1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hà Nội xưa và nay...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi cuoihaymeu, 04/03/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Bom

    Bom Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/07/2001
    Bài viết:
    1.245
    Đã được thích:
    0
    Các bác ơi cho em hỏi mấy thứ với:
    1-Từ ngày xửa ngày xưa đến giờ thì HN đã mang tổng cộng bao nhiêu cái tên rồi nhỉ?
    2-Cái đê phòng hộ HN ngày xưa có phải là con đê Trần Khát Chân ngày nay chạy tuốt qua đường Đại Cồ Việt bây giờ,bắt vào đê La Thành rồi kéo thẳng lên Hoàng Hoa Thám không ạ?Có phải nó mang một cái tên chung là đê La Thành và cái khúc còn lại của nó thì chạy qua những đâu nữa?
    3-Núi Nùng chính hiệu con bò vàng nằm trong cấm thành,thế sao lại có cái núi Nùng ở Bách Thảo nữa ,nó có dây mơ rễ má gì với cái kia không ạ?
  2. Koibeto81

    Koibeto81 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/01/2002
    Bài viết:
    1.250
    Đã được thích:
    0
    Về các tên gọi của Hà Nội trong lịch sử tớ có vớ được một bài khá đầy đủ lên post ra đây để bà con đọc cho zui.
    Hà Nội đã có bao nhiêu tên gọi​
    Thăng Long - Hà Nội là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Mảnh đất địa linh nhân kiệt này từ trướckhi trở thành kinh đô của nước Đại Việt dưới triều Lý đã là đất đặt cơ sở trấn trị của quan lại thời kì nhà Tuỳ (581-618) , nhà Đường (618-907) của phong kiến phương Bắc . Từ khi hình thành cho đến nay , Thăng Long - Hà Nội có nhiều tên gọi . Chúng tôi xin chia các tên gọi ấy thành hai loại :Chính quy và không chính quy theo thứ tự thời gian như sau :
    Tên chính quy
    1.Long Đỗ : Truyền thuyết kể rằng lúc Cao Biền nhà Đường , vào năm 866 đắp thành Đại La , thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ . Do đó trong sách sử thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ . Thí dụ vào năm Quang Thái thứ 10(1397) đời Trần Thuận Tông , Hồ Quý Ly có ý định cướp ngôi nhà Trần nên muốn dời đô về đất An Tôn , phủ Thanh Hoá. Khu mật chủ sự lúc đó là Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can rằng : " Ngày xa , nhà Chu , nhà Ngụy dời Kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ có núi Tản Viên , có sông Lô Nhị ( sông Hồng) núi cao sông sâu , đất bằng rộng rãi". Điều đó cho thấy Long Đỗ đã từng là tên gọi của Hà Nội thời xưa.
    2.Tống Bình: là tên do bọn đô hộ phương Bắc thời Tùy(581-618), Đường(618-907) đặt cho trị sở của chúng, tức Hà Nội ngày nay. Trước đây "trị sở" (hiểu như là cơ quan hành chính trung ương) của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay). Tới đời Tuỳ, chúng mới chuyển đến Tống Bình.
    3.Đại La: Đại La hay Đại La thành nguyên là tên vòng ngoài cùng bao bọc lấy kinh đô. Theo kiến trúc xưa, kinh đô thường có "Tam trùng thành quách" : Trong cùng là "Tử cấm thành" nơi và hoàng tộc ở, giữa là "Kinh thành" và ngoài cùng là "Đại La thành". Năm 866, Cao Biền bồi đắp thêm Đại La thành rộng hơn và vững chĩa hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là thành Đại La. Thí dụ trong Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ viết năm 1010 có đoạn :"...Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương(tức Cao Biền) ở giữa khu vực trời đất..."
    4.Thăng Long: Đây quả là cái tên có tính văn chương nhất , gợi cảm nhất trong số các tên của Hà Nội. Lý do hình thành tên này đã được nêu khá cụ thể ở trên nên Tớ không nhắc lại nữa.
    5.Đông Đô: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: "...Mùa hạ , tháng 4 năm Đinh Sửu(1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương(tức Hồ Hán Thương) coi phủ đô hộ là Đông Đô...". Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục , sử thần nhà Nguyễn có chú thích: "Đông Đô tức là Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô".
