1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Góc tác phẩm văn học Nga

Chủ đề trong 'Nga (Russian Club)' bởi Sans_souci, 05/08/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. conhuighe

    conhuighe Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    0
    Chương 29 vũ hội
    Âm nhạc nổi lên. Tất cả mọi người đều nhảy. Nhanh nhảu nhảy với Sáo sậu, Biết tuốt với Bạch tuyết, Cáu kỉnh với cô én và
    -thật là không ai ngờ
    -Thuốc viên nhảy với Mật ngọt. Mật ngọt cũng đến dự hội khiêu vũ. Cô không mặc chiếc bờ-lu trắng thường ngày mà lại bận một cái áo hoa dài, nom chả giống cô Mật ngọt nghiêm nghị ở bệnh viện một tí nào. Một tay đặt lên vai Thuốc viên, cô mỉm cười bảo chú:
    -Cậu phải thừa nhận rằng các phương pháp chữa bệnh của chúng tôi hơn đứt các phương pháp của cậu. Chỉ nội một việc dùng mật bôi vào các vết thương sầy da rách thịt, tím bầm hay cả áp xe nữa cũng đã hiệu nghiệm lắm rồi. Thật là thứ thuốc sát trùng rất tốt, hễ bôi vào là không mưng mủ được nữa. Bác sĩ Thuốc viên đáp:
    -Tôi không thể nào đồng ý với cô được. Phải lấy i-ốt mà bôi vào các vết thương sầy da rách thịt chứ. I-ốt là thuốc sát trùng tuyệt diệu, bôi vào là tuyệt đối không mưng mủ.
    -ít ra thì cậu cũng phải thừa nhận rằng i-ốt đốt cháy da cháy thịt, còn dùng mật thì không đau đớn gì chứ.
    -Tôi đồng ý là chữa bằng mật có thể có hiệu nghiệm đối với các cô, chứ không phải là đối với bọn con trai chúng tôi đâu. Mật ngọt ngạc nhiên:
    -Tại sao vậy?
    -Cô chả vừa nói là chữa như vậy thì không đau đớn là gì.
    -Thế cậu muốn làm cho người ta đau à?
    -Nhất định!
    -Thuốc viên đáp.
    -Nếu có cậu nào nhảy hàng rào bị sớt chân sớt cẳng thì phải bôi i-ốt vào cho nó đốt da đốt thịt đi: có thế thì cậu ta mới nhớ đời rằng trèo hàng rào là rất nguy hiểm và sẽ cạch không làm thế nữa. Mật ngọt nói:
    -Không leo hàng rào thì cậu ta sẽ trèo lên mái nhà và ngã gãy cổ thì sao?
    -Lúc đó chúng tôi sẽ lại bôi i-ốt vào đầu cậu ta và cậu ta sẽ nhớ mãi rằng trèo lên mái nhà cũng rất nguy hiểm. Do đó, i-ốt có tác dụng giáo dục rất lớn. Mật ngọt đáp:
    -Người thầy thuốc phải làm dịu bớt nỗi đau khổ của bệnh nhân chứ không phải là có nhiệm vụ giáo dục họ. Mà i-ốt thì chỉ làm cho họ đau đớn thêm thôi. Thuốc viên tuyên bố:
    -Người thầy thuốc phải quan tâm đến đủ các mặt. Dĩ nhiên là khi chữa cho con gái thì không được nghĩ ngợi gì hết, nhưng khi chữa cho tụi con trai... Mật ngọt ngắt lời chú:
    -Nói chuyện khác đi! Không thể nhảy với cậu được nữa!
    -Tôi cũng không thể nhảy với cô được nữa đâu!
    -Cậu không được lịch sự lắm đâu đấy!
    -Người ta cứ bao biện những ý kiến vớ vẩn trước mặt tôi thì tôi lịch sự làm sao được.
    -Chính cậu bao biện những ý kiến vớ vẩn thì có! Cậu tự cho cậu là thầy thuốc ư? Cậu chỉ là đồ lang băm hạng bét thôi!
    -Còn cô... cô!... Bác sĩ Thuốc viên cáu sườn đến nỗi không nói nên lời nữa. Chú đứng sững lại giữa đám đông đang nhảy, miệng chú lắp bắp hoài làm người ta cứ ngỡ chú là con cá bị quẳng khỏi mặt nước. Từng cặp, từng cặp lướt qua va phải chú và hích vào người Mật ngọt. Cô kéo tay áo chú:
    -Chúng ta nhảy đi! Sao cậu lại đứng lại thế? Chúng mình làm cản trở họ đấy. Chú nhún vai. Hai người lại lặng lẽ nhảy. Nhưng rồi đột nhiên cuộc tranh luận về phương pháp chữa bệnh lại nổi lên. 157 158 Tròn xoay nhảy với Cun cút. Câu chuyện của họ thật khác hẳn. Tròn xoay hỏi:
    -Cô có thích ăn kẹo không? Cun cút đáp:
    -ồ, có chứ. Thế còn cậu?
    -Tôi cũng thế. Nhưng tôi thích bánh ga tô hơn cả.
    -Còn tôi thì thích ăn kem. Bu loong nhảy với Sóc con. Sóc con nói:
    -Tôi cứ mơ ước là được học lái xe ô-tô. Nhiều cô bạn tôi đã học lái được rồi, tôi cũng sẽ học được thôi. Bu loong đáp:
    -Không phức tạp gì lắm đâu. Trước hết phải mở máy rồi dận ga... Mít đặc nhảy với Mắt xanh. Nói là nhảy nhưng thực ra chú cứ loi choi như con dê ấy, chú giẫm hoài lên chân cô bạn và chen lấn tất cả mọi người. Cuối cùng, cô bảo chú:
    -Ta ngồi nghỉ thì tốt hơn. Hai người ngồi xuống chiếc ghế dài. Mít đặc nói:
    -Tôi không biết nhảy đâu. Mắt xanh đáp:
    -Cậu nói thật như thế thì rất tốt. Người khác mà vào địa vị cậu thế nào cũng sẽ bịa chuyện ra, nào là đau tay đau cẳng, nhưng cậu thì lại thẳng thắn nhận là cậu không biết nhảy. Tôi nghĩ là chúng mình có thể kết bạn với nhau được đấy.
    -Tất nhiên là được, -Mít đặc đồng ý.
    -Tôi thích các cậu hơn là tụi bạn tôi vì họ chỉ nghĩ đến chuyện làm đẹp và ngắm nghía trong gương suốt ngày thôi. Mít đặc đáp:
    -Bọn con trai chúng tôi cũng có người thích soi gương lắm.
    -Nhưng cậu thì không thích như vậy, phải không cậu Mít đặc?
    -ồ, không đâu. Chú nói dối đấy. Thường thường hễ không có ai trông thấy chú là chú lại lượn lờ trước tấm gương như các chú tí hon vẫn thường làm.
    -Hay lắm. Chúng ta làm bạn với nhau nhé, -Mắt xanh trả lời.
    -Tôi đề nghị với cậu là chúng ta sẽ viết thư cho nhau. Cậu viết cho tôi trước đi rồi tôi sẽ trả lời cho cậu. "Thật là tai vạ!"
    -Mít đặc vừa nghĩ vừa thẹn vì chú chỉ biết viết theo lối chữ in thôi. Chú nói thầm:
    -Tại sao lại phải thư từ cho nhau? Chúng mình ở ngay cạnh nhau, cứ nói với nhau cũng được mà.
    -A, cậu chán bỏ xừ đi ấy! Cậu chẳng muốn làm cái gì cho tôi cả. Nhận được thư của nhau thì thú lắm chứ! Mít đặc nói:
    -Được, tôi sẽ viết thư cho cô. Đêm đến, hàng trăm chiếc đèn cốc đủ màu sắc cháy sáng trên các lùm cây, và xung quanh các túp lều. Dưới gốc cây cũng có đèn và cỏ non cũng xanh ánh lên một ánh sáng kỳ diệu. Một tấm màn xanh biếc và xinh xinh che khuất phía dưới lầu âm nhạc. Đột nhiên tấm màn kéo lên, và sân khấu hiện ra. Nữ thi sĩ Hoa dại bước ra và cất giọng nói lanh lảnh: 161 162
    -Im lặng! Im lặng! Cuộc hòa nhạc bắt đầu. Tất cả mọi người đều ngồi trên ghế dài.
    -Chú ý, -Hoa dại tiếp tục, -tôi xin bắt đầu. Tôi sẽ đọc cho các bạn nghe một bài thơ tôi mới làm gần đây. Bài thơ nói về tình bạn. Các cô chú tí hon hoan hô ầm ĩ. Khi đã yên lặng trở lại, Kèn đồng lên điều khiển dàn nhạc. Dàn nhạc chơi khe khẽ trong khi Hoa dại ngâm thơ. Thơ của cô cũng hay như tất cả các bài thơ mà cô đã làm và kết thúc bằng câu:
    ?oMuôn năm tình bạn, muôn năm bạn bè!".
    Tiếp theo những câu thơ được mọi người ưa thích ấy, là tiết mục nhảy múa. Mười hai cô tí hon mặc áo dài sặc sỡ biểu diễn vài điệu múa trong đó điệu múa "Củ cải" là tiết mục thành công nhất. Người xem vỗ tay hoan hô rất lâu. Các nghệ sĩ phải biểu diễn lại hai lần nữa. Sau đó, ban đồng ca của Thành phố Diều trình bày một vài bài hát. Ban đồng ca vừa xuống, Kèn đồng đã rời dàn nhạc, bám vào một cái cột lầu tụt xuống sân khấu và hét:
    -Ra đây, các cậu! Biết tuốt, Nhanh nhảu, bác sĩ Thuốc viên và nhiều chú khác chạy theo chú. Kèn đồng nói:
    -Bây giờ, các bạn sẽ nghe ban đồng ca của Thành phố Hoa trình bày. Chú bắt đầu thổi sáo và các chú tí hon hát bài ca Cào cào, lời của thi sĩ Hoa giấy:
    Chú Cào cào nhỏ
    Ngồi trong đám cỏ
    Xanh như hạt đỗ.
    Xanh như hạt đỗ.
    Cào thích nhá cỏ
    Chẳng thích ruồi xanh.
    Chẳng màng sâu nhỏ.
    Chẳng màng sâu nhỏ.
    Nhưng rồi ếch xanh
    Bụng bự, phàm ăn
    Nuốt Cào vào bụng,
    Nuốt Cào vào bụng.
    Chú Cào xinh xinh
    Vừa ngồi trong cỏ
    Hết đời từ đây,
    Hết đời từ đây.
    Thật là buồn khi đến cuối bài hát. Các nghệ sĩ cũng òa lên khóc. Các chú rất thương con cào cào khốn khổ đã bị ếch xanh ăn thịt. Nước mắt các chú tuôn ra như suối chảy. Mất sạch nức nở nói:
    -Cào cào đáng yêu quá! Nhanh nhảu ái ngại:
    -Chú chẳng làm hại ai, không động đến một con ruồi! Bu loong nói tiếp:
    -Thế mà chú bị ếch xanh ăn thịt! Chỉ riêng Biết tuốt không khóc. Chú an ủi các bạn:
    -Các cậu đừng buồn, có phải thật thế đâu. ếch xanh không ăn thịt cào cào, nó chỉ ăn một con ruồi thôi. Bu loong nức nở nói:
    -Thì cũng thế. Khốn khổ cho con ruồi!
    -Đáng kiếp nó rồi còn gì! Giống ruồi quấy rầy mọi người và lan truyền đủ bệnh. Sao lại đi khóc con ruồi! Cáu kỉnh nói:
    -Không phải vì con ruồi mà mình khóc đâu. Mình nhớ lại hồi xưa người ta đã hát bài hát ấy ở quê hương chúng mình. Đột nhiên Mít đặc khóc nấc lên làm cho các bạn phải nín bặt để dỗ chú. Các bạn hỏi tại sao chú khóc nhưng chú vẫn tỉ tê, không đáp. Cuối cùng chú nói:
    -Mình... buồn vì phải xa cậu Tịt mũi! Mọi người ngạc nhiên:
    -Chuyện gì vậy? Chuyện gì mà đột ngột thế? Mít đặc trả lời với giọng trẻ con làm nũng:
    -ừ. Mình thì ở đây mà cậu ấy phải ở đằng kia một mình! Nhanh nhảu nói:
    -Cậu Tịt mũi cũng chẳng làm sao cả đâu!
    -Có chứ! Mình tin là vắng mình, cậu ấy cũng buồn. Cậu Tịt mũi là bạn thân nhất của mình và khi chúng mình lên khinh khí cầu, mình cũng chả kịp chào cậu ấy nữa.
    -Tại sao cậu lại không chào cậu ấy?
    -Bọn mình gây sự với nhau nên mình không muốn nói với cậu ấy nữa. Khi bọn mình bay lên, cậu ấy cứ nhìn theo mình và ra hiệu cho mình. Nhưng mà mình cố tình quay đi. Được đi khinh khí cầu nên mình phởn quá và bây giờ mình đâm... không biết nói thế nào nhỉ?... Bác sĩ Thuốc viên nhắc chú:
    -Hối hận phải không?
    -ừ, đúng đấy, mình đâm hối! Giá mình chào cậu ta thì không sao đâu. Mình sẽ làm lành với cậu ấy và sẽ chào tạm biệt. Biết tuốt nói:
    -Nếu chúng mình trở về thì phải nói là chào cậu chứ không phải là chào tạm biệt đâu.
    -Mình sẽ chào tạm biệt cậu ấy trước rồi nói chào cậu sau, như thế là ổn cả mọi chuyện. Kèn đồng nói:
    -Chúng mình trở về đi thôi, cậu Mít đặc nhớ nhà rồi.
    -ừ, -Thuốc viên nói.
    -Mình cũng đã đến lúc phải về rồi. Nếu lỡ có ai ốm đau ở Thành phố Hoa thì ai chữa cho chứ? Biết tuốt đáp:
    -Thôi đủ rồi, chúng mình đã làm một chuyến đi tuyệt đẹp. Phải trở về thôi. Ngày mai, bọn mình sẽ lên đường. Cuộc khiêu vũ chấm dứt. Mắt xanh lại gần Mít đặc. Cô buồn bã nói:
    -Chúng ta sắp chia tay rồi. Chú trả lời khe khẽ:
    -ừ, chúng tôi sắp trở về.
    -Các cậu ở đây ít ngày quá! Mít đặc cúi đầu nói:
    -Tôi muốn ở lại đây chơi nữa, nhưng tôi cũng muốn trở về nhà. Mắt xanh có vẻ nghĩ ngợi. Một lát sau, cô nói:
    -Phải đấy, đã đến lúc các cậu phải về rồi. Các bạn ở nhà có thể lo cho các cậu. Các cậu cũng không nên quên các bạn ấy. Hai người đều im lặng. Mít đặc muốn nói điều gì nhưng cổ chú cứ nghẹn lại, không nói được nữa. Chú dận gót chân xuống bãi cát và không dám nhìn Mắt xanh: chú không muốn cho cô biết là chú khóc. Cuối cùng, chú ngẩng đầu lên. Mắt hai người gặp nhau. Cô nói:
    -Cậu có muốn tôi khâu cho cậu một cái túi không?
    -Có! Hôm sau Biết tuốt cùng các bạn lên đường.
    Các chú quyết định là đi bộ thôi. Khinh khí cầu đã vỡ, khó mà sửa chữa lại được, ngoài ra gió lại thổi ngược nữa. Biết tuốt đi đầu, tay cầm một chiếc la bàn, theo sau là bác sĩ Thuốc viên, Bu loong, Đinh vít và tất cả các chú khác. Mít đặc đi sau cùng. Chú nào cũng đeo túi trên lưng. Những cái túi này là do các cô tí hon khâu tặng, trong đựng bánh để ăn đường và cả những hột rau và hoa quả chưa hề có ở Thành phố Hoa. Trong mỗi túi áo của Nước đường có một hạt dưa hấu làm giống. Tất cả các cô tí hon đều đi theo tiễn chân các chú. Nhiều cô òa lên khóc. Biết tuốt nói:
    -Các cô đừng khóc. Chúng tôi sẽ làm một quả khinh khí cầu mới và sẽ trở lại thăm các cô. Các cô đáp:
    -Sang xuân cây táo nở hoa thì các cậu đến chơi nhé. Mùa xuân ở đây rất đẹp. Ra đến ngoại ô thành phố thì các cô dừng lại còn các chú tiếp tục lên đường, giữa hoa đồng và cỏ nội. Các cô giơ tay vẫy và nói:
    -Tạm biệt! Tạm biệt! Các chú đáp:
    -Tạm biệt! Mắt xanh lặng lẽ vẫy tay. Chẳng mấy chốc các chú đi đã khá xa, xa đến nỗi các chú không còn nghe thấy tiếng các cô nữa. Đột nhiên Mắt xanh thét:
    -Mít đặc! Mít đặc! Mít đặc quay lại.
    -Viết thư nhé! Viết thư nhé! Chú gật đầu và vẫy mũ. Mắt xanh sung sướng tự nhủ:
    -Cậu ấy nghe thấy rồi! Chẳng bao lâu, các nhà du hành chỉ còn là những cái chấm mờ nhạt rồi biến mất sau khúc đường vòng. Các cô tí hon trở về, lòng buồn rười rượi!

