1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hà Nội trong mắt người trí thức

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi VNHL, 20/12/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. VNHL

    VNHL Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/07/2001
    Bài viết:
    1.764
    Đã được thích:
    0
    Nhưng văn học Thăng Long rất trí tuệ mà lại không kém ý vị trữ tình. Cảm xúc trữ tình từng là thế mạnh của văn học nhiều vùng, như văn học Kinh Bắc, văn học Nghệ - Tĩnh... Tuy thế, sắc thái trữ tình của văn học Thăng Long vẫn có nét ưu mĩ của nó, ở chỗ phong cách biểu hiện của dòng văn học này là sự tài hoa thanh lịch, là cái sang trọng của tình cảm kết tinh thành chữ nghĩa, và là cái sang trọng của chữ nghĩa cất lên thành tiếng nói thi ca.
    Chỉ một giây phút trầm tư trong bức tranh giai nhân thêu gấm của nhà sư thi sĩ Huyền Quang (1254-1334), cũng đủ gợi lên tất cả chiều sâu tâm lý và dáng dấp phong tao, kiều diễm của những người đẹp kinh thành:
    Nhị bát giai nhân thích tú trì,
    Tử kinh hoa hạ, chuyển hoàng li.
    Khả liên vô hạn thương xuân ý,
    Tận tại đình châm bất ngữ thì.
    (Xuân nhật tức sự)(7)
    (Lỏng tay thêu gấm, gái yêu kiều,
    Hoa hợp, oanh vàng lảnh lót kêu.
    Bao nỗi thương xuân, thương biết mấy,
    Là khi không nói, chợt dừng thêu).
    Lại cũng dường như có một cái gì thật sang trọng, có phần khuê các nữa, ẩn sâu trong những vần thơ thanh nhã của nữ sĩ Ngô Chi Lan (?-?) khi bà từ trong môi trường cung cấm Thăng Long ở thế kỷ XV mà viết về hoa sen và các cô gái trẻ:
    Liên hoa viễn cận hương,
    Thái thái tổng sơn trang.
    Mạc khiển phong xuy mấn,
    Băng cơ nguyên tự lương.
    (Thái liên khúc, II)
    (Sen ngát khắp gần xa,
    Đầy thôn tiếng hái hoa.
    Tóc đâu cần gió thổi,
    Thơm mát tự trong da).
    Trong một bài thi ở Thăng Long vào đầu thế kỷ XVI, Trạng nguyên Nguyễn Giản Thanh (?-?) đã bằng ngòi bút hóm hỉnh, chỉ trong mấy nét lột tả được rất đắt cung cách ăn chơi hào hoa mà vẫn không kém vẻ nền nã của các chàng trai cô gái kinh kỳ:
    Chợ hòe đầm ấm, phố ngọc tần vần,
    Trai lanh lẹ đá cầu vén áo;
    Gái éo le rủ yếm dôi quần.
    Khách Tràng An cưỡi ngựa xem hoa, rợp đường tử mạch;
    Chàng công tử ngự xe trương tán, rạng mực thanh vân.
    (Phụng thành xuân sắc phú)
    Đến thế kỷ XVIII, văn học Thăng Long bước vào thời kỳ hoàng kim với trào lưu nhân đạo chủ nghĩa làm sinh sắc hẳn cả hai dòng văn học chữ Nôm và chữ Hán, thổi vào thơ văn cái xôn xao rạo rực của những trái tim khao khát yêu đương, và làm cho văn chương trở nên gân cốt, chuẩn mực bởi tính hiện thực đậm nét, lại cũng trau chuốt đến kỳ khu, mềm mại đến thần tình bởi sự bộc lộ tâm trạng cá thể cá nhân. Một Ngô Thì Sĩ (1726-1780) với Khuê ai lục, một Phạm Thái với Sơ kính tân trang, một Đoàn Thị Điểm với Chinh phụ ngâm khúc, một Nguyễn Gia Thiều (1741-1798) với Cung oán ngâm khúc, một Lê Ngọc Hân (1770-1799) với Ai tư vãn, một Nguyễn Khản với các khúc hát giáo phường thanh thú... đều là sự thể hiện tâm trạng cá nhân dằn vặt ấy, các tình cảm yêu đương bức xúc ấy, và thứ ngôn ngữ cao sang, tân kỳ, rất mực Hà thành ấy.
