩnh Chi đỗ đầu, chiếm học vị trạng nguyên, lúc này ông mới hơn 20 tuổi. Nhưng khi ra mắt, nhà vua thấy mặt mũi, thân hình ông xấu xí, không muốn cho đỗ trạng. Ông liền làm bài phú ?oNgọc tỉnh liên? (Hoa sen trong giếng ngọc), để nói lên phẩm giá thanh cao của mình, dâng lên vua. Anh Tông xem bài phú thấy rõ tài hoa, tư cách của ông, nên cảm phục và cho đỗ trạng nguyên. Sau đó, để tỏ lòng ưu ái người tài, nhà vua cho dẫn ông và hai người khác đỗ Tam Khôi là bảng nhãn Bùi Mộ và thám hoa Trương Phóng ra phía cửa Long Môn Phượng Thành dạo chơi trên đường phố ba ngày liền.
    Ông được cử giữ việc coi sóc thư khố của nhà vua, rồi chức Tả bộc xạ (Thượng thư)... Đặc biệt trong hai lần sang sứ Trung Quốc, ông đã dùng tài năng và phẩm chất cao đẹp của mình để làm rạng rỡ đất nước và khiến người nước ngoài phải khâm phục.
    2. Mở cửa ải bằng một vế đối
    Năm 1308, Mạc Đĩnh Chi được cử sang sứ Tầu, mừng vua Nguyên lên ngôi, để giữ mối hoà hiếu trong quan hệ bang giao giữa hai nước. Theo lịch thì đoàn sứ bộ nước ta sẽ đến cửa ải vào ngày giờ định trước. Không may hôm lên đường gặp trục trặc, nên đến sai hẹn. Khi đoàn sứ bộ ta tới nơi, thì trời tối, cửa ải đã đóng. Quân Nguyên canh gác bắt phải chờ đến sáng hôm sau. Thấy sứ bộ ta cứ biện bạch mãi, viên quan phụ trách canh ải mới thả từ trên lầu cao xuống một câu đối, thách sứ bộ ta nếu đối được thì họ sẽ mở cửa ải.
    Câu đối như sau: ?oQuá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quen? (Tới cửa ải trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường cứ qua).
    Một vế đối hắc búa có đến 4 chữ quan và 3 cữ quá! Mạc Đĩnh Chi thấy khó, nhưng ông đã nhanh trí dùng mẹo để đối như sau:
    ?oXuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối? (Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin mời ông đối trước!)
    Tưởng lâm vào thế bí, thế mà lại hoá ra tìm được vế đối hay, khiến người Nguyên phải phục tài sứ giả nước Nam, liền mở cửa ải để đoàn sứ bộ nước ta qua biên giới.
    3. Cuộc đấu trí ở nước ngoài
    Sau khi khuất phục nhà Tống và đánh bại nhiều quốc gia từ Á sang Âu, vua Nguyên đã cho các đạo quân rất hùng hậu và thiện chiến kéo sang xâm lược nước ta ba lần. Nhưng cả ba lần họ đều đại bại, đến nỗi viên tổng tư lệnh đạo quân khét tiếng này là Thoát Hoan đã phải chui vào ống đồng, sai quân khiêng trốn chạy mới thoát chết! Tuy thất bại, nhưng tư tưởng nước lớn, coi thường nước nhỏ ngày càng ăn sâu, bén rễ trong đầu óc vua quan triều Nguyên. Vì vậy, có lần Mạc Đĩnh Chi sang sứ, cưỡi lừa rong chơi đường phố Bắc Kinh, vô ý đụng phải ngựa một viên quan Tàu. Viên quan này vênh mặt hỏi bằng một câu đối:
    ?oXúc ngã kị mã, Đông di chi nhân dã, Tây di chi nhân dã?? (Đụng vào ngựa ta cưỡi, ấy là rợ phương Đông hay rợ phương Tây?). Viên quan Tàu dùng chữ trong sách Mạnh Tử, có ý khinh rẻ, cho người nước ta là mọi rợ.