    oне не везло сна?ала
    ~ даже ,ак б
  2. conhuighe

    conhuighe Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    0
    Chương 30 trở về
    Ngày qua ngày, Biết tuốt và các bạn đi hoài qua đồng qua rừng. Cuối cùng, các chú lại trông thấy vùng quê. Các chú dừng chân trên một ngọn đồi cao, nhìn về phía Thành phố Hoa tươi đẹp. Trời đã cuối hè sang thu. Hoa cúc trắng, hoa thược dược đỏ thắm và hoa thúy cúc đủ màu sắc nở dài theo đường phố. Trong các sân nhà, hoa tử lan nở đẹp như cánh ****. Hoa kim liên đỏ như lửa bò theo dọc hàng rào, leo lên tường và lên tận mái nhà nữa. Gió thoáng đưa hương hoa mộc lê thảo và cam cúc thơm thơm nhè nhẹ. Biết tuốt và các bạn ôm chầm lấy nhau. Trong chốc lát, các chú đã đi vào thành phố. Tất cả mọi người đều ra ngoài cửa để nhìn các chú đi qua. Qua cuộc du hành, da các chú đã rám đen đến nỗi không ai nhận ra các chú nữa. Đột nhiên có người kêu:
    -Đúng là chú Biết tuốt đi đầu đấy! Bà con nhìn xem... Nhiều tiếng nói tiếp:
    -Và kia bác sĩ Thuốc viên! Kìa chú Viên đạn, Mất sạch, Tròn xoay! Mọi người đều lấy làm hài lòng và reo "hoan hô" mãi. Nhưng không ở đâu vui bằng phố Hoa Bìm bìm. ở đây, ai cũng là bạn bè quen biết và hàng xóm láng giềng với nhau. Đường phố đen đặc những người. Các chú tí hon ôm hôn các nhà du hành dũng cảm, còn các cô tí hon thì tung hoa vào người họ khi họ đi qua. Đột nhiên, một con chó con chạy xổ đến. Nó sủa và nhảy chồm lên quanh chú Viên đạn và liếm tay chú. Chú reo lên:
    -Con Mực đây rồi! Các bạn láng giềng kể cho chú nghe rằng mấy hôm sau ngày các chú ra đi, con chó lại trở về làm ai cũng nghĩ là các chú đã chết rồi, không còn hy vọng gì gặp lại các chú nữa. Viên đạn ôm con Mực lên tay và hôn hít nó.
    -A con chó ngoan!... Tao lại tìm thấy mày rồi! Mày làm tao sốt ruột sốt gan lên thôi! Vừa lúc ấy, thi sĩ Hoa giấy chạy đến cùng với một đám đông các chú tí hon. Mọi người nghĩ bụng:
    -Cậu ấy sắp đọc thơ cho chúng ta nghe đấy! Các chú tí hon vỗ tay; mấy chú chạy đi tìm một cái thùng rỗng và dựng đứng ở giữa phố.
    -Trèo lên, cậu Hoa giấy; cậu ngâm thơ cho bọn mình nghe đi! Người ta lôi kéo chú, giúp chú trèo lên cái thùng. Chú đứng suy nghĩ một lát, húng hắng ho rồi giơ tay về phía Biết tuốt và các bạn, chú cất cao giọng ngâm mấy câu thơ mà chú vừa sáng tác kịp thời:
    Chào mừng các bạn du hành,
    Khí cầu bay tít trời xanh tuyệt vời,
    Trở về ca khúc sướng vui
    Dù cầu nổ vỡ mà người vẫn nguyên.
    Mọi người đồng thanh reo:
    -Hoan hô... ô!
    Các chú tí hon kéo nhà thơ Hoa giấy xuống và làm kiệu rước chú còn các cô tí hon ném hoa vào người chú như mưa. Người ta ca ngợi chú, làm như chú vừa mới du hành về vậy. Biết tuốt và các bạn mở cổng vào căn nhà nhỏ bỏ vắng đã lâu ngày. Mít đặc đứng giữa phố, buồn rầu nhìn theo đám đông đã đi xa, rồi chú quay đầu lại như muốn tìm kiếm người nào đó. Nhưng mà phố xá đã vắng tanh vắng ngắt, như đã bị ngọn gió nào quét sạch. Cặp mắt chú nom lại rầu rĩ hơn nữa. Đột nhiên chú thấy ở mé phố bên kia, dưới bóng hàng rào có một chú tí hon đang mở to mắt và há hốc miệng ra nhìn chú. Chú liền giơ tay ra cho chú kia biết được bạn của mình. Tịt mũi sung sướng hét lên và lao về phía Mít đặc cũng đang chạy đến gặp bạn. Hai chú đứng sững lại giữa phố, suýt nữa thì cụng trán vào nhau. Tịt mũi tự hào và thân ái nhìn Mít đặc. Chú Mít đặc lừng danh của chú đang bối rối và mỉm cười nhìn chú. Hai người đứng một lúc như vậy không nói nên lời rồi ôm chầm lấy nhau. Nước mắt hai chú chảy ròng ròng. Được gặp lại nhau thì còn gì thú vị hơn nữa! Thế là cuộc du hành của Mít đặc và các bạn chú chấm dứt. Cuộc sống ở Thành phố Hoa lại tiếp tục như xưa... à không, không phải như xưa đâu. Từ bữa các nhà du hành dũng cảm trở về, chiều nào các cô chú tí hon cũng đến thăm họ và nghe họ kể chuyện Thành phố Xanh mãi mà không chán. Tròn xoay nhớ mãi món ga tô ngon lành mà các cô tí hon đã đãi chú. Nước đường khoe là chú đã được uống hàng thùng nước đường đầy ắp. Biết tuốt tả lại cảnh ống dẫn nước, những máy nước, chiếc cầu kỳ diệu bắc qua sông của các cô tí hon và những quả dưa hấu khổng lồ mà các cô đã trồng. Còn Nước đường không quên lấy một hạt dưa ở trong túi áo ra và nói:
    -Ai tin được rằng từ cái hạt này, người ta có thể thu được hàng thùng nước đường! Ngộ nhỡ và Nhanh nhảu thích kể lại chuyện các chú đã giúp các cô tí hon hái quả ra sao. Bu loong và Đinh vít thì nói về chuyện cơ giới hóa, về chú bạn tài xế Bánh vòng, về chú thợ máy Đinh ốc tài ba cùng với hệ thống nút bấm của chú. Còn chú Viên đạn nhớ lại một cách thích thú những ngày nằm bệnh viện và nhớ cô Mật ngọt đã tận tình chăm nom chú, cho nên bây giờ không những chú đã đi lại được mà chú còn có thể nhảy lò cò, nhảy bằng bên chân đã khỏi hẳn. Chú nào cũng nói về các cô tí hon, ngay cả chú Lặng lẽ vốn ít lời cũng vậy. Chú nói:
    -Mình chưa bao giờ tin là bọn mình có thể chơi thân với tụi con gái đấy. Mít đặc đáp:
    -Thà cậu cứ im lặng còn hơn! Tớ chẳng thấy cậu chơi với ai ở đấy cả. Các cô tí hon hỏi:
    -Thế còn cậu? Mít đặc tự hào trả lời:
    -Mình thì có chứ. Mình kết bạn với Mắt xanh. Cúc vàng nói:
    -Cậu đi mà lừa người khác chứ không lừa được mình đâu. Cậu gây sự cả với bạn Tịt mũi của cậu chỉ vì cậu ấy chơi với bọn mình cơ mà.
    -Không phải đâu! Bọn mình đã làm lành với nhau rồi và bây giờ thì mình sẽ là bạn của các cô mãi mãi. Hoa cúc hỏi:
    -Hay lắm! Nhưng tại sao trước kia cậu không làm thế?
    -Trước kia mình ngốc nghếch quá, mình cứ sợ bị trêu là chơi với bọn con gái. Cúc vàng nói:
    -Bây giờ cậu cũng còn sợ cho mà xem.
    -Không, bây giờ thì mình thông thái rồi. Cô có muốn chúng mình kết bạn với nhau không? Cậu nào mà cười chúng mình thì mình sẽ đánh tuốt. Cúc vàng đáp:
    -Tôi không thích người ta đánh nhau vì tôi đâu!
    -Vậy thì mình không đánh nhau nữa. Cứ để cho họ cười. Mít đặc và Cúc vàng trở thành đôi bạn. Và mỗi khi có chú tí hon hành hạ cô bé nào trước mặt chú là chú bênh vực cô ta ngay:
    -Để yên cho cô ấy và mong rằng mình không phải quở cậu về chuyện này nữa. ở đây, chúng mình có phải là bọn man rợ đâu. Các cô tí hon đều yêu mến chú, đi đâu các cô cũng nói rằng chú là người tốt. Các chú khác đâm ra ghen với chú và cũng ra sức bênh vực các cô bạn. Việc trêu ghẹo các cô tí hon bây giờ đã thành chuyện lỗi thời ở Thành phố Hoa. Nếu có chú nào toan tính đấm đá hay là chỉ nói những lời thô lỗ với các cô tí hon thì các chú nhạo báng ngay, cho chú ta là hạng người thiếu giáo dục không biết đến những điều cơ bản nhất của nếp sống mới. Nếu các cô muốn cùng chơi với các chú, các chú cũng không xua đuổi như trước nữa.
    Biết tuốt đề nghị đưa nước máy về Thành phố Hoa và bố trí các máy nước-bước đầu mỗi phố một cái như ở Thành phố Xanh. Chú có cả ý định xây dựng một cái cầu qua sông Dưa chuột để có thể đi bộ qua cầu vào rừng chơi. Các cô cũng tham gia lao động như các chú. Tất cả mọi người cùng xây dựng cầu, ống dẫn nước và các máy nước đến tận giờ ăn trưa. Sau bữa ăn, họ cùng chơi đuổi bắt, ú tim hoặc đã bóng, chơi bóng chuyền. Mít đặc ít khi tham dự các trò chơi. Chú nói:
    -Mình không có thì giờ. Mình chỉ mới biết đọc và biết viết theo lối chữ in thôi. Mình phải viết cho đẹp cơ. Tại sao ấy à? Đó là chuyện bí mật của mình.
    Thế là đáng lẽ đi chơi ném gậy hay đá bóng, chú lấy sách ra đọc. Ngày nào chú cũng đọc một trang, thỉnh thoảng đọc hai trang. Đọc như vậy không nhiều nhưng có kết quả trông thấy. Đọc xong, chú lấy quyển vở ra tập viết. Bây giờ chú đã viết được như tất cả mọi người. Lúc đầu, chữ chú viết cong queo, xiên xẹo, chẳng giống cái gì hết. Nhưng chú ra sức cố gắng nên chữ chú viết đã khá đẹp, cả chữ hoa lẫn chữ thường. Còn cái tật làm bẩn vở thì vẫn chưa sửa được. Chú thường đánh rơi mực vào vở. Và mỗi lần giây một vết mực, chú lại quẹt lưỡi lên trên, thế là vết mực hóa ra có đuôi. Mít đặc gọi nó là sao chổi. Hầu như trang vở nào cũng có một "ông sao chổi". Nhưng mà Mít đặc vẫn hy vọng, chú biết rằng lao động cần cù của chú sẽ thanh toán được những "ông sao chổi" ấy.
    oне не везло сна?ала
    ~ даже ,ак б
  3. conhuighe

    conhuighe Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    0
    Bà lão Izergin(С,а?f.а ~зе?гилO)
    Macxim Gorki
    Tôi được nghe kể những câu chuyện này ở gần Ackeman, trên bờ biển xứ Betxarabi.
    Một buổi tối, làm xong công việc hái nho thường ngày, toán thợ Mônđavi, trong đó có tôi cùng làm, đi về phía bờ biển, còn tôi và bà lão Idecghin ở lại dưới bóng lá dày đặc của những gốc nho, ngả mình trên mặt đất, lẳng lặng nhìn bóng dáng những người đi về phía bờ biển đang tan dần trong sương đêm xanh thẳm.
    Họ vừa đi vừa cười, hát. Đàn ông nước da màu đồng hun, ria đen và ***g bồng, tóc xoăn, dày rậm, xõa đến vai, mặc áo vét ngắn và quần rộng ; đàn bà, con gái thì vui vẻ, uyển chuyển, mắt xanh thẫm, da cũng sạm nắng. Tóc họ đen nhánh và mượt như tơ, buông xõa. Gió ấm và nhẹ lùa vào tóc họ, làm những đồng tiền bện trong tóc kêu leng keng. Gió ào tới từng đợt lớn đều đặn, những đôi khi, nó dường như nhảy qua một vật gì vô hình và thốc mạnh, làm cho tóc những người đàn bà bay tung lên, phấp phới quanh đầu họ như những cỗ bờm kỳ dị. Những lúc như thế, nom họ có vẻ quái dị hoang đường. Họ mỗi lúc một rời xa chúng tôi, còn đêm tối và trí tưởng tượng dường như làm cho họ càng đẹp hơn.
    Có người nào chơi vĩ cầm ? một cô gái hát giọng trầm dịu dàng, có tiếng cười vui vẻ ?
    Không khí nhiễm đầy mùi hơi biển gay gắt và khí bốc nồng đậm của đất thấm đẫm nước mưa từ lúc gần tối. Lúc này, trên trời vẫn còn những mảng mây xốp nhẹ bay lang thang, hình thù và màu sắc kỳ dị, chỗ thì đường nét mềm mại như những luồng khói lam và xanh tro đang cuồn cuộn bốc lên, chỗ thì hằn rõ như những tảng đá đen mờ đục hoặc nâu. Giữa các mảng mây, những mảnh trời xanh ngời lên thứ ánh sáng dịu dàng, lấm tấm những vì sao óng ánh như vụn vàng. Tất cả những cái đó : âm thanh và mùi vị, mây và người đều đẹp và buồn lạ lùng, như mở đầu cho một câu chuyện cổ tích huyền diệu, mọi vật đều như ngừng sinh trưởng, chìm dần vào cõi chết. Tiếng nói ồn ào càng ra xa càng lặng đi, biến thành một tiếng thở dài não ruột.
    -Sao anh không đi với họ ? - Bà lão Idecghin hất hàm hỏi.
    Thời gian đã làm cho lưng bà lão cong gập xuống, cặp mắt xưa kia đen láy đã mờ đục và lúc nào cũng đẫm lệ. Giọng nói khô khan của bà lão nghe đến kỳ lạ, như tiếng xương va nhau lục cục.
    -Tôi không thích. - Tôi trả lời bà lão.
    -Ôi chao ? Bọn người Nga các anh vừa sinh ra đã già lão. Lúc nào cũng càu quạu như quỷ sứ ấy ? Con gái vùng tôi nó sợ anh đấy ? Vậy mà anh trẻ khỏe thế kia ?
    Trăng đã lên. Vành trăng to tròn, đỏ như máu, dường như từ giữa lòng thảo nguyên ngoi lên, chốn thảo nguyên xưa kia đã ngốn bao nhiêu thịt người và uống bao nhiêu máu người, và hẳn là vì vậy mới trở nên màu mỡ và phì nhiêu như thế này. Bóng lá giống như những hình thêu ren, trùm lên người chúng tôi như một tấm lưới. Bên trái, bóng mây nhuốm ánh trăng xanh lướt trên thảo nguyên, mây trở nên trong hơn và sáng hơn.
    -Xem kìa, Larra đang đi đấy !
    Tôi nhìn về phía bàn tay run run với những ngón tay cong cong đang trỏ : ở đấy có những bóng mây đang lướt qua, rất nhiều bóng và một trong những bóng ấy tối và đậm hơn những bóng khác, lướt nhanh hơn, và thấp hơn - đó là bóng của một mảng mây trôi gần mặt đất hơn và nhanh hơn các mảng khác.
    -Có ai đâu ! - Tôi nói.
    -Anh mù hơn cả một bà lão như tôi. Xem kìa, hắn đen thẫm, đang chạy qua thảo nguyên đấy thôi !
    Tôi lại nhìn và chẳng thấy gì, ngoài một bóng tối.
    -Một bóng tối đấy chứ ! Tại sao cụ gọi nó là Larra ?
    -Nó đấy ! Bây giờ nó như một bóng tối, mà nhất định phải thế thôi ! Nó đã sống hàng nghìn năm nay, mặt trời làm khô quắt than thể và máu xương nó, gió thổi tan tác hình hài nó. Chúa có thể hành hạ con người để trừng phạt tội kiêu ngạo của nó như thế đấy !
    -Cụ kể cho tôi nghe câu chuyện ấy xảy ra như thế nào đi ! - Tôi nài bà lão kể, vì cảm thấy trước rằng đây là một trong những truyền thuyết tuyệt diệu của thảo nguyên. Và bà lão kể lại câu chuyện cổ tích ấy."
    Từ bấy đến nay, đã bao nhiêu nghìn năm trôi qua rồi. Ở một miền xa, xa lắm, mãi bên kia biển, nơi mặt trời mọc, có một xứ có con sông lớn, ở đấy mỗi lá cây ngọn cỏ đều tỏa bóng rợp đủ cho con người tránh nắng, vì xứ ấy nắng dữ lắm !
    Đất đai xứ ấy mới phì nhiêu làm sao !
    Ở đấy có một bộ lạc hùng cường, họ chăn gia súc, dùng sức mạnh và lòng dũng cảm để săn thú dữ, và sau cuộc săn, họ ăn uống linh đình, ca hát và đùa bỡn với các cô gái.
    Có lần, trong bữa tiệc, một cô trong đám thiếu nữ, một cô gái tóc đen, hiền dịu như đêm tối, bị một con đại bàng từ trên trời sà xuống quắp đi. Những mũi tên bọn đàn ông bắn vào chim đều lả tả rơi xuống đất, nom thực thảm hại. Thế là họ đâm bổ đi tìm cô gái, nhưng không sao tìm thấy. Rồi họ quên cô đi, như vẫn lãng quên mọi việc trên đời".
    Bà lão thở dài và im lặng. Giọng nói sin sít của bà khiến tôi tưởng như đó là lời than vãn của tất cả những thế kỷ bị quên lãng nay nhập vào ***g ngực bà và hiện lên thành bóng dáng của những hồi ức. Biển dịu dàng họa lại đoạn mở đầu của một trong những truyền thuyết cổ xưa, có lẽ đã được sáng tạo trên vùng biển này.