    Văn học Thăng Long cận hiện đại cũng đậm đà không kém chất "trữ tình Tràng An". Chúng ta thường hay nhắc đến một Tản Đà mà giọng thơ tự nhiên, mềm mại như phong dao song lại không phải là phong dao; nhắc đến một Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938) hồn nhiên, tinh nghịch như cái giọng của thế hệ thư sinh Hà thành một thuở; một Vũ Hoàng Chương (1916-1976) yêu đắm đuối, và câu thơ cũng rất giàu nhạc điệu, chứa chất âm hưởng của nhiều dòng nhạc mới cũ xen phối: nhạc hát nói, nhạc vũ trường; một Quang Dũng (1921-1988) với chỉ một nét bút khắc họa các chàng trai Hà Nội "xông pha chinh chiến" rất ước lệ, thế mà sao cứ đọng lại trong ta những câu thơ cổ kính, đầy sức âm vang; một Nguyễn Đình Thi với các bài thơ không vần, quyến người ta vào cái âm sắc mới lạ, chắc khỏe của chúng; một Trần Dần (1926-1997), Lê Đạt, Hoàng Cầm lúc nào cũng mê mẩn cách tân, "chôn tiền chiến", làm "phu chữ", làm "người bay không có chân trời"? bắt câu thơ phải thay đổi liên miên từ lục bát mượt mà đến hỳ hục leo thang, đến thể thơ "mini" mong đối sánh với "haiku", cho đến những câu thơ nén chặt đến mức tối nghĩa dung lượng của muôn vạn ý và tình trong suốt ba mươi năm trải nghiệm đắng cay và trả giá cho chữ nghĩa? Chúng ta cũng thường nhắc đến bước đột khởi của văn xuôi Việt Nam với câu văn tiếng Việt mới mẻ, trong sáng, nhiều gợi cảm của Khái Hưng (1896-1947), Nhất Linh (1905-1963)... trong Tự lực văn đoàn; rồi giọng văn ngọt ngào, đằm thắm của Thạch Lam (1910-1942), Vũ Bằng (1913-1983) viết về những cái gì rất riêng của Hà Nội: từ chiếc bánh cốm hình như chỉ riêng Hà Nội mới có, đến những món quà mang hương vị Hà Nội, hay một tiếng rao hàng văng vẳng giữa đêm khuya khiến người Hà Nội phải nhớ đến nao lòng; hay giọng văn giàu hình ảnh của Tô Hoài, nghe như có cái lao xao của ánh nắng và mùi thơm của đồng lúa ngoại thành thấm vào từng câu từng chữ; giọng văn kiêu sa, đài các của Nguyễn Tuân (1910-1987) đưa người ta vào mê cung chữ nghĩa, theo đuổi những cảm giác chi li, tỉ mẩn, chẻ sợi tóc làm tư, nhưng cái nét tài hoa, cái phong cách riêng của một cây bút suốt đời gắn bó với Hà Nội vẫn hiện lên rất rõ; và giọng văn của Nam Cao (1917-1951), Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960), mỗi người một vẻ, khơi dậy một cách thấm thía tâm lý con người trí thức Hà Nội, từ lớp người sống "mòn đi, rỉ ra" trong chế độ cũ, tự ý thức về tấn bi kịch làm mụ mị tận đáy tâm hồn họ, nhưng ở nơi sâu nhất ấy vẫn giữ được cái kiêu hãnh thật đáng quý : " Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm", đến những con người trầm tư, dằn vặt giữa "đi hay ở", cho đến lớp người trẻ trung, hào hoa, đi vào cuộc kháng chiến với tất cả niềm kiêu hãnh và chất men say người...
    Có thể nói sự lấp lánh của trí tuệ và vang hưởng trữ tình đằm thắm đã làm nên giọng điệu đặc sắc khó lẫn của ngôn ngữ văn học Thăng Long - Hà Nội trong vòng mười thế kỷ nay. Đây là một gợi ý giúp ta đi tới một sự suy luận xa hơn: trước khi Sài Gòn trở thành một trung tâm của sáu tỉnh phía Nam, trước khi Huế trở thành Kinh đô của nhà Nguyễn, thì các giá trị của văn học dân tộc, muốn trở thành giá trị lớn, đều ít nhiều phải khúc xạ qua "môi trường văn học Thăng Long". Nói một cách hình ảnh hơn nữa thì văn học Thăng Long đã tồn tại trong tiến trình phát triển của