1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hà Nội xưa và nay...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi cuoihaymeu, 04/03/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. cuoihaymeu

    cuoihaymeu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Cho đến tận thế kỷ 21 này một trong những nét đặc thù của HN là vẫn đang trong quá trình chuyển hoá từ Làng sang Phố. Hà Nội ngày nay có sự tồn tại của các làng ngay trong thành phố - làng nội thành, theo các nhà ngâm kíu văn hoá điều này là rất hiếm trên TG.
    Chẳng hạn như các làng Hào Nam - phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, (nằm theo phố Hào Nam dọc theo cạnh phải mương Hào Nam, đối diện Nhạc viện Hà Nội, một đầu là đường La Thành, đầu kia nối vào ngõ 325 Cát Linh đâm thẳng ra KS Horrison. Xưa thuộc trại Thịnh Hào, tổng Hạ, huyện Vĩnh Thuận cũ). Làng Thịnh Quang - phường Thịnh Quang -Đống Đa (nằm ở khu vực tam giác Tây Sơn, Thái Thịnh và đường Láng. Xưa thuộc tổng Hạ, huyện Vĩnh Thuận cũ). Làng Nam Đồng - quận Đống Đa (gồm phố Nguyễn Lương Bằng, ngõ Xã Đàn, một đoạn La Thành, phố Hồ Đắc Di) . Làng hoa Ngọc Hà (từ vườn Bách Thảo cắt ngang ngã tư đầu phố Đội Cấn, đến phố Sơn Tây, quận Ba Đình) ...
    Hiện nay các làng đã được hành chính hoá thành các tổ dân phố và phường thành thị và nhiều làng đã được nhà tầng, mái bằng hoá tương đối, nhưng dẫu sao đi vào khu ấy vẫn có một "cảm giác làng" khá rõ.

    Với tốc độ mở rộng thành phố về phía Nam và Tây Nam như hiện nay nhiều làng ngoại thành cũng đang vặn mình trong dòng chảy đô thị hoá. Các vùng vốn là Làng nguyên chất nay đã phần nhiều lai phố như Ngũ Xã, Láng, Cót, Phú Thượng ... Danh sách "làng trong phố" rồi sẽ tiếp tục dài ra. Bên cạnh sự phát triển thấy rõ của kinh tế - xã hội cũng đã thấp thoáng thấy nỗi lo về một bản sắc văn hoá làng đang ngày một hư hao. Những giá trị này dẫu khó mà đánh đổi được với sự ngày một văn minh, hiện đại hơn của thủ đô, nhưng cũng không thể quên rằng chúng đã và vẫn đang góp phần quan trọng trong việc hình thành một bản sắc văn hoá Thăng Long - Hà Nội .

    * * * * *
    Làng trong phố
    (theo tạp chí Đẹp) ​
    Nghe nói trong dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long vừa qua có sự góp công, góp sức không nhỏ của những bô lão làng đúc đồng Ngũ Xã. Vâng, nghề thì chưa mất, nhưng cho dù có tinh mắt đến đâu, về Ngũ Xã vào những ngày này, người ta cũng không còn thấy được sự hiện diện của nghề truyền thống ấy nữa. Đâu đâu cũng thấy vôi vữa, gạch cát. Dường như chủ các công trình đều đang hối hả chạy đua với thời gian để có cái nhà mới "ăn Tết".
    Một cụ bô lão chúng tôi hỏi chuyện cười buồn: "Nghề đúc đồng vất vả, hao tâm tổn sức mà không đem lại thu nhập cao nên bây giờ chẳng mấy người làm. Mấy chục năm trong nghề, giờ tôi có muốn truyền lại cho con cháu cũng chẳng đứa nào muốn học. Chúng nó chỉ nhăm nhăm đi học những trường có chữ "ngoại" thôi: ngoại thương, ngoại giao, ngoại ngữ...".

    Láng, tên chữ là làng Yên Lãng, quê hương của Pháp sư Từ Đạo Hạnh, với những ruộng rau phục vụ cho khẩu vị sành điệu của người dân thủ đô, nay cũng đang trong cơn sốt đất. Đất cho người sống đã đắt, đất cho người đã khuất cũng chẳng rẻ gì: ở khu mộ ngay bên cạnh chùa Láng (dễ làm người ta tưởng nhầm là khu vườn mộ đã được xếp hạng di tích, vốn nằm khuất nẻo phía sau), phong trào xây "nhà" khang trang cho người thân đã khuất xem ra đang phát triển rầm rộ. Và cứ như lời một anh thợ xây thì để có được chừng 2m2 đất cho một ngôi mộ khiêm tốn, thân chủ phải bỏ ra chừng 6 triệu đồng, chưa kể tiền xây. Dễ hiểu tại sao diện tích rau chỉ còn chưa bằng một phần ba so với cách đây vài chục năm.
    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...
  2. cuoihaymeu

