1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

GS.Trần Quốc Vượng đã ra đi!

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi tmkien2, 08/08/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. tieucaluoi

    tieucaluoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/11/2005
    Bài viết:
    71
    Đã được thích:
    0
    Định viết vài dòng nhưng thôi vậy.
    Xin được cùng các bạn thắp một nén tâm hương cho Thầy.
    Được tieucaluoi sửa chữa / chuyển vào 11:47 ngày 08/01/2006
  2. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Vâng,
    Cho phép tôi thắp chung nén tâm hương tới Thầy Vượng.
    Tôi thắp một nén nhang trầm lên bàn thờ tại nhà tôi, cho bạn ké nhé?
    Kính mong mọi ước vọng của Thầy gửi vào Lịch Sử dân tộc sẽ hiện thực.
  3. FPM

    FPM Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/09/2005
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    0
    Không bàn chuyện thiền trong chủ đề này!
    Tớ đưa nốt bài viết về Lê Quí Đôn, còn phần sau nói về chuyện ông Hồ Sĩ Tạo thì các bác tự tìm đọc
    Bây giờ ta chuyển sang trường hợp LÊ QUÝ ĐÔN, nhà bác học Việt Nam thế kỷ XVIII, người làng Diên Hà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình hiện tại. Cũng đã có quá nhiều sách báo, luận văn, hội nghị khoa học viết về ông và đề cập đến ông. Viện Sử Học Việt Nam, từ nhiều năm nay, chuẩn bị phiên dịch và xuất bản Lê Quý Đôn Toàn Tập. Thế nhưng về tiểu sử Lê Quý Đôn, không một tài liệu nào cho ta biết ông là con thứ mấy hay con bà thứ mấy trong gia đình ho. Lê.
    Mà tôi thì tuy không phải là chuyên gia về Lê Quý Đôn và cổ sử học Việt Nam nói chung, nhưng lại hay "tò mò" về những chuyện vặt vãnh ấy. Tôi vốn là đồ đệ của học thuyết "Tâm Phân Học" (Pschyanalyse) - một thời gian dài bị các học giả "mác-xít chính thống" (orthodoxal marxist) phê phán kịch liệt - chủ trương rằng nhân cách con người hình thành rất sớm - từ khoảng ba đến năm tuổi - (và như thế thì "rất khó cải tạo" (to be made over by socialist re-education) và môi trường đầu tiên và tối trọng yếu để hình thành nhân cách là gia đình (nay thì nền giáo dục Việt Nam đã tự phê bình là trong một thời gian dài xem nhẹ giáo dục gia đình khi đặt ưu tiên vào giáo dục đoàn thể-xã hội). Một người dù ở "giai cấp" nào, nhưng là con trưởng hay con út, là con bà cả hay con bà thứ, theo tôi, là khá quan trọng trong việc điều chế và tự điều chế ra thế ứng xử của anh ta. Mà về những điều đó, thì trớ trêu thay, xã hội học mác-xít lại có vẻ xem nhẹ ...
    Năm 1985 tôi lần đầu tiên đến thăm làng quê Lê Quý Đôn nhân một hội nghị khoa học về Lê Quý Đôn ở Thái Bình. Trước khi đi, từ Hà Nội, tôi làm một phép thử (test). Tôi viết sẵn một bản thảo về "Chân Dung Lê Quý Đôn" ("Un portrait de Lê Quý Đôn"), trong đó mặc dù không có bất cứ một tài liệu gì đã được viết ra (document écrit) ở Hà Nội hay ở Thái Bình quê ông, tôi cứ nêu giả thuyết là Lê Quý Đôn là con bà vợ thứ của bố ông chứ không phải là con bà cả, lại cũng là con thứ chứ không phải con trưởng. Xuống tới thị xã Thái Bình (chưa về quê Lê Quý Đôn), tôi nộp bản thảo cho Ban Tổ chức Hội Nghị (hội nghị khoa học về Lê Quý Đôn). Đọc bản thảo của tôi, ban Tổ Chức Hội Nghị sững sờ và dùng dằng định không sắp xếp vào chương trình hội nghị. Lý do? Thì cũng dễ hiểu thôi, vì tôi "ăn nói xưng xưng" như thế chứ có chứng cớ gì đâu mà gọi là "khoa học" được! Cho đến bây giờ thì mọi người vẫn đinh ninh rằng Lê Quý Đôn là con trưởng của một vị tiến sĩ với một bà mẹ nghiêm chỉnh, "chính thất" cơ mà!
