1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

giữa tình cảm và khoa học

Chủ đề trong 'Công nghệ Sinh học' bởi despi, 24/05/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    giữa tình cảm và khoa học

    Việt Nam, và Mỹ : giữa tình cảm và khoa học

    Dioxin, Việt Nam, và Mỹ :
    giữa tình cảm và khoa học
    Nguyễn Văn Tuấn
    Chất màu da cam (hay Agent Orange) và dioxin [1] có một mối quan hệ với Việt Nam và Mỹ trong hơn bốn thập niên qua. Ngày 20 tháng 11 năm 1961, tổng thống Kennedy phê chuẩn quyết định cho quân đội Mỹ tiến hành chiến dịch Ranch Hand để khai hoang đồng cỏ Việt Nam [2]. Mục đích chính của chiến dịch là làm cho quân đội đối phương không còn cây xanh để trú ẩn. Trong thời gian mười năm từ 1962 đến 1971 quân đội Mỹ đã rải xuống Việt Nam khoảng 19 triệu gallons (tức khoảng 71.9 triệu lít) thuốc khai hoang, trong đó có 11 triệu gallons (41.6 triệu lít) chất màu da cam [3]. Người ta ước tính 11 triệu gallons chất màu da cam chứa khoảng 368 pounds (167 kg) dioxin [4]. Tổng diện tích mà quân đội Mỹ đã rải là 1.5 triệu hectares, tức gần 10% diện tích của miền nam Việt Nam, trong đó có nhiều vùng bị rải hơn 4 lần. Theo báo cáo chính thức của Chiến dịch Ranch Hand, kết quả là quân đội Mỹ đã phá hủy khoảng 14% diện tích rừng nam Việt Nam, kể cả 50% các vườn xoài [5].

    Có thể nói câu chuyện dioxin và chất màu da cam trồi sụt theo sự thăng trầm của quan hệ ngoại giao Mỹ - Việt. Sau chiến tranh, cựu quân nhân Mỹ từng tham gia vào chiến dịch Ranch Hand phàn nàn về tình trạng sức khoẻ của họ. Một số con họ sinh ra có dị tật, và dioxins bị tình nghi là thủ phạm. Tiếp sau đó là một loạt nghiên cứu, trong đó có một nghiên cứu qui mô trên hơn 2000 cựu quân nhân Mỹ, để xác định mối quan hệ giữa dioxins và bệnh tật. Qua hơn 20 năm nghiên cứu, các nhà khoa học Mỹ đã có đủ bằng chứng để kết luận rằng dioxins gây ra ung thư tế bào mềm (Soft-tissue sarcoma), Non-Hodgkin?Ts lymphoma, bệnh Hodgkin, và ban clor (chloracne). Nhưng họ vẫn chưa có đủ bằng chứng để phát biểu dứt khoát về ảnh hưởng của dioxins đến các bệnh khác như dị tật, dị thai, ung thư tuyến tiền liệt (prostate cancer), tiểu đường, một số bệnh thần kinh cấp tính, bệnh nứt đốt sống (spina bifida), các bệnh thuộc hệ thống nội tiết và tiêu hóa (như loét, thay đổi enzyme của gan, bất bình thường lipid), các chứng miễn nhiễm, bệnh tim, bệnh đường hô hấp, và ung thư da [6]. Nói tóm lại, họ cần có thêm dữ kiện khoa học.

    Về phía Việt Nam, sau năm 1975, giới y tế Việt Nam cũng ghi nhận một số trường hợp dị tật bẩm sinh và ung thư trong cư dân thuộc các vùng từng bị rải chất màu da cam trong thời chiến tranh. Tuy nhiên, vì cách thu thập dữ kiện chưa được hệ thống, và phương pháp nghiên cứu cũng như xử lí số liệu chưa phù hợp với các tiêu chuẩn khoa học, nên những phát hiện này không được thế giới chú ý. Dù dữ kiện còn hạn chế, chính phủ Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng gián tiếp yêu cầu Mỹ nên có trách nhiệm với những người mà họ cho là nạn nhân của dioxin. Phía Mỹ không từ chối trách nhiệm, nhưng họ cho rằng cần phải có đầy đủ dữ kiện khoa học thì mới có thể có chương trình hành động. Ngay cả trong giới cựu quân nhân Mỹ, chỉ khoảng 7% cựu quân nhân được chính phủ đồng ý trợ cấp trong số đòi bồi thường về thiệt hại sức khoẻ do dioxin.

    Nhu cầu cho một Hội nghị Việt - Mỹ

    Tình trạng qua lại về trách nhiệm và bằng chứng dằng dai mãi cho đến khi Mỹ và Việt Nam chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Sau năm 1995, hai bên đã từng gặp nhau và thảo luận phương cách giải quyết vấn đề. Trong lần họp mặt ở Singapore vào năm 2001, hai phái đoàn Việt Nam và Mỹ đồng ý tổ chức một hội nghị khoa học vào năm 2002.

    Theo thỏa thuận trên, ngày 3 tháng Ba vừa qua, Hội nghị Khoa học Việt - Mỹ về ảnh hưởng của Chất màu da cam (viết tắt : AO) và dioxin trong sức khỏe con người được diễn ra tại Hà Nội. Hội nghị được tiến hành trong 3 ngày, nhưng một số bàn thảo ngoài chương trình hội nghị vẫn tiếp diễn vài ngày sau đó. Ðây là một Hội nghị có tính lịch sử, được sự bảo trợ của Viện Khoa học Môi trường và Sức khỏe Quốc gia Mỹ (National Institute of Environmental Health Sciences) và Bộ Y tế Việt Nam. Gần 300 nhà khoa học Việt Nam, và 120 nhà khoa học từ Mỹ, Úc, Canada, Anh, Pháp, Ðức, Ý, Nhật, Tân Gia Ba, Thuỵ điển, Nga, Lào, Tân Tây Lan, Na Uy, Hàn Quốc, và Ðài Loan, tham dự Hội nghị.

    Mục đích chính của hội nghị là để các nhà khoa học trên thế giới trình bày những kết quả nghiên cứu của mình, và tạo điều kiện trao đổi ý kiến xung quanh vấn đề ảnh hưởng của dioxin và AO trong sức khoẻ con người. Họ đặc biệt quan tâm đến các bệnh ung thư, dị tật bẩm sinh, và các chứng bệnh liên quan đến hệ thống tái sản sinh.

    Chương trình khoa học là thế, nhưng Hội nghị đã được khai mạc với vài "liều lượng chính trị" nho nhỏ. Chẳng hạn như, lúc đầu Ban tổ chức Mỹ - Việt không muốn cho các kí giả ngoại quốc tham dự, nhưng sau họ đổi ý và các kí giả đã tham dự ngày khai mạc và ngày bế mạc hội nghị. Bài diễn văn khai mạc của phía Việt Nam mang chút màu sắc chính trị và cảm tính, trong đó người phát biểu nói một cách thẳng thừng rằng Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh hóa học ở Việt Nam, và nhắc lại lời kêu gọi Mỹ phải có trách nhiệm với nạn nhân người Việt Nam. Một nhóm đại diện cho cựu quân nhân Mỹ cũng kêu gọi chính phủ Mỹ phải giúp đỡ nạn nhân của dioxin ở Việt Nam. Tuy nhiên, đại sứ Mỹ ở Hà Nội không đồng ý với nhận xét ?o chiến tranh hóa học.? Ông đại sứ còn nhắc lại rằng khi thương lượng bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ, Việt Nam đã đồng ý không đòi bồi thường chiến tranh [7].

    Một vài báo cáo khoa học đáng chú ý

    Ban tổ chức đã dự trù Hội nghị sẽ rất khó và tế nhị, những " trục trặc " như thế sẽ xảy ra, nên họ cũng không ngạc nhiên, và theo đuổi chương trình nghị sự khoa học đã định sẵn. Khoảng trên dưới 100 đề tài lớn nhỏ được bàn thảo ; trong đó người ta thấy có một số phát hiện đáng chú ý như sau :

    Thứ nhất, nghiên cứu của giáo sư Arnold Schecter, một chuyên viên về dioxin (thuộc Trường đại học Texas), cho thấy mức độ tích tụ dioxin trong cư dân thuộc một số vùng như Biên Hòa, Ðà Nẵng, Giồng Trôm (Bến Tre), Tân Uyên (Sông Bé), Trà Nóc (Cần Thơ), A Lưới (Huế), v.v. vẫn còn cao hơn trung bình, và có thể nói là ở một mức độ có hại cho sức khoẻ (nồng độ ?o an toàn " là khoảng 2 ppt). Khoảng 36 % đối tượng nghiên cứu có nồng độ dioxin cao hơn 100 ppt. Ông Schecter trình bày một trường hợp đặc biệt là một thanh niên sinh năm 1973 có nồng độ dioxin lên đến 413 ppt !

    Thứ hai, trong một nghiên cứu khác của ông Schecter liên quan đến cá nhập cảng từ Việt Nam vào Mỹ. Ông thử nghiệm 20 mẫu cá được nhập cảng và bán ở hai bang Texas và California. Kết quả nghiên cứu này cho thấy cá nhập cảng từ Việt Nam có hàm lượng dioxin thấp hơn thực phẩm sản xuất ở Mỹ. Ông Schecter ví dụ : trong một mẫu cá tra (catfish) được phân tích, hàm lượng tích tụ dioxin chỉ 0.01 phần ngàn tỉ (0.01 parts per trillion, hay 0.01 ppt). Mức độ tích tụ dioxin trong cá tra trên đây quả rất thấp so với thực phẩm Mỹ. Theo một số nghiên cứu được công bố gần đây, các thực phẩm bày bán ở Mỹ có hàm lượng dioxin tương đối cao, nhưng chưa hẳn đáng quan tâm. Chẳng hạn như theo một nghiên cứu được công bố vào năm 2001, nồng độ dioxin trong cá nước ngọt là 1.7 ppt ; trong kem (ice cream), 0.33 đến 0.51 ppt ; trong sữa, 0.16 ppt ; trong bơ, 1.1 ppt [8]. Ngoài ra, còn có bằng chứng cho thấy những thực phẩm như cá tra khi được nấu chín hay đun sôi thì nồng độ PCDD sẽ giảm xuống đến 50% [9].

    Thứ ba, nghiên cứu của giáo sư Lê Quang Bách (Hà Nội) trên 6570 dân cư sinh sống trong các vùng chịu ảnh hưởng chất màu da cam trong thời chiến cho thấy tỉ lệ dị tật bẩm sinh trong thời gian 1975 - 2000 là 2.18 trên 1000 dân số, hay 5.38 trên 1000 trường hợp đẻ sống. Bại não là dị dạng chiếm tỉ lệ cao nhất. Dị dạng thường xảy ra trong những đứa con thứ nhất và thứ hai. Ông Bách kết luận " Loại trừ yếu tố ảnh hưởng đến nguyên nhân gây ra dị dạng bẩm sinh trên người mẹ cũng như yếu tố thời gian sinh sống của người mẹ trong khu vực nghiên cứu, cho phép nhận định dị dạng bẩm sinh chịu hậu quả lâu dài của chất độc da cam / dioxin ".

    Giá trị bằng chứng : nghiên cứu khoa học hay quan sát lâm sàng ?

