1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hà Nội - 36 góc nhìn

Chủ đề trong 'Văn học' bởi IceBlood, 25/11/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. IceBlood

    IceBlood Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/10/2003
    Bài viết:
    610
    Đã được thích:
    0
    Hà Nội - 36 góc nhìn

    Topic này tôi muốn giới thiệu với quí vị về cuốn sách "Hà Nội = 36 góc nhìn" do Nguyễn Thanh Bình tuyển chọn từ các bài viết ngắn của rất nhiều các nhà văn tên tuổi như Tô Hoài, Thạch Lam, Ma Văn Kháng, Hồ Anh Thái, Chu Lai... cảm nhận về Hà Nội. Đọc thấy hay quá nên type lên đây cho bà con cùng thưởng thức và suy ngẫm cái nhỉ. Hi vọng không bị gọi là ăn cắp bản quyền, đơn giản chỉ là muốn giới thiệu một cuốn sách hay. Để bù lại, tôi phải mất công type từng chữ và tự sắp xếp các bài viết theo ý tôi thích. Rất mong mọi người hưởng ứng!
  2. Tequila

    Tequila Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    05/09/2001
    Bài viết:
    1.536
    Đã được thích:
    0
    Đang chờ.

    Tequila Sunrise
  3. IceBlood

    IceBlood Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/10/2003
    Bài viết:
    610
    Đã được thích:
    0
    HỒN PHỐ
    - Yên Ba -
    Cũng như con người, mỗi đường phố, ngõ phố của Hà Nội đều có một linh hồn. Là người đã sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, đã từng sống cùng với thành phố qua không ít những thăng trầm biến động của mấy mươi năm trở lại đây, tôi có thể đoán quyết như vậy mà không sợ mang tiếng là hàm hồ.
    Vậy linh hồn của những phố phường Hà Nội nằm ở nơi đâu?
    Nó nằm ở những hàng cây xanh mà không có bất cứ một thành phố nào ở nước Việt này lại có thể giàu có, sum suê đến vậy. Những ai đã từng đi trên những con đường dài hun hút mướt mát mồ hôi không một bóng cây, mới cảm nhận được rõ ràng cái sự quý giá của những hàng cây Hà Nội. Phố Phan Đình Phùng xanh rợp ba hàng cây (ba hàng cây nhé), lá vàng rụng níu bước chân người qua mỗi khi thu về. Phượng vĩ là của phố Lý Thường Kiệt, những hàng cây sao đen cao vút phố Lò Đúc, vòm sấu xanh um là phố Trần Hưng Đạo, cây me gắn liền với tên phố Ngô Quyền, bằng lăng Thợ Nhuộm, hàng bàng Khâm Thiên, cây sưa phố Hàng Dầu... Mỗi phố đều gắn với một loài cây nào đó, cho dù không hẳn là tất cả những cây trên phố đều thuộc cùng một loài... Ngay cả Hồ Hoàn Kiếm mà cũng có tới hai loài cây đặc trưng cho nó: đó là cây liễu, gợi nhớ bởi dáng cong thướt tha và cây lộc vừng, xuân thu nhị kỳ ra hoa đỏ sậm cả một góc hồ.
    Hồn của phố phường là hương hoa bốn mùa. Hương hoa sữa đường Nguyễn Du thì hầu như ai cũng đã biết. Nhưng không chỉ phố Nguyễn Du mới độc quyền mùi hương rất Hà Nội này. Đường Bà Triệu có nhiều cây hoa sữa; cả đường Quán Thánh cũng thế. Vào dịp cuối thu đầu đông, không gắt như đằng Nguyễn Du, hương hoa sữa ở phố Quán Thánh mỏng manh như một sợi dây căng ngang phố, làm giật mình một ai đó rong xe đi tìm... Vào dịp tháng tư ta, hương hoa sấu trên phố Lý Nam Đế, trên đường Trần Hưng Đạo dìu dịu toả xuống từ những tàng cây cao, ướp lên mái tóc của những đôi tình nhân. Hương ngọc lan thấp thoáng trên đường Thanh Niên, vào những ngày hè, học sinh trung học áo trắng thướt tha ngồi dọc trên những thảm cỏ xanh mướt, dắt bông ngọc lan trên tóc, tận hưởng cái thư thái dễ chịu sau những kỳ thi căng thẳng vừa trôi qua. Trong những đêm khuya khoắt, đi trên những phố nhỏ yên tĩnh của Hà Nội, có thể thấy thoang thoảng mùi dạ hương toả xuống từ những ban công trên hè phố, cái mùi hương chỉ dành cho một thành phố tĩnh mịch về đêm như Hà Nội của tôi...
    Có nơi đâu như Hà Nội mà tên phố - phố Chả Cá - lại được đặt theo một món ăn trên phố này, món chả cá Lã Vọng! Cả cái quán ăn nức tiếng trên phố này, thực đơn trăm năm nay cũng chỉ có mỗi một món ăn ấy mà thôi! Bún chả Hàng Mành, đậu phụ nắm tôm ngõ Phất Lộc, bánh cuốn cà cuống Hàng Gà, phở Bát Đàn, Cầu Gỗ... Những tên món ăn gắn liền với tên phố, như không thể tách rời nhau mà hoà trộn, bổ sung cho nhau để tạo thành hồn của phố! Rồi cà phê Nhân phố Hàng Hành, bánh cốm Hàng Than, chè Lò Sũ, bánh gối Lý Quốc Sư, ô mai Hàng Đường... Những quà, những bánh ấy hoà trộn cùng với phố phường, tạo nên cái nét riêng của một không gian ẩm thực Hà Nội, để rồi nó không còn là những quà, những bánh nữa mà đã trở thành nỗi nhớ quay quắt gắn với phố phường mỗi khi đi xa.
    Nhưng trên tất cả, hồn của phố phường Hà Nội chính là những con người của đất kinh kỳ, những người đã cùng với thành phố trải qua những dâu bể của thời gian, bao thăng trầm thế sự. Phố nhỏ Đoàn Nhữ Hài được người ta biết đến nhieèu vì ở phố này có ngôi nhà của nhà văn Tô Hoài, nơi ông đang sống và tiếp tuc viết những trang văn đầy hoài cảm về Hà Nội. Hoạ sỹ Bùi Xuân Phái, người đã sáng tạo ra phố thứ 37 của Hà Nội trong tranh, gắn liền cuộc đời của mình với ngô nhà trên phố Cửa Đông. Nhà thơ Lưu Trọng Lư đã từng sống trong ngôi nhà trên phố Nguyễn Thái Học, nhà văn hoá Hoàng Đạo Thuý ngụ trong làng Đại Yên trên đường Hoàng Hoa Thám. Nhạc sỹ Văn Cao với chén rượu trong vắt như nước mắt thường ngồi bất động trong ngôi nhà trên tầng hai gần cái chợ lầm bụi ở phố Yết Kiêu... Rồi cặp nghệ sỹ tài hoa mà yểu mệnh Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ trước lúc đi xa mãi mãi cũng đã từng ở trong căn phòng nhỏ trong khu tập thể ở phố Huế, chỗ đối diện với chợ Hôm... Còn nhiều, nhiều nữa. Có thể nói rằng mỗi bước đi trên những nẻo đường của Hà Nội, tôi đều có thể bắt găphịnh bóng của những con người ấy, những con người đến với Hà Nội từ mọi phương trời, bằng tài năng và cốt cách của mình, đã gắn tên tuổi với những đường phố, làm nên một Hà Nội tài hoa và lịch lãm. Họ chính là một phần của Hà Nội rồi!
    Hồn phố - với tôi - là hư ảo mà cũng thực vô cùng!
    Y.B
  4. IceBlood

