1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hà Nội trong mắt người trí thức

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi VNHL, 20/12/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. VNHL

    VNHL Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/07/2001
    Bài viết:
    1.764
    Đã được thích:
    0
    Hà Nội trong mắt người trí thức

    Đăng lại từ talawas.de và tạp chí Diễn đàn (Pháp)


    Trong mỗi chúng ta có một Hà Nội: Hà Nội của chốn phồn hoa, của lịch sử rêu phong, của văn hoá kinh thành, của băm sáu phố phường, của Thạch Lam, của một thời đạn bom, của Nguyễn Tuân, Vũ Bằng hay Bùi Xuân Phái, của huyền thoại và hoài cổ, của những biểu tượng chính trị luôn gắn liền với thủ đô.
    Hà Nội sắp đi qua mười thế kỷ. Từ nay đến năm kỷ niệm, 2010, lòng hoài niệm về những Hà Nội xưa có lẽ còn đủ thời gian để tự chăm chút, nhưng chính Hà Nội của ngày hôm nay lại đang biến đổi nhanh hơn bất kì thời điểm nào trong quá khứ, với bộn bề câu hỏi cần tìm kiếm câu trả lời. YoHanoi mong muốn đi tìm câu trả lời ấy, và nhất là muốn dành cuộc tìm kiếm này cho những người còn rất trẻ.
    Talawas




    Hà Nội trong mắt người trí thức
    Trò chuyện với giáo sư Nguyễn Huệ Chi

    Đào Tuấn thực hiện


    Đào Tuấn (ĐT): Thưa giáo sư, nhiều người nói rằng bây giờ "toàn nhà quê" ra Hà Nội. Nhưng đó vốn là chuyện bình thường, vì Hà Nội là nơi quần anh tụ hội.

    Nguyễn Huệ Chi (NHC): Và thanh lọc, quy luật của một trung tâm là thế. Bao giờ cũng là các nơi hội tụ về và thanh lọc đi, cuối cùng những gì lắng đọng lại chính là Hà Nội.

    ĐT: Chắc sẽ không có khái niệm người Hà Nội theo nghĩa thâm niên sống ở thủ đô. Ví dụ như ông Nguyễn Du và bà Hồ Xuân Hương. Họ không sinh trưởng ở Thăng Long nhưng chính môi trường văn hóa Thăng Long đã nuôi dưỡng và phát triển tài năng của họ. Một tài năng thực sự phải đứng được ở Thăng Long, phải được Thăng Long công nhận, bằng không sẽ bị đào thải như giáo sư vừa nói.

    NHC: Đó là chuyện bình thường, nhưng trong những giai đoạn có xáo động lớn như mấy thập kỷ lại đây, sự thay đổi dân số cơ học tại Thăng Long có làm vợi bớt đi những tính cách được kết tinh từ lâu đời và đưa vào những tính cách chưa thật hoàn hảo, chưa thật đẹp. Những cái như thế thay thế nhau một cách khiên cưỡng, không theo quy luật, và để lại trong lòng những người vốn gắn bó với Hà Nội xa xưa một sự luyến tiếc, và sự luyến tiếc ấy là rất chính đáng. Nhưng cũng phải thấy rằng, trong diễn tiến bình thường, quy luật bổ sung và thanh lọc là tất nhiên. Còn trong những khoảnh khắc lịch sử có những thay đổi không bình thường, sự biến đổi về chất của những tính cách Hà Nội vốn đã được quan niệm, được nhận thức hay đã đi vào tiềm thức cũng là điều dễ thấy. Tiếc là thời buổi xáo động này đã làm mất đi nhiều tinh hoa, trong đó có tinh hoa của tính cách.

    ĐT: Luyến tiếc nhưng không phải là lo ngại?

    NHC: Đúng! Không phải lo ngại vì thực ra một trung tâm lớn nó có khả năng bao chứa hết mọi thứ. Sau một thời gian rất dài tự nó lại thanh lọc trở lại. Những cái không có quy luật phải vào lại quy luật. Tinh hoa sẽ còn lại, phù phiếm sẽ mất đi. Hà Nội là thế. Văn hóa Thăng Long chính là sự bồi đắp từ thế hệ này qua thế hệ nọ để trở thành một cái gì, và là cái luôn luôn vận động chứ không đứng im. Nếu anh quan niệm cái đó là cái đứng im và chỉ có như thế thì đó là sự không hoàn thiện. Thăng Long không phải là một "động hình" cứ thế mãi trong tâm trí bất cứ người nào.

    ĐT: Giáo sư có thấy những con đường của Hà Nội thật đặc biệt không?

    NHC: Những con đường tĩnh lặng của Hà Nội giúp ta chiêm nghiệm về cuộc sống và tự mình hướng nội. Những con đường ấy cứu vớt mình. Nó cho mình trở lại sự hồn toàn, trở lại chính là mình. Cách đây mấy năm tôi có gặp một người bạn Hà Lan vừa chân ướt chân ráo đến Hà Nội. Anh ta cứ xuýt xoa rằng Hà Nội mới thực là Việt Nam, Hà Nội mới đầy đủ là Phương Đông. Tôi nói là Sài Gòn rất đẹp, có những góc phố lộng lẫy như ở Paris vậy. Anh ta nói Sài Gòn không là cái gì cả, có đến Hà Nội mới đích thực gặp được Việt Nam.

    ĐT: Phải chăng khi đi trên những con đường của Hà Nội, đường Phan Đình Phùng, đường Nguyễn Du, đường Thanh Niên... ông ấy cảm nhận được cuộc sống của mình và của những người khác. Đó chính là Hà Nội, là Á Đông. Đi dưới những con đường lung linh ánh đèn, những ngôi nhà vút cao với rất nhiều biển quảng cáo, người ta không thể cảm nhận thấy mình, thiên nhiên đất trời như không phải của mình nữa thì chắc không phải là Á Đông, là Hà Nội.

    NHC: Triết lý Á Đông là cuộc sống phải hòa hợp với tự nhiên. Mỗi người là một tiểu vũ trụ hài hòa trong đại vũ trụ. Chính thiên nhiên Hà Nội giúp người ta hòa hợp một cách dễ dàng cái tôi chủ thể với bản thể vũ trụ huyền bí và mênh mông. Tự thân mình trong môi trường ấy đã có sự hòa hợp rồi. Ở Sài Gòn mình khó tìm thấy sự hòa hợp đó. Tất nhiên là Sài Gòn rất đẹp nhưng Sài Gòn khác với Hà Nội. Đi giữa Sài Gòn mình có cái bồn chồn của một doanh nhân đi tìm mối hàng, hay đi tìm quán nhậu, còn đi giữa Hà Nội tự nhiên ta thư thái như một lãng tử. Ngồi ở một góc nào đấy tại Hà Nội là có thể nghĩ về đất trời, về tất cả mọi thứ và quên đi xung quanh mà không cần phải có một cố gắng nào hết. Hà Nội vẫn giữ được những cái đó. Nhưng mấy chục năm nay người ta đã phá hoại quá nhiều môi trường sinh thái văn hóa tự nhiên lắng đọng từ hàng nghìn năm . Hà Nội bây giờ cũng bươn chải, đua chen một cách ghê gớm. Phải giữ cho được môi trường Hà Nội để mình tìm được sự hài hòa giữa mình với thiên nhiên, giữa mình với đại vũ trụ. Đây cũng là nhiệm vụ cấp bách của tầng lớp trí thức. Chỉ có trí thức mới có nhu cầu giải tỏa mình bằng cách tắm mình vào thiên nhiên như vậy. Người dân thường mà lấn được Hồ Tây kiếm chỗ bán hàng thì họ lấn ngay. Kể cả quan chức cũng ít cần thiên nhiên (tất nhiên họ có thiên nhiên của riêng họ, mênh mông là khác, nhưng hình như họ không nghĩ đến thiên nhiên của cả cộng đồng). May mà dự án thủy cung Thăng Long thất bại chứ không Hồ Tây cũng đã bị xâm hại rồi. Chỉ anh trí thức mới nhận thấy cái Hồ Tây này là quan thiết tới vận mệnh dân tộc cả về sau này nữa. "Đứng cạnh Hồ Tây có thể quên được trời đất". Đó là lời của ông tham tán vãn hóa đại sứ quán Phần Lan tại Việt Nam nói với tôi trong buổi tối chia tay với ông, một buổi tối Hồ Tây mù sương. Nhưng sau một lúc ngẫm nghĩ ông ấy nói thêm: "Không biết khi tôi có dịp sang lại Việt Nam thì Hồ Tây có còn là Hồ Tây như bây giờ hay không". Nghe câu nói ấy chúng tôi đều trầm hẳn xuống và man mác buồn.

    ĐT: Một tờ tạp chí xuất bản ở Hà Nội giải thích hai chữ thanh lịch của người Hà Nội thế này: Chữ "thanh" trong thanh lịch là thanh tao, thanh tịnh, thanh nhã, thanh đạm, thanh khiết ... Chữ "lịch" là lịch lãm, lịch thiệp, lịch duyệt, lịch các kiểu, miễn có nghĩa đẹp là được. Có đúng thế không?

    NHC: Đó chỉ là suy nguyên về mặt ngôn từ thôi, còn muốn hiểu thanh lịch của người Tràng An thực sự thì phải hiểu từ bản chất. Thanh lịch nên được hiểu nôm na là "nền nã" thì đúng hơn. Tràng An là nơi hội tụ của bốn phương đất nước sớm nhất trong lịch sử và đã trải qua gần mười thế kỷ. Chính chiều dày lịch sử đó đã tạo nên con người với một sự ứng xử thế nào cho đẹp và quan trọng là có được cái ý thức về sự tự do. Xã hội Tràng An nổi bật lên vì trong cả một cái biển mênh mông là nông thôn và làng mạc với tư tưởng tiểu nông và nền dân chủ công xã "cá đối bằng đầu", bên trên thì rất sợ mấy ông chánh phó lý, không làm gì có sự tự do - giới hạn trong cái gọi là được mặc sức làm ăn sinh sống. Khi anh ra đến môi trường Hà Nội với các nghề thủ công và buôn bán, với các phường hội, anh bắt đầu cảm nhận được vòng dây trói bấy lâu thít chặt nay đã nới lỏng ra ít nhiều. Anh bắt đầu có chút tự do, được cải tiến nghề nghiệp và cạnh tranh với người khác để tăng tiến trong nghề, nên trong ứng xử anh phải cố giữ cho được cái đó. Thế giới của những người thợ thủ công và những người dân buôn bán còn có thêm ảo vọng về việc thoát khỏi cái xiềng tập tục tư tưởng nào đấy mà nông thôn không thoát được. Thế nên càng phải tôn trọng cái đó để xử sự cho đẹp, tôn trọng tự do của nhau. Những cái đó cứ được cố kết lại, đúc lại dần dần. Đồng thời thêm vào đó là học vấn, là văn hóa; sự cư xử phù hợp với học vấn và văn hóa càng góp phần tạo ra nét thanh lịch của Hà Nội.