    cuoihaymeu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Cho đến tận thế kỷ 21 này một trong những nét đặc thù của HN là vẫn đang trong quá trình chuyển hoá từ Làng sang Phố. Hà Nội ngày nay có sự tồn tại của các làng ngay trong thành phố - làng nội thành, theo các nhà ngâm kíu văn hoá điều này là rất hiếm trên TG.
    Chẳng hạn như các làng Hào Nam - phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, (nằm theo phố Hào Nam dọc theo cạnh phải mương Hào Nam, đối diện Nhạc viện Hà Nội, một đầu là đường La Thành, đầu kia nối vào ngõ 325 Cát Linh đâm thẳng ra KS Horrison. Xưa thuộc trại Thịnh Hào, tổng Hạ, huyện Vĩnh Thuận cũ). Làng Thịnh Quang - phường Thịnh Quang -Đống Đa (nằm ở khu vực tam giác Tây Sơn, Thái Thịnh và đường Láng. Xưa thuộc tổng Hạ, huyện Vĩnh Thuận cũ). Làng Nam Đồng - quận Đống Đa (gồm phố Nguyễn Lương Bằng, ngõ Xã Đàn, một đoạn La Thành, phố Hồ Đắc Di) . Làng hoa Ngọc Hà (từ vườn Bách Thảo cắt ngang ngã tư đầu phố Đội Cấn, đến phố Sơn Tây, quận Ba Đình) ...
    Hiện nay các làng đã được hành chính hoá thành các tổ dân phố và phường thành thị và nhiều làng đã được nhà tầng, mái bằng hoá tương đối, nhưng dẫu sao đi vào khu ấy vẫn có một "cảm giác làng" khá rõ.
    Với tốc độ mở rộng thành phố về phía Nam và Tây Nam như hiện nay nhiều làng ngoại thành cũng đang vặn mình trong dòng chảy đô thị hoá. Các vùng vốn là Làng nguyên chất nay đã phần nhiều lai phố như Ngũ Xã, Láng, Cót, Phú Thượng ... Danh sách "làng trong phố" rồi sẽ tiếp tục dài ra. Bên cạnh sự phát triển thấy rõ của kinh tế - xã hội cũng đã thấp thoáng thấy nỗi lo về một bản sắc văn hoá làng đang ngày một hư hao. Những giá trị này dẫu khó mà đánh đổi được với sự ngày một văn minh, hiện đại hơn của thủ đô, nhưng cũng không thể quên rằng chúng đã và vẫn đang góp phần quan trọng trong việc hình thành một bản sắc văn hoá Thăng Long - Hà Nội .
    * * * * * ​
    Làng trong phố
    (theo tạp chí Đẹp) ​
    Nghe nói trong dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long vừa qua có sự góp công, góp sức không nhỏ của những bô lão làng đúc đồng Ngũ Xã. Vâng, nghề thì chưa mất, nhưng cho dù có tinh mắt đến đâu, về Ngũ Xã vào những ngày này, người ta cũng không còn thấy được sự hiện diện của nghề truyền thống ấy nữa. Đâu đâu cũng thấy vôi vữa, gạch cát. Dường như chủ các công trình đều đang hối hả chạy đua với thời gian để có cái nhà mới "ăn Tết".
    Một cụ bô lão chúng tôi hỏi chuyện cười buồn: "Nghề đúc đồng vất vả, hao tâm tổn sức mà không đem lại thu nhập cao nên bây giờ chẳng mấy người làm. Mấy chục năm trong nghề, giờ tôi có muốn truyền lại cho con cháu cũng chẳng đứa nào muốn học. Chúng nó chỉ nhăm nhăm đi học những trường có chữ "ngoại" thôi: ngoại thương, ngoại giao, ngoại ngữ...".
    Láng, tên chữ là làng Yên Lãng, quê hương của Pháp sư Từ Đạo Hạnh, với những ruộng rau phục vụ cho khẩu vị sành điệu của người dân thủ đô, nay cũng đang trong cơn sốt đất. Đất cho người sống đã đắt, đất cho người đã khuất cũng chẳng rẻ gì: ở khu mộ ngay bên cạnh chùa Láng (dễ làm người ta tưởng nhầm là khu vườn mộ đã được xếp hạng di tích, vốn nằm khuất nẻo phía sau), phong trào xây "nhà" khang trang cho người thân đã khuất xem ra đang phát triển rầm rộ. Và cứ như lời một anh thợ xây thì để có được chừng 2m2 đất cho một ngôi mộ khiêm tốn, thân chủ phải bỏ ra chừng 6 triệu đồng, chưa kể tiền xây. Dễ hiểu tại sao diện tích rau chỉ còn chưa bằng một phần ba so với cách đây vài chục năm.
    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...
  3. cuoihaymeu

    cuoihaymeu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Làng trong phố
    (theo tạp chí Đẹp) ​
    Nghe nói trong dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long vừa qua có sự góp công, góp sức không nhỏ của những bô lão làng đúc đồng Ngũ Xã. Vâng, nghề thì chưa mất, nhưng cho dù có tinh mắt đến đâu, về Ngũ Xã vào những ngày này, người ta cũng không còn thấy được sự hiện diện của nghề truyền thống ấy nữa. Đâu đâu cũng thấy vôi vữa, gạch cát. Dường như chủ các công trình đều đang hối hả chạy đua với thời gian để có cái nhà mới "ăn Tết".
    Một cụ bô lão chúng tôi hỏi chuyện cười buồn: "Nghề đúc đồng vất vả, hao tâm tổn sức mà không đem lại thu nhập cao nên bây giờ chẳng mấy người làm. Mấy chục năm trong nghề, giờ tôi có muốn truyền lại cho con cháu cũng chẳng đứa nào muốn học. Chúng nó chỉ nhăm nhăm đi học những trường có chữ "ngoại" thôi: ngoại thương, ngoại giao, ngoại ngữ...".

    Láng, tên chữ là làng Yên Lãng, quê hương của Pháp sư Từ Đạo Hạnh, với những ruộng rau phục vụ cho khẩu vị sành điệu của người dân thủ đô, nay cũng đang trong cơn sốt đất. Đất cho người sống đã đắt, đất cho người đã khuất cũng chẳng rẻ gì: ở khu mộ ngay bên cạnh chùa Láng (dễ làm người ta tưởng nhầm là khu vườn mộ đã được xếp hạng di tích, vốn nằm khuất nẻo phía sau), phong trào xây "nhà" khang trang cho người thân đã khuất xem ra đang phát triển rầm rộ. Và cứ như lời một anh thợ xây thì để có được chừng 2m2 đất cho một ngôi mộ khiêm tốn, thân chủ phải bỏ ra chừng 6 triệu đồng, chưa kể tiền xây. Dễ hiểu tại sao diện tích rau chỉ còn chưa bằng một phần ba so với cách đây vài chục năm.
    Bên những luống rau ít ỏi còn lại ấy, bà cụ Lãng, năm nay đã ngoài 70 tuổi, kể rằng, chẳng qua vì nhà bà ở phía trong làng, không gần mặt đường để buôn bán được nên vẫn phải giữ nghề, cho dù mỗi tháng, nghề trồng rau chỉ đem lại cho bà chừng đôi ba trăm nghìn. Bà rủ rỉ: "Giờ có lẽ chỉ còn có cái "anh" thơm là không "chịu" các loại phân bón, thuốc kích thích đời mới, hễ vẩy vào là mất mùi vị ngay lập tức. Chứ còn bây giờ ăn rau cỏ gì cũng hãi lắm. Đến giá, tưởng sạch 100% mà người ta cũng vẩy thuốc kích thích vào đấy cô ạ. 500 đồng một lọ thuốc kích thích của Tàu, bé bằng cái lọ penicillin thì phải gài được đến ba vò giá, cái nào cái nấy trắng tinh, mẫm mẩy"...
    Thực ra thì người Hà Nội chẳng lo không có thơm, mùi để tô điểm bữa ăn, bởi từ khi sản lượng rau Láng giảm mạnh, thì sản lượng rau của các vùng ven nội như Nhổn, Đăm... đã tăng lên trông thấy. Đành rằng mùi vị của những loại rau gia vị ấy không bằng được rau Láng, nhưng "thời buổi này, ăn đồ hộp nhiều, người ta cũng không quá cầu kỳ thế đâu cô ạ", bà cụ Lãng chép miệng.
    Tình cảnh đối với đào Nhật Tân cũng không khác là bao. Anh Thân, người làng đào Nhật Tân, cán bộ địa chính của phường này cho biết, diện tích đào trên địa bàn phường những năm gần đây đều giảm, những vườn trồng xen ngay trong khu dân cư hầu như không còn là bao.
    Đáng nói hơn là những dinh đào nổi tiếng cho hoa đẹp nhất thì hoặc đã bị chuyển đổi mục đích sử dụng, hoặc cũng sẽ trở thành khu đô thị mới nay mai. Khu vực trồng đào chắc sẽ phải di dời hết ra vùng bãi sông. Đất phù sa rất "mát", cây đào bỡi lên rất nhanh, nhưng hoa không to, không thắm bằng đào trong đồng, cánh mỏng và nhanh héo.
    Nói cho công bằng, nghề trồng hoa đào không còn là độc quyền của Nhật Tân, mà đã lan rộng sang các phường bạn như Phú Thượng, Xuân La, thậm chí cả các huyện Đông Anh, Gia Lâm và tỉnh lân cận Hải Dương... Nếu giống tốt và chăm sóc tốt, cây đào trồng ở những vùng này cũng cho hoa to, đẹp không thua kém những dinh đào Nhật Tân là mấy, song làm đào thế thì chỉ có người Nhật Tân mới nắm vững bí quyết. Công phu, tỉ mẩn đã đành, người làm đào thế còn phải có con mắt tinh đời để chọn gốc, sự nhạy cảm và sáng tạo lúc tạo dáng, go cành.