    IceBlood Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/10/2003
    Bài viết:
    610
    Đã được thích:
    0
    Cùng nhà văn Tô Hoài ngắm phố phường Hà Nội
    Tô Hoài là một nhà văn lớn với số lượng tác phẩm đồ sộ. Ông viết đủ các thể loại: từ tiểu thuyết, truyện vừa, bút ký, ký sự, truyện ngắn, hồi ký, tự truyện, tiểu luận phê bình, truyện viết cho thiếu nhi, cho đến cả các bài báo ngắn, các bài điểm sách chỉ bằng một... bàn tay trẻ con. Tô Hoài thực sự là nhà văn chuyên nghiệp. Nghĩa là ông hoàn toàn sống được bằng nghề văn. Ngồi đâu, ông cũng viết được văn, kể cả trong những lúc hội họp. Ta hiểu vì sao Tô Hoài có được một lượng sách thật đồ sộ: 175 tác phẩm, nhiều hơn gấp đôi so với số tuổi của ông. Đó là một con số kỷ lục mà không phải nhà văn nào trên thế giới cũng có thể đạt được. Năm nay, nhà văn của chúng ta đã vượt qua cái tuổi cổ lai ky, nhưng sự sáng tạo vẫn rất trẻ trung và sung sức. Tô Hoài là nhà văn không có tuổi già. Ở ông không có dấu hiệu của tuổi già. Một trí tuệ tỉnh táo và thông mình đến mức... tinh quái. Nhưng hôm nay chúng ta chưa bàn đến những cuốn sách ấy mà cùng ông đi dạo quanh... phố phường Hà Nội.
    Trần Đăng Khoa (TĐK): Thưa nhà văn Tô Hoài, có thể xem ông như một nhà Hà Nội học, mặc dù ông không nghiên cứu. Nhưng với một sự am hiểu khá thấu đáo, cặn kẽ, qua con mắt của một nhân chứng, trong suốt gần một... thế kỷ nay, ông thấy Hà Nội xưa thế nào?
    Nhà văn Tô Hoài (TH): Tôi không phải nhà Hà Nội học. Tô hiểu Hà Nội thì cũng là hiểu một cách rất tự nhiên thôi. Tôi sinh ở Hà Nội. Hà Nội trước thế nào thì bây giờ tôi thấy nó cũng vẫn như thế...
    TĐK: Nghĩa là không có gì đổi khác?
    TH: Đúng vậy. Trừ những khu mới mở, như đường Hoàng Quốc Việt chẳng hạn còn các khu phố cũ vẫn thế. Nhà cửa có thể khác tý chút, có tân trang hơn hoặc nâng thêm tầng, nhưng đường phố vẫn vậy, nên phố phường về cơ bản vẫn không có gì thay đổi. Ngày xưa thế nào thì bây giờ vẫn thế. Tôi có thể nhắm mắt đi đến khu phố nào cũng được. Vỉa hè vẫn là vỉa hè cũ. Ở các phố Ngô Quyền, Hàng Khay, Tràng Tiền, Hàng Bài, hay Nguyễn Xí, Đinh Lễ, đầu vỉa hè còn bọc đá xanh. Đấy là vỉa hè xưa, vỉa hè đầu tiên của Hà Nội. Đá bọc vỉa hè là đá lấy từ núi Thày, núi Trầm. Lý do do dùng đá ốp vỉa hè thì cũng đơn giản thôi, vì dạo ấy ta chưa có lắm xi măng. Đi trên đường phố Hà Nội, tôi thấy quen thuộc vô cùng. Cả hệ thống cống ngầm bên dưới cũng thế, cũng là hệ thống cũ. Vì thế, bây giờ mưa đường Hà Nội ngập úng là tất nhiên, vì quá tải. Ta còn thấy những nắp cống tròn còn nguyên cả dòng chữ Marseill. Đó là nắp cống đúc từ bên Pháp rồi sang bán ở ta. Hồi bây giờ, ở phố Quán Thánh, ngay cạnh đền Quán Thánh bây giờ, Pháp có mở công ty Sảcic. Đấy là công ty gạch ngói Đông Dương. Khu sản xuất khá rộng, đến mấy ngàn mét vuông. Đất sét đóng gạch lấy ở Quán Lá, bên kia Tây Hồ, rồi dùng thuyền chở sang. Thuyền bè bấy giờ cũng tấp nập lắm.
    TĐK: Ông thấy Hồ Tây thuở ấy thế nào?
    TH: Bây giờ Hồ Tây bị thu hẹp lại vì trò lấn đất. Trước đây rộng lám. Ngút ngát cả một vùng trời nước. Xung quanh hồ, um tùm cây lá rậm rạp. Ven bờ, người ta còn thả sen. Nhiều sen lắm. Sau bỏ sen để nuôi cá mè, vì cá mè hay rúc vào bãi sen, tróc vảy chết. Trước đây, ở Hồ Tây không có cá mè đâu. Người ta chỉ thả một loại cá trắm. Cá mè tanh. Dân Hà Nội không ăn, chỉ có ở ao quê.
    TĐK: Thế còn các khu phố Hà Nội?
    TH: Địa giới Hà Nội xưa rất hẹp. Đi hết trường Chu Văn An bây giờ đã là đất Hà Đông rồi. Làng Yên Phụ cũng thuộc đất Hà Đông. Người Pháp xưa đặt tên Đường, tên Pố rất rành rẽ. Phố là địa giới nằm trong khu vực nội thị, còn Đường là nối với các tỉnh khác. Cuối Đường đã là tỉnh khác rồi. Ví như Đường Huế nối với Hà Đông, Đường Hàng Bột, hay Đường Bạch Mai cũng thế. Cuối Đường là địa phận của tỉnh khác. Về mặt hành chính, Hà Nội được chia ra làm bốn khu. Khu phố cổ bao gồm địa danh của 36 phố phường xưa, như Hàng Buồm, Hàng Bạc, Hàng Thiếc v.v... Rồi khu phố cũ là khu phố xây dựng từ thời Tây, có những biệt thự kiểu Tây, như phố Hàng Khay, Tràng Thi, Bùi Thị Xuân, Huyền Trân Công Chúa, Phan Đình Phùng, hai bên đường, có vỉa hè xây và trồng cây hai bên, cành lá giao nhau, nói như ông Phạm Quỳnh, và dùng chữ Phạm Quỳnh thì đấy là "đường thông cù". Đó là khu ở của những ông Tham, ông Phán hoặc dân nhà giàu... Khu phố mới, là khu phố được nới ra, xây dựng sau này. Còn khu thứ tư là khu dưới bãi, nơi ở của dân cu ly cu leo...
    TĐK: Chắc đó là vùng Nghi Tàm, Yên Phụ bây giờ?
    TH: Không, từ Yên Phụ trở lên Nghi Tàm xưa là đất trồng dâu, trồng ngô. Còn khu dưới bãi là vùng An Dương, Chương Dương bây giờ...
    TĐK: Ông vừa nói đến phố cổ. Tôi thì lại ngờ ngợ rằng, hình như Hà Nội mình, trừ các chùa chiền và Văn Miếu, một công trình kiến trúc có tuổi thọ ngót một ngàn năm, sau được trùng tu, tôn tạo qua rất nhiều đời, còn thì chúng ta không có phố cổ mà chỉ có phố cũ. Bao gồm cả phố cũ xưa ta xây và phố cũ sau này Tây xây. Đó là Ba Mươi Sáu phố phường xưa và những khu phố có biệt thự Tây như ông vừa nói. Bởi vì những khu phố đó có rất nhiều nhà chhỉ xây cách đây chừng hơn một trăm năm thì sao lại gọi là phố cổ được? Ở Nga, có những thành phố cổ như Xuzđan xây dựng cách đây hơn 11 thế kỷ, trong đó có những căn nhà gỗ, tường xếp bằng nguyên cả những cây gỗ, mãi cũng lợp gỗ. Trong nhà vẫn còn nguyên cả những đồ đạc cách chúng ta 1200 năm. Ở ta, nếu có phố cổ thì đấy chính là Hội An. Một khu phố rất lạ. Kiến trúc khá độc đáo. Hội An có một vùng văn hoá riêng, một bầu không khí cũng rất riêng biệt. Hàng tháng, cứ vào đêm 14 là người ta tắt hết điện, thắp đèn ***g. Những căn nhà gỗ trông rất cổ kính. Vào trong nhà không khí khác hăn, nhiệt độ cũng mát hẳn. Người ta lấy gió tự nhiên làm điều hoà nhiệt độ cho cả căn nhà. Ở đó không có si-đa, không có kẻ cắp, trấn lột và những kẻ lừa đảo. Tóm lại, những cái xấu, cái hỗn tạp của những đô thị hiện đại không du nhập được vào khu phố cổ này. Người dân sống giữa một bầu không khí trong vắt như ở hồi thế kỷ 17. Ngay cả việc buôn bán của họ cũng rất lạ lùng. Tôi mua một cái quần bò. Bà chủ quan hỏi rất cặn kẽ: "Chú định mặc một lần hay muốn dùng lâu dài?". Khi biết tôi thuộc dân "ăn chắc mặc bền", bà chủ quan khuyên tôi nên sang cửa hàng khác. Không xa đâu. Chỉ cách quán bà có ba nhà thôi. Bà bảo đồ của bà không tốt. Chỉ qua vài lần giặt là vải xù ra. Tôi không thấy ở đâu có người bán hàng lạ lùng như thế. Nếu đã mùa hàng ồi mà không ưng, hôm sau có thể mang trả lại. Người bán sẽ hoàn lại nguyên tiền, không bớt đi một xu, cũng không hề tỏ vẻ trách móc. Đấy là buôn bán theo lối cổ, ở một thời xã hội còn trong veo. Hà Nội chẳng bao giờ có chuyện như thế...
    TH: Nói Hà Nội không có phố cổ thì cũng không hăn. Điều này, tôi đồng ý với nhà nghiên cứu sử học Dương Trung Quốc. Hà Nội không có khu phố cổ nhưng có nhà cổ. Ví như nhà số 38 Hàng Đào và 87 Mã Mây. Hai ngôi nhà cổ này đã được Pháp đầu tư tài trợ để bảo tồn. Có thể rất dễ dàng nhận ra nhà cổ. Nhà cổ có hai cửa. Cửa trước dành cho chủ nhà đi. Cửa sau dành cho gia nhân, đầy tớ, hoặc chuyển phân rác và đồ phế thải. Hà Nội xưa có những vùng riêng biệt. Thành thị không phải là một từ chung đâu. Đó là hai khu cụ thể. Thành là nơi vua quan ở, còn Thị là nơi ở của dân chúng, chủ yếu là dân buôn bán, phục vụ cho Thành. Vua quan trong thành thỉnh thoảng ra đường, nên thường qui định dân chúng chỉ được ở nhà đất, không làm nhà gác hoặc nếu có nhà gác thì không được trổ cửa sổ hoặc làm ban công chìa ra đường, vì vua chúa đi ở bên dưới. Không ai được đứng trên đầu vua. Bởi thế, nhà cổ không có ban công hoặc cửa sổ trổ ra đường. Tôi cũng đồng ý với anh Dương Trung Qốc là chúng ta nên xác định rõ đâu là nhà cổ để giữ gìn, trùng tu, còn đâu là những ngôi nhà cũ để cho dân được tôn tạo nâng cấp hoặc xây dựng lại. Bởi nhiều nhà tối tăm, xập xệ quá. Thực chất đó là những khu nhà ổ chuột. Đã thế, vệ sinh lại không đảm bảo, vừa ô nhiễm môi trường, vừa làm mất cảnh quan đô thị...
    (còn tiếp, mỏi tay quá nghỉ giải lao cái)
  5. Thieu_iot