    "Nhưng hai mươi năm sau, cô gái tự dẫn thân trở về, kiệt quệ, héo hắt, cùng đi với cô là một chàng trai đẹp và khỏe như chính cô hai mươi năm xưa. Khi người ta hỏi bấy lâu nay cô ở đâu, cô liền thuật lại rằng đại bàng đã đem cô lên núi và ăn ở với cô như vợ chồng. Đây là con trai cô, cha nó đã qua đời, khi đại bàng cảm thấy sức lực đã suy yếu, nó bay vút lên trời cao lần cuối cùng, rồi cụp cánh, thả mình rơi xuống những mỏm đá núi nhọn hoắt và chết tươi tan xác ?
    Mọi người ngạc nhiên nhìn đứa con trai của đại bàng. Họ thấy nó cũng không có gì hơn họ, duy có đôi mắt nó lạnh lùng và kiêu hãnh như mắt chúa các loài chim. Họ nói chuyện với nó, còn nó thích thì nó trả lời, không thì nó lặng thinh. Khi các bậc già cả trong bộ lạc đến, nó nói chuyện với các cụ như với những người bằng vai. Như thế là làm nhục các cụ, và các cụ gọi nó là mũi tên cùng không có lông đuôi, bảo cho nó biết rằng hàng nghìn người như nó và hàng nghìn người tuổi tác gấp đôi nó còn phải kính trọng và tuân lời các cụ kia. Còn nó trân trân nhìn các cụ và trả lời rằng trên đời này, không đâu còn những người như nó nữa. Mọi người tôn kính các cụ thì mặc họ, chứ nó không muốn làm như họ. Ô, thế là các cụ nổi giận đùng đùng. Các cụ nổi giận và bảo nó :
    -Nó không thể ở đây với chúng ta được ! Mặc cho nó xéo đi đâu thì xéo !
    Nó bật cười và đi đến chỗ nó muốn tới : nó đến gần một cô gái xinh đẹp đang nhìn nó chằm chằm. Nó đến cạnh cô và ôm lấy cô. Nhưng cô là con gái một vị trưởng lão vừa kết tội nó. Và tuy nó đẹp trai, cô vẫn cự tuyệt nó, vì sợ cha. Cô cự tuyệt nó và lảng đi, còn nó đánh cô và khi cô ngã xuống, nó giậm chân lên ngực cô mạnh đến nỗi máu vọt ra qua miệng cô, cô gái thở hắt ra, quằn quại như con rắn và tắt thở.
    Tất cả những người chứng kiến cảnh tượng ấy đều kinh sợ, bàng hoàng : lần đầu tiên có kẻ giết một người phụ nữ ngay trước mặt họ như vậy. Tất cả đều im lặng hồi lâu, nhìn cô gái nằm sóng sượt trên mặt đất, mắt mở trừng trừng, miệng ứa máu, và nhìn nó : nó đứng cạnh xác cô gái, một mình đối diện với tất cả mọi người, kiêu hãnh, không cúi đầu, dường như thách thức người ta trừng phạt nó. Rồi, khi đã định thần, người ta túm lấy nó, trói lại và mặc nó đấy, vì thấy rằng giết nó ngay lúc đó thì đơn giản quá và không hả dạ".
    Đêm càng về khuya càng tối và tràn đầy những âm thanh êm dịu, lạ kỳ. Trên thảo nguyên, chuột rít lên những tiếng rầu rĩ, dế kêu rinh rích trong đám lá nho, lá cây thở dài và thầm thì với nhau, vầng trăng tròn vành vạnh, trước đỏ như máu, bây giờ càng ra xa trái đất càng nhợt đi và tỏa xuống thảo nguyên làn sương mù xanh lam mỗi lúc một dày đặc ?
    "Thế rồi họ họp nhau lại để tìm ra một hình phạt xứng đáng với tội ác .. Họ muốn cho ngựa xé xác nó, nhưng lại thấy hình phạt ấy vẫn còn nhẹ. Họ nghĩ tới việc mỗi người bắn vào nó một phát tên, nhưng rồi họ cũng bác bỏ cách ấy. Có người bàn nên thiêu sống nó, nhưng khói ở đống lửa bốc lên sẽ không cho họ thấy sự thống khổ của nó. Người ta đưa ra nhiều cách trừng phạt nhưng không có cách nào vừa ý tất cả mọi người. Còn mẹ nó quỳ trước mặt mọi người, im lặng, không còn đủ nước mắt và lời lẽ để van xin tha thứ cho nó. Họ bàn mãi, rồi một hiền giả lên tiếng, sau khi suy nghĩ hồi lâu :
    -Ta hãy hỏi nó xem lại tại sao nó làm thế ?
    Người ta hỏi nó. Nó nói :
    -Cởi trói cho ta ! Bị trói thì ta không nói đâu !
    Nhưng khi đã được cởi trói, nó hỏi :
    -Các người cần gì ? - Nó nói hách dịch như họ là nô lệ của nó ?
    -Mày nghe thấy rồi đấy. - Bậc hiền giả nói.
    -Ta cắt nghĩa hành động của ta cho các người nghe để làm gì ?
    -Để chúng ta hiểu. Mày là thằng kiêu ngạo, nghe đây ! Đằng nào mày cũng chết. Vậy thì hãy giúp chúng tao hiểu việc mày đang làm. Chúng tao còn sống, chúng tao cần hiểu biết nhiều hơn những điểu chúng ta biết hiện nay, cái đó có ích cho chúng tao ?
    -Được, ta sẽ nói, tuy rằng bản thân ta có lẽ cũng chưa hiểu đúng câu chuyện đã xảy ra ! Ta giết cô ta hình như vì cô ấy cự tuyệt ta .. Mà ta lại cần cô ấy.
    -Nhưng cô ấy có phải của mày đâu ! - Họ bảo nó.
    -Thế các người chỉ dùng những gì các người có thôi ư ? Ta thấy rằng mỗi người đàn ông chỉ có tiếng nói, đôi tay và đôi chân là của mình thôi, vậy mà họ chiếm hữu các giống vật, chiếm hữu đàn bà và đất đai, cùng vô khối cái khác nữa ?
    Họ bảo với nó rằng tất cả những gì người đàn ông chiếm được thì đều phải đem bản thân mình ra trang trải : trang trải bằng trí tuệ và sức lực của mình, đôi khi cả tính mệnh nữa. Nó trả lời rằng nó muốn giữ gìn nguyên vẹn bản thân nó.
    Họ nói với nó lâu lắm, và cuối cùng, họ thấy nó tự coi mình là người thứ nhất trên đời, và ngoài bản thân nó, nó không nhìn thấy gì nữa hết. Mọi người đều kinh sợ khi họ hiểu rằng nó đã tự hãm mình vào cảnh cô độc như thế nào. Nó không có bộ lạc, không có mẹ, không có gia súc, không có vợ và cũng chẳng muốn những thứ đó.
    Khi đã thấy rõ điều đó, họ lại bàn nhau nên trừng phạt nó như thế nào. Nhưng họ bàn không lâu, vị hiền giả ban nãy vẫn để mặc cho họ bàn luận liền lên tiếng :
    -Này thôi ! Có hình phạt đây rồi. Một hình phạt ghê rợn, các người có nghĩ một nghìn năm cũng không tìm ra được một hình phạt như thế. Cách trừng phạt nó ở ngay trong bản thân nó ! Hãy thả nó ra, cứ để cho nó được tự do. Đấy là hình phạt của nó !
    Thế là liền xảy ra một việc vĩ đại. Một tiếng sấm gầm vang, mặc dầu trên trời không có mây đen. Đấy là các thần thánh trên thượng giới chuẩn nhận lời nói của bậc hiền giả. Mọi người rạp mình bái vọng và tản đi. Còn gã trai ấy - bây giờ có tên là Larra, nghĩa là kẻ bị ruồng bỏ, bị xua đuổi - cười ầm lên, nhìn theo những người đang bỏ gã mà đi, gã cười, ở lại một mình và sống tự do như bố gã. Nhưng bố gã không phải là người ? Còn gã là người. Thế là gã bắt đầu sống phóng túng như con chim. Gã đến các bộ lạc và cuốm gia súc, bắt cóc các cô gái : cướp tất cả những gì gã muốn lấy. Họ bắn vào gã, nhưng tên không thể xuyên vào người gã, vì gã được che chở bởi một lớp vỏ bọc vô hình của hình phạt tối cao. Gã khéo léo, tham tàn, dũng mãnh, hung bạo và không bao giờ dàn mặt mọi người. Người ta chỉ thấy gã từ xa. Suốt bao lâu, Larra cứ đơn độc một mình, quanh quẩn gần mọi người, nó sống rất lâu như vậy, hàng mấy chục năm trời. Nhưng có lần, nó đến gần mọi người, và khi họ xông vào nó thì nó đứng yên không nhúc nhích, không hề tỏ ý định tự vệ. Thế là một người trong bọn họ đoán ra và thét lớn :
    -Đừng động đến nó ! Nó muốn chết đấy !
    Mọi người dừng lại, không muốn giảm nhẹ số phận của kẻ đã làm hại họ, không muốn giết nó. Họ dừng lại và cười nhạo nó. Còn nó run lên khi nghe tiếng cười của họ, hai tay túm lấy ngực, tìm kiếm cái gì trên ngực, bỗng nhiên nó nhặt một hòn đá và xông vào họ. Nhưng họ dạt cả ra tránh nó và không đánh nó một cái nào, rồi khi nó mệt lả, thét lên một tiếng ai oán và ngã vật xuống đất thì họ lùi ra xa đứng nhìn nó. Nhưng nó bỗng đứng lên, nhặt lấy con dao không rõ của ai đã đánh rơi trong lúc xô xát với nó, và tự đâm vào ngực. Nhưng con dao gãy gập như đâm phải đá. Nó lại ngã nhào xuống và cứ đập đầu xuống đất mãi. Nhưng đất tránh né nó, lún sâu xuống mỗi khi đầu nó đập xuống.
    -Nó không thể nào chết được ! - Mọi người sung sướng nói.
    Họ kéo nhau đi, bỏ mặc nó. Nó nằm ngửa mặt lên trời và thấy những con đại bàng dũng mãnh lượn tít trên trời cao như những chấm đen nhỏ. Cặp mắt nó chứa chất biết bao buồn khổ, tưởng chừng có thể đủ để đầu độc cả nhân loại. Thế rồi từ đấy, nó vẫn cô độc một mình, tự do và chờ đợi cái chết đến với nó. Cho đến giờ nó chỉ còn là cái bóng và sẽ như vậy mãi mãi. Nó không hiểu cả tiếng nói lẫn hành động của mọi người, nó chẳng hiểu gì cả. Nó vẫn tìm kiếm, đi lại đây đó? Nó không có cuộc sống, cái chết cũng không rước nó đi. Nó không có chỗ dung thân giữa mọi người. Đấy, một con người bị trừng phạt về tọi kiêu ngạo như thế đó !"
    Bà lão thở dài, im lặng, đầu gục xuống ngực, lúc lắc mấy cái nom đến kì dị.
    Tôi nhìn bà. Tôi thấy hình như bà lão buồn ngủ. Không hiểu sao tôi bỗng xót xa thương bà. Đoạn cuối câu chuyện, bà kể bằng một giọng rất thống thiết, đầy hăm dọa, vậy mà tôi vẫn cảm thấy một âm thanh sợ sệt, nô lệ.
    Trên bờ biển có tiếng hát vang lên, tiếng hát kì dị. Thoạt đầu là một giọng nữ trầm cất lên hai ba âm thanh, rồi đến một giọng khác lại từ đầu vẫn bài ấy, nhưng giọng thứ nhất luôn luôn đi trước giọng thứ hai ? giọng thứ ba, thứ tư, thứ năm bắt vào khúc hát vẫn theo trình tự ấy. Bỗng nhiên, những giọng nam hợp xướng nổi lên, vẫn bài đó, và hát lại từ đầu.
    Một giọng nữ lanh lảnh nghe tách bạch hẳn, ta có thể mường tượng đó là những dòng suối muôn màu từ trên cao đổ xuống các khối đá, reo rắt vọt tung lên hòa vào làn sóng giọng nam dày đặc đang nhịp nhàng cuộn lên, chìm ngập trong làn sóng đó, rồi lại bứt ra át hẳn mọi âm thanh ấy, giọng này tiếp giọng kia, lại vút lên cao, trong trẻo và mạnh mẽ.
    Tiếng hát át hẳn tiếng sóng ?
    oне не везло сна?ала
    ~ даже ,ак б

    Được conhuighe sửa chữa / chuyển vào 19:15 ngày 07/08/2003
  4. conhuighe

    conhuighe Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    0
    -Anh có nghe thấy ở đâu người ta còn hát như thế không ? - Bà lão Idecghin vừa hỏi vừa ngẩng đầu lên và cái miệng móm mém mỉm cười.
    -Không, tôi chưa bao giờ nghe thấy ?
    -Và sẽ không bao giờ được nghe thấy nữa. Chúng tôi thích hát. Chỉ những người đẹp là những người ham sống. Chúng tôi ham sống. Anh tưởng những người đang hát ở kia không mệt mỏi sau một ngày vừa qua sao ? Chớ tưởng lầm như vậy ! Họ làm việc từ lúc mặt trời mọc cho tới hoàng hôn, bây giờ trăng đã lên mà họ vẫn ca hát. Những kẻ không biết sống thì đã đi ngủ rồi. Những người yêu đời vẫn ca hát, anh thấy đấy.
    -Những sức khỏe .. - Tôi toan nói.
    -Sức khỏe bao giờ cũng đủ dùng suốt đời. Sức khỏe ! Nếu anh có tiền, anh lại không tiêu tiền chăng ? Sức khỏe cũng là vàng. Anh có biết thời trẻ tôi đã làm gì không ? Tôi dệt thảm từ sáng tinh mơ cho đến chiều hôm, gần như không hề đứng lên. Tôi lanh lợi như một tia sáng mặt trời, vậy mà cứ phải ngồi lì một chỗ như tảng đá. Tôi ngồi đến nỗi đôi khi xương cốt kêu răng rắc. Vậy mà cứ tối đến là tôi chạy đến với người yêu để ôm hôn chàng. Ba tháng ròng như thế, suốt thời gian chúng tôi yêu nhau. Hồi ấy, đếm nào tôi cũng đến với chàng. Thế mà tôi sống đến ngần này tuổi rồi đây : khí lực sung túc lắm đấy chứ ! Tôi đã yêu biết bao nhiêu người ! Tôi đã cho và nhận bao nhiêu cái hôn !
    Tôi nhìn mặt bà lão. Cặp mắt đen của bà vẫn mờ đục, hồi ức không làm cho cặp mắt ấy linh hoạt lên. Ánh trăng rọi sáng cặp môi khô nứt nẻ của bà, rọi sáng cái cằm nhọn vêu vao dính những sợi tóc bạc và cái mũi nhăn nheo khoằm xuống như mỏ cú. Hai má trũng xuống thành hai hõm đen : từ dưới tấm khăn đỏ, như miếng giẻ rách quấn quanh đầu, một mớ tóc màu tro xõa ra, dính bết vào bên hõm má. Da mặt, da cổ và da tay chằng chịt nếp nhăn nom như những vết khía và mỗi khi bà lão cử động, tôi cứ tưởng như làn da khô héo ấy sẽ rách tơi tả, bong xuống từng mảnh và trước mắt tôi sẽ hiện lên bộ xương trần trụi với hai hốc mắt đen ngòm, đờ đẫn.
    Bà lão lại bắt đầu kể chuyện, bằng cái giọng lạo sạo của mình :
    -Dạo ấy tôi sống với mẹ ở Fanmi, ngay trên bờ sông Buôclai. Khi anh ấy đến xóm tôi thì tôi mười lăm tuổi. Anh ấy cao lớn, thân hình mềm dẻo, ria đen, vui tính. Anh ấy ngồi trong thuyền và cất giọng sang sảng, thét vọng vào cửa sổ gọi chúng tôi : "Này, các người có rượu nho ? và cái gì cho tôi chén với không ?" Tôi nhìn ra cửa sổ và qua những cành tần bì, tôi thấy : cả dòng sông xanh biếc dưới ánh trăng, anh mặc sơ mi trắng, chiếc thắt lưng rộng bản buông thõng hai đầu xuống một bên sườn, một chân anh đứng trong thuyền, chân kia ghếch lên bờ. Anh lắc lư và hát một điệu gì không rõ. Thấy tôi, anh nói : "Chà, ở đây có cô em xinh đẹp quá đi mất ! Thế mà ta chẳng biết gì cả ! " Cứ như là trước khi gặp tôi, anh đã biết tất cả con gái đẹp trên đời rồi không bằng ! Tôi đem rượu nho và thịt lợn luộc cho anh ? Rồi bốn ngày sau, tôi đã hiến cả con người tôi cho anh ? Đêm nào chúng tôi cũng xuống thuyền đi chơi với nhau. Anh đến, huýt sáo khe khẽ như tiếng chuột nhảy, còn tôi nhảy qua cửa sổ xuống sông như một con cá ? Thế rồi chúng tôi cho thuyền đi ? Anh là một tay chài lưới ở Prut, về sau, khi mẹ tôi đã biết hết mọi chuyện và giọt cho tôi một trận nên thân thì anh luôn luôn dỗ tôi đi với anh đến Đôbrutja và đi xa hơn nữa, tới cửa sông Đanuyp. Nhưng lúc ấy tôi không thích anh nữa rồi : anh chỉ biết ca hát và ôm hôn tôi, ngoài ra không còn gì nữa ! Tôi đã chán anh rồi. Hồi ấy có một đoàn người Guxun kéo đến vùng này, và trong bọn họ có những tay đáng yêu ? Bọn họ sống đến là vui. Có một cô gái nọ đang chờ đợi chàng trai hiên ngang của mình (chàng là người xứ Cacpát). Cô cứ tưởng anh đã vào tù hoặc bị giết trong một cuộc ẩu đả ở đâu đó, vậy mà bỗng nhiên chàng vụt đến với cô, như từ trên trời rơi xuống, đi một mình hay với hai ba người bạn. Chàng mang đến cho cô những món quà sang trọng : thứ gì họ cũng kiếm được một cách dễ dàng thôi mà ! Chàng ăn uống linh đình ở nhà cô, hãnh diện về cô trước các bạn mình. Cô thích thú về chuyện đó. Tôi nhờ một cô bạn hiện đang có chàng Guxun giới thiệu họ cho tôi ? Tên cô ấy là gì ? Tôi quên mất rồi ? Bây giờ tôi bắt đầu quên hết mọi việc trên đời. Từ bấy đến nay đã bao lâu rồi, mọi việc đều quên ráo cả. Cô ta giới thiệu cho tôi một anh chàng giỏi trai. Anh chàng khá xinh ? Đầu tóc anh đỏ, cái gì cũng đỏ hoe : cả ria lẫn những búp tóc xoăn ! Một cái đầu rực lửa ! Dáng dấp anh buồn rười rượi, khi thì anh âu yếm, khi thì gầm thét và ẩu đả như thú dữ. Có lần anh đánh vào mặt tôi ? Còn tôi nhảy chồm vào ngực anh như một con mèo, cắn ngập răng vào má anh ? Từ đó, trên má anh có một lỗ trũng, và khi tôi hôn vào cái lỗ trũng ấy thì anh thích lắm ?