    Vẫn biết đô thị phải phát triển, vẫn biết khi những dự án được triển khai thì cơ sở hạ tầng cũng sẽ được cải thiện, đời sống cũng nhờ thế mà lên theo, nhưng người làng đào không khỏi nhớ tiếc những đồng đào xưa đã mấy trăm năm đi vào lịch sử, đi vào câu chuyện tình yêu của vị hoàng đế trẻ tài ba bậc nhất của dân tộc với nàng công chúa yểu điệu kinh kỳ...
    Tổng Bưởi, có 3 làng Đông Xã, Yên Thái, Hồ Khẩu, vốn nổi tiếng với nghề làm giấy, đặc biệt là loại giấy dó dùng để viết sắc phong, viết các loại văn bản trang trọng nhất của triều đình. Nghề giấy nay cũng đã thất truyền. Hợp tác xã giấy cuối cùng ở vùng này còn hoạt động cầm chừng đến năm 1994, mà lúc ấy cũng chỉ còn làm giấy bản thô. Toàn bộ nhà xưởng nay đều đã chuyển thành đất ở. Dấu vết duy nhất của nghề làm giấy ở đây không dễ gì nhìn thấy: đó là vệt chai trên cườm tay các cô gái xeo giấy năm xưa, nay đều đã lên chức bà!
    Còn nhớ, trong nhiều cuộc hội thảo tổ chức gần đây về phố cổ Hà Nội, các nhà khoa học, các nhà quản lý đều rất nhấn mạnh việc gìn giữ những giá trị phi vật thể, cái hồn của một Hà Nội xưa cũ, phảng phất đâu đó trong làn khói mơ hồ của tách trà mới rót từ chiếc ấm da lươn, trong câu chào mời đon đả, ngọt ngào mà không quỵ luỵ của cô hàng xén.
    Chợt nghĩ, liệu du khách phương xa có thể hiểu được trọn vẹn cái hồn Hà Nội ấy chưa, nếu như họ không còn cơ hội để chiêm ngưỡng một làng cổ thực sự? Làm sao họ có thể cảm nhận được những câu thơ - lời ru: "Gió đưa cành trúc la đà - Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương - Mịt mù khói toả ngàn sương - Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ". Họ cũng không có cơ hội để thưởng thức những sản vật nổi tiếng của đất Bắc xưa, trong đó có sản vật của những "làng trong phố": "Dưa La, húng Láng, tương Bần - Cá rô Đầm Sét, sâm cầm hồ Tây".
    Chẳng đáng tiếc lắm thay!
    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...
  4. cuoihaymeu