    Thieu_iot Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/03/2002
    Bài viết:
    2.998
    Đã được thích:
    0
    Bác IceBlood nếu không sợ em thủ tiêu mất quyển sách và nếu quyển sách in chữ tương đối rõ trên nền giấy trắng thì có thể đưa qua cho em dùng máy scan và phần mềm định dạng chữ Việt làm cho nhanh, bác đỡ phải type mỏi tay. Còn nếu không được thì em cứ hóng cổ ngồi chờ bác đưa lên dần dần thôi. Thanks.


    Nhất nhật vi nô, bán nhật vi nô
  6. sutsit

    sutsit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/08/2003
    Bài viết:
    680
    Đã được thích:
    0
    Cái bác này, đang hay, mỏi là mỏi thế nào
    Cố lên đi bác!
    Được sutsit sửa chữa / chuyển vào 16:29 ngày 25/11/2003
  7. IceBlood

    IceBlood Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/10/2003
    Bài viết:
    610
    Đã được thích:
    0
    TĐK: Ở Hà Nội, trong số 36 phố phường như ông nói, có những tên phố rất lạ: Hàng Đường, Hàng Quạt, Hàng Nón, Hàng Mắm, Hàng Thiếc, Hàng Thùng, Hàng Buồm, Hàng Trống... Nghe cứ như tên các quán hàng. Có cảm giác Hà Nội là một cái chợ. Chắc ngày xưa mỗi khu phóo là một nơi sản xuất và buôn bán các mặt hàng riêng biệt. Ví như Hàng Rươi bán rươi, Hàng Mắm bán... mắm chẳng hạn?
    TH: Không hẳn thế đâu. Có rất nhiều mặt hàng, người ta sản xuất ở quê, ở Hà Đông và các vùng phụ cận rồi đem ra bán ở Hà Nội. Như đồ gò đúc đồng, rồi guốc dép, mũ nón. Trước đây, Hà Nội còn có phố Hàng Tiện và phố Hàng Dép nữa. Đó là hai phố nhỏ. PHố Hàng Tiện ở bên Hàng Gai trông ra phía Bờ Hồ, phố Hàng Dép ở đầu Hàng Buồm. Hai phố này, năm 1945 bị phá huỷ trong những cuộc đánh nhau với Pháp, rồi cũng từ đấy bị mất phố luôn.
    TĐK: Thế còn những phong tục tập quán ở Hà Nội?
    TH: Hà Nội không có phong tục tập quán gì cả. Bởi trước đây, Hà Nội là đất nhượng địa cho Tây. Một anh đi ăn cắp chẳng hạn, nếu bị sử ở Hà Nội có thể sẽ rất nhẹ. Hà Nội theo luật lệ riêng của Tây. Muốn làm gì cũng phải xin phép Tây. Ngay cả việc dạy học tư, cứ có từ năm học sinh trở lên là đã phải xin phép. Muốn có hội hè đình đám là phải tập hợp rồi. Tây rất ngại sự tụ tập của dân chúng. Nó sợ ta gom quân đánh nó. Vì thế đình đám chỉ có thể tổ chức được ở các làng quê. Mà không phải làng quê nào cũng có hội đâu. Hội hè rước xách còn phụ thuộc vào sự tích của các ông Thánh ở làng. Không phải làng nào cũng có ông Thánh, nên không thể cứ rước xách tùm lum được. Làng Nghĩa Đô quê tôi cùng lắm cũng chỉ làm được một đêm chèo.
    TĐK: Nếu cần nói thật ngắn gọn về tính cách người Hà Nội thì ông sẽ nói thế nào? Thanh lịch hào hoa chăng? Ca dao xưa: "Chẳng thơm cũng thể hoa nhài - Chẳng thanh lịch cũng là người Tràng An"?
    TH: Hà Nội do dân tứ phương lập lên. Người Hà Nội gốc có lẽ chỉ là mấy anh đánh cá ở sông Tô Lịch. Chẳng có ai sống ở Hà Nội được đến mười đời. VÌ thế muốn hiểu tính cách người Hà Nội, ta phải tìm hiểu tính cách chung của người Việt Nam rồi nghiên cứu cá tính người thành thị thì mới ra tính cách người Hà Nội. Tất nhiên người Hà Nội có nét hào hoa phong nhã, nhưng đấy không phải tận gốc mà la tinh hoa của nhiều vùng đất tạo lên. Dân Hà Nội là dân tứ chiếng. Vì thế, ở Hà Nội tuyệt nhiên không có chuyện cục bộ địa phương. Tôi cho đó cũng là một nét rất hay của Hà Nội.
    TĐK: Ông đã nói Hà Nội trước đây thế nào thì bây giờ vẫn thế...
    TH: Đúng vậy. Ta chỉ bổ sung thêm mà ít thay đổi. Về cơ bản, ta vẫn giữ nguyên như cách bố trí, sắp đặt của ông Trần Văn Lai.
    TĐK: Xin ông nói rõ hơn được không?
    TH: Trần Văn Lai là một bác sĩ. Ông là người tốt, người yêu nước. Chính vì thế, thực dân Pháp đã bỏ tù ông. Tháng Ba năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, ông được ra tù và được mời làm Thị trưởng Thành phố. Trần Văn Lai chỉ làm Thị trưởng có 5 tháng, từ tháng Ba đến tháng Tám năm 45, nhưng ông đã làm được hai việc rất cơ bản. Một là đập hết các tượng đài của Pháp, chỉ để lại hai tượng bán thân là tượng Yersin và tượng Paster. Hai là thay lại các tên phố. Trước đây, phố Hà Nội hầu hết mang tên Tây, hoặc tên những người Việt có công với Pháp. Một số danh nhân của ta cũng được đặt tên, nhưng lại ở những phố tồi tàn, bẩn thỉu, hoặc hẻo lánh. Ông Trần Văn Lai thay lại hết. Tất nhiê, ông thạo Võ hơn Văn. Dân văn chương thì ông chỉ biết Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm cho đến Tú Xương là hết. Dân Võ ông biết nhiều hơn. Tất cả những người ông biết, ông đều đặt hết tên phố. Đặc biệt, ông rất yêu các vị võ tướng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám, Ngô Quyền, Bùi Thị Xuân, Lý Thường Kiệt, Yết Kiêu, Dã Tượng, Trần Bình Trọng, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản... Toàn là các võ tướng lừng danh cả. Rồi lại cả Ba Đình nữa. Tô có đọc trong một tờ báo, thấy có anh giải thích rằng trước đây ở khu Quảng trường này có ba... cái đình nên Quảng trường mang tên Ba Đình. Làm gì có đình nào ở đấy cơ chứ. Ba Đình là cuộc khởi nghĩa của ông Đinh Công Tráng ở Thanh Hoá. Quảng trường mang tên cuộc khởi nghĩa ấy. Sau này, ta định đổi thành Quảng trường Độc lập để ghi nhớ ngày 2-9-1945. Nhưng ***** không đồng ý. Cụ bảo, mình đã tuyên bố với Thế giới là Tuyên ngôn Độc lập đọc ở Quảng trường Ba Đình rồi, giờ không nên thay đổi nữa. Pháp tái chiến Hà Nội, chúng thay là Quảng trường Hồng Bàng. Sau khi ta thắng Pháp, Quảng trường trở lại tên Ba Đình đúng như cái tên ông Trần Văn Lai đã đặt.