    Báo cáo khoa học của Việt Nam về liên hệ giữa dioxin và dị tật bẩm sinh cũng như vài bệnh khác đã bị các khoa học gia Mỹ chất vấn. Theo họ (khoa học gia Mỹ), muốn khẳng định một mối liên hệ như thế cần phải có nghiên cứu và theo dõi bệnh nhân hàng chục năm, chứ không đơn giản chỉ trình bày vài trường hợp là xong, mà cần phải có những đối chứng (controls) trong nghiên cứu. Theo người viết bài này, người Mỹ có lí do để chất vấn, và phía Việt Nam cũng có lí do để tin tưởng vào những phát biểu của mình. Tôi không rõ những bệnh cụ thể nào được xem là "dị tật bẩm sinh" trong nghiên cứu của giáo sư Lê Quang Bách, nhưng rõ ràng tỉ lệ 2.18 trên 1000 dân thì quá thấp, vì thông thường tỉ lệ này cao hơn nhiều (ở giữa 2 và 5 phần trăm). Ngay cả trong các bà mẹ người Việt ở California, tỉ lệ dị tật bẩm sinh được ghi nhận vào khoảng 1.92 %, thấp hơn các bà mẹ người Mễ và Mỹ [10]. Do đó kết quả của phía Việt Nam cần phải được thẩm định kỹ hơn.

    Ðối với các nhà nghiên cứu thuần túy, một kết luận nghiên cứu chỉ đáng tin cậy khi nào nó được xác nhận bằng một hay nhiều nghiên cứu độc lập khác, và những "phương pháp khoa học" (scientific methods) dùng trong nghiên cứu được xem là thích hợp. Về mặt phương pháp học, rõ ràng các phương pháp nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam còn quá đơn sơ, nếu không muốn nói là không thích hợp, để cho phép một kết luận gì giữa dioxin và dị tật bẩm sinh. Ðây là một lĩnh vực mà giới nghiên cứu Việt Nam cần được giúp đỡ trong tương lai.

    Phía Việt Nam, các bác sĩ làm việc trực tiếp với chương trình nghiên cứu chất độc màu da cam và dioxin khẳng định [có khi mạnh mẽ] rằng qua quan sát lâm sàng, họ biết rõ những ai là nạn nhân của dioxin. Họ trưng bày một số dữ kiện và trường hợp dị tật bẩm sinh trong cư dân các vùng bị ảnh hưởng nặng chất độc này trong thời chiến. Dù nhận xét này cần phải được xác định qua nghiên cứu, tôi vẫn nghĩ bác bỏ những dữ kiện của Việt Nam trong khi cân nhắc mối liên hệ giữa dioxin và bệnh tật là không công bằng. Nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu chỉ là một vế của phương trình y học, nó không phải là câu trả lời dứt khoát cho mọi vấn đề. Những quan sát lâm sàng cũng đóng một vai trò rất quan trọng, và giá trị của kinh nghiệm lâm sàng không nên gạt bỏ qua. Thực vậy, nhiều khi một nhận xét lâm sàng còn có giá trị hơn cả mười năm nghiên cứu. Trường hợp về tác hại của Thalidomide [11] là một ví dụ hùng hồn về giá trị của quan sát lâm sàng.

    Ðối tượng nghiên cứu : con người hay môi trường ?

    Ngoài các thảo luận, tranh cãi khoa học như trên, người ta cũng có thể ghi nhận một vài khác biệt chính giữa phía Việt Nam và Mỹ về đối tượng nghiên cứu, và ưu tiên trong nghiên cứu. Về đối tượng nghiên cứu, phía Mỹ muốn tập trung và quan tâm đến môi trường ; còn phía Việt Nam thì đặt trọng tâm vào sức khỏe người dân. Về đường hướng ưu tiên, phía Mỹ muốn tiến hành những nghiên cứu khoa học, trong khi phía Việt Nam đặt nặng vấn đề giúp đỡ nạn nhân.

    Có thể giải thích và thông cảm được sự khác biệt về quan điểm này. Về phía Mỹ, thành phần chủ đạo trong Ban tổ chức Hội nghị là những nhà nghiên cứu trong Viện nghiên cứu Môi trường Mỹ, do đó không ai ngạc nhiên khi đứng trên góc độ nghề nghiệp, họ muốn tiến hành những nghiên cứu để thẩm định sự tác hại của dioxin đến môi trường ở Việt Nam. Ngược lại, phía Việt Nam, những người nằm trong Ban tổ chức Hội nghị là những bác sĩ thuộc Bộ Y tế, nên họ quan tâm đến sức khỏe dân chúng hơn là môi trường.

    Ngoài sự khác biệt về chuyên môn, người ta cũng có thể giải thích quan điểm của người Mỹ về nhu cầu dữ kiện. Trong thời gian trên dưới 30 năm qua, Mỹ đã bỏ ra một ngân sách khá lớn để nghiên cứu tác hại của dioxin trong dân chúng, đặc biệt là trong giới cựu quân nhân từng tham chiến ở Việt Nam. Trong thời gian đó họ đã thu thập một lượng dữ kiện khá dồi dào, và hiện nay nhiều chương trình nghiên cứu của họ vẫn tiếp tục. Do đó họ không có nhu cầu thu thập thêm dữ kiện về sức khỏe trong người Việt Nam. Ngược lại, họ cần có thêm dữ kiện về dioxin trong môi trường, và Việt Nam là một nơi lí tưởng để thu thập thêm dữ kiện này.

    Tuy nhiên, những dữ kiện về mối quan hệ giữa dioxin và bệnh tật trong người Việt Nam vẫn còn quá ít, nếu không muốn nói là không đáng kể. Ðại đa số các nghiên cứu trong thời gian qua về AO và dioxin đều tập trung vào đối tượng là những quân nhân Mỹ, người dùng nó trong chiến tranh, nhưng một đối tượng đáng lẽ cần và đáng nhận được sự ưu tiên và quan tâm nhiều hơn là những nạn nhân của nó : đồng bào Việt Nam sống ở các vùng bị ảnh hưởng độc chất này. Thực vậy, có thể nói đối tượng lí tưởng cho nghiên cứu tác hại của AO hay dioxins trong sức khỏe con người phải là đồng bào Việt Nam ở các vùng bị ảnh hưởng độc chất, vì họ sinh sống trực tiếp với môi trường dioxin. Trong hầu như tất cả các báo cáo khoa học có liên quan tới dioxin mà tôi đã từng theo dõi, các nhà khoa học đều đề cập và trông đợi các số liệu đến từ phía Việt Nam. Thế nhưng cho đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào ở Việt Nam liên quan đến tác hại của chất độc màu da cam trong dân cư người Việt được công bố trên các tờ tạp chí y học hàng đầu như New England Journal of Medicine, Lancet, Annals of Internal Medicine, Journal of the American Medical Association, v.v. Do đó, theo người viết bài này, quan điểm của Việt Nam về nhu cầu thu thập dữ kiện và nghiên cứu sự ảnh hưởng của dioxin trong sức khoẻ con người là một đường hướng hoàn toàn hợp lí.

    Bồi thường trước hay nghiên cứu trước ?

    Khác biệt thứ hai giữa hai bên là đường hướng ưu tiên. Phía Việt Nam muốn Mỹ giúp đỡ những người mà họ tin là nạn nhân của dioxin và AO, trong khi nghiên cứu. Trong khi đó, phía Mỹ thì đặt nặng vào nhu cầu nghiên cứu khoa học hơn là giúp đỡ tài chính trong giai đoạn này. Một bên quả quyết rằng nạn nhân cần phải được giúp đỡ ; một bên thì đòi hỏi phải có bằng chứng và dữ kiện trước khi thảo luận đến vấn đề tài trợ. Như nói trên, các bác sĩ Việt Nam thì cho rằng họ có lí do lâm sàng để biết ai là nạn nhân và ai không. Nhưng người Mỹ đặt vấn đề cũng chính đáng : làm sao họ biết một cách khách quan rằng đó là những nạn nhân của dioxin và chất màu da cam ? Một bên dựa vào cảm tính do chứng kiến và tiếp cận với nạn nhân ; một bên dựa vào lí trí và khoa học.

    Ðây là một mâu thuẫn mà tôi nghĩ khó có thể phân giải để đi đến một giải pháp tối ưu. Tuy nhiên, người ta có thể thấy được logic của phía Việt Nam như sau :

    Thứ nhất, đó là sự bỏ lỡ cơ hội. Tính đến nay, chất màu da cam và dioxin do Mỹ rải xuống Việt Nam đã qua một thời gian đúng 40 năm, tức là hơn một thế hệ con người. Sau hơn 10 năm, lượng dioxin còn tồn tại trong con người chỉ trên dưới 50 %. Nếu có thể khái quát hóa kết quả nghiên cứu trong giới cựu quân nhân Mỹ và một vài nơi khác ở Âu châu cho tình trạng sức khoẻ của người Việt Nam, thì có thể nói rằng đã có nhiều người chết trong thời gian dài đó vì đã ít nhiều chịu ảnh hưởng chất màu da cam. Nói một cách khác, nhiều "đối tượng lí tưởng? nhất, nạn nhân khả tín nhất của dioxin và chất độc màu da cam, không còn nữa. Những nạn nhân hay đối tượng còn sống ngày nay có thể chỉ là nạn nhân thuộc thế hệ hai.

    Thứ hai, vấn đề thời gian. Thời gian theo dõi đối tượng phải từ 10 năm đến 20 năm trong một nghiên cứu có hệ thống, có ý nghĩa khoa học cao. Chương trình nghiên cứu của Ý kéo dài hơn 20 năm [12]. Chương trình nghiên cứu trong cựu chiến binh Mỹ cũng đã tiến hành hơn 20 năm. Một nghiên cứu từ Việt Nam, nếu được tiến hành ngay bây giờ, thì cũng phải chờ đến khoảng 2020 mới có kết quả để làm bằng chứng khoa học cho giới làm chính trị quyết định. Và đến đó thì nhiều người cũng sẽ qua đời ! Nạn nhân ít đi dần. Ðối tượng ít đi dần. Và đến khi có dữ kiện để xem xét việc giúp đỡ thì đã quá muộn, nếu không muốn nói là không có ý nghĩa gì nữa.

    Giá trị của nghiên cứu không chỉ là thông tin khoa học, hay cống hiến vào kho tàng tri thức của nhân loại, mà còn là giá trị thực tiễn của thông tin. Nếu những thông tin nghiên cứu sau 20 năm chẳng giúp ích gì cho người dân Việt Nam thì thiết tưởng những nghiên cứu như thế đã mất đi ít nhiều lí tưởng của khoa học. Nhà cầm quyền nắm ngân sách có lí do để đặt vấn đề có nên nghiên cứu hay không, nếu như kết quả không có một viễn ảnh thực tế giúp đỡ người dân.

    Mặt khác, người ta cũng không thể phủ nhận cái logic trong sự suy nghĩ của các nhà khoa học Mỹ. Nếu không có thông tin xác tín, thì làm sao biết ai mà giúp đỡ. Ðối tượng nào, với bệnh gì, ở đâu, điều kiện ra sao, v.v. cần giúp đỡ ? Khó mà trả lời những câu hỏi này một cách khẳng định nếu như không có những nghiên cứu khoa học.

    Nghiên cứu gì ?

    Việt Nam đã bỏ lỡ một cơ hội tốt quá lâu trong công việc này. Tuy nhiên, chậm trễ còn hơn là không có gì. Do đó, nhu cầu nghiên cứu và thu thập dữ kiện về ảnh hưởng của dioxin và sức khỏe cũng như môi trường ở Việt Nam thật là cấp thiết. Nhưng vấn đề được đặt ra là cần nghiên cứu gì ? Tôi xin đề nghị một số đường hướng nghiên cứu cụ thể như sau :

    Thứ nhất, xác định mức độ nghiêm trọng của vấn đề. Trong bất cứ một vấn đề y học nào, điều quan trọng và cần thiết trước nhất là cần phải biết bao nhiêu người bị ảnh hưởng. Hiện nay, phía Việt Nam thường đưa ra con số 1 triệu người, tuy nhiên, con số này chỉ là một ước tính chưa có cơ sở khoa học vững vàng lắm. Vì thế cần tiến hành nghiên cứu "epidemiology" qui mô ở mức độ dân số để trả lời những câu hỏi sau đây : số người bị ảnh hưởng chất độc màu da cam hay dioxin ; thời gian ảnh hưởng đã bao lâu ; bao nhiêu thế hệ ; ở những vùng nào ; và đo lường nồng độ tích tụ dioxin trong từng cá nhân.