    Mạc Đĩnh Chi thấy viên quan Tàu giở giọng kẻ cả, bực lắm bèn đọc luôn:
    ?oÁt dư thừa lư, Nam phương chi cường dư, Bắc phương chi cường dư?? (Húc vào đầu lừa, hỏi phương Nam mạnh, hay phương Bắc mạnh?).
    Trong vế đối, trạng nước ta cũng dùng chữ trong sách Trung Dung và ngụ ý để viên quan Tàu kiêu ngạo thấy: ?oChưa biết mèo nào cắn mỉu nào!?.
    Lần khác, người Nguyên thấy đoàn sứ bộ ta chuyện trò với nhau, tiếng cứ ríu ra ríu rít như chim. Họ bèn ra câu đối để đùa:
    ?oQuých thiệt chi đầu đàm Lỗ Luận: tri chi vi tri chi, bất vi tri bất tri, thị tri ?o(Chim chích choè đầu cành bàn sách Luận ngữ: biết thì bảo là biết, không biết thì bảo là không biết, thế mới là biết).
    Đây là một vế đối khó. Người Nguyên đã chọn những từ vi, tri, chi... giống tiếng chim kêu để giễu người Việt khi phát âm.
    Mạc Đĩnh Chi đã đối:
    ?oOa lâm trì thượng độc Châu thư: lạc dữ độc lạc nhạc, lạc dữ chúng lạc nhạc, thục lạc??(Con chẫu chuộc ngồi dưới ao đọc sách nhà Chu: nghe nhạc vui cùng ít người, nghe nhạc vui cùng nhiều người, đằng nào vui hơn?).
    Vế đối của trạng nước ta cũng dùng từ lạc, lạc, nhạc... giống tiếng chẫu chuộc, để chọi lại, chế người Nguyên nói ồm ộp như chẫu chuộc!
    Lần khác, Mạc Đĩnh Chi ngồi uống nước với người Nguyên ở cạnh chùa. Họ bèn ra câu đối để thử tài sứ Việt Nam. Câu đối bằng chữ Hán, dịch ra như sau:
    ?oCây kỉ vốn là một loài gỗ. Cái chén không phải là loài gỗ. Tại sao lấy cây kỉ làm chén??.
    Trạng nhìn ngôi chùa, tức cảnh đối ngay:
    ?oTăng là người. Phật không phải là người. Sao lại lấy tăng thờ Phật??.
    Vế đối quả là chan chát và lập luận thật là chặt chẽ, chính xác!
    Lại có lần Mạc Đĩnh Chi đi chơi cùng phái bộ triều Nguyên. Tới gần một chiếc cầu, do vô ý ông bị sa xuống hồ. Người Nguyên chạy đến đỡ ông. Để đùa, họ đã đọc câu đối:
    ?oCan mộc, hoành cừ, lục giả tương như tự đạo? (Gỗ thẳng, cầu ngang, đường đi ngỡ là đất phẳng).
    Câu đối rất khó, vì dùng toàn tên của một số nhân vật bên Tàu ghép lại (Đoàn Can Mộc, Hoành Cừ, Lục Giả, Tương Như và Tự Đạo).
    Mạc Đĩnh Chi thấy bên kia sông có ngôi đình dưới chân núi, nẩy ý đối rằng: ?oĐại đình, an thạch, vọng chi nghiễm nhược thái sơn ?(Đình to, đá vững, nhác nom như thể Thái Sơn).
    Vế đối của ông rất tài tình, vì cũng dùng toàn tên người ghép lại (Đại Đình là biệt hiệu của Thần Nông; Vương An Thạch, Vọng Chi...).