    TĐK: Thế còn việc phá bỏ tượng đài?
    TH: Hà Nội cũ rất lắm tượng. Riêng tượng hoành tráng, tượng toàn thân đã có khoảng hơn chục cái. Còn tượng bán thân thì rất nhiều. Nhưng cũng đều là tượng Tây, hoặc tượng những người có công với Tây, được dựng nhân ngày kỷ niệm gì đó của Pháp. Như ở vườn hoa Inđira Ganđi bây giờ, trước đây có tượng toàn thân ông Toàn quyền Paul Bert. Rồi tượng Nữ thần Tự do. Cái tượng người đàn bà giơ cao ngọn đuốc dựng ở Hoa Kỳ, thành một danh lam thắng cảnh của Mỹ, do Pháp tặng ấy, trước đây đã có ở Hàn Nội rồi. Dân mình gọi nôm na là tượng Bà đầm xoè. Cái tượng này thoạt đầu đặt trên nóc Tháp Rùa ở giữa Hồ Hoàn Kiếm. Sau báo chỉ Pháp chửi ghê quá. Họ cho rằng cái tượng lớn như thế mà lại đặt chênh vênh trên bốn cái cọc sắt thì không được bề thế và chắc chắn. Thêm nữa để đàn bà chùm váy lên đền miếu là không tôn trọng phong tục tập quán của người bản xứ. Bức tượng được đưa về đặt ở vườn hoa Cửa Nam, gần chỗ bục Công an ở chợ Cửa Nam bây giờ. Còn một bức tượng hoành tráng rất đồ sộ nữa đặt ở vườn hoa Canh Nông, chính là khu vực bây giờ mình đặt tượng Lênin.
    TĐK: Tôi nghĩ rằng, ngoài lòng yêu nước và tự tôn dân tộc, cụ Trần Văn Lai rất hiểu người Việt và người phương Đông nói chung. Dân mình không mặn mà lắm với tượng đài. Yêu ai, sùng kính ai thì họ tôn làm thánh rồi lập chùa chiền đền miếu để thờ, rồi còn hương khói cúng tế. Không ai cắm hương dưới chân các bức tượng đá ngoài trời cả. Dân mình là dân có tín ngưỡng. Đình chùa, đền miếu mới chính là "tượng đài" của người Việt. Còn những bức tượng đá ngoài trờ là công trình văn hoá phương Tây, nó hợp với văn hoá tập quán và khí hậu phương Tây. Ở ta bão gió, mưa nắng đều rất dữ dăn. Chỉ sau vài năm là tượng sứt sẹo, mốc thếch, trông rất nhem nhuốc. Các nhà quản lý văn hoá rất nên nghiên cứu kỹ tâm lý, quan niệm của dân ta và khí hậu của ta trước khi dựng tượng đài. Bỏ ra hàng trăm tỉ đồng dựng những bức tượng mà dân không đến thì có nên dựng không? Thế còn vườn hoa Canh Nông. Thưa nhà văn Tô Hoài, tại sao lại gọi là vườn hoa Canh Nông?
    TH: Cái tên ấy cũng do dân gọi mà thành. Đơn giản thôi, vì ở đấy có cái tượng rất lớn. Cái tượng này được dựng nhân dịp Pháp kỷ niệm cuộc chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918). Trên đỉnh là một thằng lính Tây và một thằng lính Ta (lính Ngụy) cùng chĩa súng bắn vào cột cờ Hà Nội. Dưới là bốn mặt Sĩ, Nông, Công, Thương. Sĩ là ông thầy đồ cắp cái tráp. Công là một anh kéo cái xe cút kít (loại xe một bánh). Thương là một mụ đàn bà te tái gánh đôi quang thúng. Còn Nông là anh thợ cày đang bước sau con trâu. Cái bụng trâu to đùng và anh nông dân đang cày chiềng ra phía đường, nên ai qua cũng thấy. Còn ba mặt Sĩ, Công, Thương chìm trong cây lá nên nhiều người không biết. Người ta chỉ thấy ở đấy có anh nông dân đang cày nên gọi là vườn hoa Canh Nông. Đằng sau bức tượng là cái đình tám mái, trong có tấm bia đá ghi tên những người Việt có công với Quốc Mẫu. Cái bia ấy, ông Trần Văn Lai cũng đã cho đập đi. Giờ chỉ còn có mỗi cái đình và một cây đa, trên ngọn đa lại có cây dừa là dấu tích cũ còn lại. Ở Hà Nội có khoảng chục cây chồng lên nhau như thế.
    TĐK: Ông bảo, Hà Nội về cơ bản vẫn như cũ. Ta chỉ có bổ sung thêm...
    TH: Đúng vậy. Ngoại trừ vùng ngoại ô và những khu mở thêm. Còn bên trong vẫn vậy. Thậm chí có cả những tên phố, Pháp đề chờ đặt tên từ thời Pháp, giờ vẫn nguyên như vậy. Đó là những phố mang tên một loạt các con số, như phố 325, 332, 334, 335, 336... Đấy là phố Pháp gá tạm, chờ có tên mới thì đặt, giờ ta vẫn để nguyên như thế. Ngay cả những phố cụ Trần Văn Lai đã đặt tên rồi ta cũng có thể điều chỉnh cho hợp lý. Phố Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám dài quá, có thể cắt ra được. Đã có phố Hoàng Hoa Thám rồi thì không nên có phố Yên Thế nữa, hay đã có phố Nguyễn Thái Học rồi thì còn thêm phố Yên Bái nữa làm gì.
    Điều nhà văn Tô Hoài nói, không phải không có lý. Đặc biệt là việc xác định lại cho chính xác phố cổ để trùng tu phố cổ, còn nhà cũ, phố cũ tồi tàn và xuống cấp quá thì để dân tôn tạo, sửa chữa lại, hay như việc chỉnh lại những dãy phố quá dài. Trong khi đó, phố Nam Cao lại chỉ có mỗi một số nhà, sao gọi là phố được? Mấy khu phố Pháp vẫn chờ từ thời Pháp kia, mấy năm gần đây cũng đã được đặt thành tên mới: Phố 334 thành phố Cẩm Hội, phố 335 là Đống Mác, phố 325 là Thể Giao, phố 332 là Chùa Vua, phố 336 mang tên Lê Gia Định, phố 337 mang tên Đỗ Ngọc Du, phố 339 vẫn mang tên Yên Bái, phố 358 là Núi Trúc, phố 356 là Thanh Bảo. Bây giờ ở Hà Nội chỉ có một khu phố mang tên con số. Đó là phố Mồng 8 tháng 3. Đã đến lúc chúng ta cũng cần chỉnh lại cho hợp lý. Chuẩn bị kỷ niệm một ngàn năm Thăng Long, ta cần giữ gìn, tu tạo làm sao để có được một thành phố, một Thủ đô vừa đẹp, vừa hiện đại lại không làm mất đi những vẻ đẹp xưa cũ.
    TRẦN ĐĂNG KHOA
    (thực hiện)
  8. IceBlood