    6.Đông Quan: Đây là tên do quân xâm lược nhà Minh đặt cho Thăng Long-Hà Nội với hàm nghĩa kỳ thị kinh đô của nước ta, chỉ được chúng ví như "cửa quan phía Đông" của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết, năm 1408, quân minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly rồi đặt bộ máy cai trị nước ta ở thành Đông Đô, đổi tên Đông Đô thành Đông Quan. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng 12 năm Mậu Tý(1408) Giản Định Đế bảo các quân " Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh thành Đông Quan thì chắc phá được chúng".
    7.Đông Kinh: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau: " Mùa hạ, tháng 4 năm Đinh Mùi(1427) Vua(tức Lê Lợi) từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở Đông Kinh, tức là thành Thang Long. Tương tự như Đông Đô , vì Thanh Hóa còn được gọi là Tây Đô nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh".
    8.Bắc Thành: Đời Tây Sơn(Nguyễn Huệ-Quang Trung 1787-1802). Vì Kinh đô đóng ở Phú Xuân( Huế) nên gọi Thăng Long là Bắc Thành.
    9.Thăng Long: Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân , không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thành làm tổng trấn miền Bắc và đổi kinh thành Thăng Long làm trấn thành miền Bắc. Kinh thành đã chuyển làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời được nhân dân sử dụng phổ biến nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ "Long" là "Rồng" thành chữ "Long" là "thịnh vượng" với lý do là Rồng là tượng trưng cho Vua, nay Vua không còn ở đây thì không được dùng chữ "Long" là "Rồng"
    10.Hà Nội: vẫn Sách Lịch sử Hà Nội cho biết : "Năm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thành Thăng Long cũ hợp mới mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủ Ứng Hòa, phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của tỉnh Hà Nội".
    Tên không chính quy
    Là tên trong văn thơ , ca dao, khẩu ngữ ... vẫn được dùng để chỉ Thăng Long-Hà Nội.
    Tràng An: Bắt nguồn từ Trường An vốn là kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất Trung Quốc. Do đó, được các nhà Nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ kinh đô. Từ đó dân gian mới sử dụng nhiều trong ca dao , tục ngữ để chỉ Thăng Long.
    Hiếm có người Việt Nam nào lại không biêt hai câu:
    Chẳng thơm cũng thể hoa nhài​
    Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An​
    2.Phượng Thành(Phụng Thành): xuất hiện trong bài Phú Nôm rất nổi tiếng tả cảnh mùa xuân ỏ Thăng Long :" Phượng Thành xuân sắc phú"(Tả cảnh săc mùa xuân ở thành Phượng) của ông Trạng Nguyễn Giản Thanh.
    3.Long Biên sách Quốc trềi đăng khoa lục có chép đoạn về tiểu sử Tam Nguyên Trần Bích San(1838-1877), ghi lại bài thơ của vua Tự Đức viếng ông, co 2 câu đầu như sau :
    Long Biên tài hướng​
    Phượng Thành hồi​
    Triệu đối do hỹ, vĩnh biệt thôi​
    Dịch nghĩa :
    Nhớ ngươi vừa tự thành​
    Long Biên về tới Phượng Thành​
    Trẫm còn đang hy vọng​
    Triệu ngươi vào triều bàn đối sách, bỗng vĩnh biệt ngay​
    Thành Long Biên ở đây , vua Tự Đức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giwò Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Năm 1877 vua Tự Đức triệu ông về Kinh Đô Phú Xuân để sung chức thần qua nước Pháp, nhưng chưa kịp đi thì Ông mất.
    4.Long Thành: Là tên viết tắt của Kinh thành Thăng Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du, quê ở Hải Dương, từ nhỏ theo ông nội lên Thăng Long mở trường dạy học và làm thuốc. Ngô Ngọc Du là người được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Đống Đa - Ngọc Hồi của vua Quang Trung. Sau chiến thắng Kỷ Dậu(1789), Ngô Ngọc Du có viết bài Long thành quan phục kỷ thực(Ghi chép việc khôi phục Long thành)
    5.Hà Thành: Là tên viết tắt của thành phố Hà Nội, được dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Và hiện nay cũng được dùng tương đối phổ biến.