    cuoihaymeu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Văn hiến Thăng Long
    Nguyễn Vinh Phúc
    Từ lâu, đã có một thành ngữ quen thuộc với mọi người khi nói về đặc tính của Thăng Long - Hà Nội: Ngàn năm văn hiến. Vậy văn hiến là gì? Nếu như hai khái niệm văn hoá và văn minh hiện được dùng phổ biến có nguồn gốc từ phương Tây thì khái niệm văn hiến là hoàn toàn gốc từ phương Đông. Phương Tây không có khái niệm này. Chỉ ở Việt Nam và Trung Quốc, khái niệm văn hiến mới được dùng phổ biến.
    ở Việt Nam, từ văn hiến xuất hiện trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi (1428) rồi sau đó được tiếp tục sử dụng trong ngôn ngữ Việt Nam.
    Như nước Đại Việt ta từ trước
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
    Nền văn hiến mà Nguyễn Trãi nói đó mang một nội dung khá rộng. Nó thể hiện bản sắc của dân tộc Việt Nam không chỉ ở "núi sông bờ cõi đã chia" mà còn ở "phong tục Bắc, Nam cũng khác". Bản sắc ấy không chỉ ở truyền thống văn hoá Việt Nam qua các thời kỳ mạnh yếu khác nhau mà còn ở sự tiếp nối không ngừng của các thế hệ anh hùng hào kiệt trong lịch sử Việt Nam.
    Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
    Nhưng hào kiệt đời nào cũng có
    ở Nguyễn Trãi, con người hào kiệt và văn hoá là những nhân tố cấu thành của nền văn hiến Việt Nam. Nói tới văn hiến Việt Nam, Nguyễn Trãi đã khái quát những truyền thống tốt đẹp đã tạo nên sức mạnh tinh thần bất diệt của dân tộc Việt Nam. Văn hiến Thăng Long chính là sự thu nhỏ lại của văn hiến dân tộc và là biểu hiện tập trung nhất của nền văn hiến ấy.
    Kỷ niệm 990 năm và chuẩn bị kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long cũng là kỷ niệm những thành tựu của cả nước được hội nhập ở Thăng Long và lại từ Thăng Long toả sáng trên mọi miền của đất nước.
    Văn hiến Thăng Long không phải là của riêng vùng đất Thăng Long mà là tự hào chung của cả dân tộc Việt Nam.
    Cũng ở thế kỷ 15, bia tiến sĩ Văn Miếu năm Quang Thuận thứ 4 (1463) do Tiến sĩ Đào Cử soạn, có ghi: "Học trò may được khắc trên bia đá này, phải theo danh nghĩa sửa đức hạnh, bắt chước tính giữ gìn văn hiến".
    Thế kỷ 19 trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú viết: "Khi nhà Lê dựng nước, văn hoá lại thịnh dần, hơn 300 nắm tác đầy đủ kỹ càng, văn hiến đứng đầu trung châu điển chương rạng cả triều đại" (Văn tịch chí, bản dịch, quyển 4, trang 41).
    Vậy nội dung văn hiến là gì?
    Chu Hy (đời Tống, Trung Quốc) giải thích: "Văn, điển tịch dã; hiến, hiền dã". Có thể hiểu văn tức là văn hoá chỉ khuôn phép, trước tác, sách vở, hiến chỉ người hiền tài của đất nước.
    Như vậy, có thể khẳng định rằng khái niệm văn hiến bao hàm không chỉ nội dung của khái niệm văn hoá, văn minh mà còn nhấn mạnh một yếu tố quan trọng nữa, đó là những hiền tài của đất nước. Nền văn hiến của một dân tộc bao gồm cả trình độ văn hoá và số lượng hiền tài của dân tộc ấy.
    Cách viết như trên chính là cách hiểu ở Việt Nam, kể từ Nguyễn Trãi.
    Tóm lại, văn hiến là trạng thái phát triển nhất định của mỗi dân tộc. Nó nói lên xu hướng luôn luôn khắc phục tình trạng nguyên sơ lạc hậu và thấp kém để vươn tới cuộc sống ngày một phát triển hơn, tiến bộ hơn, cao đẹp hơn, với sự phong phú của đời sống vật chất và tinh thần, với sự xuất hiện ngày một nhiều những hiền tài của đất nước. Nó đánh dấu trình độ của một dân tộc đã đạt được trong quá trình sử dụng thiên nhiên, hoàn thiện đời sống xã hội và không ngừng đào tạo ra những con người ưu tú cả về trí tuệ phẩm chất và tài năng.
    Với quan niệm trên đây, chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được văn hiến Thăng Long từ nguồn gốc ra đời đến những biểu hiện phong phú của nó trên các lĩnh vực của đời sống và qua các thời kỳ lịch sử.
    - Sự ra đời của văn hiến Thăng Long có thể bắt đầu từ Chiếu dời đô, từ ngày kinh đô Thăng Long ra đời (1010). Tuy nhiên, văn hiến Thăng Long không phải đã được hình thành từ con số không. Hàng ngàn năm lịch sử trước đây đã chuẩn bị cho sự ra đời và phát triển của nó. Văn hiến Thăng là sự tiếp nối và nâng cao của những phẩm chất bất diệt của con người Việt Nam đã được rèn đúc suốt bao nhiêu thế kỷ chiến đấu để tồn tại và phát triển. Không thể hiểu được văn hiến Thăng Long nếu như bỏ qua những giá trị vật chất và tinh thần mà tổ tiên đã tạo dựng từ trước Thăng Long và để lại cho Thăng Long.
    Sự dời đô từ Hoa Lư đến Thăng Long không phải là sự thay đổi địa điểm một cách bình thường như bao nhiêu cuộc thay đổi Thủ đô đã từng diễn ra trong lịch sử Việt Nam cũng như ở các quốc gia khác trên thế giới. Sự dời đô của Việt Nam năm 1010 mang một ý nghĩa đặc biệt. Nó đánh dấu một sự chuyển biến quan trọng trong lịch sử Việt Nam từ thời dựng nước cho đến ngày năm đó.
    Sự dời đô của Việt Nam và sự ra đời của Thăng Long thể hiện đỉnh cao của tâm hồn và bản lĩnh Việt Nam, thể hiện đầu óc tự cường của dân tộc, thể hiện khí phách anh hùng của cả lãnh tụ và toàn thể nhân dân Việt Nam.
    Việc dời đô này là sự tuyên bố vang dội bốn phương về chủ quyền bất khả xâm phạm của đất nước Việt Nam, về sức mạnh bất khả chiến thắng của dân tộc Việt Nam trên con đường độc lập và phát triển.
    Thăng Long lại là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước. Cho nên văn hiến Thăng Long không phải là sản phẩm riêng của những con người sinh sống trên mảnh đất gọi là Thăng Long này. Nó là sự hội tụ, sự chắt lọc và nâng cao những tinh hoa trí tuệ và tâm hồn của cả nước và từ đây lại lan toả mọi miền, trở thành di sản tinh thần và niềm tự hào chung của cả đất nước.
    Văn hiến Thăng Long phản ánh tinh hoa đời sống tinh thần của dân tộc. Đặc điểm của nền văn hiến ấy thể hiện từ cung cách tư duy đến sinh hoạt hàng ngày, từ sự bảo vệ một cách ngoan cường bản sắc dân tộc đến sự tiếp thu nhạy bén và sáng tạo những tinh hoa của nhân loại, từ sự phát minh khoa học đến sự sáng tạo văn học nghệ thuật. Chính vì thế mà văn hiến Thăng Long là đỉnh cao của văn hiến dân tộc.
    Văn hiến Thăng Long cũng thể hiện ở trình độ thẩm mỹ sâu sắc và tế nhị trong hoạt động nghệ thuật cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Nó khiến cho Thủ đô luôn luôn đi đầu, luôn luôn là mẫu mực về một cuộc sống thanh lịch trong ăn, mặc, ở, trong mọi ứng xử hàng ngày.
    Người Hà Nội ngày nay đã và đang phát huy truyền thống ngàn năm văn hiến đó để xây dựng thành phố của mình đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy truyền thống kết hợp với hội nhập thế giới văn minh, cùng cả nước vững vàng và hào hùng tiến vào thiên niên kỷ thứ ba./.
    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...
  5. Chitto