    IceBlood Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/10/2003
    Bài viết:
    610
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn bác Thiếu_iot, trước sau gì thì cũng nhờ bác thôi, nhưng giờ em đang có hứng đánh đàn, tự đánh thế này thấy ngấm văn hơn, hì hì... các bác thông cảm cho cái tính trái khoáy của em, và ráng chờ chút xíu nhé! Cám ơn các bác nhiều hì!!!
    Được IceBlood sửa chữa / chuyển vào 23:18 ngày 25/11/2003
  9. IceBlood

    IceBlood Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/10/2003
    Bài viết:
    610
    Đã được thích:
    0
    Đôi nét về người Hà gốc "Hàng" và người Hà gốc "Lội"​
    - Nguyễn Triều -​
    Một lần, cũng đã được chục năm, tôi ngồi nói chuyện với ông Ngọc, Giám đốc Công ty Thiết kế điện. Công ty của ông đóng trên địa bàn tỉnh Hà Tây. Ông Ngọc là một người điềm đạm, một trí thức gốc Hà Nội. Nói chuyện với ông thật thoải mái, dễ chịu không chỉ vì ông có kiến thức sâu rộng, mà còn vì ông mang sắn trong máu một tính cách đặc biệt của người Hà Nội - dí dỏm, hài hước nhẹ nhàng mà thâm thuý. Ông bảo:
    - Nhà mình ở Hàng Đào. Cơ quan mình có một cậu phó phòng, người Thanh Hoá. Tốt nghiệp đại học, cậu vào cơ quan, ở tập thể, hộ độc thân. Bẵng mấy năm không gặp, hôm rồi trông thấy nhau ở hội nghị, cậu ta khoe bây giờ ở Hàng Trống, cả vợ con cũng đưa ra đây rồi, đã nhập khẩu đàng hoàng. Còn mình bây giờ làm việc ở Hà Tây, gia đình cũng chuyển đến một khu tập thể xa trung tâm. Thời thế xoay vần cũng hay.
    Nói xong ông cười thật nhẹ nhõm.
    Trong một lần làm việc với một số nhà báo về chuyện đất đai, nhà cửa, ông Lê Ất hHợi, cũng một người Hà Nội gốc, lúc đó là Chủ tịch UBND thành phố, kể rằng, theo chỗ ông biết, sau giải phóng Thủ đô, tháng 10 -1945, toàn thành phố có khoảng 20 vạn người có hộ khẩu tại Hà Nội. Bây giờ con số đó là bao nhiêu tôi không rõ, còn dân Hà Nội đã lên trên 1, 2 triệu. Đó là chỉ tính nội thành. Chỉ có dân nội thành mới bị xáo trộn nhiều, còn ngoại thành hầu như chẳng thay đổi gì. Trong số 1, 2 triệu người ấy, bao nhiêu phần trăm là Hà Nội gốc, mà chúng tôi gọi vui là dân Hà gốc "Hàng" và bao nhiêu phần trăm là dân tứ xứ đổ về Thủ đô sau hai cuộc chiến, đổ về đây học tập, làm việc, đổ về đây để kiếm sống. Thành phần này gọi vui là dân Hà gốc "Lội". Gọi thế thôi chứ không phải vì họ nói ngọng, không phải vì họ ít học. Rất nhiều người từ các nơi đến Thủ đô đã trở thành danh nhân của đất nước. Cũng xin nói, bên cạnh kinh những lớp người như vậy cũng có không ít người về đất kinh thành chẳng học được mấy sự thanh lịch, văn hoá ở đây mà chỉ mang theo những thói dở, những hủ tục làm nhơ mất sự thanh khiết của hương hoa nhài. Nhưng đó lại là một câu chuyện khác.
    Tôi có một ông bạn đồng nghiệp đầy tài hoa và tài năng người Hàng Đào, nghĩa là đúng chuẩn dân Hà gốc "Hàng". Ông nhiều lần mong sẽ viết được một cuốn sách kể về những đổi thay của Thủ đô trong những năm vừa qua dựa trên những biến đổi của phố ông. Thực tình, Hàng Đào là nơi ông sinh ra, lớn lên, chứ bây giờ ông sống cách đó khá xa, trong một ngõ hẻm chật chội. Ông mong mãi mà chưa làm được. Dân Hàng Đào gốc giờ còn bao nhiêu người sống ở đó. Dạo sốt đất ở phố trung tâm này, giá lên mấy chục cây một mét vuông mà người ta vẫn tranh nhau mua. Té ra người mua nhà ở Hàng Đào lại không phải dân "Hàng", lại càng không phải Hàng Đào, mà chủ yếu là dân các tỉnh, trước hết là dân Lạng Sơn. Tiền đâu mà họ sẵn thế...
    Thủ đô là nơi tụ hội tinh hoa của cả nước, các cơ quan đầu não cũng đóng ở đây nên nhân tài, hào kiệt các nơi dồn tụ về đây cũng là chuyện thường. Và người Hà Nội lại toả đi bốn phương để xây dựng đất nước. Từ khi thành lập đến nay báo Hà Nội mới, cơ quan của Đảng bộ thành phố, tiếng nói của chính quyền và nhân dân Thủ đô, có 5 đời Tổng biên tập thì chỉ có một ông là người "Hàng". Ông đầu tiên là người Hà Tĩnh. Ông hiện tại quê gốc Hải Dương.
    Hà Nội là một vùng đất lạ. Kể từ khi nước ta giành lại được độc lập sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc và Thăng Long trở thành kinh đô của Đại Việt, trải gần một nghìn năm không có ông vua nào quê ở Thăng Long. Người Thăng Long làm đến chức to nhất trong thời phong kiến có lẽ là ông Lý Thường Kiệt. Chỉ vậy thôi. Từ khi nước ta có Đảng có đến nay chỉ có một Tổng Bí thư là người Hà Nội, đó là Tổng Bí thư Đỗ Mười, quê ở Thanh Trì, Hà Nội, nhưng cũng ở ngoại thành. Ông Lý Thường Kiệt cũng nguyên ở ngoại thành. Lạ thế. Chả biết phong thuỷ thế nào mà Thủ đô thường là nơi vua ở chứ không phải là nơi vua phát tích. Nhiều nước khác cũng vậy. Từ Bắc Kinh tới Washington, từ Mátxcơva tới Luân Đôn...
    Trong đợt bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XI vừa qua tại Thủ đô có 34 ứng cử viên. Tất cả họ đều sống và làm việc tại Hà Nội nhưng chỉ có 5 người là dân gốc "Hàng", còn lại đều quê từ Thừa Thiên - Huế trở ra.