    -Thế còn anh thuyền chài, anh ta đi đâu ? - Tôi hỏi.
    -Anh thuyền chài, hả ? Anh ta ? vẫn ở đấy. Anh ta nhập bọn với cánh Guxun. Thoạt tiên, anh ta vẫn cứ dỗ dành tôi và dọa quẳng tôi xuống sông, nhưng rồi cũng không có chuyện gì cả, anh ta nhập bọn với họ, kiếm được một cô khác ? Cả hai anh bạn của tôi - anh thuyền chài và anh Guxun ấy - cùng bị treo cổ một lúc. Tôi có đi xem họ bị treo cổ. Chuyện đó xảy ra ở Đôbrutja. Khi đi ra chỗ xử tội, anh thuyền chài mặt tái mét, khóc lóc, còn anh Guxun thì phì phèo tẩu thuốc. Anh đi ung dung như thường và hút thuốc, hai tay đút túi quần, một bên ria mép ngả xuống bên vai, nhánh kia thõng trước ngực. Thấy tôi, anh nhả tẩu thuốc ra và lớn tiếng gọi tôi : "Vĩnh biệt ! ?" Tôi thương tiếc anh suốt một năm trời. Chuyện đó xảy ra lúc họ định về quên ở Cacpát. Trước khi đi, họ đến thăm một người Rumani để từ biệt. Họ bị bắt ở đó. Chỉ có hai người bị bắt, còn thì mấy người bị giết, những người khác trốn thoát ? Sau đó họ đã trả thù gã người Rumani kia ? Họ đốt trại, đốt nhà xay bột, đốt hết lúa mì của hắn. Hắn trở thành ăn mày.
    -Cụ làm việc ấy chứ gì ? - Tôi đoán già đoán non.
    -Bọn Guxun thiếu gì bạn bè, không phải chỉ có mình tôi ? Người nào là bạn thân nhất của họ, người ấy rửa hờn cho người khuất bóng ?
    Tiếng hát trên bờ biển đã im bặt, bây giờ chỉ có tiếng sóng biển ì ầm hòa nhịp với bà lão : tiếng sóng tư lự và sôi nổi hòa điệu tuyệt diệu cho câu chuyện về một cuộc đời sóng gió. Đêm mỗi lúc một êm dịu hơn, ánh trăng xanh ngời tỏa chiếu càng rộng khắp trong đêm, còn những âm thanh mơ hồ phát ra từ cuộc sống tất bật của những cư dân vô hình của đêm tối cứ khẽ dần đi, bị át trong tiếng sóng biển rì rào mỗi lúc một tôi ? vì gió mỗi lúc mọt mạnh.
    -Sau đó tôi còn yêu một anh chàng Thổ Nhĩ Kỳ nữa. Tôi ở trong khuê phòng của anh ta ở Xkutari. Tôi sống ở đó suốt một tuần, cũng tạm được ? Nhưng rồi tôi đâm chán ? lúc nào cũng chỉ thấy đàn bà là đàn bà ? Anh ta có tám ả ? Suốt ngày họ chỉ ăn, ngủ và tán chuyện lăng nhăng ? Hay chửi nhau, quang quác cái mồm lên như những con gà mái. Anh ta không còn trẻ nữa, cái anh Thổ Nhĩ Kỳ ấy. Tóc gần bạc hết, nghiêm trang rất mực và giàu có. Nói năng như đấng chúa tể .. Mắt đen .. đôi mắt thẳng thắn .. nhìn thẳng vào tâm hồn người ta. Anh rất thích cầu nguyện. Tôi gặp anh ở Bukaresti ? Anh đi đi lại lại trong chợ như một ông vua, xem xét mọi cái với vẻ trang nghiêm, rất đỗi trang nghiêm. Tôi mỉm cười với anh. Ngay chiều hôm đó, người ta chộp lấy tôi ở ngoài phố và đưa lên xe, đưa đến nhà anh. Anh buôn bạch đàn và dừa, còn anh đến Bukaresti mua cái gì thì không rõ. "Cô em đến Thổ Nhĩ Kỳ với ta chứ ? " - anh hỏi. "Ồ vâng, em xin đi với chàng !" "Tốt lắm !". Thế là tôi đi. Anh chàng Thổ Nhĩ Kỳ ấy giàu có lắm. Anh ấy có một đứa con trai, thằng bé ngăm ngăm đen, rất mềm mại ? Nó mười sáu tuổi. Tôi cùng với nó trốn khỏi nhà anh Thổ Nhĩ Kỳ ấy ? Tôi trốn sang Bungari, đến Lôm-Palanka ? Ở đấy, tôi bị một ả Bungari cho một nhát dao vào ngực, ả ghen về chồng chưa cưới hay chồng ả, tôi cũng không nhớ nữa.
    Tôi ốm, nằm một thời gian trong tu viện. Một tu viện phụ nữ. Một cô gái chăm sóc tôi, cô ta người Ba lan, cô có người anh ở mọt tu viện khác - tôi còn nhớ là ở gần Acse-Palanka - anh vẫn lui tới thăm cô, anh cũng là một thầy tu ? Anh ta .. cứ uốn éo làm duyên làm dáng trước mặt tôi như con sâu ấy .. khi tôi khỏe hẳn, tôi bỏ ra đi với anh ? sang nước Ba lan của anh.
    -Hượm đã ! Thế thằng bé Thổ Nhĩ Kỳ bây giờ đâu rồi ?
    -Thằng bé ấy à ? Thằng bé ấy nó chết rồi. Vì nhớ nhà hay vì tình thì không rõ .. Nó héo quắt đi như cái cây nhỏ non yếu, bị nắng rọi quá nhiều .. nó cứ héo quắt mãi đi .. tôi nhớ, nó nằm trên giường, người đã trong vắt và xanh nhợt như tảng băng, vậy mà tình yêu vẫn rực cháy trong người nó .. Nó vẫn nài tôi cúi xuống và hôn nó .. Tôi đã yêu nó và tôi còn nhớ tôi đã hôn nó rất nhiều .. Rồi nó suy kiệt hẳn, gần như không cử động được nữa. Nó nằm trên giường và kêu van thảm thiết như một thằng ăn mày xin bố thí, nài tôi nằm xuống cạnh nó và sưởi ấm cho nó. Tôi nằm xuống. Tôi vừa nằm xuống với nó .. thì toàn thân nó lập tức nóng rực lên như lửa. Một hôm, tôi thức dậy thì nó đã lạnh ngắt .. nó chết rồi .. Tôi khóc thương nó. Biết nói thế nào được ? Có lẽ chính tôi đã giết nó. Lúc ấy tuổi tôi gấp đôi tuổi nó. Tôi khỏe mạnh như thế, dồi dào sức sống như thế .. còn nó, nó là cái gì ? ? Một thằng nhóc !
    Bà lão thở dài, và làm dấu thánh ba lần - lần đầu tôi thấy bà cụ làm dấu - mấp máy cặp môi khô, lẩm bẩm câu gì không rõ.
    -Thế rồi cụ sang Ba lan .. - Tôi nhắc.
    -Phải ? đi với gã Ba lan nhỏ nhắn ấy. Gã là một kẻ lố bịch và đê tiện. Khi cần đàn bà thì gã quấn quít lấy tôi như con mèo, và từ lưỡi gã tuôn ra một thứ mật ngọt nóng hừng hực, nhưng khi gã không thèm muốn tôi thì gã nói tôi đâu như roi quất. Có lần, chúng tôi đi trên bờ sông, thốt nhiên gã nói một câu hợm hĩnh xúc phạm đến tôi ! Ôi chao ! ? Tôi giận điên lên ! Tôi sôi lên như thùng nhựa nấu ! Tôi nhấc bổng gã lên như đứa trẻ - người gã nhỏ bé - tôi bóp chặt hai cạnh sườn gã, đến nỗi gã tái nhợt đi. Thế rồi tôi lấy đà quăng gã xuống sông. Gã kêu gào. Gã kêu gào đến là tức cười. Tôi đứng trên bờ nhìn gã, còn gã không vùng vẫy dưới nước. Thế là tôi bỏ đi. Từ đấy, tôi không bao giờ gặp gã nữa. Tôi có may mắn như vậy đấy : không bao giờ gặp lại những người mà tôi đã từng yêu. Đấy là những cuộc gặp gỡ tệ hại, chẳng khác gì gặp lại những người đã chết.
    Bà lão im lặng, thở dài. Tôi tưởng tượng ra những người mà bà lão gợi lại trong ký ức. Đây là chàng Guxun râu tóc đỏ rực như lửa, ria mép vắt vẻo, đang đi đến chỗ chết mà vẫn điềm nhiên phì phèo tẩu thuốc. Hẳn là anh có cặp mắt xanh biếc lạnh lùng, nhìn mọi vật một cách chăm chú, cương quyết. Bên cạnh anh là gã thuyền chài xứ Prut, ria đen ; gã khóc lóc và không muốn chết, và trên khuôn mặt tái mét, đau buồn vì sắp phải từ giã cuộc đời, cặp mắt vui vẻ mờ đi, bộ ria mép đẫm nước mắt rũ xuống hai bên cái miệng méo xệch, nom mới buồn thảm làm sao. Còn đây là lão già Thổ Nhĩ Kỳ trang nghiêm, chắc hẳn là một người tin ở định mệnh và chuyên chế, cạnh lão là con trai lão, bông hoa bé nhỏ, nhợt nhạt và mảnh mai của phương đông, đã bị đầu độc vì những chiếc hôn. Còn đây là anh chàng Ba lan háo danh, vừa thanh lịch vừa tàn nhẫn, vừa khéo nói vừa lạnh lùng ? Tất cả bọn họ chỉ là những cái bóng nhợt nhạt, còn người đàn bà mà họ đã ôm hôn thì đang ngồi cạnh tôi, một con người sống, nhưng thời gian đã làm cho héo hắt đi, không còn thân hình, không còn khí huyết, lòng không ham muốn, mắt không còn những tia sáng linh lợi, cũng gần như một cái bóng.
    Bà lão kể tiếp :
    -Ở Ba Lan, tôi sống khó khăn lắm. Người nước này lạnh nhạt và dối trá. Tôi không biết thứ tiếng rin rít như tiếng rắn phun của họ ? Người nào nói cũng rít lên. Sao họ lại rít lên như thế nhỉ ? Chúa ban cho họ thứ tiếng rin rít của loài rắn là bởi họ hay dối trá. Hồi ấy tôi cứ đi mà chẳng biết là đi đâu, tôi thấy họ tụ tập nhau nổi lên chống lại người Nga các anh. Tôi đi đến thành phố Bôcnia. Một gã Do Thái bỏ tiền ra mua tôi, không phải mua cho gã, mà để dùng tôi làm món hàng buôn bán. Tôi cam chịu cảnh ngộ ấy. Muốn sống được thì phải biết làm một việc gì. Tôi chẳng biết làm gì bởi thế tôi đành bán thân nuôi miệng. Nhưng lúc ấy, tôi nghĩ rằng hễ kiếm được ít tiền đủ để về quê nhà ở Buôclat là tôi sẽ dứt bỏ xiềng xích, dù là kiên cố đến mấy đi nữa. Vậy là tôi ở lại đấy. Khách của tôi là những pan giàu có, chúng chơi bời chè chén ở nhà tôi. Chúng phải trả giá đắt về những cuộc ăn chơi đó. Chúng đánh nhau, khuynh gia bại sản vì tôi. Có một tên trong một thời gian dài vẫn cố giành lấy tôi cho riêng mình hắn và một hôm, hắn làm thế này : hắn đến, mang theo tên gia nhân vác một cái bao tải. Tên pan hai tay cầm lấy bao tải và dốc ngược trên đầu tôi. Những đồng tiền vàng túa ra, đập xuống đầu tôi, và tôi vui thích nghe thấy tiếng tiền vàng rơi loảng xoảng xuống sàn nhà. Những mặc dầu vậy, tôi vẫn tống cổ tên quý tộc đó đi. Nó có cái mắt bự thịt, thô kệch, còn bụng thì cứ như cái gối to phồng. Nom nó như con lợn ỉn ăn no. Phải, tôi đã tống khứ thằng cha đó đi ; mặc dù nó nói rằng nó đã bán hết đất đai, nhà cửa, ngựa nghẽo để rắc vàng lên khắp người tôi. Hồi đó, tôi yêu một pan xứng đáng, mặt đầy vết chém. Mặt anh đầy vết chém ngang dọc vì những nhát gươm của bọn Thổ Nhĩ Kỳ : trước đó ít lâu, anh đứng về phía người Hy Lạp đánh lại chúng. Đấy mới thật là con người ! ? Người Hy Lạp thì thân thiết gì với anh, anh là người Ba Lan kia mà ? Nhưng anh ra trận, cùng họ chống lại kẻ thù của họ. Anh bị chúng đâm chém, lòi một mắt, bàn tay trái mất hai ngón ? Người Hy Lạp thì thân thiết gì với anh, anh là người Ba Lan kia mà ? Duyên do là thế này : anh thích làm nên chuyện phi thường. Và khi một con người ưa thích làm nên chuyện phi thường thì bao giờ người đó cũng biết lập kỳ công và sẽ tìm được chỗ có thể làm chuyện đó. Anh biết không, trong cuộc sống bao giờ cũng có chỗ để làm nên sự nghiệp phi thường. Còn những kẻ không tìm được cơ hội để lập nên kỳ công thì chỉ là những kẻ lười biếng hoặc hèn nhát, hoặc là không hiểu cuộc sống, vì nếu hiểu cuộc sống thì mỗi người đều muốn lưu lại bóng dáng mình sau khi mình không còn trên đời này nữa. Và như thế thì cuộc sống sẽ không ngốn ngấu con người không để lại vết tích gì ? Ồ, anh chàng bị chém nát mặt ấy đáng là con người. Anh sẵn sàng đi đến cùng trời cuối đất để làm được một việc gì. Hẳn là người Nga các anh đã giết anh ta trong thời gian nổ ra cuộc nổi loạn. Nhưng tại sao các anh lại đi đánh người Magya ? Này thôi, im đi ! ?
    oне не везло сна?ала
    ~ даже ,ак б
  5. conhuighe

    conhuighe Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    0
    Và để bắt tôi im lặng, bà lão Idecghin đột nhiên ngừng bặt, trầm ngâm suy nghĩ.
    -Tôi còn quen biết một người Magya. Một hôm anh ta bỏ tôi ra đi, lúc ấy là mùa đông, và mãi đến mùa xuân, khi tuyết tan, người ta mới tìm thấy anh ta trên cánh đồng, đầu bị đạn xuyên qua. Thế đấy ! Anh thấy chứ : tình yêu giết người không kém bệnh dịch hạch, tính ra thì không ít hơn đâu ? Vừa nãy tôi nói chuyện gì nhỉ ? À, nói về Ba Lan .. Phải, ở đấy tôi đã chơi canh bạc cuối cùng của tôi ! Tôi gặp một tay quý phái Ba Lan ? Tay này mới thật là đẹp trai ! Ranh như quỷ sứ ấy ! Còn tôi thì già rồi, ôi chao, tôi già rồi ! Lúc ấy tôi đã đến bốn mươi chưa nhỉ ? ? Có lẽ đến rồi đấy ? còn nó thì kiêu hãnh, được bọn đàn bà chúng tôi chiều chuộng. Tôi đau khổ vì nó. Đúng thế, nó muốn lập tức chiếm lĩnh tôi mà không tốn chút công sức nào, nhưng tôi đâu có chịu. Chưa bao giờ tôi chịu làm nô lệ cho bất cứ kẻ nào. Tôi đã dứt được thằng Do Thái, tôi cho nó vô khối tiền ? Bấy giờ tôi ở Cracôvi. Tôi đã có đủ mọi thứ : ngựa, vàng bạc, kẻ hầu người hạ ? Con quỷ kiêu ngạo ấy lui tới thăm tôi và vẫn muốn tôi tự gieo mình vào hai cánh tay nó. Chúng tôi cãi nhau ? tôi còn nhớ là vì chuyện ấy mà tôi đâm ra sọm người đi. Câu chuyện kéo dài khá lâu ? Tôi đã thắng : nó quỳ gối van xin tôi ? Nhưng vừa chiếm được tôi thì nó cũng bỏ tôi luôn. Thế là tôi hiểu tôi đã già rồi ? Ôi, điều đó chẳng dễ chịu gì cho tôi đâu ! Chẳng dễ chịu gì đâu ! Tôi thì tôi yêu nó, thằng quỷ sứ ấy ? Còn nó, khi gặp tôi, nó cười cợt .. cái thằng xỏ lấ thế ! Khi nói chuyện với những đứa khác, nó chế nhạo tôi, tôi biết. Chà, đau xót lòng tôi, thật đấy ! Nhưng nó vẫn ở đây, gần gũi, và dù sao tôi vẫn mê nó. Khi nó ra đi đánh nhau với người Nga các anh, lòng tôi đau đớn vô cùng. Tôi cố nén lòng, nhưng không thể được ? Và tôi quyết đi theo nó. Nó ở gần Vacxôvi, trong rừng ?