    Oh don't take it all to heart
    It's only fools - they make these rules
  2. VNHL

    VNHL Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/07/2001
    Bài viết:
    1.764
    Đã được thích:
    0
    ĐT: Nhưng hình như cái thanh lịch của người Hà Nội giờ đã khác xưa lắm?
    NHC: Hà Nội bây giờ mất thanh lịch đi nhiều. Sự tăng dân số một cách cơ học quá nhanh và quá lớn đã làm văn hóa truyền thống của Hà Nội phai nhạt đi. Cấu trúc gia đình cũ của Hà Nội bị phá vỡ cũng là một nguyên nhân quan trọng. Vào khoảng sau 1954, một ngôi nhà từ đời ông đời cha để lại bị chia sẻ thành năm bảy cái nhà con, cho rất nhiều hộ từ đâu đâu về ở, khiến cho ứng xử của họ không còn giống như khi ngôi nhà ấy còn là một biệt thự êm đềm, trong đó có tôn ti, có nhường nhịn, có đi nhẹ nói khẽ nữa. Trật tự văn hóa đã thay đổi. Để trở lại thanh lịch như mong muốn thì phải chờ thời gian xác lập lại trật tự hợp với quy luật. Không phải bằng giáo dục một cách "nhân vi" mà được. Ngày xưa tôi thấy bố tôi nói, người ta đi ngoài đường không nói những lời sỗ sàng, bây giờ thì chuyện ấy có nhiều, nhất là với những người trẻ tuổi.
    ĐT: Thỉnh thoảng trên đường thấy mấy thanh niên ăn mặc lịch sự thế mà bỗng nhiên quay ngang nhổ toẹt một bãi nước bọt, rồi bình thản đi thẳng.
    NHC: Khi tôi sang Tàu, tới thăm Di Hoà Viên và Thập Tam Lăng, người các nơi đến tham quan đông nghìn nghịt, nhưng không ai vứt bừa bãi một tờ giấy nào.
    ĐT: Và họ không khạc nhổ theo thói quen Tàu nữa chứ? Họ đã bỏ được thói quen khạc nhổ mấy nghìn năm.
    NHC: Những việc họ làm được như thế khiến tôi nể và sợ. Nhưng ông anh tôi là giáo sư Từ Chi lại nói tưng tửng: Cậu đừng tưởng thế mà vội mừng. ở nhà mình tuy rằng thế nhưng còn có một khoảnh được là mình kia đấy. Cái "nhôm nhoam" của mình chính là một chân trời để chúng ta còn nhâm nhi cuộc sống. Còn để vào được khuôn phép, người Tàu đã phải sát phạt nhau ghê lắm, phải đổ bao nhiêu máu từ không biết bao cuộc "đại *****************" mới tạo được thứ khuôn phép kia. Mà làm thế thì cái giá trả cho nó lớn biết bao nhiêu! Như nước Nga 70 năm xây dựng CNXH đã dựng nên một nền văn hóa mà mình thấy cực kỳ đẹp đấy, nhưng nó là "nhân vi" nên khi sụp đổ một cái thì bộ mặt của nó trở nên ghê sợ biết chừng nào. Cô bạn tôi vừa từ Nga về kể rằng, người nước ngoài, nhất là dân tóc đen như chúng ta, bây giờ đến Nga dễ bị bắt cóc như chơi. Cái gì đã là "nhân vi" thì không phải là kết quả của sự diễn tiến tự nhiên, tức là theo quy luật . Nó sẽ mất đi rất nhanh thôi. Tôi chỉ mong rằng có một cơ chế biết thuận theo quy luật tự nhiên để dân Hà Nội, dân Việt Nam được hưởng cái gọi là sự phát triển một cách bình thường, hồn nhiên, hồn toàn để mà đi tới. Cái đó sẽ đẹp hơn là nhân vi. Với nhân vi, anh cứ ép cho người ta một cái tốt đẹp nào đó theo ý anh mà người ta không tiếp nhận được thì rốt cuộc cũng chẳng được lâu bền. Tuy thế, trong đời sống cũng cần có kỷ luật và nề nếp. Và cũng phải thấy về nhiều phương diện, nhất là văn hóa nghệ thuật, Trung Hoa hiện nay đã hết sức cởi mở mà mình chưa theo được, hoặc chưa dám theo.
    ĐT: Còn văn hiến Thăng Long, thưa giáo sư, chúng ta phải hình dung thế nào về nó?
    NHC: Muốn hình dung cái gọi là văn hiến Thăng Long thì trước hết phải hiểu "văn hiến" là gì. Gần đây có một vị Viện sĩ định nghĩa văn hiến là văn học để hiến dâng cho Đảng. Kể cũng là một cách hiểu không phải không chân thành, xét từ lý thuyết "tiếp nhận". Tiếc rằng trong gốc gác của nó, hai chữ "văn hiến" lại chẳng liên quan gì đến Đảng cộng sản vì hai chữ đó ra đời ở Trung Quốc trước khi Đảng cộng sản Trung Quốc xuất hiện hàng mấy nghìn năm. Có lẽ chữ "đảng" mà ông Viện sĩ nói đây là "hương đảng" dưới thời Khổng Tử chăng. Hiểu thật vắn tắt thì "văn hiến" bao gồm hai thành tố là điển tịch và hiền tài. Đó là hai thành tố không tách rời nhau, làm nên bộ mặt văn hóa của một nước. Thăng Long để lại một truyền thống văn chương sách vở không kém phong phú (ấy là so sánh một cách tương đối trong kho tàng sách vở văn chương của cả nước), mặc dầu trải qua các biến cố lịch sử cũng bị mất mát nhiều. Còn hiền tài thì đương nhiên Thăng Long đời nào cũng có. Không thế đã không có mấy chữ "sĩ phu Bắc Hà".
    ĐT: Tính độc đáo của nền văn hóa Thăng Long nằm ở đâu? Có thể coi văn hóa Thăng Long là đại diện cho nền văn hóa Bắc Hà được không?
    NHC: Cũng có thể coi văn hóa Thăng Long là văn hóa Bắc Hà khi đất nước mở rộng biên giới về phía Nam sông Gianh kể từ thời nhà Trần trở về sau, và dần dần hình thành nên một khu vực dân cư rộng lớn cũng là một khu vực văn hóa quan trọng có tên là văn hóa Nam Hà. Chia nhỏ ra thì Bắc Hà cũng có nhiều tiểu khu vực văn hóa mang đặc trưng riêng như văn hóa Kinh Bắc, văn hóa Nghệ Tĩnh v.v..., nhưng hình như có một hiện tượng xẩy ra từ rất sớm, là những tiểu khu vực văn hóa này luôn luôn lấy Thăng Long làm điểm quy tụ để giao thoa, xuyên thấm vào nhau; vì thế vô hình trung tinh hoa của những vùng văn hóa nói trên đều góp phần bồi đắp cho văn hóa Thăng Long thêm rực rỡ. Hơn nữa, nếu bản thân các thành tố văn hóa nói trên chưa được cọ xát, thanh lọc trong môi trường Thăng Long thì trước sau chúng vẫn là một thứ văn hóa "mộc" hay văn hóa "vườn" mà chưa được "đóng dấu" là văn hóa Đại Việt, nghĩa là chưa nâng cấp vượt bực để trở thành những giá trị phổ biến và có sức sống lâu bền. Ngược lại, văn hóa Thăng Long cũng không còn là một cái gì thuần túy sản sinh trong lòng nó, mà nó mặc nhiên trở thành một dòng sông lớn tiếp nhận nguồn nước của các con sông nhỏ chảy từ xứ Đông, xứ Đoài, xứ Bắc, và xứ "trại" (Thanh, Nghệ, Tĩnh) để thay đổi lưu lượng và hoạt tính trong chất nước của mình. Tuy nhiên, đó quyết không phải là một sự hỗn hợp - đó là cả một quá trình lượng biến thành chất, khiến người Thăng Long như được uống một thứ nước mới, có vị trong trẻo và đậm ngọt hơn hẳn. Tranh Hàng Trống không hơn tranh Đông Hồ, chữ khắc và mô típ trang trí trên bia đá một số ngôi chùa Hà Nội không đẹp hơn chữ khắc và mô típ trang trí trên bia đá nhiều ngôi chùa trong nước, vì đó là sản phẩm của những địa phương đem so sánh với nhau. Nhưng tranh do người Pháp thuê các họa sĩ dân gian bậc thầy tập trung ở Thăng Long vẽ đầu thế kỷ XX thì đa dạng hơn tranh hai địa phương kia rất nhiều; chữ khắc và trang trí trên bia đá ở Văn miếu lựa chọn đội ngũ thợ khắc có truyền thống lâu đời của nhà nước phong kiến rõ ràng là sắc sảo chỉnh tề hơn chữ khắc và mô típ trang trí trên những tấm bia ở nhiều nơi ta đã gặp; và Truyện Kiều gắn bó với ngôn ngữ nghệ thuật Thăng Long và cả nước thì khác xa Thác lời trai phường nón chỉ gắn bó với ngôn ngữ địa phương Nghệ Tĩnh, tuy đều là tác phẩm của Nguyễn Du. Yếu tố bác học hóa được nâng lên rõ hơn, tính điển phạm cũng được nâng lên rõ hơn. Cho nên cái độc đáo của văn hóa Thăng Long có lẽ nên nhìn ở ba phương diện: 1. Kết tinh được các tố chất của nền văn minh châu thổ sông Hồng trải dài trong lịch sử; 2. Thu hút được sự sống tươi rói từ mọi vùng miền để thanh lọc những yếu tố già cỗi như một chu trình luân lưu không ngừng; 3. Được hệ thống hóa và điển phạm hóa để trở nên cân đối hơn, nền nếp hơn, có bài bản hơn.
    Oh don't take it all to heart
    It's only fools - they make these rules
  3. VNHL