    Chitto Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    5.198
    Đã được thích:
    13
    Trong các tài liệu có sự khác nhau về các địa danh của HN.
    Dưới đây là danh sách các Phường theo ba nguồn khác nhau. Phường là đơn vị trong kinh đô Thăng Long, còn ngoại thành gọi là .
    Cột thứ nhất là 36 phường đời Lê theo tác giả Trần Huy Bá
    Cột thứ hai là 36 phường đời Lê theo tác giả Trần Quốc Vượng
    Cột thứ ba là 31 phường thời đầu Nguyễn theo Bắc thành địa dư chỉ lục.
    Chia làm ba khu vực: Khu Hồ Tây, khu buôn bán Đông và Nam Long Thành (nhỏ hơn Kinh đô) và khu phía Nam
    (Long Thành đời Lê giống hình chữ nhật nhưng mất phần lớn góc Đông Nam.)
    Trần Huy Bá.............Trần Quốc Vượng.........Bắc Thành địa dư chỉ lục
    Khu Tây Hồ
    1...Bái Ân..........................Bái Ân.............................Bái Ân
    2..Hồ Khẩu......................Nghi Tàm.......................Hồ Khẩu
    3..Nghi Tàm....................Tây Hồ............................Nghi Tàm
    4..Nhật Chiêu.................Thuỵ Chương................Nhật Chiêu
    5..Quảng Bá....................Trích Sài........................Quảng Bá
    6..Tây Hồ.........................Yên Hoa.........................Tây Hồ
    7..Thuỵ Chương.............Yên Thái........................Thuỵ Chương
    8..Trích Sài..............................................................Trích Sài
    9..Võng Thị..............................................................Võng Thị
    10.Yên Hoa..............................................................Yên Hoa
    11.Yên Thái..............................................................Yên Thái
    Khu buôn bán phía Đông và Nam
    12.Báo Thiên....................Báo Thiên....................Báo Thiên
    13.Cổ Vũ...........................Bích Câu.......................Diên Hưng
    14.Diên Hưng..................Cổ Vũ.............................Đông Hà(1)
    15.Đại Lợi........................Diên Hưng.....................Đông Hà(2)
    16.Đông Hà.....................Đại Lợi............................Đồng Lạc
    17.Đồng Lạc....................Đông Các.......................Đồng Xuân
    18.Đồng Xuân.................Đông Hà.........................Hà Khẩu
    19.Giai Tuân....................Đông Tác.......................Hoè Nhai
    20.Hà Khẩu......................Đồng Lạc.......................Thạch Khôi
    21.Hoè Nhai.....................Hà Khẩu........................Thái Cực
    22.Phúc Phố.....................Hoè Nhai
    23.Thạch Khôi..................Phúc Phố
    24.Vĩnh Xương.................Kim Cổ
    ............................................Tàng Kiếm
    ............................................Thạch Khôi
    ............................................Thái Cực
    ............................................Vĩnh Xương
    Khu phía Nam thành
    25.Đông Tác....................Bố Cái.............................Hồng Mai
    26.Hồng Mai.....................Đông Tác(20.................Kim Hoa
    27.Kim Hoa......................Hồng Mai........................Nhược Công
    28.Nhược Công..............Khăng Thọ.....................Phúc Lâm
    29.Phúc Lâm...................Nhược Công.................Phúc Cổ
    30.Phúc Cổ......................Ông Mạc.........................Quan Trạm
    31.Quan Trạm.................Phong Vân.....................Thịnh Hào
    32.Thịnh Hào..................Phúc Cổ..........................Thịnh Quang
    33.Thịnh Quang..............Tả Nhất..........................Xã Đàn
    34.Xã Đàn........................Thịnh Quang.................Yên Xá
    35.Yên Thọ.......................Xã Đàn
    36.Yên Xá..........................Yên Xá
    Ngoài ra theo tài liệu của tác giả Nguyễn Vinh Phúc thì gần giống của tác giả Trần Huy Bá, chỉ khác là không có phường Hồng Mai mà lại có phường Thái Hoà nằm trong Long Thành.
    Như vậy có thể thấy đến đời Nguyễn số phường đã giảm bớt, do Thăng Long không còn có vai trò Kinh đô nữa.
    Có một số tên gọi vẫn còn dùng hiện nay như Quảng Bá, Nghi Tàm, Thịnh Quang, Hồng Mai...
    Một số tên chỉ còn nghe gọi nhưng không dùng trong các văn bản chính thức như Trích Sài, Võng Thị.
    Một số tên có thay đổi một phần : Nhược Công nay là Thành Công, Thuỵ Chương thành Thuỵ Khuê, Đông Tác thành Đông Mác..
    -------------------------------------------
    Sống trên đời sống cần có một tấm lòng
  6. GodFatherHN