    Thứ hai, xác định mối liên hệ giữa dioxins và một số vấn đề sức khoẻ trong người Việt. Ðây là một nhu cầu cực kỳ cấp bách, vì cho đến ngày nay chưa ai biết rõ dioxin đã ảnh hưởng thế nào đến sức khỏe của nạn nhân Việt Nam một cách cụ thể, và đó cũng chính là một nguồn gốc của tranh cãi hiện nay giữa Mỹ và Việt Nam về việc bồi thường hay không bồi thường nạn nhân. Qua theo dõi các nghiên cứu của Mỹ và Ý, người ta thấy có khoảng 20 bệnh có thể liên hệ đến dioxin, và những bệnh này có thể là những đối tác đầu tiên cho một nghiên cứu ở Việt Nam. Tuy nhiên, tôi đề nghị chọn ra một số bệnh ?oưu tiên" để tập trung nghiên cứu như sau : dị tật bẩm sinh, các loại ung thư vú (trong phụ nữ), tuyến tiền liệt (đàn ông), hệ thống tiêu hóa, và các bệnh liên quan đến nội tiết như bệnh tiểu đường, bệnh xương, và các bệnh tâm thần.

    Thứ ba, cần phải nghiên cứu tác hại của dioxin trong cấu trúc di truyền của cá nhân. Ðã có một số bằng chứng khoa học gần đây cho thấy dioxin hay TCDD có khả năng làm thay đổi cấu trúc di truyền của con người, do đó, nếu ảnh hưởng của dioxin kéo dài qua nhiều thế hệ thì yếu tố di truyền (genes) nhất định phải đóng một vai trò quan trọng. Vì thế, tôi đề nghị cần phải tập trung nghiên cứu vào những đối tượng gia đình (chứ không chỉ trong những cá nhân không có quan hệ huyết thống), để có thêm dữ kiện cho phân tích di truyền.

    Ba hướng nghiên cứu trên đây có thể thực hiện được, một số với cơ sở vật chất sẵn có ở Việt Nam, và một số có thể cần sự giúp đỡ về kỹ thuật của các nhóm nghiên cứu ngoại quốc. Những nghiên cứu cụ thể theo ba chiều hướng trên đây cần phải được vạch ra để có kế hoạch tiến hành. Có lẽ một trong những điều cần làm ngay là thành lập một uỷ ban chuyên nghiên cứu, gồm các nhà khoa học ở trong nước và các chuyên gia người Việt và người ngoại quốc ở các nước như Mỹ, Úc, Canada, Thụy điển, v.v. Uỷ ban này nên có đại diện của giới y tế công cộng, thống kê học, khoa học cơ bản, công nghệ sinh học, di truyền học, dân số học, v.v..

    Nói tóm lại, cho đến nay không ai còn nghi ngờ sự độc hại của dioxin cho con người. Nhưng chứng minh rõ ảnh hưởng của dioxin trên sức khỏe con người vẫn còn là một thách thức khoa học lớn. Ngoài một số bệnh ung thư mà giới khoa học đã có đầy đủ bằng chứng để cho rằng dioxin là một nguyên nhân chính, một số bệnh khác vẫn còn trong vòng nghi vấn hay cần thêm bằng chứng. Ở Việt Nam, sự hiện diện của dioxin trong môi trường ở một số vùng và ở một mức độ có hại cho sức khoẻ là một thực tế không ai có thể chối cãi. Nhưng nếu kết quả của các nghiên cứu ở Mỹ và Ý đem vào áp dụng cho tình hình Việt Nam, người ta có thể nói rằng đã có nhiều nạn nhân dioxin đã bỏ mạng, và nhiều người vẫn còn đang sống với ảnh hưởng của độc chất này. Nhưng dữ kiện khoa học cụ thể từ Việt Nam để phát biểu những nhận xét này vẫn còn thiếu. Thực vậy, trường hợp dioxin và sức khoẻ ở Việt Nam là một sự bỏ lỡ cơ hội. Hơn một phần tư thế kỷ sau khi chiến tranh chấm dứt, Việt Nam vẫn chưa tiến hành những nghiên cứu qui mô, có hệ thống để xác định mức độ nghiêm trọng cũng như tác hại của dioxin trong sức khỏe của người Việt Nam.

    Vì thiếu dữ kiện khoa học, mối liên hệ giữa dioxin và người Việt Nam cũng như người Mỹ trở nên một vấn đề phức tạp. Bản chất nó mang tính khoa học, nhưng chịu ảnh hưởng của cảm tính, màu sắc chính trị, ngoại giao. Không thể chỉ dựa vào khoa học hay chỉ dùng cảm tính để thuyết phục giới hữu trách Việt Nam và Mỹ. Dù thiếu dữ kiện khoa học, nhưng kinh nghiệm lâm sàng không thể bỏ qua, và nạn nhân của dioxin ở Việt Nam là một thực tế. Do đó, một mặt chính quyền Việt Nam cần huy động nhân lực và chuyên gia trong cũng như ngoài nước để tiến hành những chương trình nghiên cứu qui mô có hệ thống, một mặt chính quyền Mỹ cũng nên giúp đỡ những nạn nhân người Việt, qua kinh nghiệm trong giới cựu quân nhân Mỹ trong hơn hai thập niên qua.

    Những tranh luận bằng chữ nghĩa sẽ không giải quyết được một vấn đề cần hành động thực tế.

    Nguyễn Văn Tuấn

    Senior Research Fellow
    Bone and Mineral Research Program
    Garvan Institut of Medical Research
    Darlinghurst, Australia



    --------------------------------------------------------------------------------

    Chú thích và tài liệu tham khảo :

    [1] Dioxins là tên gọi chung cho một số hóa chất trong nhóm dibenzodioxin, dibenzofurans, và polychlorinated biphenyls (PCBs). Ở Mỹ, dioxins được định nghĩa là tập hợp của 29 hợp chất gồm 7 chất 2,3,7,8-tetrachlorodibenzo-p-dioxin (hay TCDD, hay dioxin), 10 chất furans, và 12 chất PCBs. Ở Âu châu, dioxins là tập hợp của 210 hóa chất, trong số này, 17 chất, kể cả TCDD, được xem là độc hại nhất. Gần đây, Cơ quan Quốc tế Nghiên cứu Ung thư (IARC) xếp dioxin vào loại độc chất số 1 gây ra ung thư. Xem báo cáo ?oPolychlorinated dibenzo-para-dioxin and polychlorinated dibenzoforans,"IARC monographs on the carcinogenic risks to humans, Vol. 69, Lyon, France, 1997.

    Dioxins hiện diện trong môi trường, chủ yếu là từ những phó sản của kỹ nghệ. Những nơi gần các hãng sản xuất hóa chất, lò đốt rác, lò đốt dụng cụ y khoa, thường có nồng độ dioxins cao hơn những nơi khác. Một khi đã thải vào không khí, dioxins có thể bay đi khá xa, tích tụ thành cặn bã ở trên mặt và trong lòng đất, và nước, rồi lợn, bò, cá... ăn vào. Khi chúng ta ăn thịt cá dioxins ?odi chuyển? vào cơ thể con người. Theo một số nghiên cứu gần đây, khoảng 80% đến 95% dioxins trong con người xuất phát từ thực phẩm, nhất là những thứ có chất béo cao như mỡ, bơ, sữa. Dioxins tồn tại khá lâu trong cơ thể con người, có khi trên 10 năm (J.L. Prikle và đồng nghiệp : ?oEstimates of the half-life of 2,3,7,8-tetrachlorodibenzo-p-dioxin in Vietnam Veterans of Occupation Ranch Hand ", Journal of Toxicology Environmental Health; n. 1989, số 27, tr. 165-71 ; W.H. Wolfe và đồng nghiệp : ?o Determinants of TCDD half-life in veterans of Operation Ranch Hand ", Journal of Toxicology Environmental Health; n. 1994, số 41, tr. 481-8).

    [2] Theo tài liệu Record, 4th SECDEF Conference, HQ CINCPAC, March 21, 1962. Trích từ William A. Buckingham, Jnr : "Operation Ranch Hand : Herbicides in Southeast Asia 1961-1971" .

    [3] Joan Stephenson : " New IOM Report links Agent Orange exposure to risk of birth defect in Vietnam Vets?T children ", Journal of the American Medical Association (JAMA), số 275, 10.04.1996, tr. 1066-1067.

    [4] Michael Gough : "Agent Orange : exposure and policy", American Journal of Public Health, n. 1991; số 81, tr. 289-290.

    [5] Theo báo cáo của Công ty Tư vấn Hatfield (Canada), #201-1571 Bellevue Avenue, West Vancouver, BC V7V 1A6, Canada.

    [6] " Veterans and Agent Orange : Update 2000 " ; Institute of Medicine, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ.

    [7] " Intake of dioxins and related compounds from food in the U.S. population ", Journal of Toxicology and Environmental Health A, n. 2001, Bộ 11, tr. 1-18.

    [8] " A comparison of dioxins, dibenzofurans and coplanar PCBs in uncooked and broiled ground beef, catfish and bacon ", tập san Chemosphere, n. 1998, số tháng 10-11, tr. 1723-1730.

    [9] Nguyên văn phát biểu của Tòa đại sứ Mỹ tại Hà Nội, theo bản tin của Reuters (của kí giả David Brunnstrom) ngày 4 tháng 3, 2002: "U.S. Vietnam relations were normalized in 1995 after Vietnam dropped claims war reparation / compensation".

    [10] " Congenital malformations in offsprings of Vietnamese women in California 1985 ?" 1997 " , G. W. Shaw và đồng nghiệp, Teratology, năm 2002, số 65, trang 121-124.

    Dị tật bẩm sinh (danh từ y khoa tiếng Anh : " congenital malformation ") là những dị dạng có từ lúc mới sinh, do di truyền hoặc do các yếu tố môi trường gây ra. Có 50 nhóm, gồm khoảng 200 dị tật khác nhau, từ não đến xương và các bộ phận trong cơ thể. Thường được chú ý là : quái thai không não (anencephaly), tật nứt đốt sống (spina bifida), thoát vị não (encephalocoele), tràn dịch não (hydrocephalus), tứ chứng Fallot (tetralogy Fallot), các loại nhiễm thể tam đồng (trisology), khe hở miệng hay môi, thừa ngón tay, ngón tay dính lại, thoát vị rốn (exomphalos), hội chứng Edward, hội chứng Klinefelter...

    [11] Thalidomide là một loại thuốc được dùng rất rộng rãi trước đây cho những phụ nữ mang thai, để làm dịu. Trong thập niên 1960s, Bác sĩ William McBride (Úc) qua quan sát vài trường hợp trong bệnh nhân của ông đã khám phá rằng trong khi mang thai trong 3 tháng đầu tiên, thuốc có thể gây ra dị thai. Phát hiện này làm rúng động thế giới y khoa một thời. Trong trường hợp này, người ta không cần phải có bằng chứng nghiên cứu. Do đó, lập tức sau phát hiện của Bác sĩ McBride, thuốc này bị cấm dùng trong các phụ nữ đang mang thai.

    [12] Tháng Bảy năm 1976, một hãng sản xuất thuốc diệt cỏ 2,4,5-trichlorophenol (TCP) tại vùng Seveso (Ý) bị cháy, nổ tung, và thải ra môi trường chung quanh khoảng 30 kí lô dioxin. Do đó, kể từ năm 1977, chính phủ Ý đã thành lập một nhóm nghiên cứu gồm các nhà khoa học và bác sĩ chuyên nghiên cứu về tác hại của dioxin trong sức khỏe của dân cư trong vùng Seveso và phụ cận. Có thể xem : " Health effects of dioxin exposure : a 20-year mortality study " do Pier A. Bertazzi và đồng nghiệp, American Journal of Epidemiology, n. 2001; số 153, tr. 1031-44; và " Paternal concentration of dixin and *** ratio of offspring ", do Paolo Mocarelli và đồng nghiệp, Lancet, số 355, 27.05.2000, tr. 1858-1863.