    VNHL Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/07/2001
    Bài viết:
    1.764
    Đã được thích:
    0
    ĐT: Chính nền văn hóa ấy đã sản sinh ra cốt cách sĩ phu Thăng Long. Ai tiêu biểu cho cốt cách ấy? Lý Thường Kiệt được chăng?
    NHC: Sĩ phu Thăng Long có mặt hay và mặt dở. Một mặt, họ được đào tạo chu đáo về học vấn, về nhân cách nên phần lớn biết giữ phẩm chất người sĩ quân tử. Về mặt ứng xử cá nhân có những người tỏ ra rất khí tiết. Nhưng mặt khác họ lại gắn mình với bộ máy hành chính trung ương, là sự nối dài quyền lực của giai cấp thống trị, nên cũng không ít người mang nặng tư tưởng bảo hoàng. Sống giữa một nơi đô hội, lại là nơi tập trung tai mắt của triều đình, họ thường nhạy bén với thời tiết chính trị, nhiều người có được một tầm nhìn khoáng đạt. Nhưng sự trói buộc của cơ chế nhà nước đối với họ cũng trực tiếp hơn ở địa phương nên nhiều người cũng lại cảm thấy rõ thân phận hèn mọn của mình. Đó là những mâu thuẫn tồn tại thường xuyên trong bất kỳ một trí thức Thăng Long nào ở bất kỳ thời nào. Lý Thường Kiệt cũng không ngoại lệ.
    ĐT: Tháp Bút ở Hồ Gươm mang hàng chữ "tả thanh thiên" của cụ Nguyễn Văn Siêu, một trong hai "bồ chữ" của thiên hạ. Không biết cụ Nguyễn Văn Siêu do nghĩ nhiều quá, mong muốn nhiều quá mà không làm được gì hay sao mà đành viết lên trời xanh như vậy?
    NHC: Nguyễn Văn Siêu là hình ảnh lộn trái của Cao Bá Quát. Cao Bá Quát có nói mấy câu đại khái thế này: "Một đêm tôi nằm ngủ bỗng nghe mùa xuân đến phá tan cái rét cuối đông, sáng mai trở dậy thấy khắp nơi hoa nở thắm rực. Tôi ước sao việc đời cũng giống như việc hoa, sau một cơn giông tố thế là ở đâu non sông cũng đều đổi mới hết thảy". Cần phải có một cơn bão quét sạch bụi bặm để đổi mới chóng vánh mọi cái cũ trên đời, đó là ý thức nung nấu trong lòng Cao Bá Quát. Sĩ phu thuở ấy muốn gì? Muốn có một sự thay đổi và tất cả như dồn lại trong tâm hồn nhà chí sĩ họ Cao. Cao Bá Quát chính là sự bột phát nhãn kiến bén nhạy của sĩ phu Thăng Long. Nguyễn Văn Siêu thì không thế. Mọi điều suy nghĩ ông đều nén lại trong lòng. Nén lại đến mức không còn tìm ra lời giải cho những điều mình nghĩ. Không tìm ra, không biết hỏi ở đâu thì hỏi ở trời xanh.
    ĐT: Tại sao phải nén lại như vậy?
    NHC: Họ là hai người bạn, cùng chí hướng nhưng tính cách có khác nhau. Nguyễn Văn Siêu là một người nhẫn nhục chịu đựng, tự thấy những cái ngưỡng không vượt được. Không vượt được cả chính mình. Ông rất khâm phục Cao Bá Quát. Nhưng hành vi quá khổ của Cao Bá Quát thì tư tưởng của ông không bắt kịp. Khi hai anh em họ Cao tử nạn, ông làm câu đối điếu: "Thương thay tài điệu tót vời, khó anh khó em, một cặp cùng sinh lại cùng thác; Thôi nhỉ cơ sự đến vậy, đáng thương đáng ghét, nghìn năm dây xấu cũng dây thơm". Chỗ đau đớn nhất trong tiếng khóc bạn của Nguyễn Văn Siêu là ông phải thừa nhận theo thói đời lúc ấy, rằng việc Cao Bá Quát làm là để lại tiếng xấu muôn thuở. Nhưng sâu trong tiềm thức, ông lại phải nói với trái tim đang nhỏ máu của mình rằng đó mới thực là tiếng thơm. Đó chính là cái mâu thuẫn ông không giải quyết được cho chính mình. Phải viết lên trời xanh là vì lẽ ấy. Mỗi ông đều có cái hay. Người mà như Cao Bá Quát thì ít.
    ĐT: Số đông trí thức nhẫn nhịn như Nguyễn Văn Siêu là do thói quen ngàn đời hay do một điều gì khác?
    NHC: Do đào tạo kiểu nhà nho phải chấp nhận cái khuôn, không vùng ra khỏi khuôn nhưng bản thân lại thấy chật hẹp. Cái khuôn luôn ràng buộc mình và luôn phải đi tìm một lối thoát. Lối thoát ấy có thể là quay về với đạo Phật để giải thoát gánh nặng trần tục trong con người phận vị của mình, hoặc là tìm vào với Lão Trang để được hòa mình vào bản thể, được đồng nhất mình với thiên nhiên vô vi tự tại. Những cách thoát ly ấy đều giúp nhà nho trở thành người tự do trong những thời khắc nào đấy, nghĩa là họ được sống trong những giây lát mà trong tâm tưởng, cái khuôn dường như không còn ràng buộc được mình. Nhưng thực tế thì cái khuôn vẫn cứ lù lù khuôn chặt lấy họ. Hai cách giải thoát, Phật hay Lão Trang, đều có tính chất ảo tưởng, nhưng cũng chính là cách mà Nguyễn Văn Siêu và nhiều nhà nho ở nhiều thời đại chọn lựa. Sĩ phu Bắc Hà, sĩ phu Việt Nam ngày xưa là như thế. Văn hóa Việt Nam theo tôi là văn hóa dung hợp, tức là không chịu ép mình trong một thứ văn hóa độc chuyên. Luôn luôn tìm cách hóa giải sự độc chuyên bằng việc điều hòa cái học chính thống và cái học phi chính thống, cái vốn bác học và cái vốn dân gian, nó giúp làm mềm mại hơn tư tưởng của mình. Cái độc chuyên - bất kỳ hình thù thế nào, dưới cách gọi mỹ miều nào - cũng là từ ngoài mang đến cho người Việt chứ không phải là sản phẩm gốc của người Việt. Đạo Nho có phải là của người Việt đâu. Đặc điểm tư duy của người Việt là thu nhận tất cả mọi thứ và dung hóa chúng với mục đích thực dụng, và cũng chẳng thứ nào đến đầu đến đuôi. Bản sắc văn hóa Việt Nam phải chăng chính là cái đó.
    ĐT: Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát sống dưới thời phong kiến. Mà thời phong kiến thì không thể nói là có dân chủ được. Nếu có thì chỉ là sự manh nha, nhờ một điều kiện hãn hữu nào đấy. Vậy lý do chính là thiếu dân chủ. Vì thiếu dân chủ mà người ta không nói được nên bị kìm nén. Nhu cầu giải thoát tư tưởng là nhu cầu tự nhiên nhất của con người. Với trí thức, nhu cầu ấy còn mãnh liệt hơn. Cụ Nguyễn Văn Siêu chắc phải bức bách lắm mới phải viết lên trời xanh. Cái áp lực "không được là mình" nó phải lớn lắm đúng không ạ? Hà Nội bây giờ có thế không?
    ..............
    Oh don''t take it all to heart
    It''s only fools - they make these rules
    u?c randomwalker s?a vo 03:22 ngy 08/12/2003
  4. VNHL