    Có được tài năng ứng đối tuyệt vời như thế là nhờ tư duy của Mạc Đĩnh Chi cực kì linh hoạt. Truyện kể, một lần viên Tể tướng Tàu mời ông đến nhà chơi. Nhìn thấy nơi cửa sổ có bức trướng thêu một con chim sẻ đậu trên cành trúc, giống chim thật như đúc, Mạc Đĩnh Chi bèn tiến lại giơ tay ra bắt, khiến các quan khách có mặt trong phòng cười ồ, chê ông là ngớ ngẩn, quê kệch. Biết mình nhầm, nhưng Mạc Đĩnh Chi đã kéo ngay bức trướng xuống xé toạc. Tất cả quan khách đều kinh ngạc, nhìn ông. Bấy giờ Mạc Đĩnh Chi mới hướng vào vị Tể tướng Nguyên, nói:
    - Cổ nhân vẫn cho trúc là bản sắc người quân tử, còn chim sẻ là hình dáng kẻ tiểu nhân. Thế mà không hiểu sao quan Tể tướng lại cho treo trong nhà bức tranh vẽ kẻ tiểu nhân đè đầu người quân tử. Tôi e rằng, ở quý quốc, đạo của tiểu nhân át mất đạo quân tử, nên tôi vì Thánh đế mà xé bức tranh này.
    Câu giải thích của trạng Việt nam làm cho viên Tể tướng Nguyên và tất cả các quan khách có mặt đều thấy chí lí và phục trạng có tài hùng biện, hiểu biết uyên bác hơn người.
    4. Trạng nguyên hai nước
    Mạc Đĩnh Chi là trạng nguyên của nước ta, nhưng khi sang sứ Tàu, vua Nguyên phục ông đối đáp thông tuệ, học vấn uyên thâm, đã phong ông làm trạng nguyên Trung Quốc.
    Có lần, muốn thử tài năng và khí tiết của vị Chánh sứ nước ta, vua nguyên ra một vế đối bằng chữ Hán, dịch ra như sau:
    ?oMặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy cung trăng?.
    Nghe xong, Mạc Đĩnh Chi biết vua Nguyên tỏ vẻ kiêu ngạo, xem mình là mặt trời và xem nước ta như mặt trăng, nên đã đối lại:
    ?oTrăng là cung, sao là đạn, tối đến bắn rơi mặt trời?.
    Thoạt đầu, vua Nguyên nổi giận, nhưng qua vế đối biết tài năng, khí tiết của sứ thần nước ta không phải là vừa, nên đem lòng nể trọng, chuyển giận làm vui và sai lấy vàng lụa, rượu ngon thưởng cho trạng Việt Nam.
    Có lần Mạc Đĩnh Chi sang sứ đúng vào dịp người Hậu phi của vua Nguyên mất. Lúc làm tế lễ, người Nguyên đưa cho Chánh sứ nước ta bài điếu văn viết sẵn, bảo đọc. Khi Mạc Đĩnh Chi mở giấy ra thì chỉ thấy viết có bốn chữ ?oNhất? (là một). Ông chẳng hề lúng túng, vừa nghĩ vừa đọc thành bài điếu văn rất hay, đầy cảm động như sau:
    ?oThanh thiên nhất đoá văn
    Hồng lô nhất điểm tuyết
    Ngọc uyển nhất chi hoa
    Dao trì nhất phiến nguyệt
    Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!?
    Nghĩa là:
    ?oMột đám mây giữa trời xanh
    Một bông tuyết trong lò lửa
    Một bông hoa giữa vườn thượng uyển
    Một vầng trăng trên mặt nước hồ
    Ôi! mây tản, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết!?.
    Vậy là chỉ có bốn chữ ?oNhất? mà trạng nước ta đã đọc thành một bài văn điếu tuyệt hay, khiến cho cả triều thần phương Bắc phải bái phục.