    Nhưng khi tôi đến nơi thì được biết bọn họ đã bị các anh đánh tan ? nó bị bắt làm tù binh, giam ở một làng cách đấy không xa.
    Tôi nghĩ : "Thế là ta không bao giờ còn gặp nó nữa ! ". Nhưng tôi muốn gặp nó. Thế rồi tôi cố tìm cách gặp nó bằng được. Tôi giả dạng làm một mụ hành khất, chân đi tập tễnh và mặt quấn băng, tìm đến cái làng nó bị giam. Chỗ nào cũng gặp người Cô dắc và lính tráng ? tôi đã phải trả một giá đắt để đến được nơi đó ! Tôi đã khó lòng mà lọt tới được ! Nhưng tôi cần phải đến. Thế là ban đêm, tôi bò đến chỗ họ bị giam giữ. Tôi bò trong vườn rau, giữa các luống đất và tôi thấy một tên lính gác đứng trên đường tôi đi ? Tôi đã nghe thấy bọn người Ba Lan đang hát và nói oang oang. Họ hát một bài ca ngợi Đức mẹ ? và nó cũng hát với họ ? Ackađec của tôi ? Tôi chua xót nghĩ rằng trước kia người ta bò rạp đến tìm tôi ? vậy mà bây giờ đã đến lúc tôi bò trên mặt đất như con rắn, tìm đến với một gã đàn ông và có lẽ là bò đến tìm cái chết của tôi cũng nên. Kìa, tên lính gác đã nghe ngóng, vươn người về phía trước. Tôi phải làm như thế nào đây ? Tôi đứng lên và tiến thẳng đến trước mắt hắn. Tôi không có dao, không có gì hết, chỉ có hai bàn tay và miệng lưỡi của tôi thôi. Tôi lấy làm tiếc rằng đã không giắt dao bên mình. Tôi thì thầm : "Ấy gượm ! ?" Nhưng tên lính đã chĩa lưỡi lê vào họng tôi. Tôi thì thầm nói với hắn " Đừng đâm, hãy gượm, nếu anh còn có một tấm lòng thì xin hãy nghe tôi ! Tôi không thể cho anh cái gì đâu, nhưng tôi van xin anh ? " Hắn hạ súng xuống và cũng thì thầm nói với tôi : "Xéo đi, mụ kia ! Xéo đi ! Mụ muốn gì ? " Tôi bảo hắn rằng con trai tôi hiện bị nhốt ở đây .. "Anh hiểu đấy, anh lính ạ, con trai tôi ! Anh cũng là con trai một người nào đó, phải không ? Thế thì anh hãy nhìn tôi đây, tôi cũng có một đứa con trai như anh, vậy mà bây giờ nó ở kia ! Cho tôi nhìn nó một tí, có lẽ chẳng bao lâu nữa nó sẽ chết ? chưa biết chừng ngày mai anh sẽ bị giết ? mẹ anh sẽ khóc anh chứ gì ? Và hẳn là anh đau lòng nếu chết mà không được nhìn mặt mẹ, phải không ? Con trai tôi cũng đau lòng như thế. Anh hãy thương lấy thân anh, thương nó, thương cả tôi nữa, vì tôi là người mẹ ! ?"
    Ôi chao, tôi nói với hắn lâu lắm ! Trời mưa, chúng tôi ướt ráo cả. Gió gào thét, gầm rú, lúc thì thốc vào lưng, lúc thì xô vào ngực tôi. Tôi đứng, lảo đảo trước mặt tên lính trơ trơ như tượng đá ấy .. Còn hắn thì luôn miệng nói : "Không !" Và mỗi lần nghe tiếng "Không !" lạnh lùng của hắn thì niềm mong muốn gặp Ackađec lại càng bừng cháy trong lòng tôi ?. Tôi vừa nó vừa đưa mắt lượng sức vóc tên lính : hắn nhỏ bé, gầy nhẳng và ho luôn miệng. Thế là tôi sụp xuống đất trước mặt hắn, ôm lấy đầu gối hắn, không ngớt van nài hắn bằng những lời lẽ nhiệt thành, rồi tôi quật hắn xuống. Hắn ngã vào đống bùn. Nhanh như cắt, tôi lật úp mặt hắn xuống đất, dìm đầu hắn xuống vũng nước để hắn khỏi kêu. Hắn không kêu, chỉ vùng vẫy, cố hất tôi khỏi lưng hắn. Còn tôi, hay tay ấn đầu hắn xuống bùn sâu hơn nữa. Hắn tắt thở ? Thế là tôi đâm bổ đến kho thóc, chỗ có tiếng hát của những người Ba Lan. "Ackađec !" - Tôi thì thầm gọi qua khe tường. Những người Ba Lan ấy sáng ý lắm, nghe tiếng tôi gọi, họ vẫn tiếp tục hát ! Kìa , đôi mắt Ackađec hiện ra trước mắt tôi. "Anh có thể ra được không ?" - "Được, chui qua dưới sàn !" - nó nói. "Ừ, thế thì ra đi". Rồi bốn người chui qua dưới sàn ván ra ngoài : ba người khác và Ackađec của tôi. "Bọn lính gác đâu ? " - Ackađec hỏi. "Nó nắm kia kìa !" Thế là họ im hơi lặng tiếng, nhẹ nhàng ra đi, khom mình sát đất. Trời mưa, gió gào thét. Chúng tôi đã ra khỏi làng và im lặng đi hồi lâu trong rừng. Chúng tôi đi thật nhanh. Ackađec dắt tay tôi, tay nó ấm và run run. Ôi ! ? Lúc nó chưa nói gì cả thì đi cạnh nó, tôi sung sướng làm sao. Đấy là những phút cuối cùng, những phút sung sướng trong cuộc đời đầy ham muốn của tôi. Nhưng chúng tôi ra đồng cỏ và dừng lại. Cả bốn người đều cảm tạ tôi. Ôi, họ nói lâu lắm và nhiều lắm, nói những gì tôi cũng chẳng rõ nữa ! Tôi chỉ nghe và nhìn gã pan của tôi. Nó sẽ làm gì cho tôi đây ? Đây này, nó ôm lấy tôi và nói rất nghiêm trang. Tôi không còn nhớ nó nói những gì, nhưng tóm lại nó bảo bây giờ để trả ơn tôi đã cứu nó ra khỏi chốn ấy, nó sẽ yêu tôi ? Nó quỳ xuống trước mặt tôi, mỉm cười nói với tôi : "Bà chúa của anh ơi !". Chà, *********, giả dối đến thế đấy ! ? Thế là tôi đá cho nó một cái và định đập vào mặt nó, nhưng nó né tránh được và bật dậy. Nó đứng trước mặt tôi, hầm hầm và tái mét ? Ba tên kia cũng đứng đấy, đứa nào cũng cau có. Cả bọn đều im lặng. Tôi nhìn chúng ? Tôi còn nhớ, lúc đó tôi chỉ cảm thấy chán ngán vô cùng, không còn thiết tha gì nữa ? Tôi bảo chúng : "Các người đi đi !" Còn chúng, đồ chó, chúng bảo tôi : "Chị sẽ quay lại đằng ấy và chỉ cho chúng biết chúng tôi đi đường nào chứ ?" Quân đê hèn làm sao ! Nhưng rồi chúng cũng bỏ đi. Và tôi cũng đi .. Hôm sau người Nga các anh bắt được tôi, nhưng rồi họ thả ngay. Thế là tôi thấy đã đến lúc tôi phải xây một tổ ấm, tôi sẽ sống cuộc đời của con chim cu ! Tôi đã đâm ra ì ạch, cánh đã yếu, lông đã bợt màu ? Đã đến lúc sống chân chỉ, đã đến lúc rồi ! Tôi đến Galixi, rồi từ đó về Đôbrutja. Và tôi ở đây đã ba chục năm trời. Tôi lấy một anh chồng người Mônđavi, anh ấy mất đã gần một năm. Còn tôi vẫn sống ! Sống đơn độc một mình .. Không, không phải một mình, mà sống với những người kia.
    Bà lão đưa tay về phía biển, mặt biển khắp nới đều yên tĩnh. Đôi khi một âm thanh ngắn ngủi, hư ảo bật lên rồi tắt lặng ngay.
    -Họ yêu tôi. Tôi kể cho họ nghe đủ thứ chuyện. Họ cần nghe những chuyện đó. Bọn họ còn trẻ cả ? Sống với họ tôi thấy thú vị lắm ? Tôi nhìn họ và nghĩ : "Đã có thời ta cũng như thế ? Có điều là thời ấy, cái thời sôi nổi xa xưa của ta, con người có nhiều sức lực và nhiều lửa sống hơn, vì thế sống vui hơn và thú hơn ? Đúng thế ! ?"
    Bà lão im lặng. Ngồi bên bà, tôi cảm thấy buồn man mác. Bà lão thiu thiu ngủ, đầu lắc la lắc lư và khẽ lầm rầm cái gì không rõ ? có lẽ bà cầu nguyện.
    Trên mặt biển nhô lên một đám mây đen nặng nề, có đường viền gân guốc, giống như một chỏm núi. Đám mây trườn vào thảo nguyên. Từ chỏm mây, có những mảng mây tách ra, bay vượt lên trước và lần lượt che tắt hết ngôi sao này đến ngôi sao khác. Biển động ầm ầm. Cách chúng tôi không xa, dưới những gốc nho, người ta hôn nhau, thì thầm, thở dài. Một con chó sủa rống lên ở một nơi nào xa tít trong thảo nguyên ? Không khí đầy một mùi kỳ lạ, làm ngứa ngáy lỗ mũi, kích thích thần kinh. Bóng mây in xuống mặt đất từng đám dày đặc, trườn đi, trườn đi, biến mất rồi lại xuất hiện ? Ở chỗ mắt trăng trước kia, chỉ còn lại một vệt trắng đục, đôi khi bị một mảng mây xanh nhạt hoàn toàn che khuất. Xa xa trên thảo nguyên lúc này đã trở nên đen ngòm và đáng sợ, như đang ẩn náu và thu giấu trong mình một cái gì bí ẩn, có những đốm lửa xanh lam bùng lên. Chúng xuất hiên trong giây lát, khi thì chỗ này, khi thì chỗ kia rồi tắt đi, chứ như có mấy người tản mát trong thảo nguyên, ở cách xa nhau, đang tìm kiếm cái gì, xòe diêm lên những lại bị gió thổi tắt ngay. Đấy là những lưỡi lửa xanh rất kì dị, gợi nhớ tới một cái gì hoang đường.
    -Anh có thấy những ánh lửa không ? - Bà lão Idecghin hỏi tôi.
    -Những ánh lửa xanh kia phải không ? - Tôi vừa nói vừa trỏ ra thảo nguyên.
    -Ánh lửa xanh hả ? Ừ, đúng đấy ? Vậy ra những ánh lửa ấy vẫn còn bay lượn ! Lạ thật ? Nhưng mắt tôi bây giờ không còn thấy những ánh lửa ấy nữa. Bây giờ có nhiều cái tôi không nhìn thấy được.
    Trước đo tôi đã được nghe một đôi điều về nguồn gốc những tia lửa này, nhưng tôi muốn nghe bà lão Idecghin kể câu chuyện ấy.
    -Những tia lửa ấy từ trái tim cháy của Đankô tóe ra đấy. Thưở xưa, có một trái tim một hôm đã bốc cháy ? Những tia lửa này là ở trái tim đó mà ra ? Tôi sẽ kể cho anh câu chuyện ấy ? cũng là một câu chuyện cổ tích cũ ? Câu chuyện cũ kỹ, toàn những câu chuyện cũ kỹ cả thôi ! Anh thấy không, thời xưa có biết bao nhiêu chuyện hay ? .. Còn thời nay chẳng có gì hết : không có công việc, không có con người, cũng chẳng có những chuyện cổ tích như thời xưa nữa ? Tại sao ? Nào, nói đi .. Anh không trả lời được đâu .. Anh biết được những gì nào ? Bọn trẻ các anh biết được những gì ? Hà, hà ! .. Nếu các người nhìn kỹ vào thời xưa thì sẽ giải đáp được hết ? Nhưng các người không nhìn, và vì thế các người không biết sống .. Tôi không nhìn thấy cuộc đời chăng ? Ồ, tôi thấy hết, mặc dù mắt tôi kém ! Tôi thấy thiên hạ không sống, mà chỉ đắn đo, suy tính và phí cả đời vào việc đắn đo suy tính đó. Rồi khi sống uổng hết một đời người vì hao phí thời gian thì lại bắt đầu khóc than cho số phận. Nhưng viện ở số phận ra mà làm gì ? Số phận của mỗi người là ở chính bản thân người đó ! Cho tới nay, tôi vẫn gặp đủ mọi loại người, nhưng không thấy những người dũng cảm ! Họ đâu cả rồi ? .. Người đẹp cũng mỗi ngày một ít đi ..
    Bà lão bắt đầu suy nghĩ về việc những người dũng cảm và đẹp biến đi đâu hết cả, vừa suy nghĩ vừa chăm chú nhìn thảo nguyên tối thẫm, như để tìm trong đó câu trả lời. Tôi chờ nghe câu chuyện của bà lão và im lặng, sợ rằng hỏi câu gì thì cụ sẽ lại xoay sang chuyện khác.
    Và bà lão bắt đầu kể.
    oне не везло сна?ала
    ~ даже ,ак б
  6. conhuighe

    conhuighe Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    0
    "Thưở xưa, trên trái đất này, có một đám người sinh sống ở một khu vực nọ, xung quanh khu lều trại của họ ba bề là rừng rậm bao bọc, không thể len qua được, phía kia là thảo nguyên. Đó là những người vui vẻ khỏe mạnh và dũng cảm. Nhưng rồi thời buổi khó khăn đã tới : có những bộ lạc khác không hiểu từ đâu xuất hiện, xua đuổi những người vẫn ở đây từ trước vào tít trong rừng sâu. Ở đấy chỉ có đầm lầy và bóng tối vì rừng đã lâu đời lắm rồi, cành lá quấn quít dày rậm đến nỗi không còn nhìn thấy bầu trời nữa, và tia sáng mặt trời phải khó khăn lắm mới lọt qua đám lá um tùm để soi rọi chút ít xuống đầm lầy. Nhưng khi những tia nắng chiếu xuống mặt nước đầm lầy thì mùi hôi thối bốc lên đến nỗi họ lăn ra chết, hết người này đến người khác. Đàn bà trẻ con trong bộ lạc khóc lóc, còn các ông bố thì nghĩ ngợi và buồn rầu. Cần phải ra khỏi khu rừng này, và muốn vậy chỉ có hai con đường : con đường thứ nhất là trở lại phía sau thì có những kẻ thù mạnh và hung dữ, con đường thứ hai là tiến lên phía trước thì ở đó là những cây khổng lồ, cành tôi khỏe, ôm chặt lấy nhau, rễ ngoằn ngoèo đâm sâu xuống đất bùn dính chắc của đầm lầy. Những thân cây trơ trơ như đá ấy ban ngày đứng sừng sững, im lìm trong ánh sáng lờ mờ, xám xịt, và tối đến, khi đốt lửa lên thì cây cối càng dịch sát lại bao quanh đoàn người. Đêm cũng như ngày, xung quanh đoàn người bao giờ cũng có một vòng bóng tối vững chắc chỉ chực nghiến bẹp họ, mà họ thì đã quen với thảo nguyên bao la. Khi gió đập các ngọn cây và cả khu rừng gào thét như hăm dọa và hát bài ca đưa đám họ thì cảnh tượng càng ghê rợn hơn. Dù sao họ vẫn là những người dũng cảm, và họ có thể chọi nhau một mất một còn với những kẻ đã có lần đánh bại họ, nhưng họ không thể chết trong chiến đấu được, vì họ còn có nhưng lời di chúc, nếu họ chết thì những lời di chúc sẽ mất theo. Bởi vậy, họ cứ ngồi đấy và suy nghĩ bao đêm ròng, giữa tiếng cây rừng xào xạc, trong hơi thối độc địa của đầm lầy. Họ ngồi đấy và ánh lửa tạo nên những bóng đen chập chờn nhảy nhót xung quanh họ trong một điệu vũ thầm lặng, mọi người đều có cảm giác như đấy không phải là những bóng đen nhảy múa, mà là ma quỷ của rừng và đầm lầy đang hân hoan đắc thắng ? Họ vẫn ngồi đấy và nghĩ ngợi. Nhưng không có cái gì, cả công việc lẫn đàn bà, lại làm suy mòn thể xác và tâm hồn người ta bằng những ý nghĩ buồn rầu. Người ta suy yếu đi vì lo nghĩ ? Nỗi khiếp sợ nảy nở trong bọn họ, làm tê liệt những cánh tay rắn chắc họ, đàn bà khóc lóc trước tử thi những người chết vì uế khí và khóc than cho số phận những người còn sống nhưng đã mất chí khí vì hoảng sợ, tiếng khóc của họ làm cho đoàn người hoang mang thêm. Trong rừng, người ta bắt đầu nghe thấy những câu nói hèn nhát, lúc đầu còn rụt rè, thì thầm, rồi càng về sau càng lớn tiếng hơn ? Họ đã định đến nộp mình cho quân thù và dâng tự do của mình cho chúng. Vì kinh hoảng trước cái chết, không ai còn sợ sống nô lệ nữa ? Nhưng đúng lúc đó, Đankô xuất hiện và một mình anh, anh cứu thoát cả đoàn người ".