    VNHL Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/07/2001
    Bài viết:
    1.764
    Đã được thích:
    0
    ĐT: Thân phận ông ấy không nói lên hình ảnh của số đông, nhưng nói lên một điều gì đó mà không cần phải nói. Tại sao thân phận sĩ phu Thăng Long lại cô đơn đến vậy. Khi Nguyễn Văn Siêu viết "tả thanh thiên" chắc ông ấy phải cô đơn lắm.
    NHC: Hết sức cô đơn. Phàm là trí thức thì bao giờ cũng cô đơn. Chỉ một mình mình vượt ngọn núi của chính mình. Không ai thay mình được cả. Không thể có bạn đồng hành. Trí thức Thăng Long thế kỷ XVIII nằm ở giữa hai sức ép, một bên là vua Lê, một bên là chúa Trịnh. Như tôi đã nói ở trên, trong xã hội phong kiến, trí thức Thăng Long thế nào cũng gắn mình với quyền lực. Không có trí thức tự do không gắn mình với quyền lực mà tồn tại được. Nhưng là trí thức thì lại luôn luôn ảo tưởng là mình có một khoảng trời tự do. Anh ta nằm ở thế mâu thuẫn ấy. Mà ở đây quyền lực lại được xẻ đôi ra (vua Lê và chúa Trịnh). Anh gắn với quyền lực này thì bị quyền lực kia chi phối. Nó đe nẹt anh cho nên anh phải đi len vào giữa. Và vì vậy trí thức Thăng Long càng cô đơn hơn và càng phải giữ mình hơn rất nhiều.
    ĐT: Họ chấp nhận cô đơn hay là họ hèn?
    NHC: Họ có phần hèn nhưng phần hèn ấy đáng thương hơn đáng trách. Đến một lúc nào đấy, có một chỗ nào đấy anh bột phát và trở lại tính cách hồn toàn của mình mà anh đã giấu đi trong đời sống bình thường. Ở một thời điểm nào đấy, với một điều kiện thích hợp nào đấy anh bột phát và trở lại là anh. Cao Bá Quát cũng thế đấy. Anh trí thức Bắc Hà giữ được cái đó như một điểm sáng của lương tri làm cho người ta kính trọng, nhưng đồng thời cũng làm người ta thương. Bởi vì anh ta bị những sức ép khác nhau giữa những mâu thuẫn không giải quyết nổi.
    ĐT: Tức là những trí thức ấy không hèn. Họ biết họ giỏi nhưng không thắng được mệnh trời. Họ biết con đường phải đi nhưng không đủ sức để đi. Đành chờ cho thế cuộc xoay vần sao?
    NHC: Cũng còn do ở hoàn cảnh. Khoảng năm 1958 sau khi nhóm Nhân Văn Giai Phẩm bị tai nạn thì người nào cũng giữ mình. Không ai dám lên tiếng bênh ai dù biết rằng những tiếng nói như Mười năm, Sắp cưới, Mở hầm, Vào đời, Phở và nhiều bài trên tuần báo Văn... chẳng liên quan gì đến Nhân văn Giai Phẩm. Nhưng cũng có một ít người như Nguyên Hồng cương trực bỏ Hà Nội đưa cả gia đình về ấp Đồi Cháy, Hữu Loan bỏ Hà Nội về Thanh Hóa đi cày ... Tất nhiên không nhiều. Giữa một xã hội mà ai ai cũng chấp nhận sự cào bằng thì còn ai dám làm một cái gì gọi là sáng tạo độc đáo được. Thứ nữa là mấy chục năm gần như là không được đọc gì cả. Những cuốn sách vô thưởng vô phạt như của Tự lực văn đoàn cũng là sách cấm rồi. Nhưng chủ yếu thì vẫn là do người trí thức tự giới hạn mình, tự kiểm duyệt mình và lâu dần điều đó trở thành tiềm thức, như một thứ phản xạ có điều kiện. Giống như con cá trong bể, mới bỏ vào bể nó nhìn ra tưởng ngoài kia cũng là nước liền đâm đầu vào mặt kính và cố nhiên phải quay trở lại, nhưng sau nhiều lần đâm như thế nó biết rằng chỗ này đi qua không được bèn nẩy sinh một thứ phản xạ có điều kiện, hễ đến sát mặt kính là quay lại thôi. Ông Nguyễn Khắc Viện đã đưa ra ví dụ trên đây để nói trí thức chúng ta tạo được thói quen tự kiểm duyệt mình như thế nào.
    ĐT: Thói quen do anh tạo ra rồi anh cứ tưởng là tự nhiên. Nhưng bây giờ có ai ép buộc anh đâu, anh cứ tự do thoải mái mà suy nghĩ, mà nói, cứ nói đi sao không nói. Nhưng nói thì lại sợ!
    NHC: Nếu trong xã hội anh chỉ được nghĩ có chừng ấy, và cũng chỉ biết xoay quanh có chừng ấy suy nghĩ thì làm sao tạo ra sự khác nhau. Khổng Tử nói: "Quân tử hòa nhi bất đồng". Hòa ái với nhau nhưng không phải anh nào cũng giống nhau như hai giọt nước. Rất cần sự khác nhau trong tư tưởng, trong cách kiến giải những vấn đề đời sống. Nhưng từ lâu rồi, ta đã không được khác, ta quan niệm khác là chống, vì vậy làm gì có điều kiện để bật nẩy thiên tài. Nếu cho rằng ý nghĩ của một ai đấy ban bố ra là giới hạn cuối cùng của sự nghĩ rồi thì làm sao vốn liếng trí tuệ chung của xã hội còn bừng tỉnh dậy và nhân lên được.
    ĐT: Ý giáo sư nói là về mặt tư duy, cần phải có đua tranh lành mạnh, văn hóa và công bằng?
    NHC: Và phải được coi là một điều kiện đương nhiên. Khác không phải là chống. Khổng Tử cũng nói phải nghiên cứu "dị đoan" tức là những trường phái khác với hệ tư tưởng của mình. Có nghiên cứu thì cái tốt cái đẹp của mình mới lộ ra. Ông khuyến khích học trò như vậy. Theo tôi đã đến lúc cần phải nghiên cứu những cái khác với cái truyền thống, và việc đó phải được coi là bình thường. Nó phải trở thành một học phong. Trí thức Thăng Long giữ được truyền thống đó là rất giỏi. Năm 1956 mà giáo sư Nguyễn Mạnh Tường đã yêu cầu xây dựng nền dân chủ pháp quyền. Hay vừa xong cải cách ruộng đất mà giáo sư Trần Huy Liệu đã viết bài Thử xét lại hồ sơ của giai cấp địa chủ, chỉ ra rằng địa chủ việt Nam đại đa số có vai trò là người tổ chức sản xuất và là lực lượng quan trọng ở nông thôn, và họ lại yêu nước. Lại như Nguyễn Khắc Viện từng báo hiệu nguy cơ sụp đổ của nền kinh tế bao cấp nhiều năm trước khi đổi mới xẩy ra. Đó đều là những người có cái nhìn sáng suốt vượt thời đại, là những người có gan, có tài, và gắn bó thiết thân với quyền lợi dân tộc. Sĩ phu Bắc Hà có tầm nhìn xa như vậy đấy. Nhưng tập hợp lại thành lực lượng có thể dự báo và để cho người dân nhìn vào đấy như một chỗ dựa thì lại chưa có.
    ĐT: Chưa có, vậy phải chờ đợi ở đâu?
    NHC: Cả hai phía, ở chính quyền và ở trong lòng xã hội. Tôi cho là ở Việt Nam, yếu tố dân chủ ban đầu có được là do có sự manh nha từ trên xuống. Những người sáng suốt nhất trong giới cầm quyền có tầm nhìn xa (Hồ Chí Minh năm 1945 chẳng hạn) đã đưa dân chủ từ bên ngoài vào cho dân chúng. Nhưng dần dần dân chủ khi đã trở thành một nhu cầu của sự sống, tự nó sẽ nội sinh. Hai cái đó phải trở thành một mẫu số chung. Khi có một mẫu số chung rồi thì mới có cơ hội cho sự phát triển.
    ĐT: Theo giáo sư thì có thể phác họa những nét đặc trưng của diện mạo trí thức Hà Nội ngày nay không? Đặc biệt là trí thức trẻ. Khi thế giới đã bước những bước rất dài, chúng ta "dường như" đã bị tụt hậu về tư tưởng, và lỗi đó trước hết thuộc về trí thức?
    NHC: Thì đúng thế. Nhưng biết làm thế nào được. Diện mạo trí thức Hà Nội hôm nay xét cho kỹ vẫn chưa xa sĩ phu Thăng Long thuở xưa bao nhiêu đâu. Đời sống bao giờ cũng có sự kế thừa, và một bước nhảy đứt đoạn là ảo tưởng. Phải tích cực tạo ra những điều kiện xã hội cho bước nhảy ấy.
    ĐT: Thế thì làm sao họ đáng gọi là sĩ phu Thăng Long của hôm nay? Của một thế giới đang toàn cầu hóa và hậu hiện đại?
    NHC: (cười rất to).
    ĐT: Cảm ơn giáo sư Nguyễn Huệ Chi rất nhiều, cảm ơn thầy.
    Hà Nội 8/2002
    ----------
    Chú thích:
    Giáo sư Nguyễn Huệ Chi sinh năm 1938, hiện sống tại Hà Nội. Trưởng ban văn học Cổ cận đại, Viện Văn học thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia. Từng giữ chức Chủ tịch Hội đồng khoa học Viện Văn học trong hai nhiệm kì, 7 năm. Đã xuất bản một số tác phẩm chính "Thơ văn Lý-Trần" nhiều tập; "Mấy vấn đề về sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi"; "Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam thời kì cổ cận đại"; "Hoàng Ngọc Phách đường đời và đường văn"; "Nguyễn Trãi khí phách và tinh hoa của dân tộc"; "Văn học Việt Nam trên những chặng đường chống phong kiến Trung Quốc xâm lược"; "Hoàng đế Lê Thánh Tông"; "Suy nghĩ mới về Nhật ký trong tù"; "Truyện truyền kỳ Việt Nam" nhiều tập; "Liêu trai chí dị" (nghiên cứu và dịch)...
    Oh don't take it all to heart
    It's only fools - they make these rules
  5. paladin

    paladin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    22/07/2001
    Bài viết:
    432
    Đã được thích:
    1
    Bài này rất hay. Tớ thích đoạn nói về đặc trưng của Hà Nội ở những con đường, góc phố và mặt nước. Hà Nội về đêm cũng là một điển hình. Nhưng thiếu những người bán hàng rong, thiếu những người phải cặm cụi đi làm khuya hay đi chợ sớm thì Hà Nội cũng mất đi ít nhiều. Đoạn nói về trí thức "tự kiểm duyệt" mình cũng rất hay. Lôi câu này ra thảo luận chắc ăn khách lắm
    Ôi tình yêu muôn thủa
    Có bao giờ đứng yên ...
  6. dot223

    dot223 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/05/2002
    Bài viết:
    3.713
    Đã được thích:
    0
  7. mail2522002

    mail2522002 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/10/2002
    Bài viết:
    2.524
    Đã được thích:
    0
    Chưa dám bình luận gì vội .

    Em mệnh bạc ngàn thu sầu vĩnh biệt
    Cõi vô thường chẳng thấy bóng em yêu
    Ta đi mãi trong cuộc đời vô tận
    Hồn nhớ thương hoa tím ngủ trên mồ .
  8. VNHL