    Chẳng cứ gì vua chúa, danh nhân, nhiều nghề nổi tiếng ở Thủ đô hiện nay cũng do những người gốc gác không kinh kỳ tạo lập nên. Phở Hà Nội nổi tiếng do người Hà Nam sáng chế. Giò chả lừng danh là của người Ước Lễ ở Hà Tây. Bánh cốm do người Hải Dương làm ra. Mứt sen, các loại chè cũng vậy. Không phải sản sinh ra từ kinh đô nhưng phải qua sự thẩm định, chấp nhận của người Hà Nội, phải tồn tại được ở Hà Nội mới trở nên nổi tiếng, mới lan truyền đi cả nước được.
    Thủ đô có khả năng hấp thụ tinh hoa văn hoá của tất cả các vùng và từ đây những tinh hoa đó được truyền bá đi cả nước. Người xưa nói rằng, núi không cao thú không lớn, nước không sâu cá không to. Ai muốn trở thành khổng lồ không thể không đến Thủ đô.
    Không phải ai đến Thủ đô cũng mong trở thành khổng lồ. Tuyệt đại đa số đến đây chỉ mong có được một cuộc sống tốt hơn ở quê nhà. Đó là những người lao động thuê, những người bán hàng rong, đánh giày, bán bao rong... Có những nhà tất cả đều ra Hà Nội, có những làng ai còn sức đều ra Thủ đô kiếm sống. Hà Nội bây giờ chật cứng những người và rất lộn xộn. Chỗ nào cũng người là người, chỗ nào ucngx rác là rác như một làng quê lớn với đủ mọi cái hay cái dở. Người phất lên cũng nhiều, người đổ xuống còn nhiều hơn nhưng không mấy ai có ý định rời bỏ mảnh đất này.
    Một lần nói chuyện với một người có trách nhiệm, tôi được nghe một thông tin - hơn 70% số căn hộ ở khu đô thị mới Linh Đàm là do người các tỉnh về mua. Không tin lắm, tôi đi hỏi và biết nhiều chuyện khác về "sự xâm chiếm" Thủ đô của người các nơi. Những người có tiền ở các tỉnh, từ miền núi tới đồng bằng, chẳng một ai yên tâm khi chưa có một cơ ngơi ở Hà Nội. Nhiều người khi đưa con về học đại học ở Thủ đô, để khỏi phải thuê nhà, đã bỏ tiền mua hẳn một ngôi nhà riêng cho con ở mà yên tâm đèn sách.
    Trong một chuyến đi công tác về một nhà máy lớn ở một tỉnh miền núi, tôi được một ông trưởng phòng mời về nhà chơi. Nhà ông được lắm. Đủ cả. Lúc đã trà dư tửu hậu ông kể chuyện gia đình. Ông có ba đứa con. Đứa đầu đã đi làm ở Hà Nội, đứa thứ hai đang học đại học ở đó, đứa thứ ba đang học phổ thông ở huyện. Hai đứa đầu ông đã lo xong nhà cho chúng, đứa thứ ba cũng đang chuẩn bị mua. Tất cả đều ở Hà Nội! Về hưu, ông bà cũng chuyển hẳn về dưới đó. Tiền nong không thành vấn đề. Thấy tôi tròn mắt, ông cao giọng:
    - Chú ngạc nhiên lắm hả? Trời đất, ở cái tỉnh này, quan chức nào mà chả như thế!
    Tôi không còn ngạc nhiên nữa khi đi các tỉnh khác, hỏi chuyện đó người ta cũng đều khẳng định như vậy. Và một quan chức ở Hà Nội cũng nói với tôi điều đó không sai sự thật lắm đâu. Quê đâu thì quê nhưng muốn cho con cái có tương lai phải có nhà ở Hà Nội. Không sau này chúng nó oán, mà hiện tại người ta bảo mình ngu. Vả lại không có nhà ở Hà Nội còn gì là oai nữa...
    Nói về tâm hồn người Hà Nội, có một bài hát nổi tiếng cho rằng nó "mộc mạc thôi". Tôi không tin như vậy. Hoàn toàn không tin. Tôi từ bé học với nhiều người Hà Nội, lớn lên quen biết nhiều người Hà gốc "Hàng", tôi chẳng thấy tâm hồn của họ, cũng như tâm hồn của con người nói chung, mộc mạc bao giờ. Nhưng thôi, đó là chuyện của nghệ sĩ, của mỗi người. Người Hà Nội không lấy tiền làm trọng, cả danh cũng vậy. Họ cần một con người, một nếp sống, một văn hoá. Có lẽ đó là sức mạnh, là sự hấp dẫn của người Hà Nội chăng?
    Người thành Nam có câu "Tự nhiên như người Hà Nội". Chẳng biết là khen hay chê. Nhưng sự tự nhiên ấy, theo tôi hiểu, chính là thái độ tự tin, hoà đồng do văn hoá, do hiểu biết. Và chính sự tự tin ấy mà bất kỳ ai, hễ đã sống ở Hà Nội, dù đến từ xứ sở ông đồ gàn hay văn minh Kinh Bắc cũng đều phải chấp nhận văn hoá Hà Nội và phần nào bị Hà Nội hoá.
    Cái văn hoá đặc biệt ấy bắt nguồn từ đâu? Nước Trung Hoa vĩ đại đã hai lần bị các dân tộc khác xâm chiếm. Nhưng những kẻ đô hộ đó đã buộc phải Hán hoá. Người Hán đô hộ Việt Nam. Bản sắc đặc biệt ấy dồn tụ lại, tinh kết lại và định hình, phát triển khi Thăng Long được chọn là kinh đô của nước Việt. Văn hoá Hà Nội bắt nguồn từ đó chăng?
    Những năm đầu tiên sau ngày đất nước thống nhất, tôi cứ bàng hoàng khi giữa Sài Gòn được nghe một giọng nói Hà Nội. Bây giờ tôi lại cứ là lạ thế nào khi giữa TP. Hồ Chí Minh sôi động bỗng nghe thấy một giọng Sài Gòn. Thành phố năng động, vĩ đại ấy như một ngọn lửa lôi cuốn người ta tìm đến. Và người bốn phương dồn về đó. Những ngày Festival Huế gặp bất kỳ ai sống ở đây tôi cũng chỉ nghe thấy một giọng nói dịu dàng, dễ thương - giọng Huế. Huế còn nghèo quá. Huế lại không năng động. Huế chuyển mình chậm quá nên chưa mấy ai muốn đến. Chỉ có người sở tại ở đây mà thôi.
    Hà Nội chưa được như TP. Hồ Chí MInh, nhưng cũng không như Huế, cũng không như Đà Nẵng. Hà Nội sáng tự tâm hồn, dù chưa giàu. Không cứ phải có tiền mà trở thành người Hà gốc "Hàng" được.
    Tôi, người viết bài này, dù đã sống ở Thủ đô từ bé đến nay đã hơn bốn mươi năm, cũng chưa bao giờ cảm thấy mình là người Hà Nội thực sự. Cũng phải thôi, cụ tôi, ông tôi, bố tôi, vốn là những ông đồ xứ Nghệ.
    Cho nên mới có chuyện người Hà gốc "Hàng" và người Hà gốc "Lội".
    N.T
  10. IceBlood