    6.Hoàng Diệu: sau Cách mạng Tháng Tám 1945 , đôi khi trong các sách báo chúng ta có sử dụng tên này để chỉ Hà Nội.
    Ngoài ra m trong cách nói dân gian, còn nhiều từ được dùng để chỉ Thăng Long-Hà Nội như : Kẻ Chợ(Khéo tay hay làm nghề đất lề ẻ Chợ-Khôn khéo tợ thầy Kẻ Chợ); Thượng Kinh , tên này để nói đất Kinh đô ở trên mọi nơi khác trong nước, dùng để chỉ kinh đô Thăng Long(Chẳng thơm cũng thể hoa nhài , Chẳng lịch cũng thể congngười Thượng Kinh); Kinh Kỳ , tên này nói đất có Kinh đô đóng (Thứ nhất Kinh Kỳ , thứ nhì phố Hiến)...
    Loại tên "không chính quy" của Thăng Long-Hà Nội còn nhiều và được sử dụng khá linh hoạt trong văn học , ca dao...khó có thể kể hết được.
    Theo tạp chí Xưa và Nay
    NO PAIN NO GAIN ​
  3. cuoihaymeu

    cuoihaymeu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Ôi bác Koibeto có cái bài hay quá.
    * Bác Bom hỏi khó quá nhỉ. Cái đê ấy là đường đê La Thành ngày nay thì rõ rồi, nhưng đi tìm dấu tích của nó thì chịu. Trước mặt Cửa Bắc ngày xưa chính là một đoạn sông làm hào nước phòng hộ. Phát đại bác in dấu trên tường thành (mà nay các bác Sở hay phòng VH quận thông thái nào đó đem xi măng loãng trét sơ sơ vào cho nó ... sạch) câu qua chỗ ấy.
    * Cái La Thành thì không chỉ là con đê phòng hộ chống lụt, Nó còn là cái thành đất được xây từ đời nhà Đường để khoanh vùng một khu vực thuộc HN ngày nay và khu vực đó cùng kv lân cận còn được gọi là Đại La thành lộ. Lộ theo nghĩa thông thường là cái đường đi (trên mặt thành), nhưng theo "An Nam chí lược" chú thích thì Lộ trong các sách địa thì còn dùng với nghĩa chỉ một địa hạt, châu quận... (vd Nguyễn Tuân viết Lộ Đà-Giang, Lộ Tuyên Hoá ... trong tập Sông Đà ấy).
    *Về cái La Thành, trích một đoạn sử HN là rõ nhất:" Khu vực kinh đô nằm giáp sông Hồng, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu và có chu vi hơn 30 km. Hệ thống thành luỹ, cùng với 3 con sông và các con đê của chúng như là hào bao bọc quanh kinh đô. Kinh đô Thăng Long gồm có Hoàng Thành được bao quanh bằng bức tường thành, bên trong là hệ thống cung điện và sân điện, Kinh Thành là nơi cư trú của các quan lại, tướng lĩnh, binh lính và nhân dân.
    Cuối năm 1009, tại Hoa Lư (Ninh Bình) Lý Công Uẩn được lập làm vua, sáng lập vương triều Lý, năm sau ông rời đô ra thành Đại La, đổi tên là Thăng Long. Trên cơ sở thành Đại La, Lý Công Uẩn xây dựng một kinh thành mới, về đại thể được giới hạn bằng ba con sông, phía đông là sông Hồng, phía bắc và phía tây là sông Tô, phía nam là sông Kim Ngưu.
    Khu hoàng thành ở gần hồ Tây là nơi có các cung điện hoàng gia và nơi thiết triều, tất cả được bao bọc bằng một toà thành xây gạch. Phần còn lại là khu dân sự, chia ra làm các phường, trong đó có phường nông nghiệp, phường thủ công nghiệp và phường thương nghiệp, tách biệt hoặc đan xen. Cả hai khu (hoàng thành và dân sự) được gọi là kinh thành, bao bọc bởi toà thành, phát triển từ đê của 3 sông nói trên. Như vậy đê cũng là tường thành, và do đó sông là hào nước che chở. "
    * Cái núi Nùng nó nằm trong phạm vi Hoàng thành chứ không nằm trong Cấm Thành bác ạ vì Cấm thành bé lắm. Với lại thành HN 5 cửa (nay còn mỗi Cửa Bắc) mà chúng ta thấy ngày nay nó không phải là cái thành HN xưa cũ đâu.