    GodFatherHN Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/02/2002
    Bài viết:
    58
    Đã được thích:
    0
    Lâu không vào đã thấy bác Mếu lang thang đến nhà cụ Nguyễn Trãi chơi rồi, tạm kéo bác ở lại Hà Nội một chút. Mấy bữa trước thấy kibeto hỏi về 36 phố phường, tình cờ lục thấy trong đống document của God có một bài về chủ đề này nhưng không nhớ là lấy ở đâu, gõ ra đây mời các bác đọc thử:
    ?o Cứ theo thực trạng hiện nay, Hà Nội có 53 phố và ngõ bắt đầu bằng chữ Hàng, nếu xếp theo a,b,c thì là Hàng Bạc, Hàng Bài, Hàng Bè, Hàng Bồ, Hàng Bông, Hàng Bột (ngõ), Hàng Buồm, Hàng Bún, Hàng Chai, Hàng Cháo, Hàng Chỉ (ngõ), Hàng Cót, Hàng Da, Hàng Dầu, Hàng Đào, Hàng Đậu, Hàng Điếu, Hàng Đồng, Hàng Đường, Hàng Gà, Hàng Gai, Hàng Giày, Hàng Giấy, Hàng Hành, Hàng Hòm, Hàng Hương, Hàng Khay, Hàng Khoai, Hàng Lược, Hàng Mã, Hàng Mành, Hàng Thiếc, Hàng Thùng, Hàng Thịt (ngõ), Hàng Tre, Hàng Trống, Hàng Vải, Hàng Vôi. Nhưng trong thực tế lịch sử còn nhiều phố Hàng nữa. Có điều là đã bị thay thế dần cùng thời gian. Ví dụ ngày trước còn có Hàng Hài (nay là đoạn đầu Hàng Bông), Hàng Mụn (nay là Hàng Bút). Còn Hàng Bút vốn là đoạn cuối của phố Thuốc Bắc. Hàng Bừa và Hàng Cuốc (nay gộp lại thành phố Lò Rèn), Hàng Tàn tức Hàng Lọng ( nay là đoạn đầu phố Lê Duẩn), Hàng Bột (nay là phố Tôn Đức Thắng), Hàng Chè (nay là đoạn đầu phố Đinh Tiên Hoàng), phố Hàng Giò (đoạn đầu phố Bà Triệu), Hàng Kèn (từ ngã năm Trần Hưng Đạo đến ngã năm Nguyễn Du), phố Hàng Đàn (nay là phố Hàng Quạt), phố Hàng Màn (nay là đoạn đầu phố Hàng Giầy), phố Hàng Lam (đoạn đầu phố Hàng Ngang), phố Hàng Lờ (cuối Hàng Bông), phố Hàng Nâu (nay là Trần Nhật Duật), phố Hàng Tiện (nay là đoạn đầu Hàng Gai), phố Hàng Sơn (nay là Chả Cá), phố Hàng Đẫy (nay là đoạn đầu phố Nguyễn Thái Học), phố Hàng Mã dưới và phố Hàng Mây (nay gộp thành phố Mã Mây), phố Hàng Trứng (đoạn cuối phố Hàng Mắm), phố Hàng Gạo (phố Đồng Xuân), phố Hàng Thêu (nay là đoạn cuối phố Hàng Trống), phố Hàng Sắt (nay là đoạn đầu phố Thuốc Bắc)?
    Như vậy là có trên hai chục phố có tên bắt đầu bằng chữ Hàng, song nay đã đổi ra tên khác hoặc gộp vào thành một phố dài. Có một số phố vẫn giữ được mặt hàng truyền thống như phố Hang Bạc còn đó với một số hiệu vàng, bạc mà xưa kia là nơi sản xuất vòng, xuyến, kiểng vàng cho lớp người giàu sang. Hàng Khay vẫn còn một số thợ khảm trứ danh từ mảnh gỗ, vỏ trai mà tạo nên tác phẩm thực sự, óng ánh?Hàng Than nổi tiếng với món bánh cốm ngon lạ thường chỉ có Hà Nội mới có, gợi nhớ đến mùa cưới của người Hà Nội. Hàng Đào vẫn phấp phới màu sắc của quần áo nhắc nhở đến những phiên chợ tơ năm xưa. Hàng Trống cho đến ngày nay còn một số nhà có nghề làm trống cổ truyền, dựng tang trống, thuộcda, lên mặt trống đều bằng phương pháp thủ công. Hàng Mành vẫn làm mành, Hàng Thiếc làm thùng tôn, cắt kính. Hàng Mã vẫn bán đồ chơi Trung Thu cho trẻ em?Bên cạnh đó, nhiều phố mang tên cũ nhưng không còn ai làm nghề cũ như Hàng Gà, Hàng Cá, Hàng Gai, Hàng Bún, Hàng Cót, Hàng Bồ?
    Qua những chữ ?oHàng? chúng ta thấy nét đặc trưng riêng của phố Hà Nội, một khía cạnh của không gian văn hoá cổ Thăng Long Hà Nội - Thủ đô hôm qua và mai sau.?
    Không thấy nhắc gì đến số 36, có lẽ con số đấy chỉ là con số ước lệ như bác Mếu và bác chitto nói.
    Dạ thưa các bác, em còn một chuyện nữa muốn thưa cùng các bác. Chả là tự dưng gần đây em mới nổi hứng định làm một cái trang Web về Hà Nội, làm chơi chơi thôi. Em cũng đi kiếm được một ít tài liệu rồi, nhưng thấy ở đây có mấy bài của bác mếu và bác kibeto hay quá, không biết các bác có thể cho em Ctrl + C được không ạ. Nếu các bác đồng ý thì cho em hai chữ OK. Sau này nếu có cuộc thi tìm hiểu về Hà Nội kiểu như thế này, em cho các bác vào trang của em tham khảo miễn phí, hì hì? giỡn chút
    Nơi nước lặng thường là nơi sâu nhất​
  7. cuoihaymeu

    cuoihaymeu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Kính mời bác Bố già tham gia vào thread này với mọi người nhé. Bác có nhiều tư liệu hay về HN post lên cho mọi người cùng đọc được không?
    Có cái bài viết này hay phết về tiếng HN của Dr Vũ Quang Hào truờng Tổng Hợp, hình như được cái giải gì trong cuộc thi viết về HN hay sao ý. Paste lại của các bác vn2k.