    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  2. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Câu chuyện Dioxin và bệnh tật : thực hay giả
    Nguyễn Văn Tuấn

    Dioxin trong chiến tranh Việt Nam
    Chất màu da cam (thường được đề cập đến là Agent Orange, hay AO) [1] là một loại thuốc diệt cỏ, gồm có hai thành phần chính : 2-4-dichlorophenoxyacetic và 2,3,7,8-Tetrachlorodibenzo-p-dioxin (tức dioxin). Trong thập niên 1940, chất màu da cam được phát triển để diệt cỏ dại. Tuy nhiên, hóa chất này còn tỏ ra rất hữu hiệu trong việc tiêu diệt các loại cây có lá rộng và vụ mùa. Khả năng diệt cỏ và cây xanh của AO đã thu hút sự chú ý của giới quân sự Mỹ, và họ đã thử nghiệm thành công ở Fort Detrick (bang Maryland), Căn cứ không quân Eglin (bang Florida), và Camp Drum (bang New York), trước khi đem sang dùng ở Thái Lan vào đầu thập niên 1960.
    Tuy nhiên, AO chỉ được dùng một cách qui mô trong thời chiến tranh Việt Nam, với mục đích chính là khai quang đồng cỏ, làm cho đối phương (quân đội cộng sản) không có chỗ lẩn tránh. Ngày 20 tháng 11 năm 1961, Tổng thống Kennedy phê chuẩn cho quân đội Mỹ tiến hành chiến dịch Operation Ranch Hand để khai quang đồng cỏ Việt Nam [2]. Quyết định này được Tổng thống Ngô Đình Diệm ủng hộ một cách nồng nhiệt [3], vì ông ta cho rằng ông biết cộng sản đang ở đâu. Tuy nhiên, trong nội bộ Mỹ, có sự phản đối từ các nhân vật cao cấp từ Bộ Ngoại giao như Roger Hilsman và W. Averell Harriman, vì họ cho rằng không có cách gì để biết được là đồng lúa của cộng sản sẽ bị tiêu hủy hay không. Nhưng chiến dịch vẫn được thi hành.
    Kể từ năm 1962, Lực lượng Không quân Mỹ đã bắt đầu dùng chất độc màu da cam ở các vùng đất thuộc miền Nam và Trung Việt Nam. Năm 1969, trong một báo cáo khoa học cho Viện Y học (Mỹ), dựa vào các thí nghiệm trên chuột, một số nhà khoa học Mỹ đã kết luận rằng chất màu da cam có thể gây ra dị thai (birth defect). Năm 1970, chính phủ Mỹ ra lệnh ngưng dùng chất màu da cam trong chiến tranh, nhưng trên thực tế, các thuốc khai quang khác vẫn được tiếp tục xịt cho đến năm 1971 mới chấm dứt. Trong thời gian mười năm (tính từ 1962 đến 1971), trong chiến dịch Ranch Hand, quân đội Mỹ đã rải xuống Việt Nam khoảng 19 triệu gallons (tức khoảng 71.9 triệu lít) thuốc khai quang, trong đó có 11 triệu gallons (hay 41.6 triệu lít) AO [4]. Với 11 triệu gallons AO, người ta đoán rằng có chứa khoảng 368 pounds (tức 167 kg) dioxin [5]. Phần lớn (90%) AO được rải xuống Việt Nam bằng máy bay loại C-123, và phần còn lại (10%) bằng trực thăng, xe vận tải, và đi bộ. Tổng diện tích mà quân đội Mỹ đã rải là 1.5 triệu hectares, tức gần 10% diện tích của miền nam Việt Nam, trong đó có nhiều vùng bị rải hơn 4 lần. Theo báo cáo chính thức của chiến dịch Ranch Hand, kết quả là quân đội Mỹ đã phá hủy khoảng 14% diện tích rừng nam Việt Nam, kể cả 50% các vườn xoài [6].
    Dioxin và cựu chiến binh Mỹ
    Sau khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc, hai thành phần được công nhận là chịu ít nhiều ảnh hưởng của dioxin : đồng bào Việt Nam sống trong các vùng bị rải AO, và quân nhân Mỹ, những người trực tiếp rải hóa chất này. Sau năm 1975, một số cựu chiến binh Mỹ và thân nhân của họ bắt đầu phàn nàn tình trạng suy đồi sức khỏe của họ, đặc biệt là ung thư, và tình trạng khuyết tật trong con cái của họ. Những cựu chiến binh nghi ngờ rằng dioxin là thủ phạm của những bệnh tật này. Họ vận động với chính phủ, và một số thượng nghị sĩ cũng khẳng định rằng AO, hay dioxin, là độc chất gây ra bệnh tật cho giới cựu chiến binh, và kêu gọi chính phủ phải bồi thường cho những thiệt hại này. Tiếp theo đó, bộ Cựu chiến binh (Department of Veterans Affairs) bắt đầu tiến hành thủ thục bồi thường cho những cựu chiến binh mắc bệnh "non-Hodgkins lymphoma" hay "soft tissue sarcoma."
    Nhưng ý kiến dioxin là thủ phạm của những vấn đề sức khỏe trong giới cựu chiến binh bị một số nhà nghiên cứu y khoa thách thức. Các nhà nghiên cứu này trình bày dữ kiện cho thấy không có một sự liên đới nào giữa AO hay dioxin và ung thư. Nhận xét này phù hợp với một nghiên cứu ở Úc, mà trong đó các nhà nghiên cứu Úc không tìm thấy mối liên hệ nào giữa dioxin và các vấn đề sức khỏe trong cựu quân nhân Úc từng tham chiến ở Việt Nam.
    Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi một số nhà nghiên cứu khác trình bày dữ kiện cho thấy dioxin có thể gây ra ung thư, dị thai, và một loạt tác hại khác cho sức khỏe. Một cuộc tranh luận "nóng" giữa các nhà nghiên cứu xảy ra trên các tập san y học. Các nhà nghiên cứu y học thường rất bình tĩnh, lạnh lùng, và ôn hòa trong lời văn chữ viết, nhưng trong cuộc tranh luận này, đã có lúc họ dùng đến những danh từ nặng cảm tính như "huyền thoại" (myth), "sai lầm" (wrong, mistake) ...
    Để giải quyết tình trạng bất đồng ý kiến này, chính phủ Mỹ đã chi ra một ngân khoản rất lớn (140 triệu đô-la) để ủy nhiệm một số chuyên viên khoa học và bác sĩ tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của dioxin trong sức khỏe của cựu chiến binh Mỹ. Cuộc nghiên cứu này được lấy tên chiến dịch rải AO, tức là "The Ranch Hand Study" [7]. Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu theo dõi tình trạng sức khoẻ của hai nhóm cựu chiến binh từng tham gia vào chiến dịch này trong thời chiến tranh : nhóm I gồm khoảng 1000 người từng trực tiếp rải AO xuống Việt Nam; và nhóm II có khoảng 1300 người không trực tiếp rải chất AO, nhưng có mặt trong nhà kho, bảo quản chất AO. Trong thời gian từ 1982, 1985, 1987, 1992, 1997, và 2002 (sắp tới), mỗi cựu chiến binh (nếu còn sống) được khám để thu thập số liệu liên quan đến độ tích tụ dioxin, và quá trình phát triển bệnh tật. Một loạt báo cáo khoa học đã được công bố trên các tạp san y khoa danh tiếng, và kết quả có thể được tóm tắt như sau :
    (a) Tử vong. Nói chung, không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ tử vong giữa hai nhóm. Tuy nhiên, nhóm rải AO (nhóm I) có tỷ lệ chết vì bệnh tim mạch cao hơn nhóm II.
    (b) Bệnh tiểu đường. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng dioxin có khả năng làm tăng sự nghiêm trọng của bệnh tiểu đường, làm giảm độ insulin và dung nạp glucose (glucose tolerance). Tỷ lệ bị bệnh tiểu đường trong nhóm I cao hơn trong nhóm II khoảng 5%.
    (c) Bệnh ung thư. Trong một bài báo đăng trên Tập san American Journal of Epidemiology, các nhà khoa học kết luận rằng không có mối quan hệ nào giữa dioxin và ung thư da, ung thư tiền liệt.
    (d) Hệ thống miễn nhiễm. Kết quả nghiên cứu trong hai nhóm cựu chiến binh cho thấy không có mối liên hệ nào giữa dioxin và các chỉ số sinh hóa như lymphocytes, immunoglobulin, tế bào clonal B, v.v. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu không tìm thấy ảnh hưởng của dioxin đến hồng huyết cầu hay bạch huyết cầu, hay haematocrit, haemoglobin, hay ESR.
    (e) Dùng số liệu từ năm 1982 đến 1997, các nhà nghiên cứu ước lượng rằng tính trung bình, mức độ tồn tại trung bình của dioxin trong cơ thể là khoảng từ 7 đến 8.2 năm.
    Nhưng những kết quả nghiên cứu trên đây bị giới cựu chiến binh chất vấn một cách mạnh mẽ. Sau khi điều tra về các phương pháp nghiên cứu và cách thức làm việc của các nhà khoa học dính dáng đến chương trình này, một số cựu chiến binh khám phá ra nhiều vấn đề nghiêm trọng. Chẳng hạn như có 2 báo cáo về tình trạng dị thai trong các cựu quân nhân bị nhiễm dioxin ở mức độ cao, nhưng không được công bố. Lại còn có một báo cáo về mối liên hệ giữa dị thai và dioxin bị thay đổi từ ngữ làm cho kết quả kém quan trọng. Phần lớn các nhà khoa học làm việc trong chương trình nghiên cứu này là quân nhân, họ chịu ảnh hưởng từ các cấp chỉ huy cao hơn trong việc phân tích số liệu, và điều này làm cho người ta có lí do để chất vấn tính trung thực của việc làm của họ.
    Dioxin và người Việt Nam
    Ở Việt Nam, sau một loạt trường hợp dị thai được ghi nhận ở các tỉnh miền Trung mà trong thời chiến tranh chịu ảnh hưởng chất AO, đã bắt đầu nghi ngờ tác hại của dioxin. Nhà cầm quyền Việt Nam đã cố công thu thập và trưng bày trong vài bệnh viện ở Sài Gòn nhiều trường hợp dị thai, và rải rác trên báo chí người ta tường trình các trường hợp cha mẹ bị nhiễm AO thường sinh con có tật hoặc bị bệnh. Việt Nam còn đưa ra một số số liệu thống kê để chứng minh AO gây ra dị thai. Tuy nhiên, hầu hết số liệu và nghiên cứu của Việt Nam đều bị giới khoa học thế giới đánh giá thấp, nếu không muốn nói là không được công nhận. Lí do đơn giản là tất cả các nghiên cứu của Việt Nam trong lĩnh vực này chưa đạt được tiêu chuẩn của một "nghiên cứu" nghiêm túc, tức là thiếu khoa học tính. Tuy nhiên, trong lĩnh vực này, Việt Nam có cơ hội tiến hành những nghiên cứu có chất lượng cao, và có tiềm năng cống hiến nhiều dữ kiện quan trọng cho y học thế giới mà không nơi nào có được. Song, trong vài năm gần đây, phía Việt Nam tỏ ra miễn cưỡng trong việc hợp tác với người Mỹ trong việc nghiên cứu AO ở Việt Nam, vì chính phủ Việt Nam quan tâm đến một kết quả từ những nghiên cứu như thế sẽ chẳng mang lại lợi ích gì, nếu không muốn nói là có hại, cho nền kinh tế xuất khẩu nông sản của Việt Nam ! Nếu thế giới biết được những vùng như Ban Mê Thuột bị nhiễm dioxin thì kỹ nghệ sản xuất và xuất cảng cà phê của Việt Nam ắt hẳn phải gặp khó khăn.