    VNHL Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/07/2001
    Bài viết:
    1.764
    Đã được thích:
    0
    Hì, còn tớ thì thích đoạn nói về sỹ phu Bắc Hà, so sánh Cao Bá Quát với Nguyễn Văn Siêu, và những liên tưởng tới giới trí thức ngày nay.
    Bài này cũng của ông Huệ Chi, copy luôn, cũng nguồn Talawas
    02.
    26.11.02
    Nguyễn Huệ Chi
    Nhận diện văn học Thăng Long mười thế kỷ
    I.
    Văn học Thăng Long - mấy tiếng ấy thật có sức gợi cảm đối với bạn đọc, nhưng mặt khác cũng không phải không gây nên trong nhiều nhà nghiên cứu một đôi điều thắc mắc nghi ngờ. Có thật đã từng tồn tại trong lịch sử văn học dân tộc bao nhiêu đời qua một khu vực riêng biệt gọi là văn học Thăng Long, và mọi sáng tác thuộc khu vực này, tự chúng đã mang một xu thế không cưỡng được là cố kết lại với nhau? Hay đây cũng là một danh từ giống như những cụm từ có phần tương tự: "văn học Kinh Bắc", "văn học Nghệ - Tĩnh", "văn học Sơn Nam hạ" v.v. vốn chỉ là những khái niệm nặng tính chất thống kê, ra đời do yêu cầu tập hợp văn học theo đơn vị "vùng" mà bộ môn địa lý học lịch sử, đặc biệt là địa phương chí, phát triển sôi nổi khoảng vài thập kỷ lại đây, bắt buộc đòi hỏi?
    Lẽ tự nhiên, nếu hiểu theo một nghĩa hẹp nào đấy thì khái niệm "văn học Thăng Long" cũng không khác bao nhiêu so với những khái niệm về các vùng văn học mà ta vừa dẫn. Là một khu vực địa lý trong hàng mấy chục khu vực khác nhau được đăng ký từ lâu đời trên bản đồ Đại Việt, mảnh đất Thăng Long cũng đã có vinh dự sản sinh ra nhiều cây bút tài danh đóng góp vào lịch sử văn học dân tộc, và khi cần tập hợp họ lại theo sinh quán, ta không thể gọi họ bằng một khái niệm nào khác hơn, rằng đó là những văn nhân - danh sĩ Thăng Long.
    Thế nhưng, hiểu "văn học Thăng Long" theo nghĩa hẹp hình như vẫn chưa phải là cách hiểu cần được minh giải cặn kẽ đối với chúng ta, bởi khả năng hàm chứa của mấy chữ "văn học Thăng Long" lại chủ yếu không phải là ở đấy. Người ta sẽ tự hỏi: vấn đề văn học Thăng Long có thể nào nhìn nhận đơn thuần như văn học của bất kỳ một địa phương nào trong nước, khi mà mối quan hệ giữa mảnh đất Thăng Long với cả nước trong thực tế lịch sử không phải là mối quan hệ giữa một khu vực với cả cộng đồng? Hoàn toàn đúng thôi! Kể từ đầu thế kỷ XI, Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La, đổi tên Đại La thành Thăng Long, từ đấy Thăng Long nghiễm nhiên là "nơi tụ hội của bốn phương đất nước" (Chiếu dời đô) - một trung tâm đô hội bậc nhất trong suốt chiều dài lịch sử gần mười thế kỷ. Đây chính là đặc điểm mà ngay hai trung tâm đô hội khác là Sài Gòn - thủ phủ của Lục tỉnh Nam Kỳ, và Phú Xuân (Huế), Kinh đô của triều đại Nguyễn, dù về nhiều mặt có thể tương đương thậm chí vượt hẳn Thăng Long, riêng mặt này cũng không thể sánh được. Và với ưu thế có một không hai như vậy, nói đến "văn học Thăng Long" hẳn phải tính đến một cái gì khác hơn là sự tập hợp của những nhà văn cùng sinh quán, một sự thăng hoa theo nhiều cấp độ khác nhau, dù là nhìn ở số lượng hay chất lượng, và nếu không đạt được sự thăng hoa này thì rõ ràng lịch sử thiếu sót biết chừng nào!
    Hãy nhìn ở sự thăng hoa về số lượng. Không thể không thừa nhận bằng vị trí đặc biệt nói trên, Thăng Long đã thường xuyên mang trong nó hai khả năng phát triển song song về văn hóa: khả năng tự sản sinh ngay trong lòng nền văn hóa Thăng Long (khu vực) và khả năng thu hút các thành tố văn hóa mới mẻ từ mọi miền đất nước dồn về. Thăng Long vào buổi bình minh của chế độ phong kiến tự chủ đã xuất hiện một khuôn mặt kỳ vĩ - khuôn mặt người anh hùng Lý Thường Kiệt (1019-1105), tức Ngô Tuấn, sinh ra và lớn lên ở phường Cơ Xá, về sau là đất cấm thành, với chiến công lẫy lừng đánh Tống và với hai áng văn thuộc loại tác phẩm khai sáng cho nền văn học viết dân tộc: bài thơ huyền thoại Nam quốc sơn hà và hịch Lộ bố văn. Nhưng Thăng Long vào thời đại đó cũng tự hào đón nhận Lý Công Uẩn (974-1028), tức Lý Thái Tổ, ông vua mở đầu triều đại Lý, với tác phẩm văn xuôi bất hủ Chiếu dời đô. Có lẽ nào chỉ vì Lý Công Uẩn vốn quê đất Kinh Bắc mà gạt Chiếu dời đô ra khỏi "văn học Thăng Long", trong khi chính áng văn này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của lịch sử văn hiến Thủ đô? Thăng Long vào hai thế kỷ XIII và XIV là nơi quy tụ những nhân tài kiệt xuất thuộc dòng dõi họ Trần, vốn quê gốc ở Thiên Trường (Nam Định), đến thay chân nhà Lý mở ra triều đại Trần cường thịnh, đồng thời cũng cung cấp cho văn học cả một "dàn hợp xướng" đa giọng điệu - có sáng tác yêu nước, có sáng tác Phật giáo, có sáng tác trữ tình - với không ít tên tuổi chói lọi: Trần Thái Tông (1218-1277), Trần Tung (1230-1291), Trần Quốc Tuấn (?-1300), Trần Quang Khải (1241-1294), Trần Thánh Tông (1240-1290), Trần Nhân Tông (1258-1308), Trần Minh Tông (1300-1357), Trần Quang Triều (1287-1325)... Hẳn không vì đây là những con người xuất thân dân chài vùng Tức Mặc mà văn học Thăng Long đành bỏ trống cả một thời đại rực rỡ, thung dung hòa quyện cả ba sắc màu Phật, Nho, Đạo, và tràn đầy âm hưởng chiếu, hịch, ngữ lục, thi ca? Thăng Long vào thế kỷ XV chứng kiến hai tầm vóc tiêu biểu đứng đối cực với nhau ở hai đầu thế kỷ - Nguyễn Trãi (1380-1442) và Lê Thánh Tông (1442-1497). Cả hai người có lẽ đều sinh và mất ở Thăng Long, nhưng nếu truy nguyên quê quán thì họ đều không phải là dân Thăng Long quê gốc. Họ trở thành những nhà văn nổi tiếng bậc nhất Thăng Long và cả nước, góp phần quyết định cho sự trưởng thành của thơ nôm dân tộc. "Văn học Thăng Long" chẳng lẽ lại cố tình gạt bỏ họ? Ấy thế mà lịch sử đã đặt họ lên đất Kinh đô như một tất yếu. Còn nhiều nữa. Vào thế kỷ XVIII, chúng ta có thiên ký sự đột xuất Thượng Kinh ký sự của Lê Hữu Trác (1720-1791) - một thầy thuốc người Hải Dương và mai danh ẩn tích lâu năm tại Nghệ - Tĩnh; có cuốn tiểu thuyết giàu chất liệu thời sự nóng hổi Hoàng Lê nhất thống chí của dòng họ Ngô Thì - một dòng họ lớn ở Tả Thanh Oai, lúc bấy giờ còn thuộc trấn Sơn Nam; có những cuốn tùy bút danh tiếng Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ (1768-1839) - người làng Đan Loan (Hải Dương) đến trú ngụ ở phường Hà Khẩu; có Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án (1770-1815) - người làng Vân Điềm (Kinh Bắc). Phải chăng có thể loại ra ngoài "văn học Thăng Long" những tác phẩm trên vì lý do quê quán tác giả, mà không cần biết rằng đó là những sáng tác hiếm có viết về cuộc sống hiện thực của Thăng Long trong cơn giông bão của lịch sử Việt Nam những năm 70 và 80 của thế kỷ XVIII? Và chỉ cách đây mới hơn một thế kỷ thôi, ngay giữa Thăng Long còn tơi bời đạn lửa sau một buổi cầm cự với cuộc tập kích lần thứ hai của quân xâm lược Pháp (1882), có một vị Tổng đốc người Quảng Nam trước khi quyên sinh vì nghĩa đã để lại một bài Biểu trần tình. Bài biểu không phải là một bức tranh sinh hoạt về xã hội Thăng Long nhưng lại mang đầy đủ sinh lực của Thăng Long vào một thời điểm nóng bỏng nhất. Đó là tiếng khóc anh hùng về một Thăng Long anh hùng trong giờ thất thủ. Có thể nào vì Hoàng Diệu (1828-1882) người Quảng Nam mà "văn học Thăng Long" không thừa nhận tiếng khóc lẫm liệt ấy?
    Oh don't take it all to heart
    It's only fools - they make these rules
  9. VNHL