    * Trong LS, thành "Hà nội" (cứ dùng chung một danh từ là HN nhá) được xây đắp nhiều lần. Cái thành HN hiện nay mở của cho khách tham quan được Nguyễn Ánh cho xây năm 1805 mô phỏng theo KT thành quách châu Âu cổ, tường bằng đá (người Việt ta truyền thống xây đắp đất tre gỗ ... chứ không gạch đá). Trong đó có mấy cái điện kính thiên, Hậu Lâu ... Thành mới này chỉ rộng 1km vuông, so với thành thời Lý rộng 30km vuông.
    1884 - 1886 Hoàng Thành bị thực dân Pháp phá trụi để xây dựng sở chỉ huy pháo binh, chỉ giữ lại Cột cờ để phục vụ cho mục đích liên lạc, vào thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ nhất (trước thế chiến I), thành cổ đã bị triệt phá lần nữa và cơ bản đã mất trong cảnh quan của đô thị. Trong thời kỳ này, một cô đầu nậu tên là cô Hồng đã thầu phá thành HN để ... lấy gạch và đá bán.
    Hì hì, trong quá trình sử dụng vì mục đích Quân sự sau CM, các công trình kiến trúc còn sót lại trong thành còn được các chiến sĩ QDND tu sửa nhiều lần vì mục đích ... sinh hoạt, hì hì ... Bác nào vào xem thành cổ HN ngày nay chắc hẳn ngạc nhiên không ít trước dấu vết KT thời kỳ cuối ... TK 20


    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...
  4. Bom

    Bom Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/07/2001
    Bài viết:
    1.245
    Đã được thích:
    0
    Bài của bác Koibeto hay quá,cảm ơn bác nhiều!
    Hì hì,vưng,em nhầm,phải gọi là Hoàng Thành mới đúng.À sếp CHM cho em hỏi nhát nữa:Chả là người nhà em sắp sang bên này,em định nhờ đem sang 1 quyển sách nói về lịch sử,văn hoá...của HN từ thuở mang gươm đi mở cõi,dưng mà chả biết đường nào mà lần,bác biết quyển nào tốt tốt một tí,đầy đủ một tí,dễ hiểu một tí thì bác giới thiệu cho em mấy!
  5. minhduc2001

    minhduc2001 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/10/2001
    Bài viết:
    169
    Đã được thích:
    0
    Chữ Hà Nội có nghĩa là gì ? Hà là sông, Nội là trong . Vùng đất ở trong con sông ?
    Minh Duc
  6. Bom

    Bom Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/07/2001
    Bài viết:
    1.245
    Đã được thích:
    0
    Đúng vậy mà bác MinhDuc!Mấy đoạn này của bác CHM đã nói lên điều đó:
    ...Khu vực kinh đô nằm giáp sông Hồng, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu và có chu vi hơn 30 km. Hệ thống thành luỹ, cùng với 3 con sông và các con đê của chúng như là hào bao bọc quanh kinh đô...
    ...Trên cơ sở thành Đại La, Lý Công Uẩn xây dựng một kinh thành mới, về đại thể được giới hạn bằng ba con sông, phía đông là sông Hồng, phía bắc và phía tây là sông Tô, phía nam là sông Kim Ngưu...
    ...Cả hai khu (hoàng thành và dân sự) được gọi là kinh thành, bao bọc bởi toà thành, phát triển từ đê của 3 sông nói trên. Như vậy đê cũng là tường thành, và do đó sông là hào nước che chở...
  7. Chitto

    Chitto Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    5.198
    Đã được thích:
    13
    Hì, núi Nùng chính gốc thì nằm trong phạm vi thành cổ HN rồi (nói là thành cổ nhưng nó không trùng với thành cổ đời Lý, Trần, Lê đâu)
    Núi Nùng theo truyền thuyết thì đó là nơi linh thiêng nhất của thành Thăng Long xưa.