    Lại một lần khác, Mạc Đĩnh Chi cùng với sứ thần một số nước ra mắt vua Nguyên. Nhân có nước nào đó dâng chiếc quạt, vua Nguyên bắt sứ thần nước ta và sứ thần Triều Tiên đề thơ. Giữa lúc Mạc Đĩnh Chi còn tìm tứ thơ, thì sứ Triều Tiên đã viết liến thoắng. Ông nhìn theo quản bút đọc thấy sứ Triều Tiên viết hai câu chữ Hán, dịch nghĩa như sau:
    ?oNóng nực oi ả, thì như Y Doãn, Chu Công (là những người được vua trọng dụng).
    Rét buốt lạnh lùng, thì như Bá Di, Thúc Tề? (là những người bị ruồng bỏ).
    Với sự nhanh trí kì lạ, Mạc Đĩnh Chi liền phát triển hai câu thơ trên thành một bài xuất sắc, mô tả chiếc quạt:
    ?oChảy vàng, tan đá, trời đất là lò lửa, thì lúc ấy ngươi (chỉ chiếc quạt) như Y Doãn, Chu Công là những bậc cự nho (người tài giỏi).
    Gió bấc lạnh lùng, mưa tuyết đầy đường, lúc ấy người như Bá Di, Thúc Tề là những ông già chết đói.
    Ôi! Dũng thì thành đạt, bỏ thì xếp xó. Chỉ có ta và người là như thế chăng??.
    Bài của Mạc Đĩnh Chi làm xong trước, ý sắc sảo, văn lại hay, nên vua Nguyên xem xong cứ gật gù khen mãi. Nhân dân ta ngưỡng mộ, tôn xưng ông là: ?oLưỡng quốc trạng nguyên? (trạng nguyên hai nước).
    5. ?oChữ tâm kia mới bằng ba chữ tài?
    Mạc Đĩnh Chi suốt đời sống rất liêm khiết, thanh bạch, nên tuy làm quan nhưng nhà vẫn nghèo. Vua Trần Minh Tông biết rõ sự tình đã sai người đang đêm đem 10 quan tiền bỏ trước cửa nhà ông, ngầm cho ông. Sáng mai, khi thức dậy, ông cầm số tiền đó vào triều tâu vua. Vua cười bảo: ?oKhông ai đến nhận, cho khanh cầm lấy mà tiêu?. Vua khen ông trong sạch và tặng hai chữ ?oLịch sử?.
    Hồi đó, có một người tên là Lý Đạo Tái, ở làng Vạn Tải, thuộc tỉnh Hà Bắc [1] trước đây. Ông này đỗ trạng nguyên khoa Nhâm Tí (1252), niên hiệu Nguyên Phong thứ hai, đời Trần Thái Tông. Nhà vua thấy Đạo Tái là người tài đức, muốn gả công chúa Liễu Sinh cho, nhưng ông không ưng, tìm mọi cách từ chối. Sau đó, vì thấy cảnh đời đen trắng nên ông bỏ quan, xuất giá tu hành theo đạo Phật, mong tìm cách cứu vớt chúng sinh. Lý Đạo Tái được phong Phật hiệu là Huyền Quang, đạo pháp cao siêu, thoát khỏi lòng dục, khiến vua Trần có lần đã hỏi thị thần và tăng đạo rằng:
    - Người ta sống ở trong đời đất đều thích ăn vị ngon, thích mặc màu đẹp, đều có ******** cả... Tại sao mình lão tăng Huyền Quang từ trước tới nay chỉ sắc sắc không không, như nước chẳng gợn sóng, như gương chẳng mờ bụi. Đó là ngăn hãm lòng dục hay không có lòng dục vậy?
    Bấy giờ, Mạc Đĩnh Chi đứng bên mới tâu rằng:
    - Vẽ hổ chỉ vẽ được da, khó vẽ được xương. Biết người thì biết mặt không rõ được lòng. Xin cứ phải thử xem thì mới rõ.
    Nhà vua cho lời ông nói là phải, bèn ngầm chọn một người cung nữ rất đẹp tên là Nguyễn Thị Điềm Bích và giao cho nàng nhiệm vụ tìm đến chùa Hoa Yên, núi Yên Tử - là nơi sư Huyền Quang tu hành - để thử lòng sư. Điểm Bích đã dùng đủ thuật quyến rũ, nhưng vẫn không sao khêu gợi được lòng dục của Huyền Quang. Việc làm trâng tráo của nàng đã được một bà già đến lấy thuốc nấp sau chùa chứng kiến.