    VNHL Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/07/2001
    Bài viết:
    1.764
    Đã được thích:
    0
    Quả tình không thể chỉ bó hẹp khái niệm "văn học Thăng Long" trong bộ phận văn học do những người sinh trưởng ở đây viết ra mà còn phải đưa vào khái niệm đó những tác phẩm ưu tú của biết bao con người từ bốn phương đất nước hội tụ về, coi Thăng Long - Hà Nội là quê hương mình, viết một cách sâu sắc về Kinh đô và cống hiến những năng lực sáng tạo hết mình cho mảnh đất yêu dấu này. Nếu vẻ đẹp riêng của mỗi vùng đất đã tạo nên những giá trị lớn lao cho những tác phẩm viết về vùng đất ấy, thì vẻ đẹp Thăng Long hẳn cũng không thể đẹp hơn một vùng nào khác, vì trên đất nước ta, nơi đâu mà chẳng có một hương vị riêng không nơi nào có. Nhưng nếu vẻ đẹp khách quan của một vùng đất phải thông qua người nhận thức cái đẹp, tức là chủ thể thẩm mỹ, mới trở thành cái đẹp trong sáng tạo nghệ thuật, thì phải nói Thăng Long có một ưu thế trội hơn hẳn, vì tình yêu đối với Thăng Long không còn là sở hữu riêng của những người sinh ra tại Thăng Long - Hà Nội mà là của tất cả mọi người dân Việt Nam yêu quý Thủ đô.
    Tất nhiên, nói đến chiều hướng thu hút nhân tài, thu hút các thành tố văn hóa ở mọi miền về Thăng Long không phải chỉ tính đến những con số cộng. Mà ở đây nhất thiết phải dẫn đến một sự thăng hoa về chất, một sự bồi đắp cho những yếu tố cổ truyền bằng yếu tố hiện đại, một sự chuyển hóa, đổi mới do giao lưu, vận động, làm cho văn hóa trở thành nhu cầu sinh tồn thực sự, thành sự sống hàng ngày. Trong mối giao tiếp thường xuyên của nhiều dòng tư tưởng, trong sự chen đua của tài năng sáng tạo, sinh hoạt văn hóa Thăng Long trước sau thế nào cũng xuất hiện những sự kiện có ý nghĩa đổi mới, có sự "bùng nổ" mà phạm vi ảnh hưởng không còn chỉ bó hẹp trong địa bàn Thăng Long. Ta nói đến một Lý Công Uẩn được đón nhận vào "văn học Thăng Long" như một trong những người viết áng văn xuôi sớm nhất. Nhưng cùng nhập tịch vào Thăng Long với Lý Công Uẩn còn có cả một nền văn hóa Phật giáo vốn sinh hoa kết quả lâu dài trên đất Kinh Bắc, nơi chôn rau cắt rốn của họ Lý và phải với môi trường Thăng Long, thành tố văn hóa này mới được cải tạo lại, trở nên năng động, có sinh khí hơn, để trở thành một hình thức sinh hoạt văn hóa phổ biến trong cả nước, phản ánh được cái bản sắc độc đáo của đời sống tư tưởng Việt Nam thời Lý - Trần. Ta cũng đã nói đến Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông, hai cây đại thụ trong văn học thế kỷ XV. Nhưng điều cần nói thêm là với hai nhân vật này, đặt trong môi trường xã hội trí thức Thăng Long ở thế kỷ XV, đã hình thành nên hai văn phái sớm nhất trong lịch sử, góp phần đưa văn chương Việt Nam đi vào những chuẩn mực ổn định - một văn phái yêu nước thân dân, lấy thiên nhiên làm đối tượng gửi gắm tấm lòng ưu ái, với Nguyễn Trãi, Phan Phu Tiên (?-?), Nguyễn Mộng Tuân (?-?), Lý Tử Tấn (1378-1458), Vũ Mộng Nguyên (1394-?) và một Tao đàn nhị thập bát tú có tính chất cung đình, ca ngợi "vua sáng tôi hiền", "giang sơn cẩm tú"..., với Lê Thánh Tông, Thân Nhân Trung (1418-1499), Đỗ Nhuận (1446-?), Thái Thuận (1441-?), Lương Thế Vinh (1460-?) cùng nhiều triều thần hay chữ khác.
    Chỉ thu hẹp trong cá nhân một nhà trí thức - nghệ sĩ nào đấy, sự thăng hoa cũng đã thấy rõ. Ta nói đến Lê Quý Đôn (1726-1784) ở thế kỷ XVIII, một nhân vật có tầm vóc uyên bác ít thấy xưa nay, nhưng Lê Quý Đôn sẽ không là Lê Quý Đôn nếu ông không sớm rời bỏ "lối học luộm thuộm" ở tỉnh nhà để lên Kinh đô ngay từ lứa tuổi 15, chọn học những nhà trường nổi tiếng ở Kinh đô, học một cách có phương pháp "với những ông thầy giỏi nhất" (Ngô Thì Sĩ). Nói Thăng Long rèn đúc nên nhà bác học họ Lê hẳn cũng chẳng phải là nói ngoa mấy tí. Ta lại cũng nói đến một Nguyễn Du (1765-1820) thiên tài, xuất hiện như một ngôi sao làm rạng rỡ hẳn bầu trời văn học dân tộc; Nguyễn Du ấy với bút pháp hiện thực trữ tình có một, như nhiều người đã từng nhận định, quyết không thể có được nếu chỉ là một chàng trai suốt đời ở xứ Nghệ, nếu không tiếp thu được từ tuổi nhỏ cái cốt cách đa tình của người mẹ, một cô gái vùng quê Kinh Bắc, đặc biệt nếu không từng có một thời trai trẻ sống trong xã hội hào hoa ở Thăng Long, tiếp thu sâu sắc cội nguồn văn hóa Thăng Long. Nguyễn Du không chỉ đem lại cho văn học Thăng Long những kiệt tác như Thăng Long, Người gảy đàn ở Long Thành... Chính Thăng Long đã góp phần hình thành nên thiên tài Nguyễn Du và cũng làm cho những giá trị của thiên tài trở thành tiêu biểu, vượt lên tầm cả nước.
    Cho nên, cũng khó nói trong mối quan hệ giữa "nội sinh" và "ngoại nhập" của văn học Thăng Long, yếu tố nào là chính, yếu tố nào là phụ. Hai phương diện này đã gắn bó, tác động lẫn nhau trong đời sống thực tiễn, làm cho văn học nghệ thuật sinh hoa kết quả, và làm cho mọi thành tựu càng được nhân lên. Tài năng của một Đặng Trần Côn (?-?) (Thăng Long) đã kêu gọi tài năng của một Đoàn Thị Điểm (1705-1748) (Kinh Bắc), và đến lượt Đoàn Thị Điểm lại kêu gọi rất nhiều tài năng khác, những Phan Huy Ích (1751-1822) (Sơn Tây), Nguyễn Khản (1734-1786) (Nghệ - Tĩnh)... những người đã sống quá nhiều trong những thế giới đài các kiểu nàng chinh phụ, lại cũng hiểu quá rõ tâm sự chàng danh sĩ làng Mọc ngán chiến tranh đến phải đào hầm xuống nằm đọc sách kiểu Đặng Trần Côn. Thi tài của một chàng nho sinh họ Cao đất Hà Nội đã làm cảm động một thi tài khác ở Phú Xuân: Miên Thẩm (1819-1870), và bằng tình bạn chân thành với Cao Bá Quát (1808-1855), anh em Miên Thẩm đã có dịp hiểu rõ hơn về người và cảnh Hà Nội, sau này có dịp ra Hà Nội họ đã có những bài thơ đầy xúc cảm về phong cảnh Hồ Tây.
    Về một phương diện khác, là nơi góp mặt của nhiều thế hệ danh nhân tứ xứ, cũng có thể nghĩ rằng môi trường văn hóa Thăng Long là miếng đất thuận lợi để tạo ra sự đối chọi giữa nhiều kiểu dạng tài năng rất khác nhau, và đối chọi chính là điều kiện để văn học Thăng Long, hơn bất kỳ một vùng miền nào khác, không xuôi chiều đơn điệu mà thường khi vẫn tồn tại những xu hướng, những phong cách trái ngược, làm cho bộ mặt văn học sống động hẳn lên, và tiếng nói văn chương trở nên đa nghĩa. Thi tài viết phú "thêu hoa dệt gấm" của một Nguyễn Huy Lượng (?-1808) chẳng đã kích thích khả năng khích bác, ỡm ờ của một ngọn bút trữ tình như Phạm Thái (1777-1813) mà ngày nay bình tâm mà xét, cái ngôn ngữ chửi đổng chua ngoa đó không phải không làm cho thể phú mở ra một giọng điệu mới : sự bác học hóa ngôn ngữ thông tục bình dân trong văn phú. Cũng như hồn thơ mực thước, tao nhã đến gần như khép kín của một bà huyện Thanh Quan (?-?) biết đâu lại không phải là sự phản ứng gián tiếp và từ trong vô thức đối với giọng thơ trẻ trung, nghịch ngợm, chói gắt đến sỗ sàng của một Hồ Xuân Hương (?-?)? Chấp nhận được tất cả mọi sự đối nghịch ấy, để chúng cùng sinh sôi nảy nở, đó mới là bản lĩnh của văn học Thăng Long. Cũng vậy, trước đây, chỉ xem xét văn học đơn thuần bằng sự quy chiếu của hệ tư tưởng, ta chẳng đã từng đặt các dòng, phái của văn học Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX vào những nấc thang giá trị không thực, cứ làm như có thơ ca cách mạng thì phong trào "thơ mới" không còn bao nhiêu ý nghĩa, có các nhà văn hiện thực thì có thể quay lưng lại với Tự lực văn đoàn, có Đông Kinh nghĩa thục thì Đông Dương tạp chí, Nam phong tạp chí trở thành những con số không... Ta cũng dễ dàng quy kết với thái độ không mấy thiện chí, rằng nhóm Xuân thu nhã tập là siêu hình siêu thực, là tắc tỵ về chữ nghĩa, rằng tạp chí Thanh nghị là diễn đàn của thượng lưu tư sản, tạp chí Tri tân là chui vào tháp ngà phục cổ, là viện dẫn tờ a tờ b không ích gì cho cuộc sống xung quanh... Sự thật, quy luật diễn biến của một trung tâm văn hóa như Hà Nội đã bác bỏ cái nhìn thiển cận của chúng ta, bởi lẽ đời sống tinh thần càng phong phú bao nhiêu thì nhu cầu và thị hiếu đối với văn hóa, văn học nghệ thuật của con người lại càng không đơn giản, không phải chỉ cần nhắm mắt tin theo một trường phái, một khuynh hướng nào đấy như một thứ thánh kinh là đủ. Mà đây mới là xu thế phát triển hợp quy luật của hiện đại hóa, là sự đòi hỏi vươn tới tất nhiên, nhằm thỏa mãn trí tuệ nhiều mặt của con người hiện đại. Sự bộn bề của văn học Hà Nội thời này chứng tỏ dung lượng của nó có một bước phát triển vượt lên so với giai đoạn trước cũng như so với tầm cả nước. Nó bao chứa hết những vấn đề của thời đại, và đủ sức tiếp nhận, thanh lọc và chưng cất mọi giá trị.
    II.
    Vậy thì, có thể hiểu tâm hồn, cốt cách Thăng Long - Hà Nội trong văn học là gì? Nếu không phải đó là cái gì được tinh kết từ mọi con người đã tìm về đây hiện diện? Thăng Long là biểu tượng chung của quốc gia, tâm hồn Thăng Long mang những nét đặc trưng cho tâm hồn của cả cộng đồng dân tộc, và văn học Thăng Long - Hà Nội cũng chính là phần tinh hoa nhất, là trái tim văn học của cả cộng đồng. Đã đành, nói như thế không có nghĩa là đánh đồng cái phần tiêu biểu của văn học cả nước với văn học Thăng Long. Trước sau vẫn phải tính đến một tiêu chí có ý nghĩa khu biệt: văn học cả nước là văn học đã tổng hòa thành bản sắc Việt Nam còn văn học Thăng Long thì lại thể hiện bản sắc Việt Nam chủ yếu thông qua cái tươi rói của tính cách "Tràng An" độc đáo, trong đó in sâu tư chất, lối sống, cách giao tiếp, tập quán xã hội... của con người Thăng Long nhiều đời. Chỉ cho ra cái tính cách "Tràng An" độc đáo này là điều không dễ, nhưng với sự trải nghiệm của lịch sử, ta cũng có thể phần nào cảm nhận được nó thông qua những biểu hiện có tính định lượng, những gì là đặc điểm bộc lộ ra bên ngoài. Có thể nói, đây là một nền văn học vừa nặng tính chất chính thống quan phương lại vừa chứa đựng tiềm năng dân chủ hóa, vừa giàu chất trí tuệ lại vừa đậm sắc thái trữ tình.
    Tính chính thống, quan phương của văn học Thăng Long bắt nguồn từ một thực tế: Thăng Long là nơi dựng nghiệp của nhiều vương triều, cũng là nơi phát ngôn bằng văn chương bút mực của chế độ thống trị qua nhiều thời đại. Các bậc vua chúa hay chữ, các trí thức tài hoa gắn mình với chế độ... đã khởi đi từ Thăng Long một dòng văn học chính thống, mang chức năng tuyên truyền chính trị, và người dân Thăng Long cũng dần dần quen nhạy cảm với chính trị qua thơ văn. Do uy tín và cả quyền lực của người cầm bút, do tính cấp thiết của đề tài chính trị vào thời điểm phát ngôn, văn chương chính trị thường được tôn sùng hơn nhiều loại hình văn chương khác, và dạng thức nhà văn trữ tình chính trị(1) là dạng dễ được ca ngợi trong văn học Thăng Long từ cổ đại đến nay. Cũng giống như cuộc đời của một con người, Kinh đô đã trải nhiều phen dâu bể, không ít những chặng thăng trầm, đau khổ xen lẫn niềm vui, gắn liền với số phận của đất nước. Thời nào cũng có những nhà chính trị đại diện cho những thế lực nhất định, dùng thơ văn làm lợi khí để cổ vũ dân chúng tin theo đường lối của họ, nhằm ban bố một "tân chính sách", tôn phù một "đấng minh quân" hoặc đánh đổ một dòng họ "tiếm quyền" đang ngự trị... Nhưng chỉ có những cuộc đấu tranh chống xâm lăng trong trường kỳ lịch sử là quan hệ trực tiếp đến vận mệnh hàng triệu con người, nên văn chương kêu gọi chống giặc cứu nước cũng đọng lại trong tâm can người đọc sâu bền hơn cả. Vì thế, với thời gian, nhiều đề tài nóng hổi một thời đều lần lượt rơi rụng, duy có dòng văn học yêu nước chống xâm lăng với những hịch, cáo, thơ, phú, biểu, chiếu, tuyên ngôn... là vẫn lung linh giá trị.
    Oh don't take it all to heart
    It's only fools - they make these rules
  10. VNHL