    Theo truyền thuyết thì Rồng vàng mà vua Lý Thái Tổ nhìn thấy bay lên ở sông Hồng đã từng bay xuống núi Nùng. Dưới chân núi có một cái giếng, là nơi thông với nơi ở của thần Long Đỗ, là rốn rồng, tụ hội mọi khí thiêng của Kinh đô.
    Cũng theo truyền thuyết khi trước thời Bắc thuộc, có một chú Tầu nào đó (không biết có phải Cao Biền không?) đã định yểm núi Nùng để triệt long mạch của đất ấy (khi đó chưa là Thăng Long) nhưng không sao triệt được, vì thần khí mạnh quá.
    Vì vị trí thiêng liêng đó, nên núi Nùng được coi là Rốn Rồng, Rốn của Kinh thành, và trên núi có một toà điện quan trọng nhất của đất nước là Điện Kính thiên, mà bây giờ vẫn còn dấu tích là hai con rồng đá bên cạnh chín bậc thang dẫn lên điện. Bây giờ chỉ nhìn qua ảnh chụp thôi các bác ạ, vì QDND VN khiếp lắm, nếu bác nào muốn vào xem thì phải xin đủ 10 con dấu nhé.
    Còn người ta gọi cái núi Sưa trong Bách thảo là núi Nùng thì chẳng qua - nói ra xấu hổ - núi đó là nơi nam thanh nữ tú "nùng" nhau - theo nghĩa cổ, là đi tìm nhau mà tình tự ấy mà. Núi Sưa đó là núi đắp, gò đất được các chúa Trịnh đắp lên đứng cách hồ Tây một đoạn để có thể nhìn hồ Tây, chứ không phải là địa hình thật, khác với núi Nùng thật là gò tự nhiên.
    Trong Hà Nội còn một núi nữa cũng rất quan trọng, đó là Vạn Bảo sơn, hay còn gọi là núi Bò.
    Vạn Bảo sơn cũng qua nhiều thăng trầm. Khi thì làm nơi thờ thần, nơi tế lễ tổ tiên của các vua, tế trời, khi thì xây thượng uyển, về sau đời Lê thì lại làm nơi ở cho các quan. Ngày xưa đi kiệu qua đó, do núi dốc nên lúc lên thì người vác kiệu đi trước phải cúi xuống rất thấp gần như bò, lúc xuống thì ngược lại, nên người ta gọi là núi Bò.
    (Núi bò ở gần Núi Trúc. Thực sự thì tên Núi Trúc là núi nào thì tôi chả biết)
    -------------------------------------------
    Sống trên đời sống cần có một tấm lòng
  8. cuoihaymeu

    cuoihaymeu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Hay quá bác Chitto, đểu thật đấy, thế mà tớ cũng cứ tưởng cái núi Nùng ..., hì hì !
    Núi Trúc là cái núi đất nhỏ trước kia nằm ở chỗ ngày nay là phố Núi Trúc phường Kim mã, trước là đất trại Kim mã. Nhưng bây giờ chẳng phân biệt được đâu là núi đâu là đất nữa. Chỉ biết rằng khu ấy hình như chưa bao giờ bị ngập lụt.
    Chính là Cao Biền yểm bùa Thăng Long nhằm triệt long mạch đất Việt. Cao Biền được mô tả như một phù thủy. Nhưng đọc sử cũ thấy té ra đây lại là một trọng thần tài giỏi nhà Đường. Trích một ít sử cũ về nhân vật Cao Biền này nhá :
    " Giáp Thìn, [824], (Đườ ng Mục Tông Hằng, Trường Khánh năm th ứ 4). Mùa đông, tháng 11, Lý
    Nguyên Gia 2 thấy trước cửa thành có dòng nước chảy ngược, sợ trong châu nhiều ng ười sinh lòng làm phản, vì thế dời đến đóng ở thành hiện nay. (B ấ y giờ Nguyên Gia dời phủ trị 3 đến sông Tô Lịch, mới đắp thành nhỏ thôi, có người thầy tướng bảo rằng: Sức ông không đắp nổi thành lớn, sau 50 nă m nữa ắ t có ngườ i họ Cao đến đây đóng đô dựng phủ . Đế n đời Hàm Thông [860-874], Cao Biền đắp thêm La Thành, đúng như lời người ấ y. Lại xét: Phủ thành đô hộ trước đó ở ngoài thành Đông Quan ngày nay, gọi là La Thành, sau Cao Biền đắp thành hiện nay, thành bên ngoài cũng gọi là La Thành).