    Do đó, các tranh luận ở Mỹ và sự miễn cưỡng của Việt Nam trong vài năm qua đã biến vấn đề mang bản chất khoa học này trở thành vấn đề chính trị và kinh tế. Cộng thêm vào đó là những ồn ào trong giới cựu chiến binh, và sự quan tâm của công chúng và đặc biệt là công nhân trong các cơ xưởng kỹ nghệ về tác hại của dioxin đến sức khỏe của họ, đã biến dạng AO thành một vấn đề đầy cảm tính. Hậu quả của một sự tranh luận cảm tính như thế là sự lẫn lộn. Công chúng, nhất là những người không hiểu nhiều về y học, hay không quen thuộc với các phương pháp nghiên cứu y khoa, cảm thấy bị động bởi các bản tin lúc thì cho rằng AO gây ra ung thư, lúc lại có tin cho rằng AO là một chất hoàn toàn vô hại ! Vậy sự thật ra sao ? Trong bài viết này, tôi sẽ cố gắng trình bày một cách ngắn gọn kết quả của những nghiên cứu liên quan đến ảnh hưởng của AO trong sức khỏe con người.
    Mức độ nhiễm dioxin
    Ước định mức độ nhiễm độc là một chìa khóa để xác định mối quan hệ giữa một căn bệnh và một độc chất. Mức độ này được đo lường bằng thời gian, và mức độ tích tụ (concentration levels) của dioxin trong máu của cá nhân bị nhiễm. Thời gian mà cá nhân bị ảnh hưởng bởi dioxin chỉ được đánh giá qua lời khai của "nạn nhân" và không có phương pháp nào để biết những lời khai này chính xác hay không. Mức độ dioxin trong con người có thể được xác định qua thử máu, da, hoặc sữa, bằng cách dùng phổ kế (spectrometry). Phổ kế đo độ dioxin trên mỗi nghìn tỉ particles, hay còn gọi là ppt (parts per trillion). Theo kinh nghiệm lâm sàng, một mức độ tích tụ dioxin từ 10 ppt hay cao hơn được xem là bất bình thường và có hại cho sức khỏe.
    Tuy nhiên, trong cả hai chỉ số đo đạc này đều có một số hạn chế nhất định. Do đó, các đo lường được ứng dụng trong tất cả các nghiên cứu chỉ là tương đối, và trong nhiều trường hợp mức độ chính xác còn rất thấp, thấp đến độ không có ý nghĩa lâm sàng gì cả.
    Dù số liệu chính xác về mức độ nhiễm dioxin vẫn còn trong thời gian hoàn thiện, một số số liệu thống kê rút ra từ một loạt nghiên cứu gần đây cho thấy mức độ dioxin trong các cựu chiến binh Mỹ, tính trung bình, thấp hơn các công nhân trong các hãng xưởng kỹ nghệ. Tuy nhiên, các cựu chiến binh trong chiến dịch Ranch Hand có mức độ tích tụ dioxin cao hơn trung bình. Trong các cựu chiến binh trực tiếp tham gia rải chất AO xuống Việt Nam, mức độ tích tụ dioxin trung bình là 12.7 ppt (tối thiểu là 0, và tối đa là 617 ppt); trong nhóm không rải chất AO, mức độ dioxin trung bình chỉ 4.2 ppt (min: 0, max : 54.8).
    Tuy nhiên, một nhóm nghiên cứu thuộc Trường Đại học Yale đã chất vấn sự chính xác của các con số trên đây. Dùng số liệu thu thập từ Việt Nam, nhóm này khẳng định rằng mức độ dioxin trong cựu chiến binh cao hơn trung bình trong dân số đáng kể. Ngoài ra, cũng có thể giải thích bằng một giả thiết rằng các cựu chiến binh Mỹ có mức độ tích tụ cao và họ đã qua đời (nên đã làm cho con số trung bình trong nhóm cựu chiến binh thấp hơn các công nhân).
    Còn trong người Việt Nam thì thế nào ? Trong một nghiên cứu khoa học gần đây [8], Giáo sư Arnold Schecter thuộc Trường Đại học Texas (một người đã bỏ ra cả đời làm khoa học của ông để nghiên cứu tác hại của AO) đã đo lường độ tích tụ dioxin trong 100 cư dân ở Hà Nội (nơi không bị rải AO trong thời chiến tranh) và 100 cư dân ở Biên Hoà (từng bị rải AO nhiều nhất). Giáo sư Schecter kết luận rằng mức độ tích tụ dioxin trong cư dân Biên Hòa cao hơn mức độ dioxin trong người Hà Nội đến 135 lần (Nguyên văn : "A comparison, pooled sample from 100 residents of Hanoi, where Agent Orange was not used, measured blood TCDD levels of 2 ppt. TCDD levels of UP TO 271 ppt, a 135-fold increase, were found in Bien Hoa residents.") Con số này được giới truyền thông quốc tế loan tải rộng rãi như là một báo động. Tuy nhiên, sau khi đọc kỹ bài báo khoa học này, tôi có lí do để cho rằng đây là một con số cường điệu, và giới truyền thông đã hiểu sai. Thực ra, Giáo sư Schecter đã so sánh mức độ tích tụ tối đa ở Biên Hòa (271 ppt) với mức độ trung bình ở Hà Nội (2 ppt), và đây là một việc làm không nghiêm túc, vì cách làm này cũng giống như lấy chiều cao của một người Mỹ cao nhất nước Mỹ để so với chiều cao trung bình của dân số Việt Nam!
    Cách đây khoảng 6 năm, Giáo sư Schecter [9] và đồng nghiệp ở Việt Nam từng công bố một nghiên cứu mà trong đó họ đo độ tích tụ dioxin ở các tỉnh và thành phố như Quảng Ninh, Hà Nội, Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Đồng Nai, Biên Hòa, Sông Bé, Tây Ninh, Bến Tre, Sài Gòn, Hậu Giang, An Giang, Kiên Giang, v.v. Kết quả cho thấy mức độ tích tụ dioxin trong cư dân (khoảng 900 người) cư ngụ trong các vùng bị rải AO như sau :
    Trong máu : 12.6 ppt (tối thiểu : 3.4, tối đa : 32 ppt)
    Trong sữa : 7.5 ppt (tối thiểu : 1, tối đa : 17 ppt)
    Trong mô mỡ : 14.7 ppt (tối thiểu : 2, tối đa : 103 ppt)
    Trong nhóm cư dân không cư ngụ trong các vùng bị rải AO (khoảng 150 người), kết quả như sau :
    Trong máu : 2.2 ppt (tối thiểu : 1, tối đa : 2.9 ppt)
    Trong sữa : 1.9 ppt (tối thiểu : 1, tối đa : 2.1 ppt)
    Trong mô mỡ : 0.6 ppt (tối thiểu : 1, tối đa : 1.4 ppt)
    Bài báo này còn tính chỉ số trung bình cho mỗi tỉnh. Ở các tỉnh miền Bắc, mức độ tích tụ dioxin trung bình chỉ khoảng 2.2 ppt, miền Trung là 13.2 ppt, và miền Nam là 12.9 ppt. Tuy nhiên, mức độ không phải đồng đều như thế, có vài nơi cao hơn, và có nơi thấp hơn, trung bình. Ở miền Trung, các tỉnh như Đà Nẵng có mức độ tích tụ cao nhất (khoảng 19 ppt). Riêng ở miền Nam, các tỉnh sau đây có mức độ dioxin khá cao: Đồng Nai-Biên Hòa (28 ppt), Sông Bé (32), và huyện Trà Nóc (Hậu Giang) với mức độ tích tụ lên đến 33 ppt. Như vậy, dù Biên Hòa có mức độ tích tụ dioxin cao hơn các nơi khác trong nước, nhưng mức độ không quá báo động như 135 lần. Dựa vào số liệu của Giáo sư Schecter và theo sự ước đoán của người viết bài này, mức độ tích tụ dioxin ở Biên Hòa - Đồng Nai cao hơn Hà Nội khoảng 8,5 lần. Nhưng đó vẫn là một mức độ rất đáng quan tâm.
    Dioxin thường tích tụ trong sữa. Do đó, một số nhà nghiên cứu đã căn cứ vào sữa để ước tính độ dioxin trong dân chúng. Theo báo cáo "The American People's Dioxin Report", độ dioxin trong sữa tìm thấy ở Đà Nẵng là cao nhất thế giới (34 nanogramme dioxine/kg cân nặng), kế đến là Nhật và Đức (27 ng/kg), Canada (26 ng/kg), Mỹ (20 ng/kg), Sài Gòn (19 ng/kg). Hà Nội (9 ng/kg), Thái Lan và Cambodia có độ dioxin trong sữa thấp nhất (3 ng/kg) [10].
    Tác hại của dioxin trong thú vật
    Kết quả nghiên cứu cơ bản (trong tế bào) trên động vật như chuột cho thấy TCDD có khả năng gây nên một số ảnh hưởng đến giới tính, tuổi tác, và sự căng thẳng, kể cả gây ra ung thư, tổn hại đến hệ thống miễn nhiễm, gây ra tình trạng bất bình thường trong hệ thống tái sinh sản, tổn hại đến tế bào gan và hệ thống thần kinh, xuống cân. Trong chuột, các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng với một liều lượng thấp, dioxin vẫn có thể làm giảm khả năng sản ********* trùng, và do đó có ảnh hưởng đến khả năng sinh sản trong chuột. Ngoài ra, khi thí nghiệm trong ống nghiệm, các nhà nghiên cứu còn cho thấy dioxin có ảnh hưởng đến sự điều tiết của serotonin, một hormone có nhiệm vụ truyền tín hiệu đến hệ thống thần kinh và điều khiển mức độ ăn uống. Sự ảnh hưởng này cũng phù hợp với một số nhận xét trước đây cho thấy khi chuột bị nhiễm dioxin, chúng cũng bị chứng biếng ăn và mất cân.
    Trong vài năm gần đây, còn có một số nghiên cứu sự tương quan giữa dioxin và một số bệnh tật trên thú vật, chủ yếu là chuột. Khi chuột bị nhiễm dioxin ở một mức độ cao, gan của chúng trở nên lớn hơn, nhưng các nhà nghiên cứu không giải thích được hiện tượng này.
    Tác hại của dioxin trong con người
    Trong nghiên cứu y khoa, người ta phân biệt hai loại tương quan, mà tiếng Anh gọi là "association" và "linkage." Tuy theo cách dịch thông thường, hai danh từ này không khác nhau mấy, nhưng trong nghiên cứu y khoa, hai thuật ngữ này mang ý nghĩa rất khác nhau : association có thể hiểu là mối "liên hệ gián tiếp", và linkage là mối "liên hệ trực tiếp." Có thể lấy hai ví dụ sau để làm sáng tỏ hai quan niệm này : Nếu một yếu tố A ảnh hưởng đến yếu tố trung gian K, và K gây ra bệnh X, thì mối tương quan giữa A và X được xem là liên hệ gián tiếp; tuy nhiên nếu yếu tố A gây ra bệnh X mà không qua ảnh hưởng đến một yếu tố trung gian nào thì mối tương quan này được xem là liên hệ trực tiếp. Phần lớn những kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực dioxin và bệnh tật chỉ có thể xem là liên hệ gián tiếp, vì chưa ai có thể giải thích một cách chính xác cơ chế ảnh hưởng của dioxin ra sao. Thực ra, cũng cần nói thêm rằng đại đa số các vấn đề y khoa, kể cả mối liên hệ giữa ung thư và hút thuốc lá đều có thể cho là liên hệ gián tiếp.