    Vì bị sư Huyền Quang chối từ, lại lo sợ không thực hiện được mệnh vua, nên Điểm Bích quyết định ra sau núi quyên sinh. Huyền Quang biết, bèn lấy lời lẽ khuyên can và hỏi rõ ngọn nguồn. Bấy giờ, Điểm Bích mới thổ lộ rằng nàng được nhà vua giao tìm cách lấy được 3 nén vàng của sư ông đưa về. Huyền Quang nghe xong ái ngại, đã lấy 3 nén vàng giao cho Điểm Bích (vì trước đó nhà vua có cho sư ông 10 nén vàng, in dấu quốc khố). Khi thấy Điểm Bích đưa vàng về trình, kèm theo những lời thêu dệt sư ông ong ****, nhà vua đã nổi giận, cho Huyền Quang là sư hổ mang, định trị tội. May sao có bà lão lấy thuốc làm chứng, vạch điều vu khống của Điểm Bích, nên vua mới hiểu sư Huyền Quang quả lòng trong sạch, không vết dục tình.
    Con người giữ được cái tâm mới thật đáng quý. Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đã biểu lộ cái tâm trong sáng của ông từ thuở hàn vi, khi ông làm bài phú ?oHoa sen trong giếng ngọc? dâng vua và ông đã giữ nó trong sạch suốt cả cuộc đời..., khiến cho người đời mãi tôn trọng, kính phục ông.
    [1] Nay là tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang.

    (Theo Thần đồng xưa của nước ta - NXB Giáo Dục - 1998)
  3. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    [​IMG]
    Bến đò Tri Phương, nối Bút Tháp với Phật Tích.
  4. karakapuri

    karakapuri Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/11/2006
    Bài viết:
    850
    Đã được thích:
    0

    Vì sao Kim Đồng- Ngọc Nữ, những hình ảnh- vẻ đẹp của con người được trừu xuất từ đời thường, lại được đặt cùng quần thể tượng Phật; tượng Pháp Vân, Pháp Vũ?
    Đến chùa Cổ Pháp hoặc chùa Kim Đài- Những nơi gắn liền với các tích về vua Lý Thái Tổ, ta thấy bố cục thờ tiền thần hậu phật, trái với quy tắc chung là tiền phật hậu thần. Nhưng liệu có thể coi Kim Đồng- Ngọc Nữ là thần không?
    Cho nên sự xuất hiện Kim Đồng- Ngọc Nữ và cách bày bố như trong chùa Dâu quả thực lạ lùng, không thuộc lối tiền phật hậu thần hay tiền thần hậu phật, đó là nét riêng vậy.
    @ Kara: có ý kiến gì không?
    @Phai, theo em đó là sự kết hợp thêm của yếu tố Phật Giáo, Đạo Giáo và cả tín ngưỡng địa phương nữa. Bố cục bàn thờ ảnh hưởng từ sự nhận thức về tôn jáo tín ngưỡng.
  5. viecthienha

    viecthienha Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/07/2006
    Bài viết:
    177
    Đã được thích:
    0
    Theo tôi, đoạn này ngài Mạc Đĩnh Chi cũng hơi quá, nỡ lòng nào khuyên Quan gia của mình đi thử một vị Chân tu,
    Ngài tự có Ngọc Tỉnh Liên phú, tại sao không để cho sư Huyền Quang được như Ngọc Tỉnh Liên?
    Phải chăng do thời thế mà Ngọc Liên của ngài đã không còn tinh khiết như thủa ban đầu?