    IceBlood Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/10/2003
    Bài viết:
    610
    Đã được thích:
    0
    Nghĩ về con gái Hà Nội
    - Đoàn Hương -

    Con gái Hà Nội bây giờ có phần thông minh và xinh đẹp hơn các cụ ngày xưa, vì ngày xưa các cụ bà đâu có được học hành cao như bây giờ? Nhưng thông minh xinh đẹp hơn thì vẫn có vấn đề của cái thông minh xinh đẹp ấy...
    Từ năm đầu thế kỷ và thiên niên kỷ mới này, chúng ta thử có một cái nhìn tổng hợp và so sánh về cô gái Hà Nội hôm nay và hôm qua. Hà Nội là Thủ đô của cả nước, cho nên nghĩ về con gái Hà Nội cũng là nghĩ về Thủ đô, về đất nước. Chẳng thế mà đã có câu ca:
    Chẳng thanh cũng thể hoa nhài
    Chẳng lịch cũng thể là người Tràng An.

    Vẻ đẹp người con gái Hà Nội
    Đâu chỉ riêng ở Việt Nam mà hầu như tất cả các nước trên thế giới đều lấy vẻ đẹp của con gái Thủ đo làm vẻ đẹp chuẩn cho quốc gia mình. Điều này cũng dễ hiểu về mặt văn hoá, vì theo nguyên tắc Thủ đô bao giờ cũng là đại diện cho nền văn hoá của một quốc gia, là nơi hội tụ tinh hoa của một dân tộc, một đất nước. Tôi đã có dịp hỏi chuyện những đấng nmày râu (vì nói về vẻ đẹp của phụ nữ thì tất phải qua con mắt của phái mạnh mới có sự công bằng), thì ai cũng phải thừa nhận, con gái Hà Nội là nhìn bắt mắt nhất cả nước. Xin chứng minh bằng câu chuyện về chàng hoàng tử của thi ca lãng mạn Việt Nam là Xuân Diệu. Bài "Đây mùa thu tới" là một trong những bài thơ đẹp nhất của ông được viết bằng những cảm xúc say đắm mạnh mẽ trong lần đầu tiên đặt chân đến Hà Nội. Nhà thơ đã gần như choáng váng trước vẻ đẹp của hai hình tượng là con gái Hà Nội và cây liễu. Có thể nói rằng chính vẻ đẹp yểu điệu sang trọng của cô gái Hà Nội đã tạo nên vẻ đẹp huyền ảo của những hình tượng thơ vào loại bậc nhất của thi ca lãng mạn Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945:
    Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
    Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng

    Và có thể nói vẻ đẹp say đắm lòng người của cô gái Hà Nội đã lưu lại trong văn chương bằng những nét đẹp riêng. Đã lưu lại trong bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan, mà nếu không có tính cách Hà thành thì không thể viết nổi những câu thơ mang phong cách tài hoa và sang trọng đến thế:
    Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
    Thành cũ lâu đài bóng tịch dương