    Rõ ràng là bà cụ vẫn thường kể câu chuyện trái tim cháy của Đankô. Cụ nói như hát, và giọng nói xin xít, rè rè của cụ khiến tôi hình dung rõ mồn một tiếng ào ào của khu rừng có những con người bất hạnh, kiệt lực, chết dần vì hơi độc của đầm lầy ?
    "Đankô là một người trong bọn họ, một chàng trai trẻ đẹp. Những người đẹp bao giờ cũng can đảm. Và anh nói với các bạn anh như thế này :
    -Nghĩ ngợi không thể hất bỏ được tảng đá trên con đường ta đi. Kẻ nào không mó tay vào việc thì chẳng làm nên công chuyện gì. Cứ lo nghĩ làm chi cho hao tâm tổn sức ? Hãy đứng lên, chúng ta sẽ đi sâu vào rừng và xuyên qua rừng, bởi vì rừng cũng có chỗ kết thúc, mọi cái trên đời đều có chỗ kết thúc ! Ta đi đi ! Nào ! Tiến bước ! ?
    Họ nhìn anh và thấy anh hơn hẳn tất cả bọn họ, vì trong mắt anh ngời lên bao nhiêu sức mạnh và nhiệt tình sôi nổi.
    -Anh dẫn chúng tôi đi ! - Họ bảo anh.
    Thế là anh dẫn họ đi .. "
    Bà lão im lặng và nhìn ra thảo nguyên, ở đó bóng tối mỗi lúc một dày đặc lại. Những tia lửa tóe ra từ trái tim cháy của Đankô sáng bừng lên ở nơi nào phía xa, nom như những bông hoa xanh bay lượn trên không, chỉ nở ra trong giây lát.
    "Đankô dẫn họ đi. Mọi người nhất loạt đi theo anh : họ tin anh. Đường đi thật khó khăn ! Rừng tối om, cứ bước một bước, đầm lầy lại há cái mõm tham lam hôi thối ra nuốt mất người, và cây cối sừng sững chặn đường như một bức thành kiên cố. Cành cây quấn quýt lấy nhau ; rễ bò lan khắp nơi như đàn rắn, và cứ mỗi bước đi, họ lại tốn bao nhiêu mồ hôi và máu. Họ đi lâu lắm ? Rừng mỗi lúc một dày rậm, sức lực mỗi lúc một suy kiệt ! Họ bắt đầu oán trách Đankô, trách anh trẻ người non dạ, đưa họ đi vào chỗ vu vơ. Nhưng anh vẫn dẫn đầu đoàn người, hăng hái và tươi tỉnh.
    Rồi một hôm, dông bão gầm thét trên rừng, cây cối ào ào ghê rợn. Trong rừng bỗng tối mù tối mịt, tưởng chừng như bao nhiêu đêm tối trên đời kể từ khi có rừng đến nay đều tụ cả lại. Những con người nhỏ bé đi giữa những cây lớn, trong tiếng sấm đáng sợ. Họ đi, còn những cây khổng lồ lắc lư, nghiến ken két và gào lên bài ca thịnh nộ. Tia chớp bay trên các ngọn cây, ánh lửa xanh lạnh lẽo rọi sáng mọi vật trong khoảng khắc và biến mất cũng nhanh như khi xuất hiện, làm mọi người kinh sợ. Cây cối được ánh chớp lạnh lẽo rọi sáng, nom như những vật sống, dang rộng những cánh tay dài ngoằn ngoèo, đan thành một mạng lưới dày xung quanh đoàn người, cố ngăn chặn họ. Từ trong đám cành tối tăm, có cái gì đáng sợ, hắc ám, lạnh lẽo nhìn đám người đang đi. Đường đi gian nan, đoàn người mệt lả, mất tinh thần. Nhưng họ xấu hổ, không dám thú nhận sự yếu hèn của mình, vì thế họ trút căm hờn và giận dữ vào Đankô, con người dẫn đầu họ. Họ trách anh không biết dẫn dắt họ, thế đấy !
    Họ dừng lại và giữa tiếng gầm gào đắc thắng của rừng, trong bóng tối run rẩy, những con người mệt mỏi và dữ tợn ấy bắt đầu kết tội Đankô.
    -Mi là kẻ hèn mọn làm hại chúng tao, - họ bảo anh - Mi dẫn chúng tao đi và làm chúng tao kiệt lực, vì vậy mi phải chết !
    -Các người bảo : "Dẫn chúng ta đi !" và tôi dẫn các người đi ! - Đankô hét lên, hiên ngang đứng trước mặt họ. - Tôi có gan dẫn đường và tôi dẫn các người đi ! Còn các người, các người đã làm gì để tự giúp mình ? Các người chỉ cắm cổ đi và không biết giữ sức để đi được lâu dài hơn ! Các người chỉ mải miết đi như đàn cừu !
    Nhưng những lời đó làm họ càng điên tiết hơn.
    -Mi phải chết ! Mi phải chết ! - Họ gầm lên.
    Rừng cũng gầm lên, gầm mãi lên, hòa với tiếng hét của họ, và ánh chớp xé toang bóng tối thành từng mảnh. Đankô nhìn đám người mà anh đã ra công khó nhọc vì họ và thấy rằng họ là những con thú. Nhiều người xúm quanh anh, nhưng trên mặt họ không có chút gì là cao thượng và không thể mong họ tha thứ cho anh. Thế là trong tim anh cũng bùng lên niềm phẫn nộ sục sôi, nhưng lòng thương người đã dập tắt ngọn lửa uất hận ấy. Anh yêu họ và nghĩ rằng không có anh, có lẽ họ chết mất. Trong tim anh bừng lên ngọn lửa nhiệt thành thiết tha muốn cứu thoát họ, đưa họ lên con đường dễ dàng, và những tia lửa của niềm mong muốn mãnh liệt ấy lóe lên trong mắt anh ? Còn họ thấy thế, lại tưởng anh nổi khùng nên mắt mới sáng quắc như vậy, họ liền giữ miếng như những con chó sói, chờ xem anh đánh lại họ, họ tiến sát đến, vây chặt lấy anh để dễ bề bắt và giết anh. Anh đã hiểu ý nghĩ của họ, do đó ngọn lửa trong trái tim anh càng cháy rực hơn nữa, vì ý nghĩ của họ làm anh buồn rầu.
    Rừng vẫn hát bài ca thê lương, sấm chớp đùng đùng, mưa như trút nước.
    -Ta sẽ làm gì cho mọi người đây ?! - Đankô gào to hơn sấm.
    Bỗng nhiên, anh đưa hai tay lên xé toang ***g ngực, dứt trái tim ra và giơ cao trên đầu.
    Trái tim cháy sáng rực như mặt trời, sáng hơn mặt trời, và cả khu rừng im lặng, sáng lên dưới ngọn đuốc của lòng thương yêu vĩ đại đối với mọi người. Trước ánh sáng của trái tim Đankô, bóng tối tan tác và run lẩy bẩy, nhào xuống cái mõm hôi thối của đầm lầy nơi rừng sâu núi thắm. Đoàn người sửng sốt, đứng trơ ra như phỗng.
    -Đi thôi ! - Đankô thét lớn và xông lên phía trước, về chỗ của mình, tay giơ cao trái tim sáng rực, soi đường cho mọi người.
    Họ xông lên theo anh, mê man như bị chài. Rừng lại bắt đầu ồn ào, ngạc nhiên lắc lư các ngọn cây, nhưng tiếng ồn ào của rừng bị tiếng chân người rầm rập át đi. Họ chạy nhanh và mạnh bạo, cảnh tượng kỳ diệu của trái tim cháy lôi cuốn họ. Bây giờ vẫn có người chết, nhưng họ chết không than vãn và khóc lóc. Còn Đankô vẫn luôn luôn đi ở phía trước và trái tim anh vẫn cháy bùng bùng, sáng rực !
    Bỗng nhiên, rừng giãn ra nhường lối cho anh, giãn ra và lùi lại ở phía sau, dày đặc và câm lặng, còn Đankô và tất cả đám người ấy lập tức chìm vào cái biển ánh sáng mặt trời và không khí trong lành được nước mưa gột sạch. Dông bão ở đằng kia, sau lưng họ, trên khu rừng, còn ở đây là mắt trời rực rỡ, thảo nguyên thở đều đều, cỏ ngời sáng vì những giọt mưa chói lọi như kim cương và sông lấp loáng ánh vàng ? Trời đã về chiều và dưới ánh hoàng hôn, sông đỏ như máu nóng hổi phụt ra từ bộ ngực bị xé rách của Đankô.
    Chàng Đankô can trường và kiêu hãnh đưa mắt nhìn thảo nguyên bao la trước mặt, sung sướng nhìn khoảng đất tự do và bật lên tiếng cười tự hào. Rồi anh gục xuống và chết.
    Đoàn người vui sướng và tràn đầy hy vọng, không nhận thấy Đankô đã chết và không thấy trái tim can đảm của anh vẫn cháy bừng bừng cạnh xác anh. Chỉ có một người vốn tính cẩn thận nhận thấy điều đó và sợ xảy ra chuyện gì không hay, liền dẫm chân lên trái tim kiêu hãnh ấy ? Trái tim tóe ra một loạt tia sáng, rồi tắt ngấm ? "
    -Đấy, duyên do của những ánh lửa xanh thường xuất hiện trên thảo nguyên vào lúc trước cơn dông là như vậy !
    Bây giờ khi bà lão đã kể xong câu chuyện cổ tích tuyệt đẹp của mình, thảo nguyên bỗng yên tĩnh lạ thường, như kinh ngạc về sức mạnh của chàng Đankô dũng cảm đã đốt cháy trái tim mình soi đường cho mọi người và chết mà không đòi hỏi gì cả.
    Bà lão thiu thiu ngủ. Tôi nhìn bà cụ và nghĩ : "Trong trí nhớ cả bà lão còn lư lại bao nhiêu truyện kỳ diệu và biết bao nhiêu hồi ức nữa ?". Rồi tôi nghĩ về trái tim cháy hùng vĩ của Đankô và về trí tưởng tượng của nhân loại đã sáng tạo nên biết bao nhiêu truyền thuyết đẹp đẽ và đầy khí phách.
    Gió thổi tung những manh áo rách và phơi trần bộ ngực khô đét của bà lão Idecghin đang thiếp đi mỗi lúc một say. Tôi kéo lại manh áo che cho tấm thân già lão và cũng nằm xuống cạnh bà. Thảo nguyên vắng lặng và tối om. Mây đen vẫn trôi trên trời, chầm chậm, tẻ ngắt ? Biển ầm ì một điệu buồn bã.
    oне не везло сна?ала
    ~ даже ,ак б
  7. conhuighe

    conhuighe Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    0
    Mikhail Alexsandrovich Sholokhov là nhà văn Xô Viết đã tùng đoạt giải Nobel văn học với tác phẩm Sông Đông êm đềm.Cái Bớt là một truyện ngắn đặc sắc của ông.
    MIKHAIL ALEXSANDROVICH SHOLOKHOV
    (Nobel Văn Chương năm 1965)
    Mikhail Alexsandrovich Sholokhov sinh năm 1905 tại làng Veshenskaya ,
    bên bờ sông Don. Giòng họ ông đã ở đó từ nhiều đờị Cha mẹ Sholokhov tuy nghèo, nhưng vẫn cố gắng gửi ông lên Mạc Tư Khoa ăn học. Đến năm mười lăm tuổi ông trở về quê dạy học, làm nhân viên kiểm tra thực phẩm, làm nhà toán học, sau đó còn làm cả chục nghề khác nhaụ Thời gian ấy, trong làng
    chỉ có ông và người cha là đàn ông. Đó là những năm 1920-1923 đẫm máu, và ông đã chứng kiến trước mắt mình ý nghĩa thật sự của cuộc nội chiến.
    Ông khởi sự viết từ năm mười tám tuổi và sau đó mau chóng trở thành một trong những nhà văn nổi tiếng của Liên Bang Sô Viết. Cả triệu ấn bản của ông được xuất bản khắp nơi trên thế giớị với số tiền bản quyền khổng lồ, dư thưa cho ông sống nhung lụa trong những thành phố xa hoa, nhưng ông lại chọn cuộc đời êm đềm với vợ tại ngôi làng của cha ông mình bên bờ sông Don. Ông có một trang trại cùng bầy gia súc nho nhỏ, và ông rất an vui hưởng cuộc sống
    điền viên của mình. Thời gian rảnh rỗi, ông còn đi săn và câu cá.
    Dù được tôn suy là anh hùng Sô Viết, Sholokhov vẫn liên tục khẳng định và đòi hỏi quyền độc lập qua các tác phẩm của mình và sự thách đố thẳng thừng đối với quan điểm của chủ nghĩa Cộng Sản và nền văn chương độc tài Sô Viết. Do đó ông là một trong những nhà văn Nga từng biện hộ cho Boris Pasternak trong cuộc luận chiến về tác phẩm Dr. Zhivago . Sholokhov gia nhập Hồng Quân Liên Sô năm 1920, và trở về quê nhà năm 1924 tại ngôi làng của người dân Cossak bên bờ sông Don, miền nam nước Ngạ Ông gia nhập đảng Cộng Sản Liên Sô
    năm 1932 và năm 1961 là thành viên Ủy Ban Trung Ương. Ông từng tháp tùng lãnh tụ Sô Viết Nikita Khrushchev trong chuyến thăm Hoa Kỳ năm 1959.
    Tác phẩm đầu tiên của ông là tuyển tập Donskie Rassskazy (1926) (Những Mẩu Chuyện Bên Bờ Sông Don). Năm 1925, ông bắt đầu viết bộ Tiểu thuyết lừng danh Tikhy Don (Sông Don Êm Đềm). Quá trình sáng tác của ông tuy chậm nhưng đạt kết quả phi thường. Phải mất mười hai năm để hoàn tất Tikhy
    Don (1928-1940). Tác phẩm gồm bốn tập, chia thành hai phần. Sau đó, ông dành suốt hai mươi tám năm để hoàn tất bộ tiểu thuyết nổi tiếng khác, Pondnyataya Tselima (1932-1960) gồm hai phần , Đất Vỡ Hoang và Mùa Gặt Trên Giòng Sông Don. Ngoài ra còn có Oni Srazhalis Za Rodinu (1942) (Họ Chiến Đấu Cho Tổ Quốc, tác phẩm là thiên anh hùng ca về người dân Sô Viết
    trong cuộc chiến chống quân Đức xâm lăng vào Thế Chiến Thứ Hai . Tác phẩm nổi tiếng vang dội khác của Sholokhov, Tikhy Don (Sông Don Êm Đềm) phản ánh người dân Cossak anh dũng bên bờ sông Don và cuộc chiến chống quân Bolshevicks để dành độc lập. Tác phẩm đươc giải Prize năm 1941, và còn được phong hiệu là tấm gương vẻ vang cho nền Xã Hội Hiện Thực.
    Năm 1965, Sholokhov được giải Nobel Văn Chương. Ông vinh dự là người đầu tiên trong khối Liên Bang Sô Viết nhận được giải thưởng Nobel. Ngoài ra ông còn nhận được các giải thưởng khác như, The Order of Lenin năm 1955 và The Lenin Prize năm 1960.
    Chúng ta cùng thưởng thức truyện ngắn sau đây của ông, hãy cùng nhìn nội dung truyện trong tinh thần Nhân Bản và loại bỏ những Ý Thức Hệ, những chủ nghĩa đối nghịch nhau để thấy những mâu thuẫn, những đau thương tột cùng của con người phải gánh chịu trong bất cứ cuộc nội chiến nàọ
    Cái Bớt
    MIKHAIL ALEXSANDROVICH SHOLOKHOV
    (Nobel Văn Chương năm 1965)
    Trên mặt bàn, mấy chiếc vỏ đạn khét lẹt mùi thuốc súng, con xúc xắc làm bằng xương cừu, tấm bản đồ dã chiến, bàn thông báo, bộ Dây cương với riềm tua trang trí bằng kim loại sực mùi mồ hôi ngựa và một góc bánh mì. Tất cả những thứ đó đặt trên bàn, còn Nhicônca Côsêvôi chỉ huyđội kỵ binh, ngồi trên chiếc ghế dài đẽo bằng gỗ đãmốc meo vì tường ẩm, tựa lưng sát bệ cửa sổ. Cây bút
    chì kẹp giữa mấy ngón tay tê giá, cứng đờ. Bên cạnh những tờ tranh áp phích cũ trải trên mặt bàn có bản khai lý lịch đang viết dở. Tờ giấy sù sì ấy giới thiệu rất ngắn gọn: Côsêvôi Nhicôlaị chỉ huy đội kỵ Binh, làm ruộng, đoàn viên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Ngạ
    Trước cột " tuổi " cây bút chì chậm rãi ghi: 18 tuổi .
    Nhicônca có đôi vai rộng, nom anh chẳng hợp với tuổi tác.