    VNHL Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/07/2001
    Bài viết:
    1.764
    Đã được thích:
    0
    Như một nghịch lý khó tin, văn học Thăng Long nặng tính chính thống quan phương mà lại cũng giàu tiềm năng dân chủ. Nhưng sự thực là thế, hầu hết mọi vương triều nối tiếp ở Thăng Long, khi chưa đi vào suy thoái, đều không ít thì nhiều biết đặt cái gốc ở dân. Cho nên yếu tố dân chủ sơ khai, hiểu theo một nghĩa nào đấy, vốn không phải nảy sinh từ dưới lên mà mới đầu cũng được manh nha từ trên, từ các nhà chấp chính, các bậc thức giả của cung đình dội xuống. Khái niệm "dân" được Lý Thường Kiệt khởi đầu trong Lộ bố văn, Trần Quốc Tuấn nhấn mạnh trong Di chúc, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông thể nghiệm trong Hội nghị Bình Than và Hội nghị Diên Hồng (1284), Trần Minh Tông nhắc đến trong Nghệ An hành điện, Trần Nguyên Đán (1325-1390) hoài vọng trong Nhâm dần niên lục nguyệt tác, Nguyễn Trãi tổng kết trong Bình Ngô đại cáo và trong nhiều bài thơ chữ Hán... đều là kết quả của việc vận dụng lý thuyết "dân vi quý" của Nho giáo, cộng với sự chiêm nghiệm sâu sắc trong hoạt động thực tiễn của từng người. Dưới thời Lý - Trần, cảm hứng dân chủ sơ khai còn nằm trong tiềm thức người lãnh đạo đất nước nhờ họ đều thấm nhuần tư tưởng bình đẳng bác ái của Phật giáo. Lời khuyên của vị quốc sư Phù Vân ở trên núi Yên Tử đối với vua Trần Thái Tông chắc chắn đã trở thành một mục tiêu trị nước của nhà vua trong suốt những năm ông chấp chính.
    Lâu về sau, cùng với các bước tiến của lịch sử, một đội ngũ trí thức tương đối tự do sẽ dần dần xuất hiện trong xã hội Thăng Long(2), kế tục phát huy các yếu tố dân chủ buổi đầu thêm một bước, làm cho chúng từ chỗ chỉ mới là vô thức (Phật giáo), hoặc mới như những cái khuôn xa lạ áp đặt vào đời sống người Việt (Nho giáo), bỗng trở thành có đường nét tư tưởng cụ thể và bắt rễ vào đời sống tinh thần như những nhân tố nội sinh. Lời bàn về Lẽ hưng vong trị loạn của Thiền sư Nguyễn Nguyên Ức, Thất trảm sớ của Chu Văn An (1299-1370), Thôn cư cảm sự trình Băng Hồ tướng công của Nguyễn Phi Khanh (1355-1428), Biểu dâng 14 điều nói thẳng của Lương Đắc Bằng (1472-?), Thư xin chém 18 lộng thần của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), Khải can gián Trịnh Tông của Phạm Nguyễn Du (1740-1785), Sớ điều trần của Nguyễn Văn Siêu (1799-1872), Nguyễn Tư Giản (1823-1890), Văn minh tân học sách của Đông Kinh nghĩa thục (1907), phong trào Mặt trận dân chủ (1936-1939), những bài diễn văn nổi tiếng của Hội nghị báo giới Bắc Kỳ (1937), phong trào Nhân văn-Giai phẩm (1956-1957)... đều nói lên sức bền của truyền thống ấy. Tất nhiên, giữa cái mầm mống dân chủ của thời cổ đại và những tư tưởng dân chủ ở thế kỷ XX đã có một sự đổi thay về chất, nhờ bước chuyển quan trọng từ phạm trù văn hóa phương Đông sang quỹ đạo văn hóa châu Âu. Nhưng trong tinh thần lõi cốt, bước chuyển ấy vẫn không dẫn đến một sự đoạn tuyệt với quá khứ, đúng hơn, sự kế tiếp trước và sau vẫn diễn ra nhuần nhị, hữu cơ, trong đó bản sắc của truyền thống dưới hình thức này hay hình thức khác, được bảo lưu một cách khá rõ ràng.
    Lâu nay ta hay nhắc đến mấy chữ "sĩ phu Bắc Hà" với ý nghĩa đây là những người nhiều chữ nghĩa và giàu khí khái. Nói cho cùng, "sĩ phu Bắc Hà" cũng là sĩ phu Thăng Long vì chỉ có trong môi trường học vấn Thăng Long xưa kia chứ không phải ở đâu khác, chữ nghĩa mới được đào tạo bài bản, và khí khái, được ươm mầm từ những truyền thống dân chủ có sẵn, mới trở thành một bản ngã, một sự sành sỏi đến mức lưu danh. Vào năm 1073, dưới triều ông vua Lý Nhân Tông non trẻ, Thái úy Lý Thường Kiệt đã tổ chức thành công một cuộc chính biến động trời, giết Dương Thái hậu và 72 cung nữ, đưa Nguyên phi ỷ Lan lên nhiếp chính, và giáng chức Tể tướng Lý Đạo Thành vốn đang đầy uy vọng, bắt ông về Nghệ An để mình thay quyền. Tình thế của nhà Lý trở nên bất ổn. Thế nhưng chỉ một năm sau (1074), cũng lại chính Lý Thường Kiệt đã cho mời Lý Đạo Thành ra nhận chức trở lại để mình được rảnh tay dốc sức vào việc binh bị nhằm đối phó với nhà Tống đang lăm le nhòm ngó Việt Nam. Cùng với quyết định này, triều đình nhà Lý còn ra sắc chỉ cho quan và dân phải tôn trọng những người có học vấn trong cả nước, và cho phép các bậc đại thần kỳ lão vào chầu vua không phải lạy quỳ(3). Quyết định "trả chức" của Lý Thường Kiệt là một việc làm kỳ lạ, chưa từng thấy xưa nay, chứng tỏ ông là một người có tầm thước lớn trong lịch sử. Nhưng chắc chắn quyết định đó cũng chỉ có thể nảy ra từ một con người thấm sâu văn hóa Thăng Long tận trong huyết quản, và từ trong tâm thức, đã tiên cảm được cái yêu cầu dân chủ của nền văn hóa này.
    Một câu chuyện khác: vào thế kỷ XIX nhà thi sĩ tài danh Cao Bá Quát có để lại một bài hát nói trong đó có những câu rất đáng kinh ngạc:
    Bóng thiều quang thấp thoáng mé Nam san,
    Ngoảnh mặt lại cửu hoàn coi cũng nhỏ.
    (Chén rượu tiêu sầu)
    Ai cũng biết "cửu hoàn" là vũ trụ, tuy từ này không có trong từ điển Trung Hoa. Nhưng trong văn cảnh ngữ nghĩa ở đây "cửu hoàn" còn có nghĩa là gì? Tại sao Cao Bá Quát lại viết tiếp: "Khoảng trời đất cổ kim kim cổ, Mảnh hình hài không có có không, Lọ là thiên tứ vạn chung"? "Thiên tứ vạn chung" - ấy là ân sủng cao quý bậc nhất dành cho bề tôi của đấng thiên tử. Cao Bá Quát tỏ ra xem thường cái đó vì đứng trên quan điểm vũ trụ mà xét, mọi vật tồn tại trong thời gian chỉ là nháy mắt, cổ và kim cũng chỉ là trong vòng quay không ngừng của tạo hóa, còn đứng trên quan điểm nhà Phật mà xét, cái gọi là sắc thân - hình hài - có đó mà cũng là không. Rõ ràng "cửu hoàn" trong cách dùng của Cao Bá Quát khiến ta không thể không nghĩ đến chữ "cửu trùng", mang nghĩa song quan, vừa là trời đất, vừa là biểu trưng cao quý của nơi nhà vua ở. Và từ cái nghĩa song quan này, có thể thấy dưới con mắt họ Cao, dường như mọi thứ đều bị xem nhẹ, dẫu là những vật lớn lao, trường tồn như trời đất, hay thâm nghiêm thăm thẳm như bệ ngọc của đấng chí tôn. Nói về khí phách thì dám chắc có nhiều nhân vật sản sinh ở miền này vùng kia còn có khí phách tương đương hoặc lẫm liệt hơn Cao Bá Quát, như Nguyễn Hữu Cầu (?-1750) với bài hát nói Chim trong ***g ấp ủ khát vọng tự do : "Phá vòng vây bạn với kim ô"â. Tuy nhiên, phải nói, khát vọng tự do của Nguyễn Hữu Cầu, dẫu là cao cả, cũng không ngoài chuyện "tranh bá đồ vương", trái lại, với Cao Bá Quát, khát vọng thảnh thơi, tự tại, lại là hiện thân của một tinh thần dân chủ. Ông muốn nói rằng không thể có sự cao thấp khác nhau giữa một hàn sĩ như ông và một ông vua địa vị cao sang, xét về thực chất giá trị. Cái ý tưởng bất chợt đó quả là lớn và cũng phải với môi trường văn hóa giàu tiềm năng dân chủ như Thăng Long mới cấp cho Cao Chu Thần cái nhìn vượt thời đại như vậy.
    Lại như trường hợp Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) ở đầu thế kỷ XX. Một lần có viên Tổng đốc nọ muốn mời ông đến tư dinh uống rượu. Ông thản nhiên trả lời viên Tri huyện sứ giả của Tổng đốc rằng: "Nếu cụ lớn - một ông quan Thủ hiến - muốn đòi tên dân Nguyễn Khắc Hiếu đến công đường thì xin có trát, Hiếu sẽ đi ngay. Còn nếu như quan Thủ hiến là một kẻ nhân đọc thơ tôi mà có bụng liên mến, muốn đàm đạo thơ ca với thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu thì tôi xin mời cụ phải quá bộ đến đây, dẫu một túp nhà cỏ, để Hiếu hầu rượu cụ"(4). Khẩu khí ấy liệu có sức nặng của nó hay không, nếu không tựa trên một truyền thống văn hóa Thăng Long vốn thấm đậm chất dân chủ qua nhiều thời đại?