    Dù những tác hại của dioxin đã được chứng minh khá rõ ràng trong chuột, nhưng trong con người thì nói một cách chung, vấn đề không đơn giản chút nào. Môi trường thử nghiệm trong chuột được các nhà nghiên cứu kiểm soát theo những tiêu chuẩn định sẵn trong các phòng thí nghiệm, nên kết quả thường chính xác. Nhưng sự chính xác luôn tùy thuộc vào điều kiện của môi trường. Nhưng trong nghiên cứu trên dân số hay một cộng đồng thì nhà nghiên cứu không có sự lựa chọn môi trường; nhà nghiên cứu không có quyền và cũng không thể nào bắt buộc người tham gia nghiên cứu phải sống trong một môi trường cố định. Trong thực tế, không có một cá nhân nào giống một cá nhân nào. Do đó, mức độ chính xác của kết quả nghiên cứu trong con người thường không cao. Vì sự thiếu chính xác này, các nhà nghiên cứu độc lập thường lặp lại các cuộc điều nghiên trước đây của đồng nghiệp xem có đạt được cùng kết quả hay không. Nếu nhiều cuộc nghiên cứu độc lập cho cùng một kết quả, các nhà nghiên cứu có đủ bằng chứng để kết luận. Nếu kết quả của nhiều nghiên cứu không nhất quán thì mối liên hệ, dù là gián tiếp hay trực tiếp, phải được xem là còn trong vòng nghi vấn.
    Trong hai mươi năm qua, ngoài cuộc khảo cứu trong các cựu quân nhân tham gia vào chiến dịch Ranch Hand, còn có một số nghiên cứu khác. Nhưng kết quả của các nghiên cứu này thường không nhất quán, và gây ra hoang mang, hiểu lầm trong công chúng. Quốc hội Mỹ đã ủy nhiệm cho Viện Y khoa (Institute of Medicine, trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ) duyệt xét và tóm tắt các kết quả nghiên cứu. Để làm việc này, Viện Y khoa thành lập một ủy ban khoa học (gọi là Committee to Review the Health Effects in Vietnam Veterans of Exposure to Herbicides) để xem xét, cân nhắc phương pháp và kết quả nghiên cứu và từ đó tổng kết thành một báo cáo cho chính phủ. Uỷ ban này gồm có 11 nhà khoa học từ các trường đại học và viện nghiên cứu trên toàn nước Mỹ, do Giáo sư Irva Hertz-Picciotto (thuộc Trường đại học North Carolina), một chuyên viên về y tế công cộng, chủ trì. Sau khi duyệt qua và cân nhắc hơn 50 nghiên cứu khác nhau có liên quan đến hóa chất dioxin và sức khỏe của cựu chiến binh được tiến hành trong vòng 20 năm qua, ủy ban đã soạn thảo thành một loạt sách, trong đó, có một cuốn tóm lược tác dụng của dioxin đến sức khoẻ [11]. Một vài nét chính của quyển sách này có thể tóm lược như sau :
    (a) Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đã có đầy đủ bằng chứng khoa học để kết luận rằng dioxin trực tiếp gây ra các bệnh sau đây : Soft-tissue sarcoma, Non-Hodgkin's lymphoma, bệnh Hodgkin [12], và bệnh ban clor (chloracne) [13]. Tháng 4 năm 2001, Viện Y khoa công bố một thông cáo báo chí mà trong đó các nhà nghiên cứu cảm thấy có đủ dữ kiện để có thể kết luận rằng con của các cựu quân nhân Mỹ bị nhiễm dioxin có tỷ lệ bị bệnh ung thư máu cao hơn trung bình.
    (b) Tuy nhiên, mối liên hệ giữa AO và một số bệnh vẫn còn nằm trong vòng nghi vấn, vì kết quả của các nghiên cứu vẫn chưa nhất quán. Những bệnh này là : ung thư hệ thống hô hấp (phổi, thanh quản, khí quản), ung thư tuyến tiền liệt (prostate cancer), myeloma, một số bệnh thần kinh cấp tính, và bệnh nứt đốt sống (spina bifida).
    (c) Ngoài ra, Viện Y khoa cảm thấy chưa có đầy đủ bằng chứng khoa học để kết luận về mối liên hệ giữa dioxin và các bệnh sau đây : ung thư gan, ung thư mũi, ung thư xương, ung thư vú, ung thư hệ thống tái sản sinh trong phụ nữ (tử cung, noãn xào), ung thư bọng, ung thư thận, ung thư bộ tinh hoàn, dị thai, sanh thai chết (Neonatal/infant death and stillbirths), trọng lượng hài nhi thấp (Low birthweight), bất bình thường chỉ số tinh trùng và hiếm muộn, rối loạn hệ thống phối hợp (coordination dysfunction), các triệu chứng thần kinh ngoại vi kinh niên, các bệnh thuộc hệ thống nội tiết và tiêu hóa (như tiểu đường, loét, thay đổi enzyme của gan, bất bình thường lipid), các chứng miễn nhiễm, bệnh tim, bệnh đường hô hấp, và ung thư da.
    (d) Ngược lại, các nhà nghiên cứu thuộc Viện Y khoa cũng thêm rằng họ chưa có đủ bằng chứng để loại bỏ mối liên hệ giữa dioxin và các bệnh sau đây : ung thư dạ dày, ung thư tuyến tụy, ung thư ruột, ung thư trực tràng, và ung thư não (brain tumors).
    Trong một cuộc khảo cứu công phu ở , các nhà nghiên cứu thuộc Trường Đại học Milano-Bicocca (Ý) và Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Y tế (Mỹ) đã theo dõi tỷ lệ sinh sản suốt 25 năm liền trong vùng Seveso (Ý), nơi có một hãng sản xuất thuốc diệt cỏ bị cháy, nổ tung, và thải ra môi trường chung quanh khoảng 30 kí lô dioxin vào năm 1977. Họ khám phá rằng những đàn ông bị nhiễm dioxin có xác suất sinh con trai thấp hơn những đàn ông không bị nhiễm dioxin (hay bị nhiễm nhưng ở mức độ thấp). Trong các người cha không sống trong vùng bị nhiễm hay sống trong vùng bị nhiễm nhưng có mức tích tụ dioxin trong máu dưới 16 ppt, tỷ lệ sinh con trai là khoảng 56%; và trong các người cha sống trong vùng bị nhiễm với mức tích tụ dioxin trong máu từ 16 ppt hay cao hơn, tỷ lệ sinh con trai chỉ 44% [14].
    Vài nhận xét cá nhân
    Trong y học, một khi một công thức thuốc được phát triển, người ta phải làm thử nghiệm về sự an toàn của thuốc trên thú vật như chuột cực kỳ kỹ càng trước khi đem ra dùng cho bệnh nhân. Ngay cả thử nghiệm trên chuột, các nhà khoa học phải được phép của hội đồng y đức trước khi để tiến hành nghiên cứu. Trong khi đó, quyết định dùng chất màu da cam chứa dioxin trong chiến tranh Việt Nam chỉ do một người quyết định (Tổng thống Kennedy) và nhận được sự ủng hộ của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Người dân Việt Nam hoàn toàn không biết gì đến quyết định này. Vì thế, có thể nói rằng quyết định dùng AO ở Việt Nam là một việc làm tàn nhẫn và vô nhân đạo. Nó thể hiện một thái độ ngạo mạn của người Mỹ coi thường mạng sống con người Việt Nam và môi trường Việt Nam. Nó còn cho chúng ta thấy sự thiển cận (hay bất lực) của chính quyền miền nam Việt Nam lúc đó. Năm 1964, Liên đoàn Khoa học gia Mỹ (Federation of American Scientists) yêu cần chính phủ Mỹ ngưng dùng AO ở Việt Nam, vì những tác hại của nó đến đồng lúa và con người [15]. Tháng 1 năm 1966, Giáo sư John Edsall thuộc Trường Đại học Harvard cũng công kích quyết định của Mỹ và cho đó là một hành động dã man, chỉ có hại cho người lính và thường dân [16].
    Đến nay, chiến tranh đã chấm dứt hơn một phần tư thế kỷ, nhưng ảnh hưởng của AO và dioxin vẫn còn kéo dài. Trong vòng hai thập niên qua, đã có nhiều nghiên cứu về tác hại của dioxin trong sức khỏe, nhưng đại đa số các nghiên cứu này nhắm vào đối tượng cựu quân nhân Mỹ và các công nhân trong hãng xưởng Mỹ; chỉ có một số ít dữ kiện được thu thập từ đồng bào Việt Nam. Dù kết quả nghiên cứu có khi không nhất quán, nhưng chúng ta đã có đủ bằng chứng khoa học để kết luận rằng trong các cựu quân nhân Mỹ, dioxin là một độc chất nguy hiểm, có khả năng gây ra ung thư tế bào và ung thư máu. Nhưng chúng ta chưa đủ bằng chứng để kết luận rằng dioxin gây ra dị thai, một quan tâm lớn của công chúng. Thực vậy, trong một báo cáo khoa học mật được đệ trình lên Quốc hội Mỹ (nhưng đã bị tiết lộ ra ngoài báo chí gần đây), các nhà khoa học Mỹ đã khẳng định rằng dioxin là một độc chất nguy hiểm vào hàng số một do con người tạo ra và biết đến. (Tưởng cần nhắc lại là trước đây, EPA chỉ phân loại dioxin như là một chất "có thể gây ra ung thư".)
    Với gần 72 triệu lít chất khai quang rải xuống Việt Nam, chúng ta ắt phải nghĩ rằng Việt Nam là môi trường lý tưởng để nghiên cứu về tác hại của AO và dioxin. Song, thực tế trái ngược : các dữ kiện từ Việt Nam về AO và dioxin chỉ bằng một phần nhỏ so với phía Mỹ. Điều này có thể hiểu được một phần nào vì, sau 1975, Việt Nam có hàng trăm vấn đề y tế cấp bách phải đối phó, thiếu ngân sách, và phương tiện nghiên cứu, nên đã bỏ qua một cơ hội quan trọng để thu thập dữ kiện. Số liệu về AO và dioxin từ Việt Nam chỉ được phân tích gần đây, kể từ ngày Mỹ bỏ lệnh cấm vận Việt Nam. Qua các báo cáo khoa học được công bố trên các tạp san y học quốc tế gần đây, chúng ta có thể kết luận rằng dioxin vẫn còn tồn tại trong môi trường Việt Nam ở một mức độ có hại cho sức khỏe. Nghiên cứu gần đây do công ty Hatfield (Canada) thực hiện cho thấy mức độ tích tụ dioxin trong hải sản và mô động vật (gà, heo, bò) ở miền trung và nam Việt Nam vẫn còn cao. Điều này chứng tỏ rằng dioxin ở Việt Nam đã xâm nhập vào nguồn thực phẩm. Theo tiêu chuẩn ở các nước Tây phương, một tình trạng như thế có thể được xem là khủng hoảng y tế công cộng. Tuy nhiên, giới y tế Việt Nam vẫn chưa có kế hoạch nào cụ thể để giải quyết vấn đề !