  6. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    [​IMG]
    [​IMG]
    ( Cây đại bên Thượng điện, chu?a Bút Tháp )
  7. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    Thêm hai hi?nh a?nh vê? Bút Tháp, a?nh chụp hôm khai mạc hội Lim, trơ?i nhiê?u mây, lất phất mưa nên ánh sáng hơi kém.
    [​IMG]
    [​IMG]
    [nick] [nick]
    Được thieulambacphai sửa chữa / chuyển vào 02:00 ngày 04/04/2008
  8. luc_thao

    luc_thao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2006
    Bài viết:
    3.271
    Đã được thích:
    0
    THày chùa qủa thực hòanh tráng, Từ Bút Tháp tới Lim khá xa, đúng là tâm tại hội LIM, nhưng người lại ở Bút Tháp,
    Thật là kỳ diệu:)
  9. vitop

    vitop Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/12/2006
    Bài viết:
    2.275
    Đã được thích:
    0
    Làng quê Kinh Bắc xưa, Bắc Giang nay là vùng đất tụ cư của nhiều dân tộc cùng chung sống. Vùng quê này ở vào một địa thế thuận lợi, nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, được bồi đắp phù sa bởi các con sông lớn như Sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam, có các vùng núi cao với nhiều lâm sản quý, lại có một vùng trung du rộng lớn thuận lợi cho việc phát triển cây công nghiệp. Cư dân sinh sống ở đây bằng nghề nông là chính. Họ đã hình thành nên các làng, bản với kiểu thức kinh tế và kiểu thức văn hoá riêng. Từ cách trồng trọt, chăn nuôi, từ nếp ăn, nếp ở, trang phục, phong tục, tập quán...cho đến cách nghĩ, cách làm và lối sống đã tạo nên truyền thống và đặc trưng văn hoá làng xã Bắc Giang.
    Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, truyền thống ấy vẫn được giữ gìn và phát huy như làng Vân Xuyên (Hoàng Vân - Hiệp Hoà ), vì cả làng theo cách mạng mà còn gọi là làng Đỏ; làng Sặt ( Liên Sơn- Tân Yên ) là làng kháng chiến; lại có làng thủ công như làng gốm Thổ Hà; làng rưọu VânHà(Việt Yên); làng bún Đa Mai (thành phố Bắc Giang); làng mây tre đan Phúc Long, Phúc Tằng(Tăng Tiến - Việt Yên); làng rèn sắt Đức Thắng (Hiệp Hoà); làng quan họ Thổ Hà (Vân Hà - Việt Yên); làng tuồng Tân Dĩnh (Lạng Giang); làng chèo Đồng Quan (Đồng Sơn ?" Yên Dũng); làng Then (Thái Đào - Lạng Giang)...Lại còn có cả làng võ, làng vật ở Yên Thế, Hiệp Hoà, làng thợ ở Yên Dũng. Và đặc trưng hơn là các bản dân tộc ít người như bản Dao ở Đồng Làng ( Sơn Động ), bản Sán Chí ở Kiên Lao (Lục Ngạn ), bản Cao Lan ở Nghè Mản ( Lục Sơn - Lục Nam )....Các dân tộc anh em sinh sống trên những bản làng này đã tạo nên bản sắc văn hoá riêng rất đa dạng và phong phú.