    Vẻ đẹp của tiếng Hà Nội
    Cái khát khao thầm kín nhưng không ai muốn giấu là những người lính trên hai miền Nam Bắc bao năm xa nhà đều thèm nghe, muốn được tự tai mình nghe giọng con gái Thủ đô. Còn đồng bào Mường thì ước ao ??olấy gan chào mào mớm cho con để nó chóng biết nói tiếng Xuôi Kẻ Chợ ???.
    Tiếng Hà Nội sở dĩ được đồng bào cả nước yêu mến như vậy là một điều gần như tự nhiên. Bởi vì, trước hết đó là tiếng nói phát triển hơn tiếng nói của mọi vùng đất nước. Đó cũng là điều hoàn toàn hợp quy luật. Như đã biết, ngay từ nửa sau thế kỷ III trước công nguyên, vùng Hà Nội ngày nay luôn luôn nổi bật lên như là đầu não của một vùng trung tâm có nền văn hoá sớm. Chính Hà Nội đã lưu lại những sự kiện văn hoá lớn lao của đất nước mà lịch sử ghi nhận. Các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của dân tộc, từ Nguyễn Thuyên - nhà thơ nổi tiếng đầu tiên, tới Nguyễn Trãi - đỉnh núi cao đầu tiên của văn học nước ta... và nhiều nhà văn, nhà thơ lớn khác đều gắn cả cuộc đời mình hay phần quan trọng nhất của đời mình với lưu vực sông Hồng, với Thăng Long văn hiến. Nhiều nhà nghiên cứu đã từng nhận xét rằng ngôn ngữ Truyện Kiều chính là ngôn ngữ của Thăng Long vậy.
    Tiếng Hà Nội thật ra không phải là tiếng gốc gác của cư dân bản địa Hà Nội. Nó là kết quả hội tụ của những gì chung nhất, tinh hoa nhất của tiêng nói các vùng. Bởi vì 36 phố phường Hà Nội xưa là nơi tập hợp giọng nói của tất cả các vùng trong nước. Và sự giao tiếp của khối cư dân đó khiến cho lâu dần những gì riêng biệt bị mài mòn, những gì chung nhất được lưu giữ lại, những gì không thích dụng cho giao tiếp đã bị mất đi, phần cần thiết, tinh hoa được giữ gìn và phát triển. Đó là kết tinh của chọn lọc tự nhiên của nhân dân.
    Tiếng Hà Nội vừa là tiếng nói cổ nhất, vừa là ngôn ngữ phát triển nhất, của bốn phương tụ lại. Nó là tiếng phổ thông của dân tộc, là ngôn ngữ được coi là chuẩn mực... tiếng Hà Nội chỉ có 19 phụ âm đầu và mặc dù không phân biệt ba âm cong lưỡi s, tr và r nhưng không vì thế mà tiếng Hà Nội nghèo nàn. Sau bao nhiêu thế hệ, tiếng Hà Nội đã chọn lọc một hệ thống ngữ âm theo quy luật cơ bản: tăng thên những âm mang tính nhạc, ít tốn sức, giảm thiểu những âm vang và tốn sức. Đây cũng là quy luật phát triển của tiếng Việt. Do đó có thể nói rằng tiếng Hà Nội tiêu biểu cho chiều hướng phát triển của tiếng Việt.
    Hệ thống thanh điệu của tiếng Hà Nội có đủ 6 thanh trong khi đó từ Thanh Hoá trở vào, nói chung, chỉ có 5 thanh. Điểm nổi bật của tiếng Hà Nội là nó bỏ những âm cong lưỡi mà rất phát triển về phần vần. Chỉ tính riêng những vần mang thanh ngang, tiếng Hà Nội đã có đến 157 vần, về mặt này thì nó dẫn đầu trong cả nước. Có một điều thú vị là tiếng Hà Nội tuy phát âm được nhưng trong thực tế không phát âm ưu và ươu mà lại phát âm iu và iêu. Điều đó thể hiện sự tác động của một quy luật rất chặt chẽ chi phối sự phát triển của ngữ âm tiếng Việt là hai nguyên âm cùng dòng thì đẩy nhau, chứ không phải do người Hà Nội ??olàm dáng??? như một số người đã quan niệm.
    Ở nhiều nước, tiếng thủ đô vẫn được coi là tiếng chuẩn cho ngôn ngữ quốc gia. Ví dụ tiếng Pháp với chuẩn ở Paris, tiếng Nga với chuẩn ở Moscow (cố nhiên cũng có những ngoại lệ, chẳng hạn tiếng Rome vốn là chuẩn trong quá khứ của tiếng Italy, sau mất dần giá trị dù Rome vẫn là thủ đô, hoặc nhân dân Đức trước đây tự hào về thủ đô Berlin nhưng không mấy ai chịu cách phát âm của người Berlin). Tiếng Hà Nội có vị trí như vậy cho nên trước hết nó được dùng như một đại diện cho tiếng Việt chuẩn mực phục vụ toàn dân.
    Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng không phải trong trường hợp nào, ở lĩnh vực nào tiếng Hà Nội cũng phát huy được tác dụng. GS Hoàng Tuệ đã chỉ ra rằng phim ??oNgày ấy, bên sông Lam??? nếu để các nhân vật nói tiếng Nghệ thì không ổn nhưng tiếng Hà Nội phát ra từ các nhân vật của phim này thì lại thành vấn đề. Song trong trường hợp ngược lại nếu các phương tiện truyền thông đại chúng không tôn trọng chuẩn mực tiếng Việt mà tiêu biểu là tiếng Hà Nội thì hiệu quả truyền thông kém. Như đã biết, phần lớn khán giả truyền hình không mấy thiện cảm với một giọng ??ogiật cục??? và hai giọng ??ođớt??? của biên tập viên đã từng phát ra từ màn hình quốc gia. Khán giả truyền hình chờ đợi những giọng chuẩn Hà Nội từ màn hình ấy bởi tiếng Hà Nội có cách diễn đạt tao nhã và lịch thiệp, êm ái và dễ nghe.
    Ca dao cổ đã có câu: Chẳng thơm cũng thể hoa nhài / Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An. Trong cách nói năng của người Hà Nội dễ thấy những nét đẹp như ca dao mà đồng bào cả nước hằng ca tụng.
    Vũ Quang Hào (Fax từ Hoa Kỳ)
    (Tác phẩm đoạt giải khuyến khích cuộc thi viết "Cả nước cùng thủ đô hướng tới 1000 năm Thăng Long - Hà Nội" năm 2001)