văn học cả nước như nhánh lớn của một dòng sông, vừa dồn nước cho con sông chính, vừa hút phù sa từ mọi chi lưu, và tuy không hẳn quyết định số phận của dòng sông nhưng cũng làm đổi thay sức chảy của dòng. Dù rằng ở thế kỷ XIX, Kinh đô được chuyển về Huế, Thăng Long trở thành "tỉnh Hà Nội", nhưng điều đó cũng chẳng cản trở gì nhiều sự phát triển của nó. Hà Nội vẫn là thủ đô muôn đời của sự phồn hoa, của văn hóa nghệ thuật, đúng như lời một học giả người Pháp, De la Liraye viết năm 1877: "Dù không phải là kinh thành nữa, Kẻ Chợ vẫn là một thành phố đứng đầu trong cả nước về nghệ thuật, về công nghiệp, về thương nghiệp, về sự phong phú, về dân số, về lịch thiệp và về văn hóa. Phải nói rằng trong khắp nước không đâu có công nghiệp bằng Kẻ Chợ và tất cả Bắc Kỳ, tất cả Nam Kỳ đều không thể vượt qua được Kẻ Chợ. Các văn nhân, các thợ giỏi, các đại thương đều tới đấy. Các đồ cần dùng hàng ngày và các đồ mĩ nghệ xa hoa cũng từ đấy mà ra. Tóm lại, đấy là trái tim của dân tộc"(8).
    III.
    Để nhận diện văn học Thăng Long - Hà Nội còn phải nói đến một đặc điểm sau cùng: đây là vùng văn học có vận mệnh hết sức dài lâu, được tiếp nối bởi nhiều tiến trình vận động, mỗi tiến trình do lịch sử đặc thù chi phối nhưng cũng do lực đẩy nội tại của nó; có những giai đoạn trầm lắng tuy chưa bao giờ đứt đoạn, và cũng có những giai đoạn bột khởi thành cao trào; có sự khác biệt về xu hướng tư tưởng, thậm chí sự trái ngược về quan niệm và phương pháp sáng tác, sự thay đổi trong phương thức tư duy, và cả sự đa dạng về thành tựu nghệ thuật, về đóng góp thể loại.
    Tựu trung, có thể hình dung con đường phát triển của văn học Thăng Long - Hà Nội mười thế kỷ (kể từ cái mốc định đô của Lý Công Uẩn (1010) cho đến hết thế kỷ XX) được phân chia một cách tổng thể với bảy lát cắt sau đây: 1. Văn học thời Lý - Trần (1010-hết thế kỷ XIV) : uyển chuyển dung hòa tư tưởng thẩm mỹ Phật Nho Đạo; 2. Văn học thời Lê sơ (thế kỷ XV) : ca ngợi thiên nhiên, đất nước và con người theo mẫu mực lý tưởng Nho giáo; 3. Văn học thời Mạc - Lê trung hưng (thế kỷ XVI-XVII) : phê phán xã hội để bảo vệ nhà nước và đạo đức phong kiến đang trên đà rối loạn; 4. Văn học thời Lê mạt (thế kỷ XVIII) : đề cao tinh thần nhân văn chống phong kiến với những đòi hỏi bức thiết về quyền sống con người, hạnh phúc tình yêu và địa vị của người phụ nữ; 5. Văn học thời Nguyễn (thế kỷ XIX) : phục hưng truyền thống văn hóa Thăng Long và gửi gắm khát vọng giải phóng con người cá nhân làm vũ khí tinh thần chống chọi lại mọi khuôn phép cứng nhắc của luân lý nhà Nguyễn, mặt khác cũng phản ánh tấn bi hài kịch của nhà nho trong bước đường cùng đối mặt với làn sóng xâm lăng ồ ạt của chủ nghĩa thực dân; 6. Văn học nửa đầu thế kỷ XX (1900-1945) : hiện đại hóa theo tinh thần dân chủ thế kỷ XIX của văn học Âu Tây, các trào lưu, xu hướng, hình thức văn học khác nhau nở rộ và đạt đến những đỉnh cao rực rỡ; 7. Văn học nửa cuối thế kỷ XX : khởi đi từ dòng văn học mới sau Cách mạng tháng Tám, tiếp thu phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa và in đậm cảm hứng sử thi, với hình ảnh trung tâm là người anh hùng làm chủ tập thể, chuyển sang dòng văn học đổi mới từ 1988 về sau với tinh thần phản tỉnh xã hội và với sự đa dạng trong phương pháp sáng tác mà thành công vang dội nhất là ký và truyện ngắn.