    Biểu tượng nghìn đời của làng quê cổ là luỹ

    tre làng với ngôi chùa, ngôi đình và các đền, miếu, văn chỉ. Đó chính là những thiết chế gắn liền với tín ngưỡng thờ thành hoàng là cơ sở tạo nên truyền thống, phong tục, tập quán, lễ hội, đình đám và nội dung văn hoá của làng. Bắc Giang có nhiều ngôi đình không những mang giá trị lịch sử, văn hoá tiêu biểu mà còn trở thành biểu trưng văn hoá của làng xã Việt Nam như đình Lỗ Hạnh (Đồng Lỗ - Hiệp Hoà ), xây năm 1576; đình Thổ Hà (Vân Hà - Việt Yên ) xây dựng năm 1686; đình Phù Lão (Đào Mỹ - Lạng Giang) xây dựng thế kỷ XVII; đình Hả ( Tân Trung ?" Tân Yên); đình Đông (Bích Động - Việt Yên); đình Dĩnh Thép ( xã Tam Hiệp - Yên Thế) ). Không chỉ có đình mà nhiều ngôi chùa ở bắc Giang cũng đã được ghi nhận trong lịch sử Phật giáo Việt Nam như: chùa Đức La (hay còn gọi là chùa Vĩnh Nghiêm, ở xã Trí Yên ?" Yên Dũng); chùa Bổ Đà (xã Tiên Sơn - Việt Yên); chùa Kem (xã Nham Sơn ?" Yên Dũng)...Ngoài những đình, chùa đã được xếp hạng di tích lịch sử, văn hoá, hầu hết các làng ở Bắc Giang đều có đình là nơi thờ cúng thành hoàng làng.
    Hội làng đã trở thành đặc trưng riêng của mỗi làng và được tổ chức ở hầu hết các làng xã. Hội làng tồn tại hàng nghìn năm với các nghi lễ, nội dung, hình thức riêng song mục đích chính của lễ hội đều nhằm giúp cho sự thống nhất, đoàn kết trong cộng đồng làng xã, giáo dục truyền thống văn hoá, lịch sử, truyền thống chống ngoại xâm, truyền thống hiếu học, phát triển ngành nghề.
    Do những biến cố lịch sử từng giai đoạn, sự thay đổi chuyển biến của xã hội từng thời kỳ cùng với thời gian và tác động của thiên nhiên mà làng xã và lễ hội cũng có chung số phận thăng trầm. Thiết chế văn hoá làng bị phá vỡ, nội dung văn hoá làng cũng bị phôi pha, mờ nhạt. Nhiều ngôi đình, ngôi chùa, cây đa, bến nước...vốn là biểu tượng văn hoá của dân tộc cũng mất đi vẻ uy nghiêm, nhiều di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh bị cảnh xâm lấn mà trở thành hoang phế, nhiều lễ hội chỉ còn trong ký ức của người dân.
    Từ cuối những năm tám mươi, cùng với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, ở Hà Bắc (cũ), ngành Văn hoá - Thông tin chủ trương triển khai xây dựng làng văn hoá và quy ước làng. Đầu năm 1990, Bộ Văn hoá - Thông tin mở cuộc hội thảo về làng văn hoá đặt tại Hà Bắc. Sau hội thảo và thực tiễn hơn 10 năm Trung ương phát động xây dựng làng văn hoá trên toàn quốc đã khẳng định sự tồn tại của làng và sức sống của làng văn hoá trong thời đại mới. Những nội dung của văn hoá làng được đặt ra trong tiến trình xây dựng trên tất cả bình diện: văn hoá xã hội, văn hoá tư tưởng, văn hoá nghệ thuật, văn hoá tâm linh. Ở từng bình diện, nhiều biểu tượng và nét đẹp văn hoá đã trở thành biểu trưng mang giá trị truyền thống như: luỹ tre làng, cây đa, bến nước, sân đình, lời ru, tiếng trống chèo, lời ca quan họ, điệu hát then...được phục hồi. Những di tích lịch sử, văn hoá, những danh lam thắng cảnh không những được Nhà nước quan tâm, mà nhân dân còn phấn khởi đầu tư công sức, tiền của giữ gìn tu bổ. Những di tích khảo cổ, văn bia, thần tích, thần phả, những câu chuyện dân gian, truyền thuyết, những phương ngôn, ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ, và biết bao hương ước cũ đã được sưu tầm, khai thác và gìn giữ.

    (nguồn: http://www.bacgiang.gov.vn/htx/Vietnamese/C1321/C1375/)
  10. thieulambacphai

    thieulambacphai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/08/2005
    Bài viết:
    3.129
    Đã được thích:
    2
    La Hán chùa Dâu
    [​IMG]

Chia sẻ trang này