    Giáp Thân, [864],Vua Đường cho Tổng quản 2 kinh lược sứ là Trương Nhân kiêm coi giữ việc Giao Châu, tăng thêm quân ở trấn Hải Môn cho đủ số 2 vạn 5 nghìn người, sai Nhân tiến quân lấy lại phủ thành.
    Mùa thu, tháng 7, Nhân dùng dằng không dám tiến. Hạ Hầu Tư tiến cử Kiêu v ệ tướng quân là
    Cao Biền thay, bèn cho Biền làm Đô hộ tổng quản kinh lược chiêu thảo sứ , bao nhiêu quân sĩ của Nhân đều trao cho Biền cả . Biền tiểu tự là Thiên Lý, cháu của Nam Bình Quận Vương [Cao] Sùng Văn, đời đời coi giữ cấm binh. Biền đổi chí vào việc học, thích bàn luận việc xưa nay, người trong quân đều khen ngợi. Lúc còn ít tuổi, theo giúp Chu Thục Minh. Một hôm có hai con diều sóng đôi bay qua, Biền giương cung nhắm bắn, khấn rằng: "Nếu ta sau này được quý hiển thì phải bắn trúng" rồi bắn một phát tên trúng cả hai con. Mọi người cả kinh, nhân đó gọi là "Lạc điêu thị ngự sử " [quan th ị ng ự s ử b ắ n rơi chim điêu. Sau Biền được thăng d ầ n đế n ch ứ c Hữu thần sách đô ngu hầu. Người Đảng Hạng làm phản, Biền đem hơn 1 v ạ n c ấ m binh đế n đ óng ở Trường Vũ , nhiều lần lập công, thăng chức Tần Châu phòng ngự sử , lại có công nữ a. Bấy giờ Nam Chiếu chiếm đất ta, cho nên sai Biền sang thay .
    Mùa thu, tháng 7, Cao Biền sửa quân ở trấ n
    Hải Môn chưa tiến. Giám quân là Lý Duy Chu ghét Biền muốn tống đi, nhiều lần giục Biền tiến quân.
    Biền đem hơn 5 nghìn quân vượt biển đi trước, h ẹ n Duy Chu đem quân ứng viện. Biền đi rồi, Duy Chu cầm quân còn lại không tiến phát. Tháng 9, Biền đến Nam Định , Phong Châu, quân Man gần 5 vạn đương gặt lúa, Biền ập đến đánh tan, chém được bọn Trương Thuyên, thu lấy số lúa đã gặt dùng để nuôi quân.
    Bính Tuất, Biền đánh tan quân Nam Chiếu, giết và bắt sống rất nhiều. Nam Chiếu thu quân còn sót chạy vào châu thành cố giữ . Mùa đông, tháng 10, Cao Biền vây châu thành hơn 10 ngày, người Man rất khốn quẫn. Thành sắp hạ thì vừa lúc Biền nhận được văn thư của Vương Án Quyền cho biết đã cùng với Duy Chu đem đại quân xuất phát từ trấn Hả i Môn. Biền liền trao việc quân cho Trọng Tể , rồi cùng với bộ hạ hơn 100 người về Bắc.
    Án Quyền là người ngu hèn, việc gì cũng xin lệnh của Duy Chu. Duy [14b] Chu là người hung bạo tham lam, các tướng không chịu giúp việc, bọn họ bèn mở vòng vây cho người Man trốn đi quá n ử a. Bi ề n đế n n ơ i l ạ i đố c thúc khích l ệ t ướ ng sĩ , đ ánh lấy được thành, giết Tù Thiên và Chu Cổ Đạo làngười thổ man dẫn đường cho quân Nam Chiếu, chém hơn 3 vạn đầu. Quân Nam Chiếu trốn đi, Biền lại phá được hai động thổ man dã theo Nam Chiếu, giết tù trưởng. Ng ười thổ man rủ nhau quy phục đế n 1 vạn 7 nghìn.