    Bảy lát cắt của văn học Thăng Long - Hà Nội, thực ra cũng là bảy khúc quanh lịch sử, trên đó mảnh đất Thăng Long - Hà Nội đã từng bước chuyển mình từ môi trường thời Trung cổ đến môi trường thời Hiện đại, đã trải qua gần hết một thiên niên kỷ đằng đẵng, từ tuổi sơ sinh nay sắp bước đến tuổi một nghìn. Một nghìn năm tuổi đời của một mảnh đất văn vật như Thăng Long là niềm tự hào chính đáng của mỗi người dân Hà Nội, của tất cả mọi người dân nước Việt. Nhưng một nghìn năm, cũng không phải không đi kèm theo nó cái quy luật "bất khả kháng" là biểu hiện của sự... già nua. May thay, văn học Thăng Long một nghìn năm tuổi lại có những tố chất giúp nó khắc phục những nguy cơ của sự "về già", mặc dù hành trình hiện đại hóa ở nửa cuối thế kỷ XX vẫn còn khá trầy trật, chậm muộn, có lúc tưởng như thụt lùi so với nửa đầu thế kỷ. Ấy là sự bén nhạy với mọi ảnh hưởng lớn nhỏ của các nền văn học Đông và Tây mà nó đã tiếp nhận, giao lưu trong nhiều thế kỷ. Quan trọng hơn, ấy là cái tư chất cứng cỏi, không "đánh mất mình" và cái khả năng cách tân trong bản thân nó - một cuộc đấu tranh ngấm ngầm nhưng không kém gian nan, vất vả để làm cho cái mới có thể nảy mầm.
    3-2002
    © Talawas 2002
    ------------------
    Chú thích:
    (1) Chữ dùng của GS. Trần Đình Sử trong Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb. Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987.
    (2) Khái niệm "đội ngũ trí thức tự do" chúng tôi dùng ở đây không mang ý nghĩa chính xác của từ ngữ mà chỉ muốn nói dưới xã hội phong kiến cũng đã có một tầng lớp trí thức tụ hội ở Thăng Long, trong sinh hoạt và sáng tác không bị lệ thuộc quá chặt vào chính quyền thống trị.
    (3) Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỉ, Quyển III. Bản dịch của Cao Huy Giu. Tập I, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972; tr. 235-236, và Lý Thường Kiệt của Hoàng Xuân Hãn, Tập I, Nxb. Sông Nhị, Hà Nội, 1949; tr. 76-78.
    (4) Lưu Trọng Lư, Giờ đây, khi cái nắp quan tài đã đậy lại, Tạp chí Tao đàn, số đặc biệt về Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Hà Nội, 1939.
    (5) Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục. Bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb. Sử học, Hà Nội 1962, tr. 265-266.
    (6) Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, "Lý khí", 3.
    (7) Theo ông Lâm Minh Hoa, Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Trung Quốc, trong bài Hoa, Thiền và Thơ thiền trên tạp chí Tia sáng số 12-1999, thì bài thơ này vốn có nguồn gốc từ bài Xuân nữ oán của Chu Giáng đời Đường, sau đó được Thiền sư Ảo Đường Trung Nhân đời Tống vay mượn để biến thành một bài thơ Thiền. Trước đây hơn 10 năm, nhà nghiên cứu Lê Mạnh Thát cũng đã có một ý kiến có phần tương tự. Chúng tôi nghĩ, cũng với thủ pháp vay mượn đó Thiền sư Huyền Quang đã sửa đổi câu chữ ít nhiều để biến cải thơ Ảo Đường Trung Nhân thành bài Xuân nhật tức sự của mình.
    (8) Dẫn theo Trần Huy Liệu, Lịch sử Thủ đô Hà Nội, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960, tr. 85.
    Oh don't take it all to heart
    It's only fools - they make these rules
  2. cuoihaymeu