    Và vẻ đẹp ấy đã lưu lại trong những vần thơ của Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, trong tranh của Tô Ngọc Vân, Dương Bích Liên, trong bức tượng nổi tiếng của Vũ Cao Đàm với nụ cười phảng phất mơ màng trên gương mặt cô thiếu nữ Hà Nội hiện để trong bảo tàng Luvrơ. Vẻ đẹp ấy không chỉ về hình thể mà còn về tinh thần. Mà theo tôi nghĩ vẻ đẹp tinh thần có lẽ mới là điều cơ bản. Con gái Hà Nội không chỉ xinh đẹp mà còn chịu thương chịu khó có lẽ chẳng kém gì con gái cả nước. Nguyễn Đình Thi đã có một câu thơ đầy biểu tượng về cô gái Hà Nội trong những tháng năm gian khổ của cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc:
    Anh ôm em và ôm cả khẩu súng trường vai em
    Vẻ đẹp ấy không chỉ ở nội dung mà còn ở cả hình thức, ở cái sự ăn, cái sự mặc của con gái Hà Nội. Mà trong đó cái sự ăn, sự mặc thì một trong những yếu tố hàng đầu theo tôi là sự tinh tế, mà một trong những cái thể hiện sự tinh tế ấy chính là tính giới hạn của vấn đề. Vẫn chừng đó mét vải phân phối trong những năm chiến tranh nhưng con gái Hà Nội may mặc nhìn mát mắt hơn, vẫn là sự trang điểm nhưng nhìn ở cô gái Hà Nội hài hoà và dễ chịu hơn. Cái đẹp vốn là sự hài hoà theo định nghĩa của mỹ học Hy Lạp mà.
    Những biến thiên theo thời gian
    Song nói đi thì phải nói lại, văn hoá Thủ đô hôm nay đã mở rộng vòng tay đón nhận mọi phong cách của mọi miền đất nước và quốc tế nữa. Vì vậy hình dáng và phong cách cô gái Hà Nội hôm nay cũng phải khác đi là lẽ tất nhiên. Bây giờ thì bói đâu ra cái thứ con gái chỉ ngồi bên cửa sổ buồn không nói như cố thi sĩ Xuân Diệu nữa. (Nếu có thế thật thì có mà chết đói). Đó là vẻ đẹp của những cô gái hiện đại với quần gin, áo phôngvới một vẻ đẹp không chỉ mát mắt hay bắt mắt, mà nếu dùng từ theo văn hoá ẩm thức, thì còn là ngon mắt nữa. Cái thứ con gái cứ ra đường là phải quần chùng, áo dài như thời mẹ tôi đúng là đã qua đi. Nhìn cái áo dài, con gái Hà Nội vẫn mê, nhưng mặc thì còn phải tuỳ hoàn cảnh, vì hoàn cảnh xã hội công nghiệp hiện đại không cho phép thời trang bày tỏ và thể hiện quá đáng vẻ tha thướt. Vẫn biết hoạ sĩ Cát Tường, người vẽ ra chiếc áo dài mà dân Hà Nội vẫn gọi là áo "le mur" có thể nói là riêng cho con gái Hà Nội quả là một tay tài hoa và có công lớn với văn hoá thời trang đất nước và Hà Nội. Đây là một thứ áo dài cổ phủ kín gót chân rất sang trọng và có khả năng xoá bỏ những nhược điểm về thân thể của con gái Việt Nam nói chung và của con gái Hà Nội nói riêng, ví dụ như cặp đùi ngắn, to, thô và không thẳng, cái lưng cong (di chỉ của nền văn minh tiểu nông nghiệp lạc hậu, lao động vắt vả gánh, gồng, đội), thành một vẻ đẹp yêu kiều nhờ có sự bôi xoả của những nếp áo dài và những nét nhấn vào vẻ đẹp riêng của con gái Việt Nam và Hà Nội như cái eo thắt đáy lưng ong, đôi bờ vai tròn. Nhưng ở đây cũng phải nói thêm rằng bất chấp những lời khen có phần hơi quá đáng về thời trang Việt Nam hôm nay, tôi vẫn thấy khuyết điểm lớn nhất của thời trang Việt Nam (hiện nay) là chưa thiết kế nổi trang hục đại chúng, đặc biệt cho phụ nữ trong xã hội hiện đại và công nghiệp. Và ngành thời trang Hà Nội cũng chịu chung khuyết điểm đó. Thực ra phong cách ăn mặc của con gái Hà Nội hôm nay vẫn nghiêng về phong cách phương Tây là chính. Cũng vì thế dáng vẻ của con gái Hà Nội hôm nay tuy rằng đẹp thì có đẹp nhưng không còn phần nồng nàn nữ tính như các cụ ngày xưa.
    Thời nào cũng cần: Công, dung, ngôn, hạnh
    Nhưng vẻ đẹp bên ngoài dù mang những giá trị riêng của ký hiệu thẩm mý, thì như chúng tôi đã nói ở trên kia, tiêu chuẩn về vẻ đẹp tinh thần mới là cơ bản. Con gái Hà Nội bây giờ có phần thông minh xinh đẹp hơn các cụ ngày xưa. (Vì ngày xưa các cụ bà đâu có được học hành cao như bây giờ bởi cách nghĩ: Học nhiều chỉ tổ viết thư cho trai). Nhưng thông minh xinh đẹp hơn thì vẫn có vấn đề của cái thông minh xinh đẹp ấy. Các gia đình Hà Nội trong điều kiện đổi mới của đất nước có một cơ sở kinh tế đi lên, mà số lượng con lại ít đi do chính sách sinh đẻ có kế hoạch của nhà nước. Điều kiện ấy đang dẫn đến tình trạng xuất hiện đội ngũ cậu ấm cô chiêu trong một số thành phố lớn ở Việt Nam trong đó có Hà Nội. Nhưng phong cách của các cô chiêu thì thật quá thể đáng. Và tôi chắc rằng bất cứ chàng trai nào vớ phải những cô gái Hà Nội loại này hẳn sẽ tàn một đời trai. (Đây là những cô gái mà đáng buồn thay không nhất thiết sinh ra trong những gia đình giàu có. Và phải nói thêm điều này dẫu sẽ có vị độc giả phiền lòng, những cô gái này lại chủ yếu sinh ra trong những gia đình ít chú ý đến con cái hoặc không biết cách giáo dục con cái. Thậm chí trong cả những gia đình mà nhìn bề ngoài lại là những gia đình tốt của xã hội hiện nay).
    Tôi sẽ không bao giờ nói rằng những cô gái trên là đại biểu của con gái Hà Nội. Nhưng dẫu sao cũng cần phải nói như là một sự báo động nhỏ về phần sa sút về văn hoá sống của người Hà Nội hiện nay trong đó có các cô gái Hà Nội đã từng là thần tượng, đang và sẽ là thần tượng của phái mày râu trong nước và trên thế giới.
    Và cũng vì thế mà vẻ đẹp của người con gái Việt Nam nói chung và con gái Hà Nội nói riêng dù ở thời nào cũng thế, tôi chắc rằng không ngoài những yêu cầu văn hoá cổ truyền mà ông cha ta đã từng tổng kết trong bốn chứ: Công, dung, ngôn, hanh.
    * Trích "Hà Nội trong lòng người nghệ sĩ" - Nhà tạo mốt Minh Hạnh
    Minh Hạnh là một người phụ nữ gốc Huế nhưng chị lại thành danh ở đất Sài Gòn. Đã thiết kế hàng ngàn mẫu thời trang sang trọng cho phái nữ, Minh Hạnh còn có một cái nhìn riêng về con gái Hà Nội: "Hà Nội là nơi hội đủ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Dường như tất cả mọi tinh hoa của khắp các vùng miền trong cả nước đều tụ hội về đất kinh kỳ Thăng Long. Con gái Hà Thành xưa nổi tiếng là thanh tao, lịch lãm. Ngày nay, xã hội phát triên, theo dòng chảy của thời gian, Thủ đô là địa chỉ cho muôn nơi đổ về. Không còn tìm ra những thiếu nữ buồn buồn ngồi bên khuôn cửa. Không còn "bói" đâu ra hình ảnh phụ nữ đất Kẻ chợ với quần chúng, áo dài thong dong giữa phố. Bây giờ, nói về con gái Hà Nội là nói tới một lớp người từ tứ xứ về làm ăn, học tập, sinh sống. Đó là một lớp người với quần Jean, áo thun, tóc mốt Hàn Quốc, cưỡi xe máy phóng vèo vèo. Đó là một lớp người thông minh và cá tính... Nhưng sự thông minh, cá tính và đầy vẻ hiện đại đó đã làm cho con gái Hà Nội mất đi quá nhiều vẻ đẹp sâu lắng, nền nã, lịch sự. Sự phát triển và sự cuốn theo đời sống kinh tế thị trường đã đánh mất đi vẻ đẹp ấy. Tất nhiên là không phải tất cả đã mất đi. Vẫn còn một sô sphụ nữ giữ lại được sự lịch lãm của Hà Nội cổ. Đó là những người không thích chạy theo mốt mà biết tạo ra phong cách riêng cho mình. Đó là những người trời không ban cho họ một vóc dáng lý tưởng song họ lại chinh phục người đối diện bởi một vốn văn hoá sâu rộng, cách nói chuyện ấm áp. Minh Hạnh có những người bạn "Hà Nội gốc" như thế. Dù rằng nhìn bề ngoài họ vừa lùn vừa béo song lại "chơi được" với nhau mấy chục năm rồi. Và khi nói chuyện với nhau thì thật nhiều điều thú vị. Minh Hạnh nghĩ rằng con gái Hà Nội cần một vẻ đẹp tinh tế, thuần khiết, nền nã hơn là chạy theo những vẻ đẹp hiện đại, táo bạo. Nhưng dù đã và đang có những biến đổi song trong mắt Minh Hạnh, con gái Hà Nội "đẹp dễ sợ" và đó là vẻ đẹp chuẩn của con gái Việt Nam"

Chia sẻ trang này