    Đã từ lâu, giới y học Tây phương và Việt Nam đã ghi nhận tỷ lệ dị thai ở miền trung Việt Nam cao hơn trung bình, nhưng ý kiến về nguyên nhân thì khác nhau. Phía Việt Nam tin rằng AO và dioxin là nguyên nhân, nhưng phương pháp nghiên cứu và cách xử lý số liệu của họ không được chấp nhận là nghiêm túc và khoa học. Do đó, mối liên hệ giữa dị thai và dioxin ở Việt Nam vẫn còn nằm trong vòng nghi vấn, vì bằng chứng chưa đầy đủ. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là dioxin không phải là nguyên nhân gây ra dị thai. Tất nhiên, bằng chứng chưa đầy đủ không có nghĩa rằng không có bằng chứng ("the absence of evidence does not mean that the evidence is absent.") Thực vậy, một nhóm nghiên cứu thuộc Trường Đại học Texas vừa được chính phủ Mỹ cấp một ngân sách $874,000 để nghiên cứu về mối liên hệ quan trọng này.
    Trái lại với nhiều dư luận báo chí, chính phủ Việt Nam chưa bao giờ chính thức đòi chính phủ Mỹ bồi thường những thiệt hại mà chiến dịch Ranch Hand gây ra. Nhưng chính phủ Mỹ đã và đang bồi thường một số cựu chiến binh Mỹ từng tham gia vào chiến dịch này. Chính phủ Mỹ cũng chưa có viện trợ hay kế hoạch nào để làm sạch, tẩy xóa dioxin trong môi trường Việt Nam. Thái độ này đã được giới khoa bảng Mỹ chất vấn, và chính phủ Mỹ giải thích rằng họ cần phải có bằng chứng khoa học trước khi thảo luận vấn đề bồi thường. Suy cho cùng, đây cũng không hẳn là một thoái thác của Mỹ, mà họ hành động một cách duy lí. (Chỉ đáng trách là phía Việt Nam đã không thừa cơ hội để thu thập dữ kiện một cách khoa học làm bằng chứng.) Để tỏ thiện chí của mình, gần đây, chính phủ Mỹ đã thỏa thuận và cung cấp một ngân sách cho các nhà khoa học Mỹ cùng hợp tác với các nhà khoa học Việt Nam để nghiên cứu tác hại của AO và dioxin ở Việt Nam. Hi vọng trong tương lai, kết quả của nghiên cứu này sẽ làm cho vấn đề sáng tỏ hơn và tránh mọi suy luận theo cảm tính.
    Bác sĩ Nguyễn Văn Tuấn
    Viện nghiên cứu y khoa Garvan
    Darlinghurst, Úc
    Chú thích :
    1. Tên gọi "Agent Orange" xuất phát từ những thùng phuy có khoanh màu cam. Do đó, người ta quen gọi là "Agent Orange." Thực ra, trong thời chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã dùng đến 15 hóa chất khác nhau để khai quang. Các hóa chất khác cũng từng được nhận diện bằng màu như thế, chẳng hạn như "Agent White," "Agent Blue," "Agent Purple," "Agent Pink," và "Agent Green." Trong thời gian 1962-1964, Agent Purple (2,4,-D and 2,4,5,-T), Agent Green (2,4,5-T), và Agent Pink (2,4,5-T) được dùng; trong thời gian 1965-1970, Agent Orange (2,4,-D và 2,4,5-T) là chất được dùng chính.
    2. Theo tài liệu NSAM 115, subject : Defoliant Operations in Vietnam, Nov. 30, 1961. Trích từ "Ranch Hand : Herbicides in Southeast Asia 1961-1971" của Tiến sĩ William A. Buckingham, Jnr.
    3. Theo tài liệu Record, 4th SECDEF Conference, HQ CINCPAC, March 21, 1962. Trích từ "Ranch Hand : Herbicides in Southeast Asia 1961-1971" của Tiến sĩ William A. Buckingham, Jnr.
    4. Xem bài xã luận "New IOM Report links Agent Orange exposure to risk of birth defect in Vietnam Vets' children," do Tiến sĩ Joan Stephenson viết trong Tạp san Journal of the American Medical Association (JAMA), số 275, ra ngày 10 tháng Tư 1996, trang 1066-1067.
    5. Xem bài xã luận "Agent Orange : exposure and policy," do Tiến sĩ Michael Gough viết trong Tạp san American Journal of Public Health, năm 1991; số 81 : trang 289-290.
    6. Theo báo cáo của Công ty Tư vấn Hatfield (Canada), #201-1571 Bellevue Avenue, West Vancouver, BC V7V 1A6, Canada.
    7. Xem các bài báo sau đây : "Exposure to Agent Orange and occurrence of soft-tissue sarcomas or non-Hodgkin lymphomas : an ongoing study in Vietnam," Tập san Environmental Health Perspective 1998 Apr;106 Suppl 2 :671-8; "Serum dioxin, insulin, fasting glucose, and *** hormone-binding globulin in veterans of Ranch Hand," Tập san Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism 1999 May;84(5) :1540-3; "Vietnam veterans' risks for fathering babies with birth defects," Tập san JAMA 1984 Aug 17;252(7) :903-12.
    8. "Recent dioxin contamination from Agent Orange in residents of a southern Vietnam city," Tập san Journal of Occupational Environmental Medicine 2001; May; 43(5) :435-43.
    9. "Agent Orange and the Vietnamese : the persistence of elevated dioxin levels in human tissues," Tập san American Journal of Public Health 1995 Apr;85(4) :516-522.
    10. Trích trong bài báo "Exposure assessment : Measurement of dioxins and related compounds in human tissues," của A. Schecter, in trong sách "Dioxins and Health," Arnold Schecter, e***or, pp. 449-486. New York : Plenum Press, năm 1994.
    11. Xin xem "Veterans and Agent Orange : Update 2000" do Committee to Review the Health Effects in Vietnam Veterans of Exposure to Herbicides (Third Biennial Update) soạn thảo, và Institute of Medicine xuất bản năm 2001.
    12. Bệnh non-Hodgkin's lymphoma là một bệnh mà các tế bào ung thư được tìm trong hệ thống bạch huyết.
    13. Ban clor là một bệnh ngoài da giống như trứng cá (viêm nang lông). Bệnh Hodgkin là một bệnh ác tính của các mô máu trắng, thường có đặc điểm là một hay nhiều nhóm hạch máu trắng lớn thấy ở cổ, nách, háng và ngực hay bụng, có thể gồm cả lá lách, và tủy xương.
    14. Bài báo nghiên cứu của Giáo sư Paolo Mocarelli và đồng nghiệp có tên là "Paternal concentration of dixin and *** ratio of offspring", công bố trên tạp chí y khoa Lancet, số 355, ra ngày 27 tháng 5, 2000, trang 1858-1863.
    15. "FAS Statement on Biological and Chemical Warfare," Bulletin of the Atomic Scientists (Oct. 1964), pp. 46-47.
    16. Có thể xem "Scientists Protest Viet Crop Destruction," Tập san Science, Jan. 21, 1966, p. 309; và bài báo "5000 Scientists Ask Ban on Gas in Vietnam," Washington Post, Feb. 15, 1967, p. A-1.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  3. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Gà, lợn Bỉ và chất Da cam tại Việt Nam
    Tính độc của Dioxine và trách nhiệm của con người
    Phạm Quang Thọ
    LTS. Hè vừa qua, tài liệu quân sự Mỹ được giải mật cho biết trong một tai nạn ở căn cứ không quân Biên Hoà vào cuối thập kỷ 1960, khoảng 20 000 lít chất diệt cỏ Da cam đã chảy vào lòng đất.Sau khi sự kiện này được biết, một đoàn các nhà khoa học Mỹ-Việt đã phân tích mẫu máu ở những người dân 20 làng chung quanh căn cứ. Trong 19 trên số 20 mẫu đó, tỷ lệ dioxine cao hơn hẳn tỷ lệ trung bình, chứng minh độ bền rất cao của chất độc này, và do những hậu quả lâu dài mà nó gây ra, một lần nữa đòi hỏi tiến hành những nghiên cứu nghiêm chỉnh để có thể cứu trợ có hiệu quả hàng chục ngàn nạn nhân còn sống sót của chất Da cam và con em của họ.
    ý thức về tác hại của chất Da cam không phải là được chia sẻ rộng rãi. Những cơ quan nghiên cứu khoa học thường nhận được khuyến cáo để tránh nói công khai một số điều... Trong trường hợp chất dioxine, tạp chí Actualité Chimique, số tháng 12.1999, đã đăng một bài viết của giáo sư Phạm Quang Thọ nhân vài tin thời sự lúc đó. Tác giả đã vui lòng lược dịch bài viết cho DĐ.
    Tháng 2/99, gà Bỉ bị nhiễm dầu pyralène (thứ dầu dùng trong máy biến thế) cũ, lão hoá, giàu các hoá chất PCB (polychlorobiphényle) và PCDD (polychloro dibenzo dioxine, nói tắt là dioxine). Tháng 6/99, lợn Bỉ bị nhiễm dioxine từ bột ăn gốc động vật sản xuất tại Đức. Mức trầm trọng của hai cuộc khủng hoảng này buộc chính phủ Bỉ phải ra lệnh - ngày 30/7/99 - huỷ tất cả các khối gà và lợn bị nhiễm đã đông lạnh.
    Tháng 5/1998, Tổ chức Y tế quốc tế (OMS) khuyên không nên hấp thụ quá từ 1 tới 4 pg(1)/kg trọng lượng thân thể. Nhưng, ra quy định mức chuẩn mới là bước đầu, bắt công nghiệp, thương mại tôn trọng mức chuẩn rất khó khăn về mặt kinh tế : phân tích xác định lượng dioxine mất khoảng 5 000 FF một mẫu (năm 1995 giá đó đạt tới 12 000 FF).
    Dioxine - nguồn gốc và tác hại, lừa gạt và sự thật
    Thuốc trừ cỏ - rụng lá như chất Da cam (Agent Orange) sản xuất trong công nghiệp có từ 0,1 tới 60 phần triệu (ppm, partie par million) dioxine. Trong cuộc chiến tranh Việt - Mỹ, từ 1962 tới 1971, dưới các chính quyền J.F. Kennedy, L.B. Johnson với bộ trưởng quốc phòng R.S. McNamara (tới 1968), quân đội Mỹ đã dùng chất rụng lá Da cam rất hiệu lực này. Thật ra, ngay từ năm 1950, ở xí nghiệp Boehringer (Hambourg, Đức), một bác sĩ khoa da đã nhận thấy tính độc của dioxine trên thân thể một vài công nhân bị sưng phồng kinh niên. Tuy vậy, tới 1979, ở Đức cũng như ở Mỹ, tính độc của dioxine bị giữ kín, vì vậy công nhân, nghiên cứu gia cũng như những người có trách nhiệm chính trị không ai được biết là công nghiệp hoá vẫn tiếp tục sản xuất chất này. Chỉ tới năm 1983, thuốc trừ cỏ - rụng lá loại Da cam mới bị cấm sản xuất. Độ bền của dioxine rất cao, chỉ bị huỷ khi nhiệt độ lên quá 800°C (vì vậy, đốt rác nội trợ, rác bệnh viện và rác hoá rất nguy hiểm), chỉ tan trong mỡ. Dioxine có khả năng nhập vào thân thể qua da, và nhất là qua dây chuyền thực phẩm (trên 95 % qua thịt, cá, sữa, v.v.). Ngay với nồng độ rất nhỏ, hiệu ứng tích luỹ của dioxine tác động như chất độc lì (poison dormant). Chính vì tính chất tan trong mỡ, dioxine không bị tự nhiên thải ra nên nó tích tụ trong mô mỡ phụ nữ, trung bình thân thể nữ giàu mô mỡ 20 % hơn nam giới. Cũng vì vậy, dioxine nhập vào thai.