    Do sự phân hóa, tranh chấp quyền lực trong nội bộ các tập đoàn thống trị nhiều đời, mà bắt đầu là từ thời Lê - Trịnh, tầng lớp "sĩ phu Bắc Hà", với thân phận những bề tôi trực tiếp, gần gũi nhất, không khỏi phải tìm cách đối phó, và do đó cũng chịu nhiều hạn chế trong cung cách ứng xử. Bản tính gọi là cứng cỏi, thẳng thắn của họ đôi khi phải biểu hiện dưới hình thức nước đôi, tránh né, dưới sức ép của cả chúa lẫn vua. Lâu dần, thói quen này thấm sâu vào tính cách, tạo nên một hình ảnh mặt trái về họ: vừa mang cái vẻ ngoài rất "khuôn phép", lại vừa có cái ranh mãnh ngầm, cái phản ứng thâm thúy của lớp người rất giỏi trò chơi chữ. Mặt khác, cái dân chủ dội từ trên xuống và cái dân chủ nẩy sinh từ trong lòng xã hội trước sau cũng phải tìm thấy một mẫu số chung, phải nhượng bộ lẫn nhau để cùng tồn tại. Đó là một thực tế phức tạp, có sự đan chéo giữa mặt hay và mặt dở, mặt lưng chừng và mặt cấp tiến, mặt "khuôn phép hóa" và mặt "vùng ra khỏi khuôn phép", mà văn học Thăng Long - Hà Nội thời nào cũng không khó tìm ra dẫn chứng. Ở thế kỷ XVIII, giữa không khí sục sôi tinh thần nhân văn chủ nghĩa, đã có một tiếng cười làm mất mặt đấng chí tôn của Trạng Quỳnh, một cái lườm nguýt làm xiêu đổ "hiền nhân quân tử" của Hồ Xuân Hương, và cũng đã có không ít những tiếng chửi đổng làm ra vẻ "phản tỉnh" của kẻ mới được giữ địa vị "chăn dân", muốn đoạn tuyệt với cuộc sống được "cởi trói" bấy lâu để lại tự nguyện chui vào cái vòng "kim cô" của giai cấp thống trị kiểu như Chiêu Hổ... Ngay đến thời đương đại, dân chủ từ trên và dân chủ bột phát từ xã hội công dân đi vào văn học vẫn là hai yếu tố song hành, nhiều lúc tưởng có gì "trái cựa", nhưng xét cho cùng, đấy cũng là sự thúc đẩy tất yếu lẫn nhau, có cái này mới có được cái kia. Và đó chính là kết quả khách quan của sự mở rộng cảm hứng dân chủ của đời sống văn chương diễn ra trong vòng một thập niên đổi mới cho đến sát trước khi bước sang thế kỷ XXI - một vụ mùa chưa thể gọi là bội thu, cũng chưa hẳn đã như ý muốn của người này hay người kia, nhưng nó là sản phẩm không thể đòi hỏi khác hơn của một mô hình văn hóa trong đó quá khứ vẫn còn chi phối và ám ảnh đối với hiện tại - giữa một thời đại thông tin và mở cửa. Một hiện tượng truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, truyện ngắn của Phạm Thị Hoài, và truyện ngắn của nhiều cây bút trẻ khác, một Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, một Những thiên đường mù của Dương Thu Hương, hay một Cát bụi chân ai, một Chiều chiều của Tô Hoài, và gần đây hơn nữa là một Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn (nếu ta trở lại với mấy chữ "sĩ phu Bắc Hà" trong nguyên nghĩa của nó)... thoạt kỳ thủy đều gây sửng sốt, tạo nên những "cú sốc", có cảm giác là những hiện tượng "không đi vào quy củ", nhưng rồi dần dần, thời gian đã phán xét, điều chỉnh, xác nhận lại sự hiện diện của chúng. Ở đây dường như là có sự tiếp nối cùng lúc vừa cái khôn ngoan, thâm thúy, tưng tửng nước đôi, lại vừa là cái dằn mặt sỗ sàng, táo tợn, của "sĩ phu Bắc Hà", của những truyền thống văn chương cổ xưa của con người Hà Nội.
    Văn học Thăng Long còn giàu chất trí tuệ bởi Thăng Long trong nhiều thời kỳ lịch sử đã từng là nơi kết tinh những nhà văn hóa, tư tưởng có tầm vóc thời đại, mà họ đồng thời cũng là nhà thơ nhà văn. Chúng ta có một Hưng Đạo đại vương, nhà tư tưởng quân sự kiệt xuất, tài ba, và một Trần Quốc Tuấn viết những câu văn hịch hùng hồn, làm sục sôi tinh thần tướng sĩ. Có một Tuệ Trung thi sĩ tiêu dao, phóng khoáng và một Tuệ Trung Thượng sĩ đề xuất bản thể luận Phật giáo và tổng kết phép biện chứng trong cách nhìn sự vật ở thế kỷ XIII:
    Tây nguyệt trầm không nan phục ảnh,
    Đông lưu phó hải khởi hồi ba.
    (Thế thái hư huyễn)
    (Trăng lặn, bóng trăng khôn trở lại,
    Sông trôi, sóng nước mãi trôi qua).
    Có một Nguyễn Trãi văn hào "viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời"(5) và một Nguyễn Trãi phát ngôn tư tưởng "nhân nghĩa", một mệnh đề Nho giáo mà ông sáng tạo lại để chung đúc vào đấy tinh hoa của chủ nghĩa nhân văn Việt Nam ở thế kỷ XV. Có một Lê Quý Đôn biên soạn những cuốn sách thông kim bác cổ và một Lê Quý Đôn là người bác bỏ xuất sắc "lý khí nhị nguyên" hay "lý gốc khí ngọn" của Chu - Trình, ở thế kỷ XVIII: "Lý còn không có hình tích, nhờ có khí nó mới hiện ra được. Lý ở ngay trong khí"(6). Có một "Thánh Quát" văn chương "vô Tiền Hán", và một Cao Bá Quát lãnh tụ nông dân khởi nghĩa, trong thơ lấp lóe cái chân lý: phải có cách mạng bạo liệt mới thật sự đưa đất nước đến một cuộc đổi đời, ở nửa đầu thế kỷ XIX:
    Tạc dạ xuân lai phá cựu hàn,
    Kim triêu hồng tử đấu thiên ban.
    Hà đương thế sự như hoa sự,ï
    Phong vũ, giang san tận cải quan.
    (Lập xuân hậu nhất nhật tân bình)
    (Hôm qua xuân đến rét tan,
    Sáng nay hồng tía muôn ngàn khoe tươi.
    Việc hoa ước cũng việc đời,
    Gió mưa, thoắt đã rạng ngời núi sông)
    Có một Hồ Chí Minh làm thơ giữa cảnh tù ngục, đặt vấn đề tự do như một quyền sống thiêng liêng của từng con người cá thể :
    Trên đời nghìn vạn điều cay đắng,
    Cay đắng chi bằng mất tự do.
    Mỗi việc mỗi lời không tự chủ,
    Để cho người dắt tựa trâu bò.
    (Cảnh binh khiêng lợn cùng đi, II)
    và một Hồ Chí Minh nêu chân lý bất hủ cho cả dân tộc, khi đã là *************: "Không có gì quý hơn độc lập tự do", ở thế kỷ này. Ngoài ra, còn bao nhiêu gương mặt văn hóa khác, tầm vóc và diện mạo có khác nhau : một Lương Văn Can từng đề xướng phong trào chấn hưng doanh nghiệp của người Việt theo đầu óc thái Tây ngay từ đầu thế kỷ mà sau này Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà... sẽ là những nhà thực hành nổi tiếng, một Phạm Quỳnh từng nêu khẩu hiệu "Thổ nạp Á Âu" đầu những năm 20, một Cao Xuân Huy với phát kiến về phương pháp luận "chủ toàn và chủ biệt" giữa Đông và Tây khoảng giữa những năm 50, một Trần Huy Liệu "Thử xét lại hồ sơ của giai cấp địa chủ" sát ngay sau cải cách ruộng đất, một Nguyễn Mạnh Tường công khai đề xuất dân chủ pháp quyền từ năm 1956, một Nguyễn Khắc Viện dự báo cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng của chế độ bao cấp giữa những năm 80 từ 7, 8 năm về trước, và một Trần Độ tướng lĩnh trong kháng chiến chống Pháp chống Mỹ lại cũng là người chuẩn bị "bếp núc" cho Nghị quyết 05 của Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 6 chứa đựng tinh thần "cởi trói" cho văn nghệ sĩ... Thử làm một dấu nối giữa các các gương mặt tiêu biểu ấy. Thực hiếm có một vùng đất nào mà hiện tượng sóng đôi giữa các đỉnh cao nghệ thuật và trí tuệ lại xuất hiện liên tục, dồi dào như trong văn học Thăng Long. Cái đẹp của văn học Thăng Long - Hà Nội vì thế có thể nói là cái đẹp của một tiềm năng tự phát sáng và tỏa lan ánh sáng đến nhiều lĩnh vực của đời sống tinh thần, kích thích những biến đổi mạnh mẽ về tư tưởng, văn hóa, văn học ở nhiều vùng đất nước, khơi nguồn cho các trào lưu, các dòng phái, các hiện tượng văn học trong từng thời kỳ sinh sôi nảy nở.
    Oh don't take it all to heart
    It's only fools - they make these rules

Chia sẻ trang này