    Nhân tiện nói: Cái đầu óc của nhiều cán bộ + sản có một khía cạnh tâm lý rất kỳ cục: tâm lý sợ những cái gì không chính thống (non-orthodoxe). Nhưng tôi để ý thấy mấy cụ già là dòng dõi ho. Lê Quý Đôn được cử từ quê hương Diên Hà "lên tỉnh" để "đón các đại biểu về thăm quê hương nhà bác học Lê Quý Đôn" cùng đứng ngồi ở đó với ban Tổ Chức nhìn tôi với một vẻ là lạ, nửa ngại ngần, nửa thông cảm đồng tình. Vốn tự coi mình là khá sành (raffiné) về tâm lý và sẵn thói phóng túng, bất cơ (non-conformiste), tôi bỏ ngay cái ghế của tôi ở hàng đầu "long trọng viên" (Hội nghị nào ở Việt Nam cũng có một số ghế "giành riêng" cho các đại biểu được coi là "long trọng", "quan trọng", cái đó vốn xuất phát từ đức tính hiếu khách (hospitality), với thời gian, đã trở thành một "tinh thần đẳng cấp" (esprit de caste) rất đáng chê trách. Và nhiều ông "quan cách mạng" (chữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh) cho cái việc "ghế trên ngồi tốt sỗ sàng" (Kiều) của mình là việc rất tự nhiên), tôi xuống sà vào ngồi chỗ "các cụ địa phương" ở "bên dưới" hội nghị. Và dò hỏi về tung tích Lê Quý Đôn. Sau rất nhiều ngần ngại, sau rất nhiều lần "nhìn trước, nhìn sau", một cụ già làng ở Diên Hà mới bảo tôi: "Ông giáo sư nói đúng đấy. Đúng ra Lê Quý Đôn không phải là con trưởng đâu!"
    - Ô! Thế sao lâu nay các cụ cứ để cho "họ" (các cán bộ văn hóa, tuyên truyền) ăn nói, viết lách như vậy?
    - Chúng tôi la DÂN, "dân ngu khu (loincloth) đen" mà, biết thế mà không dám nói, sợ trái ý cán bộ.
    Ôi, người "dân quê đồng bằng Bắc Bộ" ("paysan du delta tonkinois" - chữ dùng của nhà địa lý học Pierre Gourou) quê tôi, sao mà họ vừa tinh khôn, vừa vụng dại, vừa bướng bỉnh lại vừa chịu khuất như thế!