    Mặc dầu nhiều công trình nghiên cứu về dịch tễ trong khoảng hai năm 1993-1994 đã chứng minh rõ ràng khả năng gây ung thư của dioxine, bản báo cáo năm 1994 của Uỷ ban nghiên cứu áp dụng của Viện hàn lâm khoa học Pháp vẫn khẳng định rằng " hiện nay không có một bằng chứng nào cho phép ta coi dioxine là một hợp chất nguy hiểm cho sức khoẻ của quần chúng ". Nhẹ dạ và/hay thiếu khả năng ? Hay tệ hơn nữa, thiếu trung thực và theo đuôi Mỹ (quan điểm Mỹ trước 1991). Thật tội nghiệp cho Hàn lâm viện ! Sự việc này giống như cách phát ngôn cho dân chúng yên tâm của g.s. Pellerin sau tai nạn Tchernobyl (26/4/1986) : mây phóng xạ (bị cản tại biên giới nên) không ô nhiễm đất Pháp !
    Da cam, tác chiến " Công nhân nông nghiệp " tại Việt Nam và cựu chiến binh Mỹ
    Trong chiến tranh Mỹ-Việt, cuộc rải chất Da cam bằng máy bay có mật danh quân sự Operation Ranch Hand (Công nhân nông nghiệp), được J.F. Kennedy phê chuẩn năm 1962. Mục tiêu chính nhưng không độc nhất - cả mùa màng cũng bị phá huỷ - là diệt hết cây cỏ cản trở các cuộc thả bom đánh phá đường Hồ Chí Minh. Chất Da cam (mang tên mã này vì màu băng sơn bao quanh thùng đựng) hiệu lực nhất trong số 15 chất diệt cỏ - rụng lá quân Mỹ đã dùng. Các chất khác mang tên những màu tía, xanh lá cây, hồng..., toàn màu sắc đẹp của cầu vồng.
    Từ 1962 tới 1971, máy bay cánh quạt Fairchild C-123 của Ranch Hand, của đội bay biệt kích thứ 12 đã rải hơn 72 triệu lít thuốc diệt cỏ gồm 42 triệu lít Da cam, không kể khối lượng rải bằng máy bay trực thăng, xe vận tải, thuyền chiến... Theo nồng độ dioxine của Da cam, Mỹ đã rải khoảng 170 kg dioxine nguyên chất trên 20% diện tích miền Nam.
    Tuy năm 1969, Viện y tế quốc gia Mỹ (National Institute of Health) đã phát hiện nhiều dị tật trên thân thể chuột thí nghiệm, năm 1971 tác chiến Ranch Hand mới bị ngừng.
    Tổng cộng 9,1 triệu binh sĩ Mỹ đã tham chiến tại bán đảo Đông Dương, trong số đó 2,6 triệu có khả năng bị nhiễm dioxine, chưa kể lính Nam Triều Tiên, Thái, Philipin, Úc, Canada...
    Da cam, Viện hàn lâm và Phòng bảo vệ môi trường Mỹ
    Theo kết luận của công trình nghiên cứu giao cho một nhóm " độc lập " (dấu ngoặc kép của một chuyên gia Mỹ) trong hai năm, năm 1974 Viện hàn lâm Mỹ (NAS) đã bác bỏ mọi hậu quả tai hại của chất diệt cỏ cho môi trường và con người. Bác sĩ G. Kistiakowsky, phó chủ tịch NAS, cựu cố vấn của tổng thống Eisenhower, là nhân vật duy nhất đã công khai phản đối kết luận này (trong một bài báo đăng trên tờ Washington Post). Năm 1991, Phòng bảo vệ môi trường Mỹ (EPA) công nhận là 10 năm trước đã đánh giá quá thấp mức độ tai hại của dioxine...
    Trên thực tế, nhiều điểm đã rõ :
    s Tỷ lệ chết vì ung thư phổi, ung thư hệ thống bạch huyết rất cao trong lính thuỷ đánh bộ Mỹ từng tham chiến ở VN.
    s Kết quả nghiên cứu trong công nghiệp Mỹ và châu Âu cho thấy khả năng gây ung thư của dioxine.
    s Tháng 5.1984, bảy nhà sản xuất thuốc diệt cỏ - Dow Chemical, Monsanto, Uniroyal, Hercules, Diamond Shamrock, Thompson Chemical, và T.H. Agriculture - đã phải trả 180 triệu USD bồi thường cho các cựu chiến binh Mỹ bị nhiễm độc (riêng nhóm luật sư đã bỏ túi 100 triệu USD tiền thù lao !)
    Từ 1996, Uỷ ban xét lại hậu quả của chất Da cam đối với cựu chiến binh, thuộc Viện Y khoa Mỹ (IoM) đã kết luận là bằng chứng thực nghiệm đã đủ để xác định vai trò của dioxine gây ra một số bệnh ung thư như sacom mô mềm, lymphôm (ung thư mô tạo bạch huyết), ung thư gan, hệ thống hô hấp(2)..., dù thời gian ẩn của những bệnh này dài hơn 20 năm.
    Năm 1996, bộ Cựu chiến binh Mỹ (DVA) đã bồi thường cho 3 678 cựu binh, trên tổng số 75 084 hồ sơ khiếu nại về hậu quả của chất Da cam. DVA ước tính khoảng 3 000 con cái của những cựu binh Mỹ đã bị chứng dị tật bẩm sinh spina bifina (nứt cột sống, thoát vị mạng não và đôi khi thoát vị tuỷ sống).
    Theo bác sĩ A. Schecter, chuyên gia y tế tại Trung tâm Y học của đại học quốc gia New York, còn cần nhiều thời gian và tiền bạc để chứng minh quan hệ nhân quả giữa dioxine và những dị tật bẩm sinh - spina bifina, biến dạng cơ quan sinh dục, dị hình bẩm sinh... Vì vậy, năm 1998, EPA đã cấp kinh phí cho Trung tâm Y học của đại học Texas - Houston để nghiên cứu về những hậu quả lâu dài của chất dioxine đối với con cái của các cựu chiến binh. Đây cũng là những nghiên cứu đầu tiên tập trung vào những nữ binh (khoảng 7500 người), vì nữ giới tích luỹ diowine trong mô mỡ nhiều hơn nam.
    Da cam và Việt Nam sau hoà bình
    Tháng 11. 1983, tại Hà Nội, bộ Y tế Việt Nam đã tổ chức hội nghị quốc tế lần thứ hai về Chất diệt cỏ dùng trong chiến tranh Việt - Mỹ : ảnh hưởng lâu dài đến con người và môi trường. Hội nghị đã quy tụ một số lớn chuyên gia nghiên cứu về chất Da cam. Vì những hiệu ứng tồn dư (rémanent) và lâu dài, thông qua môi trường và dây chuyền thực phẩm, có thể đợi hơn 20 năm sau mới xuất hiện, những người dân sống trong các vùng bị rải chất làm rụng lá đã tiêu thụ thực phẩm bị nhiễm độc trong rất nhiều năm trời mà không biết. Vì vậy, mức tích luỹ dioxine tại đây cao hơn nhiều so với mức hấp thụ ngắn hạn của cựu chiến binh Mỹ.
    Kết quả phân tích tháng 5.1995 cho biết tỷ lệ dioxine trong thân thể của những người sống trong các vùng bị rải thuốc Da cam cao hơn gấp 900 lần tỷ lệ tìm thấy trong những người dân miền bắc. Theo các giáo sư Hoàng Đình Cầu và Lê Cao Đài, có khoảng 70 000 người lớn và từ 200 đến 300 ngàn trẻ em Việt Nam là nạn nhân của những hiệu ứng lâu dài của chất Da cam. Tại nhà hộ sinh bệnh viện sản phụ Từ Dũ (TP HCM), bác sĩ Nguyễn Ngọc Phượng, trưởng khoa phụ, nhận thấy có hơn 2 % trẻ sơ sinh bị dị tật, và rất ít sống sót. Cũng tại đây, tỷ lệ trẻ đẻ non lên đến 18 % hơn gấp đôi trung bình cả nước (8%). Bệnh viện đã đón nhiều khách Mỹ tới thăm, nhận nhiều lời hứa giúp đỡ nhưng rất ít trợ cứu. Dưới các chính quyền Ford, Carter, Reagan, Bush, đây là những rào cản chính trị khó vượt.
    Đây là vài con số trích trong bản báo cáo của tỉnh Hóc Môn gửi bộ Lao động, Thương binh và Xã hội vào tháng 7.1999 : trong số 1070 trẻ có dị tật bẩm sinh, 177 đã chết, 148 dị dạng, 243 liệt và 192 bị bệnh tâm thần...
    Bác sĩ A. Schecter, đã qua Việt Nam 14 lần, nhận thấy trong sữa mẹ Việt Nam tỷ lệ dioxine lên đến 1800 ppt (partie par trillion - một phần tỷ), bằng 450 lần tỷ lệ đo trong sữa mẹ và máu Mỹ. Tuy vậy, ông cho rằng các số liệu tại VN thiếu tính chính xác để gán một cách dứt khoát cho dioxine trách nhiệm gây ra các dị tật bẩm sinh.
    Ngày 27.7.1999, bộ Cựu chiến binh Mỹ thông báo rằng những nữ binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam, có con bị dị tật sẽ được chính phủ bồi thường...
    Trong chuyến đi thăm Làng Hữu nghị Vân Canh (huyện Hoài Đức, Hà Tây) tháng 1 năm 1999, ông Th. Corey, phó chủ tịch hội cựu binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, đã thông báo là chính phủ Mỹ sẽ mở ra một ngân quỹ 1,5 triệu đôla (thật quá hà tiện) để đóng góp vào nghiên cứu các hậu quả lâu dài của dioxine.
    Còn thảm hoạ môi trường ở các vùng nam trung bộ, Huế và miền nam ? Bom đạn và thuốc trụi lá đã phá huỷ hơn 2 triệu hecta rừng, gây sói mòn và khô cằn đất, diệt chủng nhiều loại muông thú và cây cỏ. Chương trình phục hồi môi sinh do giáo sư Võ Quy đưa ra năm 1985 đã cho phép trồng lại từ 120 tới 200 ngàn hecta rừng mỗi năm. Những người tình nguyện được nhà nước cấp từ 20 tới 50 hecta đất trọc để trồng lại rừng. Sinh viên nông nghiệp, quân đội được huy động để trồng lại các đồi trọc và rừng sú vẹt bị trụi. Với chương trình này, Việt Nam hy vọng tới đầu thế kỷ 21 sẽ phục hồi được khoảng 50 % rừng bị phá huỷ. Một dấu hiệu tốt là tại vài khu bảo tồn, chim di trú đã trở lại...
    Suốt 20 năm, để khỏi phải bồi thường những cựu chiến binh bị bệnh tật và/hoặc có con cái bị dị tật bẩm sinh spina bifina, một số quan chức cao cấp Mỹ đã - tuân lệnh trên - giấu giếm hoặc xuyên tạc những bản báo cáo khoa học cảnh báo về tính độc lâu dài của dioxine. Và mặc dầu chính đô đốc Zumwalt(3), người trực tiếp trách nhiệm các cuộc rải thuốc rụng lá ở miền nam, và Hội cựu chiến binh Mỹ đều nhất trí là phải cấp tốc tiến hành nghiên cứu hậu quả lâu dài của dioxine - ngay tại Việt Nam, với sự cộng tác của các nhà khoa học Việt Nam -, cho tới nay chính quyền Mỹ vẫn chưa đáp ứng gì...
    Tất nhiên, tại châu Âu, với những vi vết dioxine trong thịt lợn, gà, tình trạng đâu có tới mức nghiêm trọng như trên.Nhưng ta không nên quên hiệu ứng luỹ tích và lì ẩn của chất độc ghê gớm này. Không nên lo sợ quá đáng, nhưng cũng không nên tự dối mình bằng những lời lẽ trấn an xuẩn ngốc... vì dioxine không làm cho người ta chết ngay, nhưng 20, 30 năm sau...! !
    Phạm Quang Thọ
    Giám đốc nghiên cứu CNRS
    --------------------------------------------------------------------------------
    Chú thích :
    1/ 1 pg (picogramme) = 10-12g.
    2/ Ung thư và viêm gan vì nhiễm dioxine vừa được chính phủ Mỹ công nhận (tháng 5.2000)
    3/ Con trai ông, cựu thiếu tá hải quân trong chiến tranh Việt Nam đã chết vì ung thư do nhiễm chất Da cam, cháu nội bị dị tật bẩm sinh.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​

Chia sẻ trang này