    Đôi mắt với những nếp nhăn và cái lưng gù như ông cụ làm anh trông già đị
    - Anh ấy chỉ là chú nhóc búng ra sữa, non choẹt, anh em trong đơn vị kỵ binh thường nói đùa như vậy! ấy thế mà đố tìm được ai như anh đấy; diệt được hai băng phỉ mà hầu như không bị thiệt hại gì, và suốt nửa năm trời dẫn đội kỵ binh lao vào các trận đánh và giao chiến, chẳng thua kém bất kỳ vị chỉ huy già dặn nào!
    Nhicônca thấy xấu hổ vì cái tuổi mười tám của mình. Bao giờ cũng vậy, hễ đến cái cột "tuổi" đáng ghét kia là cây bút chì ghi chậm lại, như bò trên giấy, còn hai gò má của Nhicôn ca thì cứ đỏ ửng lên, như tức tối điều gì.
    Bố Nhicônca là người Kadắc và tổ tiên bố anh cũng là dân Kadắc. Anh còn nhớ mang máng khi anh lên năm, sáu tuổi, bố anh thường đặt anh lên lưng con ng+.a chiến của mình.
    - Cu con hãy bám lấy bờm! giọng ông ta cất to, còn bà mẹ thì từ trong bếp mặt tái xanh, mỉm cười với Nhicônca và giương tròn hai mắt nhìn đôi chân nhỏ xíu đang quắp chặt lấy cái
    sống lưng nhọn của con ngựa, rồi lại nhìn người bố đang
    giữ dây cương.
    Chuyện xảy ra đã lâu lắm rồị Bố Nhicônca lao vào cuộc
    chiếntranh chống bọn Đức, và mất tích. Không thấy tăm hơi
    gì nữạ Bà mẹ qua đời, Nhicônca thừa hưởng ở bố cái
    tính yêu quý ngựa, trí dũng cảm vô song và cũng có cái bớt
    giống hệt bố, to bằng quả trứng chim câu nằm phía trên ma
    (''t cá chân tráị Chưa đầy mười lăm tuổi, anh đã lang bạt
    nay đây mai đó đi làm thuê, rồi sau xin đượcchiếc áo da
    lính và theo trung đoàn Hồng Quân qua làng đi đánh bọn Vraghen.
    Mùa hè này Nhicônca cùng tắm ở sông Đông với cậu chính
    ủỵ Cậu ta ngoẹo cái đầu bị chấn thương, vừ vỗ vào cái
    lưng gù rám nắng của Nhicônca, vừ nói lắp:
    - Cậu ấy à? Cậủ Cậu là thằng tốt? tốt số đấy! Thật
    mà, cậu là thằng tốt số! Người ta b ảo cái bớt là
    tướng tốt số đấy!
    Nhicônca nhe răng, ngụp xuống nước, rôi vừa thở phì phì,
    vừa ngoi lên khỏi mặt nước nói to:
    - Cậu chỉ bốc phét, cái anh chàng kỳ quặc này! Mình côi cút
    từ bé, cả cuộc đời đi làm thuê, mà lại bảo là mình tốt
    số!...
    Rồi Nhicônca bơi ra doi cát vàng bao quanh con sông Đông.
    *
    Căn nhà, nơi Nhicônca đóng quân ở nhờ, nằm trên bờ dốc
    đứng sông Đông. Từ những ô cửa sổ, nhìn thấy rõ một
    dải sông Đông màu xanh lam, một mặt nước sóng sánh óng lên
    như lớp thép láng đen. Những đêm giông bão, sóng vỗ oằm
    oạp dưới chân bờ dốc, những tấm ván che cửa sổ buồn bã
    sụt sùị Nhicônca có cảm giác nước đang lẹ Làng luồn vào
    những khe hở của nền nhà va dâng lên dần, lay động căn
    nhà.
    Anh muốn chuyển sang căn nhà khác, nhưng rồi lại thôi và ở
    đây đến tận mùa thụ Một buổi sớm giá lạnh, Nhicônca
    bước ra thềm nhà, tiếng giày đinh cồm cộp phá vỡ bầu
    không khí tĩnh mịch mỏng manh. Anh đi xuống khu vườn anh đào
    nhỏ Và ngả mình trên đám cỏ ướt trắng sương đêm. Anh nghe
    rõ tiếng bà chủ trong nhà kho đang vỗ về con bò cái cho nó
    đứng yên, tiếng bê con khàn khàn vòi vĩnh, và những tia sưa
    chảy va vào thành bình kêu lanh canh.
    Ngoài sân, cánh cửa rào kêu ken két, có tiếng chó sủạ Nghe
    thấy giọng trung đội trưởng nói:
    - Thủ trưởng có nhà không?
    Nhicônca trống khủy tay nhỏm dậỵ
    -Tôi đây! Lại có chuyện gì ngoài đó hả ?
    - Có người đưa thư hỏa tốc từ trong xã Kadắc tớị
    Anh ta nói bọn phỉ đã xuyên qua khu Xanxki, chiếm nông trường
    quốc doanh Gorusinxki rồỉ
    - Dẫn anh ta vào đây !
    Người đưa thư kéo con ngựa đầm đìa mồ hôi nóng hổi về
    phía tàu ngựạ Đến giữa sân, nó khuỵu hai chân trước rồi
    ngã kềnh ra, thở phì phì từng hơi đứt quãng rồi nằm
    chết luôn, đôi mắt lờ đờ của nó còn nhìn trừng trừng
    con cho xích đang sủa một cách tức tốị Nó chết vì người
    đưa thư đã chở chiếc bao thư có đóng ba dấu chữ thập,
    nó phóng vượt bốn chục dặm đường, thẳng một lèo không
    nghỉ chân.
    Đọc xong lá thư của ông chủ tịch yêu cầu anh đưa đội kỵ
    binh đến ứng cứu, Nhicônca đi vào phòng, vừa đeo kiếm vừa
    suy nghĩ, vẻ mệt mỏi: " Giá được đi dâu học, nhưng đây lại
    có phỉ... Cậu chính ủy chả vẫn kê mình rằng chữ nghĩa
    viết chẳng nên thân mà cũng là chỉ huy kỵ binh? Mình đây co
    ''lỗi gì, nếu chưa kịp học xong trường tiểu học? Tay ấy kỳ
    cục thật? Giờlại có phỉ... Máu lại đổ, mà sống thế này
    mình đã mệt mỏi lắm? Mọi thứ đều chán ngán lắm rồỉ"
    Anh bước ra thềm, vừa đi vừa nạp đạn vào khẩu cácbin,
    nhưng những ý nghĩ, như ngựa quen đường cũ lại vụt đến
    với anh: "Giá được về thành phố? Được đi học?"
    Anh đi ngang qua con ngựa chết, vào tau ngựạ Nhìn vệt máu đen
    rỉ ra từ hai cánh mũi bám đầy bụi của nó, anh quay mặt đi
    chỗ khác.
    oне не везло сна?ала
    <FONT color=fuchsia face="Times New Roman
  8. conhuighe

    conhuighe Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    0
    Dọc theo con đường mùa hè và những vết xe bị Gió xói mòn
    là những đám cỏ màu lông chuột mọc xoắn xít, những bụi
    tần lê và ngưu bàng xoè tán um tùm. Trên con đường này,
    trước đây người ta vẫn chở cỏ khô đến các kho lúa nằm
    im trên thảo nguyên ánh lên màu hồ phách, còn con đường mòn
    nằm trải dài đã được vun thành những gò đất dưới
    những cột điện báọ Hàng cột điện chạy vút vào trong đám
    sương mù trắng đục của mùa thu, băng qua các khe lạch. Gã thủ
    lĩnh dẫn năm chục tên Kadắc vùng sông Đông và Cuban, những
    kẻ bất mãn với chính quyền Sô Viết, theo con đường bóng
    nhẫy, đi qua những hàng cột điện nàỵ Đã ba ngày đêm, như
    con sói bị đàn cừu làm cho một phen điên đảo, chúng rút
    chạy theo con đường băng qua vùng đất hoang không có đường
    xá. Bám sát sau lưng chúng là đơn vị Côsêvôị
    Toán phỉ gồm những kẻ bất trị, những tên lính từng trải,
    song thủ lĩnh của chúng cứ phải suy nghĩ rất lung: y rướn
    người đứng trên bàn đạp, hai mắt bao quát nhìn thảo nguyên,
    ước tính quãng đường đi tới rìa rừng màu xanh nhạt trải
    dài bên kia bờ sông Đông.
    Cứ thế, bọn chúng rút đi như bầy sói, còn đội kỵ binh của
    Nhicônca Côsêvôi vẫn lần theo vết chân phía sau chúng.
    Vào những ngày hè đẹp trời, trên các thảo nguyên vùng sông
    Đông những bông lúa mì đung đưa reo vui xao xác dưới bầu
    trời trong suốt. Cảnh ấy có trước mùa cắt cỏ, khi những
    sợi râu tơ trên bông lúa mì chắc hạt đen sẫm lại, tựa
    đám ria mép lún phún trên khuôn mặt chàng trai mười bảỵ Cây
    lúa lớn như thổi và vươn cao vượt cả đầu ngườị
    Những người Kadắc để râu ở trong bản khoanh những vạt
    ruộng, gieo lúa mạch trên đất sét, trên những đồi cát và
    ở ngay mặt đất gần cánh rừng. Chưa bao giờ lúa ấy có
    thời sinh sôi nảy nở; từ bao đời nay, một hécta không thu
    nổi trên ba chục pút thóc, nhưng người ta vần gieo lúa, vì
    rượu cất bằng lúa trong hơn cả nước mắt thiếu nữ; và
    bởi lẽ xưa nay đều thế cả; đời ông, đời cụ đều uống
    rượu, nên trên huy hiệu của dân Kadắc thuộc khu quân quản
    sông Đông chẳng phải ngẫu nhiên lại có hình vẽ anh chàng Kada
    ("c say mềm, cởi trần, ngồi trên thùng rượụ Cứ đến mùa
    thu, các thôn, bản+đều đều say khướt cờ bợ, dân bản lang
    thang khắp chốn, những chiếc mũ lông cao chóp đỏ lảo đảo,
    ngật ngưỡng ở phía trên những hàng giậu bằng cành liễu
    cát.
    Chính vì thế mà thủ lĩnh của đám phỉ không có lấy một
    ngày tỉnh rượu, vì thế mà tất cả đám đánh xe và bọn lính
    bắn súng máy đều say khướt, ngồi vẹo sườn trên các cỗ
    xe ngựa có nhíp, chở súng máỵ
    Đã bảy năm nay, thủ lĩnh phỉ không nhìn thấy quê hương của
    mình. Là tù inh Đức, sau đó theo Vraghen, rồi qua
    Cônxtanchinôpôn trời oi ả, trại giam giữa hàng rào dây thép
    gai, bôn ba trên tàu buôn nhỏ Thổ Nhĩ Kỳ ngâm nước biển ma
    (.n nồng và phả mùi nhựa trét, ẩn náu trong bãi lau sậy ở
    Cuban, và cuối cùng làm phỉ.
    Thế đấy, nếu nhìn về quá khứ, cuộc đời của gã thủ
    lĩnh phỉ là như vậỵ Tâm hồn y trở nên chai đá, như những
    vết móng chân bò tách đôi bên bãi lầy trên thảo nguyên bị
    cái nóng hè thiêu đốt làm rắn đanh lạị Một nỗi đau tê
    tái, không sao hiểu nổi cắn rứt tâm can, làm rã rượi các
    thớ thịt, và tên thủ lĩnh phỉ cảm thấy không thể nào quên
    đi được nỗi đau ấy, và cũng không có thứ rượu nào dập
    tắt nổi nó. Thế nhưng y vẫn uống và không có lấy một
    ngày tỉnh rượu, bởi lẽ những cây lúa mạch đang trổ bông
    thơm nức, ngọt ngào trên các vùng thảo nguyên sông Đông đã
    được cày vỡ một lớp đất đen phơi dưới nắng mặt
    trời, và trong các thôn, bản, những người vợ lính Kadắc có
    đôi má rám nắng đều cất một thứ rượu trong đến mức
    không thể phânbiệt được với mạch nước nguồn chảy rạ
    *
    Những trận rét đầu mùa đã về lúc rạng đông. Trên các lá
    cây sung hình chân vịt đã điểm những đốm trắng bạc, còn
    trên guồng bánh xe của côi xay nước thì từ sáng sớm, Lukich
    đã để ý thấy những lớp băng mỏng ngũ sắc như mi cạ
    Từ sáng, Lukich đã thấy trong người khó chịu, đau buốt vùng
    thắt lưng, nhức nhối quá, đôi chân cứng lại như đúc ba
    (`ng gang và lệt xệt nhấc lên không nổị Lão lê bước quanh
    cối xay kê thoăn thoắt bò ra; lão ngước đôi mắt ướt
    nhoèn nhìn lên; trên xà ngang phía dưới trần nhà, một chú
    bồ câu đang gáy lên gù gù, đều đặn và cần mẫn. Hai cánh
    mũi dường như nặn bằng đất sét của lão hít hít mùi mốc
    ẩm nồng nặc và mùi thơm của lúa mạch đã xay giã. Lão chăm
    chú nghe tiếng nước óc ách đang cuốn hút và liếm quanh
    chiếc ngỗng cối một cách đáng lo ngạị Lão vê vê chòm râu
    rậm, vẻ đầy tự lự.
    Lukich ngã người trong vườn nuôi ong. Lão nằm nghiêng, đắp
    tấm áo bông mà ngủ, mồm há hốc; những giọt nước dãi
    nhờn và nóng ẩm từ hai ria mép chảy xuống chòm râu cằm.
    Hoàng hôn buông xuống dày đặc làm căn nhà tiêu điều của
    lão trở nên nhọ nhem. Chiếc cối xay chìm trong đám sương mù
    màu trắng sữả
    Vừa lúc lão thức giấc thì có hai tên lính kỵ binh từ trong
    rừng đi rạ Một tên gọi lão, giữa lúc lão dang bước trong
    vườn nuôi ong:
    - Ông già, lại dây !
    Lukich nhìn họ với vẻ ngờ vực và dừng lạị Trong những năm
    giặc giã lão đã từng thấy nhiều hạng người mang súng ống
    như thế này- những kẻ ăn cướp thức ăn gia súc và bột mì
    mà khôngthèm hỏi aị Tất cả bọn họ, chẳng trừ một ai, lão
    không ưa chút nàọ
    - Ra đây mau, lão khọm già !
    Lukich luồn lách giữa những thùng ong có đục lỗ, đôi môi
    biến sắc lẩm bẩm không thành tiếng. Lão đứng xa chỗ
    những người khách và liếc nhìn họ.
    - Ông già ơi, chúng tôi là Hồng Quân đâỵ Lão đừng sợ
    chúng tôi, thủ lĩnh phỉ cất giọng khàn khàn nói nhã nhặn.
    - Bọn tôi đang đuổi phỉ, bị lạc đơn vỉ. Thế hôm qua lão có
    trông thấy đơn vị nào qua đây không ?
    - Có đấỵ
    - Họ đi hướng nào, hở lão ?
    - Có mà ôn dịch nào biết họ đi đâu !
    - Vậy có ai trong bọn họ nghỉ lại chỗ cối xay của lão không ?
    - Không- Lukich nói cụt lủn và quay lưng lạị
    - Khoan đã, lão già ! Thủ lĩnh phỉ xuống ngựa, đôi chân vòng
    kiềng loạng choạng vì say, miệng thở sặc mùi rượu, y nói:
    - Này thằng già, chúng tao đang tìm diệt bọn cộng sản
    đâỵ..Thế đấy!...Còn bọn ta là ai, mày không cần biết!... Y
    vấp chân, đánh tuột dây cương khỏi tay- Việc của mày là
    chạy tìm ngũ cốc cho bảy chục con ngựa ăn và câm cái mồm?.
    Làm ngay lập tức! Rõ chưả Lúa mì của mày đâủ
    - Không có, - Lukich nói, mắt nhìn đi chỗ khác.
    - Thế cái gì trong kho kiả
    - Rặt những đồ đồng nát bỏ đi thôi mà. Làm gì có lúa
    mì!
    - Nào, đi xem đi!
    Y túm cổ lão và lôi sềnh sệch đến cái nhà kho đổ nghiêng
    lún sâu xuống đất. Y mở toang cửạ trong kho có những vựa
    chứa lúa mì và đại mạch.
    - Không phải lúa mì thì cái gì đây, hở thằng già khốn
    kiếp?
    oне не везло сна?ала
    <FONT color=fuchsia face="Times New Roman
  9. conhuighe

    conhuighe Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    0
    Cái Bớt ( tiếp theo và hết )
    - Dạ, lúa mì để nuôi người ạ, thưa ông- Lúa này đã
    được xay giã? Tôi cố nhặt nó từng hạt suốt cả năm, vậy
    mà ông muốn đem cho ngựa ăn hết?
    - Theo mày thì để mặc xác ngựa của chúng ông chết đói cả
    ư ? Sao mày dám như vậy- the o bọn đỏ hả Mày muốn chết à?
    - Xin ông tha cho, ông hãy thương tôị Tôi có tội tình gì mà
    ông nỡ hại tôỉ- Lukich giật chiếc mũ lông xấu xí ở trên
    đầu ra, quỳ sụp xuống, nắm lây đôi bàn tay lông lã của tên
    thủ lĩnh phỉ mà hôn?
    - Nói đi, mày thích bọn đỏ hả ?
    - Xin ông rủ lòng thương, tha cho kẻ đau ốm này!... Ông hãy bỏ
    qua lời nói ngu dại của tôị Ôi, xin ông tha cho, đừng treo cổ
    tôi! ? lão già vừa nói vừa ôm lấy chân tên thủ lĩnh phỉ.
    - Mày hãy thề là mày không theo bọn đỏ...Không phải làm dấu
    diếc gì hết, hãy ăn đất đi!
    Miệng ông già móm mém hết răng nhai vốc đất cát trong taỵ
    - Được, bây giờ thì tao tim màỵ Đứng dậy, lão già!