    Chiều hôm đó về Diên Hà, tôi để mặc ban Tổ chức bận bịu với những "nghi thức", những lễ "dâng hương", "tưởng niệm" ... ở nhà thờ ho. Lê, tôi đi tìm gặp và hỏi chuyện "dân làng" Lê Quý Đôn. Và tôi đã thu được một lời truyền miệng dân gian rất lý thú, chưa từng ai biết, chưa từng ai viết - và hôm nay cũng là lần đầu tiên tôi viết ra:
    - Ông thân sinh ra Lê Quý Đôn vốn là một nhà nho nghèo
    và "lận đận trường qui" mãi mà vẫn chưa đỗ đạt gì. Ông đã có một đời vợ cả nhưng bà này không có con nên ông cụ bỏ và lấy bà khác (chắc cụ theo đạo đức Nho giáo: "bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại" - có ba điều bất hiếu, mà không có con nối dõi là bất hiếu nhất - TQV chú). Bà này cũng không phải là me. Lê Quý Đôn. Bà ta sinh được hai người con trai. Lúc ấy ông cụ cũng chưa đỗ đạt gì. Một chiều bà ra đồng làm việc, trước khi đi có dặn ông cụ ở nhà để ý trông mấy nong thóc phơi ngoài sân đất, nếu thấy có cơn mưa (chiều hè ở đồng bằng Bắc Bộ hay có mưa) thì "chạy" (cất giữ) dùm bà cụ. Ông cụ là "chân học trò", "dài lưng tốn vải ăn no lại nằm", mải mê đọc sách, khi có cơn mưa thật, chạy mấy nong thóc phơi không kịp, để ướt cả.
    Ở ngoài đồng về sau cơn mưa, thấy thóc bị ướt sạch, bà vợ giận ông chồng lắm: "Rõ là đồ vô tích sự! Lúc nào cũng chỉ ôm lấy mấy quyển sách! Sách mà ăn được à? Mà nào có đỗ đạt được gì cho cam! Chỉ khổ thân gái già này! Tao cho rồi đói rã họng ra cho mà xem!" v.v.... Mắng ông chồng một chặp, bà vợ cho thóc ướt và nồi hông đất, nhóm lửa hong cho khô thóc. Tiện thể bà quăng luôn các sách nho của ông chồng vào lửa ...
    Đến thế, là gia đình tan vỡ. Ông cụ bỏ vợ, bỏ con. Ông cụ cũng bỏ làng ra đi luôn. Sau này đỗ đến ông nghè (tiến sĩ), ông cụ mới trở về làng. Thì ông ấy đã lấy bà vợ khác, con gái một cụ nghè ở tỉnh bên. Chính bà vợ thứ ba này mới sinh ra Lê Quý Đôn nhưng ông cụ vẫn xem bà là "chính thất" (vì lẽ hai bà vợ trước ông cụ đã bỏ (ly dị) rồi, và Lê Quý Đôn cũng được xem là con trai đầu!
    - Thế còn hai con trai của bà vợ trước, họ là anh của Lê Quý Đôn chứ? Tôi "giả vờ" cãi lại các cụ già làng để "moi" thêm tin tức.
    - Thế này ông giáo sư ạ. Ông cụ nghè Lê vinh quy về làng, vẫn không "nhận" bà vợ trước. Nhưng "bỏ vợ (được) chứ không bỏ con (được)". "Vợ mình là con người ta, suy đi tính lại chẳng bà con chi", "anh em như thể chân tay, vợ chồng như áo cởi ngay tức thì" (đó là mặt trái của đạo đức dân gian - TQV chú).
    Con cái dù sao vẫn là con mình. Cho nên cụ nghè Lê vẫn nhìn nhận hai anh con trai đầu, nhưng lấy lẽ (vin cớ) mẹ chúng đã bị bỏ nên bắt hai anh con trai này xuống làm con thứ, phải gọi Lê Quý Đôn bằng anh cả ("tôn trưởng"). Vì cụ lập ông Lê Quý Đôn làm trưởng.
    Thì ra là thế! Chỗ khúc mắc của thân phận Lê Quý Đôn là thế! Và cán bộ tỉnh, theo thuyết "chính thống", cho Lê Quý Đô là con trưởng của bà vợ chính cụ nghè Lê xem ra cũng có lý do của nó!
    Tôi hỏi chuyện các cụ già làng Diên Hà thêm chút nữa:
    - Thưa các cụ, thế các cụ có được truyền lại là hai ông con trai trước của cụ nghè Lê (hai người tuy nhiều tuổi hơn Lê Quý Đôn nhưng phải gọi Lê Quý Đôn bằng anh ấy ạ) về sau ra sao, có học hành đỗ đạt gì không? Và Lê Quý Đôn đối xử với hai ông "em" mà lẽ ra là "anh" như thế nào ạ?