    cuoihaymeu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    đoạn này cũng hay này, bác VNHL ạ .
    Như thời gian ở đầy trong tay - tác giả: Phan Việt
    (trích)
    ...
    Tôi biết nói gì với em về Việt Nam bây giờ, Kendra? Làm thế nào để kể cho em nghe về tất cả những gì tôi đã nghe, đã thấy, đã sống và đã yêu ở Việt Nam chỉ trong một trang giấy nhỏ? Làm thế nào để nói với em về Hà Nội - một thế giới hoàn toàn khác với những gì em đang hưởng ở đây; ngoại trừ những điểm chung là lòng tốt, tình yêu và sự tao nhã - những giá trị trường tồn xuyên qua thời gian và không gian?
    Kendra ạ, ở Hà Nội, cái gì cũng nhỏ xinh, cái gì cũng gợi cảm giác xích lại gần cho ấm... Ở Hà Nội, ăn thì ngon nhưng uống thì dở; nhưng cũng ở Hà Nội, người ta uống vì có bạn... Hà Nội có nhiều cây, nhiều những con đường nhỏ, nhiều những cái quán nhỏ chỉ cho vài người, có những dãy phố dài, ngoằn nghoèo... ở Hà Nội có vỉa hè, có người đi bộ, có xe máy và xe đạp, có những đám tắc đường bụi bặm và ồn ào giữa trưa hè, có những ngay mưa phùn đầu xuân bẩn và rét mướt, có Tết và có hoa... có những người sống chầm chậm như thời gian ở đầy trong tay họ... Có nhiều lắm, Kendra ạ. Tôi biết kể gì cho em bây giờ?
    "Kendra thân mến" - tôi đã viết "...Nếu em hỏi chị rằng chị yêu gì nhất ở Hà Nội, chị sẽ phải nói rằng chị yêu tất cả mọi thứ ở đó. Tất cả! Cuộc sống ở đó bình thản đến mức gần như lười biếng, sâu đến mức làm người ta nghẹn thở vì tri ân với đời và người. Khi còn ở nhà, ngoài thời gian học và đi làm thêm, chị hay đi loăng quăng với bạn bè qua các con phố, xem cái sự sống "chẳng bao giờ chán nản" ấy... Kendra thân mến, chị rất vui được kể cho em nghe về Hà Nội. Nhưng chị sẽ còn vui hơn nếu một ngày nào đó em có dịp đến để nhìn tận mắt, để cảm thấy những gì chị đã cảm thấy và cũng yêu Hà Nội như chị đã luôn yêu. Hãy đến và ở lại, Kendra! ....
    ...
    2001
    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...
  3. VNHL