    Và thủ lĩnh phỉ cất tiếng cười, nhìn ông gia không sao
    đứng lên được vì đôi chân đã cứng đợ Còn đám lĩnh
    kỵ binh mới kéo tới đây thì đang lôi lúa đại mạch và lúa
    mì trong nhà kho ra, rắc xuống dưới chân ngựa và vương vãi
    khắp sân những hạt ngũ cốc vàng óng.
    *
    Rặng đông chìm trong đám sương mù vẩn đục.
    Lukich lọt qua được người lính gác và lão không đi theo
    đường cái mà lần theo con đường mòn trong rừng chỉ Một
    mình lão biết, chạy miết về phía bản làng, băng qua cái khe
    lạch nhỏ, xuyên cánh rừng như đang cảnh giác trong giấc ngủ
    tỉnh táo buổi ban maị
    Chạy đến chỗ cối xay gió, lão định tắt qua con đường mòn
    ven bờ giậu rẽ ra đường nhỏ, nhưng trước mắt đã thấp
    thoáng hiệnra những bóng người cưỡi ngựạ
    - Ai đấỷ...- một tiếng hô náo động giữa khung cảnh tĩnh
    mịch.
    - Tôi đâỷ Lukich nói thều thào, còn toàn thân thì mềmnhũn,
    run bắn lên.
    - Lão là aỉ Có giấy tờ gì không? Mò mẫm đi dâu, có việc
    gì?
    - Tôi là thợ xaỷ Từ chỗ cối xay nước vùng này tớị Tôi
    có việc cần vào bản.
    - Việc với vủng gì? Thôi hãy theo chúng tôi đến gặp chỉ
    huy! Lão đi lên trước!...- một người vưa quát, vừa thúc
    ngựạ
    Lukich cảm thấy đôi môi ngựa nóng ẩm kề sát cổ mình và
    lão khập khiễng rảo bước đi vào bản.
    Họ dừng lại trên bãi đất cạnh ngôi nhà lợp ngóị Người
    dẫn đường đằng hắng, xuống ngựa, buộc ngựa vào hàng
    rào và khua xủng xoảng thanh kiếm, bước lên bậc thềm.
    - Theo tôi!...
    Ánh lửa lập loè rọi qua các ô cửa sổ. Họ bước vào nhà.
    Lukich hắt hơi vì sặc khói thuốc lá sợi, ngả mũ và hướng
    về góc nhà có bức tượng thánh hối hả làm dấụ
    - Chúng tôi bắt giữ ông già này đâỵ Ông lão đi vào bản.
    Nhicônca ngẩng cái đầu bù xù dính đầy lông chim lên khỏi
    mặt bàn, hỏi với giọng ngái ngủ, nhưng nghiêm nghị:
    - Lão đi đâủ
    Lukich bước lên phía trước và sung sướng nghẹn lờị
    - Anh bạn yêu quý ơi hóa ra ngườicủa ta, vậy mà lão cứ
    tưởng lại bọn phỉ đấỷ Lão đâm ra nhút nhát, không dám hỏi
    các anh nữả Lão là thợ xaỵ Có lần các anh chị đi qua rừng
    Mitơrôkhin đã ghé vào nhà lão, lão còn mời anh uống sữa,
    anh bạn thân mến ạ ? Hay là anh quên rồỉ
    - Thế lão muốn nói gì nàỏ
    - Vâng, lão sẽ nói, anh bạn quý mến của lão ạ: chả là vào
    lúc chập tối hôm qua chính bọn phỉ ấy đã kéo đến nhà
    lão, lấy sạch ngũ cốc cho ngựa ăn? Chúng hành hạ lãỏThằng
    cầm đầu bọn chúng nói: hãy thề một lòng một dạ theo chúng
    tao, rồi nó bắt lão ăn đất.
    - Thế hiện nay chúng ở đâủ
    - Chúng đang ở đó. Chúng đem theo nhiều rượu, bọn bất
    lương ấy đang nhậu nhẹt với nhau ở nhà lão, còn lão chạy
    tới đây báo cho các anh biết: có thể các anh sẽ tìm được
    phương kế trừng trị chúng.
    - Anh nói với anh em lên ngựa!... ? Nhicônca đứng lên khỏi
    ghế, mỉm cười với ông lão và uể oải xỏ tay vào chiếc áo
    dạ lính.
    *
    Trời đã hừng sáng,
    Nhicônca gương mặt xanh xao vì những đêm mất ngủ, phi ngựa
    đến gần cỗ xe hai bánh lắp súng máỵ
    - Khi nào bọn mình tấn công, câu nã mạnh vào sườn bên phải
    nhé. Ta cần bẻ gẫy cánh quân của chúng!
    Đoạn anh phóng ngựa đến đơn vị kỵ binh để bày thế trận.
    Sau rặng cây sồi nhỏ khô héo, trên mặt đường xuất hiện
    một toán lính kỵ binh xếp hàng bốn, những cỗ xe lắp súng
    máy đi giữạ
    - Phi nước đại!- Nhicônca thét lớn và anh có cảm giác những
    tiếng vó ngựa rầm rập mỗi lúc một rõ ở phía sau lưng,
    anh quất roi thúc con ngựa đực của mình.
    Bốn cửa rừng, tiếng súng máy vang lên xối xả, coàn toán
    lính kỵ binh nọ trên mặt đường thì nhanh nhẹn, như trên bãi
    tập, tỏa ra bủa vâỵ
    *
    Từ trong đám cây bị gió bão đánh đổ, một chú sói nhảy
    chồm ra gò đất, mình mắc đầy cỏ gaị Nó dướn đầu về
    phía trước nghe ngóng. Ngay gần đó, có tiếng súng nổ giòn
    giã liên hồi và đủ mọi thứ tiếng của trận đánh dậy lên
    như sóng lừng.
    Tạch!... một quả đạn nổ giữa bụi cây trăn, còn đâu đó ở
    phía bên kia gò đất, sau đám ruộng đã cày vỡ, tiếng vọng
    của nó nhanh nhẩu đáp lại: tặc!
    Và cứ thế liên hồi: tạch, tạch, tạch! Còn bên kia gò đất
    là những tiếng đáp lại: tặc, tặc, tặc!...
    Con sói đứng đó một lát rồi thủng thẳng và khạng nạng đi
    xuống cái khe lớn, khuất vào lùm cỏ um tùm chưa kịp cắt đã
    úa vàng?.
    - Giữ vững đội ngũ!...Không được bỏ các xe lắp súng
    máy!...Chạy vào rừng? Chạy vào rừng, ***********!...- thủ lĩnh
    phỉ la ó, rướn mình đứng lên trên đôi bàn đạp.
    Trong khi đó toán lính đánh xe và lính bắn súng máy đã láo
    nháo, chạy ngược chạy xuôi bên những cỗ xe lắp súng máy và
    chặt đứt cái dây chằng, còn hàng quân bị hỏa lực liên
    thanh dồn dập phá vỡ thì bắt đầu quay cuồng trong một
    cuộc tháo chạy không sao kìm nổị
    Thủ lĩnh phỉ quay ngựa lại thì bắt gặp một người phanh
    rộng chiếc áo khoác Kadắc lao ngựa thẳng vào y, tay vung
    kiếm. Qua chiếc ống nhòm đeo lủng lẳng trước ngực và qua
    chiếc áo lính, thủ lĩnh đoán người phi ngựa kia không phải
    là lính Hồng Quân thường và y ghìm dây cương lạị Từ xa, y
    đã nom thấy một khuôn mặt trẻ, không để râu, nhăn nhó
    một cách căm tức và cặp mắt nheo lại vì gió. Con ngựa thủ
    lĩnh phỉ đang cưỡi bỗng nhảy chồm lên, khuỵu hai chân sau
    xuống, còn y vừa rút khẩu súng lục mắc ở thắt lưng ra,
    vưa thét lớn:
    - Quân ********!...Hãy bắn đi, bắn đi! Tao sẽ bắn tan sọ
    mày!...
    Thủ lĩnh phỉ nhắm bắn vào chiếc áo choàng đen ngày một
    hiện rõ. Con ngựa chồm lên chừng tám xagiên thì ngã khuỵu,
    còn Nhicônca quăng chiếc áo khoác đi, vừa bắn, vừa lao đến
    gần tên trùm phỉ hơn?
    Sau cánh rừng có ai đó kêu rống lên như thú dữ, rồi lặng
    bặt.Mặt trời bị đám mây đen che phủ và những bóng mây
    trôi trùm lên thảo nguyên, con đường và cánh rừng bị gió và
    tiết thu làm trơ trụi hết lá cành.
    " Đồ trẻ ranh ngu ngốc, hăng máu, bởi thế cái chết đến
    với nó càng nhanh"- thủ lĩnh phỉ suy nghĩ ngắt đoạn và đợi
    đến khi người kia hết đạn, y mới thả dây cương, lao bổ
    tới đó như con diều hâụ
    Ngồi trên yên, y buông thõng người, tay vung kiếm, và trong
    khoảnh khắc y cảm thấy đường kiếm làm cái xác kia mềm
    nhũn, ngoan ngoãn trườn xuống đất. Thủ lĩnh phỉ xuống
    ngựa, giật chiếc ống nhòm của người chết, nhìn đôi chân
    còn khẽ run rẩy, ngó quanh, đoạn quì xuống tháo đôi ủng khỏi
    cái xác đó. Tỳ chân lên một đầu gối kêu răng rắc, y nhanh
    nhẹn và khéo léo gỡ một chiếc bốt. Chiếc bốt khác, có lẽ
    vì bị tất xoắn lại, không tháo được. Y vừa chửi đổng
    vừa tức tối, vừa giật chiếc bốt cùng với tất ra, và ở
    phía trên mắt cá chân, y chợt nhìn thấy cái bớt bằng quả
    trứng chim câụ Như sợ đánh thức người đã chết, y chậm
    rãi lật ngửa khuôn mặt đã lạnh giá, hai tay y dấy đầy máu
    từ trong miệng tuôn ra ồng ộc; y ngắm kỹ xác chết, rôi
    mới vụng về ôm lấy đôi vai vuông thước thợ và nghẹn ngào
    thốt lên:
    - Con ơi!... Nhicônca!... con yêu quý!... Hòn máu của cha!...
    Mặt y tím bầm, y kêu lên:
    - Con hãy nói đi, dù một lờ thôi! Sao lại thế này, hả
    Y phủ phục, nhìn vào đôi mắt đờ đẫn. Y khẽ nâng cặp mi ma
    (''t ấy đầy máu, lay lay cái xác không hồn mềm nhũn? Nhưng
    Nhicônca đã cắn chặt đầu lưỡi tím ngắt, dường như sợ
    phải hé ra điều gì quá đỗi lớn lao và hệ trọng.
    Thủ lĩnh phỉ áp đôi tay cứng đờcủa con trai lên ngực mà
    hôn và lấy răng cắn chặt lớp vỏ thép đổ mồ hôi của
    khẩu súng ngắn, y bắn vào miệng mình?
    oне не везло сна?ала
    <FONT color=fuchsia face="Times New Roman
  10. Sans_souci

    Sans_souci Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    345
    Đã được thích:
    0
    MẶT TRỜI, ÔNG GIÀ VÀ CÔ GÁI
    Suksin
    Mấy hôm nay trời nắng gắt. Mắt đất hầm hập, cây cối cũng nóng. Cỏ héo khô lại xạo dưới bàn chân.
    Chỉ gần tối trời mới mát mẻ.
    Đến lúc ấy, ông già ốm yếu mới lần ra bờ con sông Catuni chảy xiết, ngồi xuống vẫn 1 chỗ ấy, bên cạnh gốc cây khô cằn, nhìn mặt trời.
    Mặt trời đang lăn xuống sau rặng núi. Về chiều, mặt trời nở to và đỏ rực.
    Ông lão ngồi bất động. Hai bàn tay nhăn nheo mầu nâu sẫm đặt trên 2 đầu gối. Mặt ông lão cũng nhăn nheo. Đôi mắt lờ đờ và ướt. Chiếc cổ khẳng khiu. Đầu ông nhỏ, tóc bạc trắng. Xương vai gầy guộc nhô lên dưới lần áo sơ mi vải xanh.
    Một lần, đang ngồi như thế, ông lão nghe thấy tiếng ai sau lưng :
    - Chào cụ ạ.
    Ông lão gật đầu đáp lại.
    Một cô gái mang chiếc va li mỏng dính ngồi xuống bên cạnh.
    - Cụ ngồi chơi đấy ạ ?
    Ông lão lại gật đầu, rồi đáp :
    - Ờ, ngồi chơi ...
    Ông lão k0 nhìn cô.
    - Cháu vẽ cụ được k0 ạ ? - Cô gái hỏi.
    - Cháu bảo gì ? - Ông lão chưa hiểu.
    - Cháu vẽ cụ ấy mà.
    Ông lão k0 trả lời ngay, vẫn nhìn về phía mặt trời, chớp chớp hàng mi mầu hồng, k0 còn lông mày.
    - Bây giờ lão đẹp đẽ gì đâu. - Ông nói.
    - Sao cụ lại nói thế ? - Cô gái bỗng lúng túng. - Cụ đẹp lắm.
    - Lão lại ốm yếu nữa.
    Cô gái ngắm ông lão 1 lúc lâu, rồi đưa bàn tay mịn màng vuốt ve bàn tay khô khốc và nhăn nhúm của ông lão và nói :
    - Cụ rất đẹp. Cháu nói thật đấy.
    Ông lão khẽ mỉm cười.
    - Nếu vậy thì cô vẽ đi.
    Cô gái mở va li.
    Ông lão đưa bàn tay che miệng ho.
    - Chắc cô ở ngoài thành phố phải k0 ?
    - Vâng ạ.
    Vẽ thế này cũng được tiền chứ ?
    - Có bức được, có bức k0, cụ ạ. Nếu cháu vẽ đẹp thì người ta sẽ trả tiền.
    - Thế thì phải cố vẽ.
    - Vâng ạ.
    Họ lại im lặng.
    Ông lão vẫn hướng về mặt trời.
    Cô gái chăm chú ngắm ông lão hơi chếch và vẽ.
    - Cụ người vùng này ạ ?
    - Phải.
    - Cụ quê ở đây ạ ?
    - Phải.
    - Năm nay cụ bao nhiêu rồi ạ ?
    - Bao nhiêu tuổi ấy à ? Tám chục.
    - Thế rồi kia ạ !
    - Già lắm rồi, - Ông lão thừa nhận và lại khẽ mỉm cười, - Còn cháu ?
    - Hai mươi nhăm ạ.
    Họ lại im lặng.
    - Mặt trời hay chưa kìa ! - Ông lão khẽ reo lên.
    - Cụ bảo mặt trời làm sao ạ ? - Cô gái chưa hiểu.
    - Mặt trời rất to.
    - À, cụ nói đúng. Phong cảnh chỗ này đẹp thật.
    - Cháu nhìn nước sông bên kia bờ kìa ...
    - Vâng.
    - Đỏ như có pha máu ấy.
    - Vâng. - Cô gái nhìn sang bờ bên kia. - Đúng thế.
    Mặt trời đã chạm tới đường viền của đỉnh núi Antai, rồi bắt đầu chìm dần sau dãy núi xanh biếc. Mặt trời càng xuống thấp thì đường viền dãy núi càng rõ nét. Dãy núi cứ như nhích lại gần. Dưới thung lũng, nơi giữa con sông và rặng núi, hoàng hôn đỏ hồng đang sẫm dần. Bóng tối lâng lâng như từ dãy núi lan toả đến gần họ. Cuối cùng, mặt trời lấp hẳn sau đỉnh núi Bubuakhan, và liền sau đấy, những tia sáng màu vàng thẫm rực rỡ xoè ra như nan quạt trên bầu trời xanh nhạt. Lát sau, những tia sáng ấy cũng lại lặng lẽ tắt dần. Chân trời phía ấy chỉ còn sáng lên như một đám cháy ở xa.
    - Mặt trời lặn rồi. - Ông lão thở dài.
    Cô gái xếp những tờ giấy vào va li.
    Hai ông cháu cứ ngồi như thế 1 lúc, lắng nghe tiếng sóng vỗ liên tiếp và khẽ khàng vào bờ.
    Từng đám sương mù đang trôi trên thung lũng.
    Trong khóm cây gần đấy, 1 con chim đêm kêu khẽ. Tiếng kêu được bờ bên kia vang trở lại.
    - Dễ chịu quá, - ông lão nói khẽ.
    Còn cô gái thì đang nghĩ đến chuyện ít hôm nữa cô sẽ trở về thành phố thân yêu kia, đem theo rất nhiều ký hoạ, trong đó có chân dung ông lão này. Và bạn trai của cô, 1 hoạ sỹ thực sự tài năng, thế nào cũng sẽ cằn nhằn : "Vẫn lại những khuôn mặt nhăn nheo ! ... Để làm gì kia chứ ? Ai chẳng biết khí hậu Xibia khắc nghiệt và người dân ở đấy phải lao động rất cực nhọc. Nhưng vẽ để làm gì kia chứ ? Sao lại thế ? ..."
    Cô gái hiểu rằng cô cũng chẳng phải tài năng gì nhiều. Nhưng cô vẫn cứ băn khoăn về cuộc đời vất vả của ông lão này. Trông 2 bàn tay của ông đủ rõ ... Lại vẽ những nếp nhăn ! "Phải làm việc thôi, phải làm việc thôi ... ! "
    - Chiều mai cụ lại sẽ ra đây chứ ạ ? - Cô gái hỏi ông lão.
    - Có. - Ông lão đáp.
    Cô gái đứng dậy, trở về làng.
    Ông lão ngồi thêm 1 lát nữa rồi cũng về.
    .....
    Que je suis malheureux !

Chia sẻ trang này