    - Ấy, tiếng là được nhận lại làm con cụ nghè, nhưng hai ông con trai này cũng chẳng được cụ nghè thương yêu gì mấy, vì dốt nát. Họ cũng lớn tuổi rồi, từ khi bố bỏ nhà, bỏ làng đi, hai ông con trai này sống với mẹ, vẫng nghèo khổ thôi, cơm còn chẳng đủ ăn, lấy đâu ra của mà học hành thi cử. Nên vẫn dốt nát và vẫn làm "dân cày" như chúng tôi vậy thôi ... Có điều cu. Bảng (Lê Quý Đôn đậu "bảng nhãn", vị tiến sĩ số 2 sau trạng nguyên, nên vẫn thường được gọi là cu. Bảng) là người có "đức", cụ đối xử tốt với hai người anh trai cùng cha khác mẹ này, vẫn nhường cho họ cả ngôi nhà dân hàng xã, hàng tổng làm cho cụ nghè Lê với ít thửa ruộng của cụ nghè Lê. Cụ Bảng Đôn chắc cũng giữ ý sao đó nên ít về làng, vả lại cụ làm quan to nên cũng thường ở kinh đô. Dân làng Diên Hà nghe tiếng cu. Bảng nhiều thôi chứ ít được gặp cụ lắm và không biết về cu. Bảng bao nhiêu .....
    Những lời truyền miện dân gian này về đại thể là đúng khớp với hành trạng và tính cách Lê Quý Đôn. Khi ông về trí sĩ, ông cũng không về ở làng, và ta biết rõ là ông mất khi đang ở quê mẹ.
    Rời quê hương Lê Quý Đôn về "tỉnh" (thị xã Thái Bình) ngày hôm sau, tại hội nghị khoa học về Lê Quý Đôn, tôi đã công bố - bằng miệng - lời truyền miệng dân gian mà hôm nay tôi ghi lại ở trên về một "bí mật", một "khúc mắc", một nét "bi kịch" trong cuộc đời nhà bác học Lê Quý Đôn. Chuyện có vẽ "vặt vãnh" thôi, trong tổng thể đồ sộ của sự nghiệp và trước tác của Lê Quý Đôn ... Nhưng với riêng tôi thì tôi rất lấy làm hài lòng vì, nói theo danh từ toán lý, phép thử của tôi đã được nghiệm đúng.
    Trở về Hà Nội, bạn bè đồng nghiệp hỏi tôi rằng tôi không phải là chuyên gia về Lê Quý Đôn, đọc và tìm hiểu về ông này không bao nhiêu, vì sao tôi lại biết được một chi tiết tiểu sử Lê Quý Đôn mà trước đó chưa ai biết dù đã có những người làm "luận án" về Lê Quý Đôn. Thế là tôi được dịp nói về: Vai trò của Trực Giác Trực Quan (Intuition) trong nhiều phát minh, phát kiến khoa học. Có những nhà khoa học cỡ vừa phải thôi luôn luôn trình bày những phát hiện của mình như kết quả của một quá trình sưu tầm tài liệu công phu, phân tích tỉ mỉ, đối chiếu cẩn thận rồi tổng hợp khái quát cao .... tóm lại là hết sức chặt chẽ trong suy lý, rất là duy lý, hợp lý, hệ thống, tổng thể. Nói đến trực giác, họ cho đó là cảm hứng nhất thời của thi nhân, nghệ sĩ, "không xài" được trong khoa học. Nhưng ngay như nhà khoa học vĩ đại bậc nhất của thế kỷ XX Albert Einstein cũng không phủ nhận vai trò của trực giác trong những phát kiến khoa học:
    Trực giác nhiều khi là khởi điểm của những phát hiện khoa học lớn. Về khoa học cũng vậy, mà về triết học cũng vậy thôi:
    Những hệ thống triết học là sự triển khai, qua khái niệm và biểu tượng của một số trực giác nguyên sơ nào đó. Nếu tất cả chúng ta ai cũng có những trực giác cơ bản ấy thì các hệ thống sẽ coi như thừa. ("Systems of philosophy are the elaboration, through concepts and symbols, of certain original intuitions. If all of us had these basic intuition, systems should be superfluous") "In the central Philosophy of Buddhism" T.R.V Murti, Ed. Ruskin House - London, 1955
    Cùng với trực giác nguyên sơ của nhà khoa học, cũng còn cái mà giáo sư Từ Chi và tôi hay nói đến là "cảm quan điền dã" (le sens du terrain) rất cần thiết cho những ai đi điền dã như các nhà khảo cổ học, dân tộc học ..