    VNHL Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/07/2001
    Bài viết:
    1.764
    Đã được thích:
    0
    Đúng rồi, trong tất cả những bài của Tiny thì đấy là đoạn văn mà tớ thích nhất. Đọc rất cay mũi, hì hì.
    Oh don't take it all to heart
    It's only fools - they make these rules
  4. mimisuki

    mimisuki Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    108
    Đã được thích:
    0
    Bài trên thì khá hay nhưng bài dưới thì rất có vấn đề. Cứ quy quá nhiều thứ về cho Thăng Long như thế thì e rằng cả nước chỉ có mỗi Thăng Long mà thôi. Có vẻ tác giả hơi coi thường nông thôn Việt Nam.
  5. paladin

    paladin Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    22/07/2001
    Bài viết:
    432
    Đã được thích:
    1
    Chẹp, thú thật tớ cũng không hiểu tại sao lại lôi cả văn học Thăng Long ra bình luận hay ca tụng ở đây. Hì hì, chỉ nhìn tiêu đề đã không đọc rồi. Đã là thủ đô thì hiển nhiên tập trung được hầu hết các nhà trí thức hàng đầu, nói về thơ văn, kỹ thuật hay xyz gì nữa thì Thăng Long - Hà Nội cũng đã đại diện cho quá nửa Việt Nam rồi còn gì. Hihi, tác giả "khôn" thật!
  6. blueseed

    blueseed Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/08/2002
    Bài viết:
    44
    Đã được thích:
    0
    phù, đọc mãi mới xong, nội dung topic này hay quá nhưng em xin góp ý là cái tên của topic này KHÔNG HAY ! Tai sao lại có chữ trí thức vào đây ? Em cũng thấy ít có bài viết nào nói về cái nhìn nhận của bản thân mình đối với Hà Nội -> đây là một điểm không hay nữa ! Phải chăng chữ "trí thức" trong cái tên của topic này đã khiến mọi người e ngại ?
  7. cuoihaymeu

    cuoihaymeu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    thế đổi "trí thức" lại thành "công nông" nhé
    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...
  8. blur13

    blur13 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    18/10/2002
    Bài viết:
    319
    Đã được thích:
    0
    bác bào cho ý kiến của riêng các bác nữa cái...đây toàn các cụ cao xa wá...để bà con nói nhau nghe cái nào!
    ...i'm the man in the moon...i'm walking on sand...on my own high noon...in love with the moon...and not you...
  9. ke_ban_sao

    ke_ban_sao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/11/2002
    Bài viết:
    73
    Đã được thích:
    0
    Nếu không chấp nhận nói chuyện về trí thức, theo kiểu trí thức thì đề nghị các bác cần giải thích hoặc chứng minh lập một topic khác gồm các tài liệu của topic này để những bác "trí thức" nhiệt tình và kiên nhẫn sang giải thích cho bà con công nông! Nên phổ cập những kiến thức bổ ích nhưng cũng nên có chỗ riêng để một số người khác "đàm đạo", thưa bà con. Tuy vậy điều này không có nghĩa là chúng tôi không nghe ý kiến của những bác e sợ từ "trí thức", các bác có thể góp ý bên cái topic mà tôi đề xuất và cũng có thể tham khảo ở topic này về phần bình. Liệu các bác có chấp nhận không thì nói rõ để thiên hạ biết, thiên hạ cười..
    Ban mai mùa xuân
  10. ke_ban_sao

    ke_ban_sao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/11/2002
    Bài viết:
    73
    Đã được thích:
    0
    Tôi còn có một góp ý nữa:
    Topic này bàn về chủ đề Thăng Long vì vậy các bạn không nên nói lan sang những chuyện nhỏ nhặt như chuyện Thăng Long có quan trọng hay không hay chỉ nói đến Thăng Long mà không nói đến nông thôn VN... Hơi mất thời gian vì các bạn có thể tranh luận ở topic nào đó bàn về vấn đề này không liên quan gi đến Thăng Long-Hà Nội.
    Tôi mong rằng sẽ có những ý kiến sâu hơn và tốt hơn, bám sát vào ý chính, ý ban đầu của topic.
    Ban mai mùa xuân

Chia sẻ trang này