    Cao Biền giữ phủ xưng vươ ng , đắ p La Thành vòng quanh 1.982 tr ượ ng l ẻ 5 th ướ c, thân thành cao [15a] 2 trượng 6 thướ c, chân thành r ộ ng 2 tr ượ ng 5 th ướ c, b ố n m ặ t thành đắ p các n ữ t ườ ng nh ỏ 3 trên b ố n m ặ t thành cao 5 thước 5 tấc 4 , lầu nhìn giặc 55 sở , cử a ống 6 sở , cừ nước 3 sở , đường bộ 34 sở . Lại đắp con đê vòng quanh dài 2.125 trượng 8 thước; cao 1 trượng 5 thước; chân rộng 2 trượng, cùng làm nhà cửa hơn 40 vạn gian.
    Lê Văn Hưu nói: Một Lý Trác tham bạo mà dẫn đến mười mấy năm bị tai họa
    người Man, huống chi lại có kẻ bạo ngược hơn cả Lý Trác nữa. Một Cao Biền đốc suất
    bộ thuộc mà chém được vài vạn quân giặc mạnh, huống chi lại có người giỏi hơn Cao
    Biền nữa! Cho nên Trác không thể bảo toàn được mình, mà Cao Biền thì giữ thành xưng
    vương, người khéo trị nước phải nên cẩn thận việc chọn người.
    Đinh Hợi, (Đường Hàm Thông nă m thứ 8). Mùa xuân, tháng giêng, Cao Biền đi tuần thị
    đến hai châu Ung, Quảng thấy đường biển có nhiều đá ngầm làm đắm thuyền, vận chở không thông, bèn sai bọn Nhiếp trưởng sử Lâm Phúng, Hồ Nam tướng quân Dư Tồn Cổ đem quân bản bộ và thủy thủ hơn nghìn người đến đục đá khai đường. Ngày 26 tháng 5, đương ban ngày bỗng nhiên mây dồn, gió nổi dữ dội,
    trông vào rừng tối như đêm, ngửa bàn tay không nhìn thấy, chốc lát hàng trăm tiếng sét nổ vang đá lớn, chỉ trong khoảnh khắc trở lại bừ ng sáng. Người làm việc chạy tới xem thì thấy các khối đá đã bị tan nát cả . Về phía tây lại gặp hai chỗ đá lớn dựng đứng, người làm cũng phải chịu bó tay. Ngày 21 tháng 6 lại có sét đánh như trước, chỉ trong một lúc đá lớn đều bị tan vụn cả . Kênh bèn đào xong, vì thế gọi là kênh Thiên Uy 1 .
    Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Việc Cao Biền đào kênh sao mà k ỳ dị thế ? Đó là việc làm hợp lẽ 2 , cho nên được trời giúp. Trời là lẽ phải. Đất có chỗ hiểm, chỗ bằng, đó là lẽ thường. Sức người có thể vượt hiểm được, đó cũng là lẽ thường. Nếu hiểm mà không vượt được thì trời phải nhờ đến tay người làm gì? Vua Vũ trị thủy, nếu không hợp lẽ thì trời do đâu mà tác thành được? Đất do đâu mà bằng phẳng được? Công hiệu đến mức rùa sông Lạc hiện điềm lành, thế không phải là trời [16b] giúp ư ? Xem như lời của Biền nói: "Nay khai đường biển để giúp sinh dân, nếu không theo lòng riêng thì có gì khó". Lòng thành phát ra từ lời nói, thì lời nói ấy há chẳng là thuận ư ? Lòng tinh thành thực cảm thông đến cả vàng đá, huống nữa là trời? Việc gì trời đã giúp sức là thuận. Kinh Dịch nói: "Giữ điều tín mà nghĩ điều thuận, thì trời s ẽ giúp cho, đều tốt cả , không có điều gì bất lợi". Thế thì việc sét đánh đá lớn để giúp chẳng có gì là lạ cả .