    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...
  8. cuoihaymeu

    cuoihaymeu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Dưới đây là một số tranh luận thú vị của các bác vn2k về tiếng HN. Quote lại để mọi người cùng đọc và tham khảo:
    - Thuỷ Minh : Một bài viết hay NHƯNG (vâng, lại nhưng), có quá địa phương chủ nghĩa không nhỉ? Dựa theo tiêu chí nào để nói tiếng HN là tiếng chuẩn cho cả nước? và có nên thiết lập cái gọi là tiếng chuẩn như vậy hay không, hay là ta nên tôn trọng sự khác biệt giữa các phương ngữ? Ngay cả TA cũng 0 có TA chuẩn chung cho cả thế giới, có tiếng Anh Mỹ, Anh Anh, Anh Úc, nhưng vẫn có Anh Sing, Anh HongKong, vv cơ mà!
    - Nguyễn Mạnh Hải : Hì, Chị Minh
    Em thấy chả ai thực sự biết tiếng Hà Nội là như thế nào nữa? em nghe chả phân biệt được, thấy giọng em gái nào hay thì bảo hay chứ chả quan tâm Hà Nội hay không! Có điều cũng nên có một tiếng chuẩn, vì mấy anh chị ở nhà em suốt ngày cãi nhau xem tiếng nào la tiếng chuẩn. Nếu có pháp lệnh của nhà nước gì gì đấy thì khỏi cãi nhau nữa nhỉ? À mà theo em biết thì có tiếng Anh chuẩn đấy chứ? Tên nó là gì ấy, nhưng cái bảng Phonetics tụi em học thì mấy ông bà giáo nói là chuẩn, mà hình như nó được chỉnh sửa thì phải, chứ không phải là original, mà nhất là mấy người dậy tiếng Anh ở Oxbridge biết rõ lắm!
    Em hỏi thằng bạn Tầu của em mới kinh dị, nó nói đi khoảng 1 đoạn đường dài là người Tầu nói khác rồi, có khi khỏi hiểu nhau luôn! Rồi em hỏi thế tao nên học tiếng nào, hắn bảo: Tất nhiên là tiếng Bắc Kinh rồi!
    - Thuỷ Minh: Híc híc em Hải, đó là chuyện xưa như trái đất rồi. Ngày nay người ta đang cãi nhau ầm ĩ về cái standard pronunciation mà em nói đấy. Người Úc không phát âm theo chuẩn của bảng phonetics đó nhuwng 0 thể nói họ nói 0 chuẩn!! Cũng 0 thể nói người Sing nói TA 0 chuẩn hay người HK nói TA 0 chuảan, họ có chuẩn của riêng họ --> vì thế bây giờ nguoi ta moi noi đến varieties of English hay Englishes. Chả có tiêu chí gì có thể nói tiếng HN là tiếng chuẩn tiếng Sài Gòn hay tiếng Huế là tiếng 0 chuẩn. Dựa vào phát âm lẫn chính tả tiếng HN còn đầy khiếm khuyết. Người ta hát theo tiếng HN 0 phải là 1 bắt buộc mà chỉ là cho dễ nghe. Điều đó 0 nói lên được gì hết. Chị rất phản đối cái kiểu áp dụng tính cục bộ địa phương vào ngôn ngữ. Hãy biết tôn trọng những phương ngữ khác. Chính sự khác biệt mới làm nên tính đa dạng phong phú trong cùng 1 ngôn ngữ, rite?
    - N Mạnh Hải: Da. chi Minh
    Nhung khi em noi la chọn tiếng Hà Nội làm tiếng chuẩn, đâu có nghĩa là em phủ nhận sự dda dạng của phương ngữ khác? Cũng như khi chọn Hà Nôi làm thủ đô Hành chính - Kinh tế - Văn hoá thì là không tôn trọng những địa phương khác? Tiếng Hà Nội chuẩn theo em là trong Sách Giáo Khoa, do Bộ Giáo Dục quy ddịnh phát âm và ddánh vần. Còn hát thì cũng có thể theo tiếng Ha Noi cho dễ nghe, nhưng bao nhiêu nguoi van thich nghe Ca trù Huế, dân ca Nam Bộ, quan ho Bắc Ninh, hò Nghệ Tĩnh vậy? đâu có ai chê mấy tiếng đó là phát âm sai ddâu a? Việc đặt ra chuẩn là để làm mốc thôi, mang tính formal chút nhưng không phải là áp đặt gò bó ạ!
    Bộ Giáo Dục cứ chọn tiếng của em gái dễ thương em thích làm tiếng chuẩn là được rồi, em xin hết ý kiến!
    - Đoàn Xuân Dũng: Nếu mình không nhầm thì hình như là ở VN, phần lớn các bản ngữ đều không ít thì nhiều, khó nghe đối với người của địa phương khác; trong khi người ở bất cứ đâu cũng thấy dễ vào tai, dễ hiểu tiếng Hà Nội. Đó có lẽ là 1 trong những điều kiện để coi tiếng Hà Nội là chuẩn chăng?
    - Hoàng Nhật Minh : Thực ra thì chỉ cần nói dễ nghe, không gây hiểu nhầm là được. Theo tiêu chí đó thì có lẽ tiếng Hànội, Huế, Sàigòn, Tháinguyên, Hảiphòng, Quảngninh đều đạt cả.
    Tuy nhiên vì sinh sống ở Hànội nên mọi người đều thấy thích tiếng Hànội. Hơn nữa, trong một chừng mực nào đó tiếng Hànội vẫn dễ nghe hơn và được chọn cho các chương trình phát thanh, truyền hình trên cả nước.
    - Thuỷ Minh : Em giai, chị biểu là chả có căn cứ nào bảo tiếng HN là tiếng chuẩn. Cả về mặt phát âm lẫn chính tả.
    Nếu em đưa ra được bằng chứng thì lại bàn luận tiếp cho dzui. Đã có chuẩn nghĩa là áp đặt rồi. Mà nếu muốn thiêst lập chuảan phát aam và chuảan chính tả (chuẩn chính tả thì đã có) cớ sao lại phải dựa vào chỉ 1 phương ngữ, thế chẳng phải là địa phương chủ nghĩa hay sao?
    - Laokay : Bài ý hay vì tác giả Vũ Quang Hào là một PGS ngôn ngữ học cũng thuộc loại có tiếng của ĐHQG HN. Sở trường của bác này là làm từ điển (tác giả của mười mấy cuốn từ điển, trong đó có Đại từ điển TV - một cuốn sách có gây tranh luận), tục ngữ, ca dao và nghề chính là giảng dạy ngôn ngữ báo chí tiếng Việt.
    Bác ý cũng có kiến giải về lý do thứ tiếng địa phương Hà Nội được (bác ý) coi là chuẩn ngôn ngữ TV đấy chứ, hình như mỗi đoạn xuống dòng là một luận điểm nho nhỏ. Thuỷ Minh thử phản bác những ý kiến ấy xem nào !
    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...

    Được sửa chữa bởi - cuoihaymeu vào 29/03/2002 01:21
  9. GodFatherHN

    GodFatherHN Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/02/2002
    Bài viết:
    58
    Đã được thích:
    0
    Chào các bác, có một cậu bên box HaNoi hỏi câu này mà em chưa trả lời được, đó là ý nghĩ của câu mà ai cũng biết:
    Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
    Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An
    Em cũng nghe mấy cách giải thích nhưng chưa tâm phục khẩu phục.
    Nơi nước lặng thường là nơi sâu nhất​
  10. giangctm1

    giangctm1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2002
    Bài viết:
    1.073
    Đã được thích:
    1
    Cảm ơn bác chm đã có lời mời.
    Nhưng xem ra em không đủ trình độ "góp vui" với các bác.
    Thôi thì các bác cho phép em "chầu rìa" rồi thỉnh thoảng buông ra 1, 2 câu vô thưởng vô phạt vậy nhé.
    to bác bom và bác chm :
    1 quyển sách nói về lịch sử,văn hoá...của HN từ thuở mang gươm đi mở cõi,dưng mà chả biết đường nào mà lần,bác biết quyển nào tốt tốt một tí,đầy đủ một tí,dễ hiểu một tí
    Theo em có quyển "Người và cảnh Hà Nội" của Hoàng Đạo Thuý.Nhưng em không thích quyển này lắm vì lời văn hơi bị rườm rà ,hoa văn quá.
    Ngoài ra sách tham khảo ( Hay là để bày giá sách cho oai) thì có thể kiếm quyển "Bóng nước Hồ Gươm" của Chu Thiên.
    Còn có quyển "Di tích danh thắng Hà Nội và vùng phụ cận" của Lưu Minh Trị.Quyển này viết cho tourist hay sao ý vì có 1 đống địa danh em chưa nghe bao giờ
    Đặc biệt,quyển"Đất nước Việt Nam qua các đời" của Đào Duy Anh (Ông này vốn là anh họ của bà nội em).Không biết các bác ra sao chứ em thấy quyển này "xương" không chịu được, cứ khoảng chục trang là em phải stop để thở trước khi "gặm" tiếp.
    À, các bác cho em hỏi Việt học thư quán nó là cái gì, ở đâu thế ạ?Em vào tham khảo tí.
    Thanks.
    THERE ARE MORE YOU NEED TO KNOW THAN YOU EVEN KNOW YOU NEED

Chia sẻ trang này