    Riêng với trường hợp Lê Quý Đôn, tôi "bỗng dưng" nghĩ là thế (mẹ ông phải vợ đầu, ông không phải là con trưởng) khi giở sách viết về Lê Quý Đôn đọc trong đêm trước khi đi Thái Bình thấy chi tiết ông Lê Quý Đôn mất ở quê mẹ mà không ở quê cha. Đấy là "trực giác" nhưng sau đó thì lý giải ra thế này: Cụ thân sinh ra ông, rất muộn mới đỗ đại khoa, hẳn đã có vợ từ trước, khi còn trẻ, ở làng, theo phong tục Việt Nam ngày xưa. Nay thấy cụ nghè Lê đỗ, khi vinh quy mới lấy vợ - con gái một vị tiến sĩ khác - và bà vợ này sinh ra Lê Quý Đôn, tôi suy ra đây là bà vợ sau. Thế nhưng lại không thấy sách nào chép cả, mới đâm ngờ ngợ, chờ về Diên Hà hỏi lại.
    Còn vì sao mà tôi biết và tôi "cảm" nhanh như vậy (ta gọi là "mẫn cảm" - flair) về Bi Kịch Lê Quý Đôn thì có lẽ là vì tôi là con cháu nhà Nho cả bên nội bố tôi lẫn bên ngoại mẹ tôi nên có chút kinh nghiệm nghiệm sinh (experience vécue) dù đại gia đình tôi là "nho cuối mùa" ... Vả tôi hay đọc sách Tầu, Ta về chuyện "rừng nho", về các gia đình đại nho và đại quan nên cũng biết nhiều "mặt trái" (revers) của những gia đình ấy. Khi một danh nho đại quan đã "nổi tiếng", đã "làm lớn" và khi người sau viết tiểu sử các vị này, họ thường dấu những "mặt trái", những nét bi kịch ấy đi. Đó cũng là thói thường dân gian ("tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại...")... Như mấy chục năm nay, người ta chỉ nói đến - và khuếch đại nữa là đằng khác - về những mặt tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa và bươi xấu "phương Tây tư bản đế quốc", khiến tạo ra một hình ảnh giả tạo: một bên là tấm gương siêu sạch ("tịnh vô trần"), một bên là đống rác bẩn thỉu v.v ...
    Nhưng ở đâu - và bao giờ còn nhân loại - thì cũng có NHÂN DÂN (The People) và trong nhân dân thì - từ trong chuyện cổ tích đến chính trường hiện tại - bao giờ chả có người xấu, người tốt. Trong tốt có xấu, trong xấu tối thiểu cũng có một cái gì tốt chứ. "Nhân vô thập toàn" mà!
    Và lối sống "hòa quang đồng trần" ("hòa ánh sáng với bụi đời") của nhà Trần, của đời Trần, vẫn là cái gì tôi ưng ý hơn cả.
    Được ptlinh sửa chữa / chuyển vào 19:01 ngày 14/02/2006

Chia sẻ trang này