    Mậu Tý, [868] (Đường Hàm Thông năm thứ 9). Mùa thu, tháng 7, vua Đường lấ y Cao Biền làm
    Hữu kim ngô vệ đại t ướ ng quân (có sách chép là Kiểm hiệu thượng thư bộc xạ ), đến đời Đường Hy Tông năm Ất Mùi niên hiệu Càn Phù năm thứ 2 [875] đổi làm Tây Xuyên tiết độ sứ . Biền thấy cháu gọi bằng ông họ là Cao Tầm trước làm tiên phong, xông pha tên đạn, được quân lính phục theo, bèn dâng biểu
    tiến cử Tầm thay mình trấn giữ đất ta. Vua Đường nghe theo. [Cả Biền và Tầm] ở trấn cộng 13 năm, Biền [17a] từ năm Bính Tuất đến năm Giáp Ngọ niên hiệu Hàm Thông [866-874], Tầm từ năm Ất Mùi đến năm Mậu Tuất niên hiệu Càn Phù (875-878)."
    (Trích theo Đại Việt sử ký toàn thư)

    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...
  9. cuoihaymeu

    cuoihaymeu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Bác Bom, hiện nay sách viết một cách tương đối toàn diện và hệ thống về Lịch sử, văn hoá Hà Nội thì không có quyển nào cả, từ thủa mang gươm đi mở cõi thì càng không có. Nghe nói Hội sử học VN đang chuẩn bị cho một công trình nghiên cứu quy mô về HN nhưng ... chưa biết khi nào bắt đầu. Còn những sách "phổ thông" thì có mấy cuốn như sau.
    Nên mua một trong hai cuốn "Từ điển HN", một của Bùi Thiết (nhân vật chính trong cuộc "Đối thoại Sử học" cách đây 2 năm) và quyển kia do tập thể 3 tác giả mà tôi không nhớ hết tên. Đề cập tương đối đến các sự kiện, địa danh, tên phố, tên người Hà Nội ...
    Có cuốn "Lễ hội Thăng Long" in năm ngoái cũng khá đầy đủ về hơn 200 lễ hội HN. Mới đây nhất có quyển "HN các vấn đề LS, văn hoá" của Viện ngôn ngữ, quyển này in một số tham luận trong cuộc Hội thảo cùng tên do Viện NN tổ chức, thiên về ngôn ngữ học. Sách bỏ túi có quyển "HN" của Nguyễn Vinh Phúc, gọi là bỏ túi chứ cũng khá dầy dặn do NXB Thế giới ấn hành bằng hai thứ tiếng Việt - Anh. Có thể tham khảo "Mỹ thuật VN thời Lý Trần" của Chu Quang Trứ cũng nói nhiều đến Mỹ thuật Thăng Long.
    Sách văn học thì tất nhiên là mấy quyển như "Chuyện cũ HN", "Thương nhớ mười hai", "Miếng ngon HN" ...
    Học thuật hơn tí thì nên mua mấy quyển "Cơ sở VHVN", "Tìm về bản sắc văn hoá VN" của các bác Phan Ngọc hay Trần Ngọc Thêm, các bác này phân chia vùng văn hoá có khác nhau nhưng đều có chỗ dành cho Kinh Bắc. Tất cả đều có bán ở mấy hiệu sách to.
    Ngoài ra bác vào "Việt học thư quán" lôi về mấy bộ sử mà ngâm kíu.
    Hì hì, ác liệt hơn nữa thì bác chơi cuốn "À lội ta oánh Mẽo giỏi" của cụ Nguyễn Tuân cho nó nâng cao khí thế trước bọn Tây.
    Nhưng tiện nhất bác cứ vào mấy cái site www.thudo.gov.vn, www.hanoitravel.com ... mà xem, hì hì, tốn tiền mua sách làm rì.

    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...
  10. Bom

    Bom Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/07/2001
    Bài viết:
    1.245
    Đã được thích:
    0
    Hì hì cám ơn bác CHM quá!
    Em cũng bê đủ mấy bộ sử ở "Việt học thư quán" về từ mấy tháng nay rùi nhưng lười quá nên đến bây giờ mà đem mớ chữ trong đầu tãi ra cũng không được nửa cái chén hạt mít
    Với lại em thích mua sách về xếp trên giá cho...nó oách hề hề thêm nữa đọc sách phải nằm nó mới khoái,phải lăn chỗ nọ lộn chỗ kia nó mới vào chứ cứ ngồi dán mắt lên monitor thì...

Chia sẻ trang này