1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hà Nội xưa và nay...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi cuoihaymeu, 04/03/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Koibeto81

    Koibeto81 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/01/2002
    Bài viết:
    1.250
    Đã được thích:
    0
    Không có gì làm đành bật máy Ctrl+C rồi Ctrl+V cái bài viết về Hà Nội đó các bác đọc chơi cho đỡ buồn.
    Hồ Gươm : Một không gian Kiến trúc và Văn hóa​

    Từ ngày dọn nhà lên ở nhà mới, chót vót tầng cao khu Ngọc Khánh, mỗi lần có dịp về ?othành phố? tôi lại đạp xe thêm một đoạn đường vòng quanh Hồ Gươm, có khi chỉ là một góc hồ. Một chiều, sau hội thảo nhỏ tại văn phòng hội Kiến trúc sư Việt Nam về công trình nhà Quốc Hội và Trung tâm hội Nghị quốc gia, bên Hồ Gươm tôi lại dắt xe thong thả dạo quanh hồ. Và cứ tự nhiên, một hồi niệm quá khứ chợt về với đôi chút bâng khuâng vui đó và... buồn đó.
    Hồ Gươm, những tia nắng cuối cùng còn vương trên ngọn cây, rãi xuống mặt hồ anh ánh xanh. Gió nhè nhẹ, gợn nước lăn tăn như không còn rác rưởi, mặt nước như trong hơn, thoang thoảng mùi tinh khiết. Tôi dựa xe vào ghế đá, ngồi tựa lưng vào gốc cây lộc vừng chín gốc, gió mơn man.
    Như vọng xuống từ bầu trời đã ngả màu tím, như vút lên từ tượng vua Lê đội mũ bình thiên, đứng trên trụ cao: ?oDân tộc ta sẽ không đúc, rèn vũ khí nữa, chỉ dành công sức tạo nên cuộc sống, nhân danh trăm họ, Trẫm xin hoàn lại thanh gươm chiến thắng?. Thần Rùa đớp kiếm và lặn đi. Tuyên ngôn hoà bình của người chiến thắng!
    Đỉnh cao văn hiến Việt Nam: đền Ngọc Sơn thờ Văn Xương, trông coi việc văn chương, chữ nghĩa với biểu tượng ?oĐài nghiên - Tháp bút - viết thơ lên trời xanh?. Những ?ođại học tư thục? với thần Siêu, thánh Quát và mới hồi đầu thế kỳ ?oĐông kinh nghĩa thục? của cụ cử Lương Văn Can (nay có đường phố mang tên cụ). Không chỉ dạy chữ mà còn dạy cả lòng yêu nước, và không gian tâm linh với chùa Bà đá, chùa Báo Thiên, chùa ông Thượng, nay còn cây tháp Hoà Phong, đền Bà Kiệu thờ Mẫu Liễu Hạnh, cụm đình đền chùa Vũ Thạch (Bà Triệu).
    Chứng kiến những sự kiện văn hóa huy hoàng này, duy nhất có cây đa ?ođại, đại thụ? nay vẫn tỏa bóng giữa sân tòa báo Nhân Dân mà cố KTS Tạ Mỹ Duật gọi là cây đa ?osố 1 Đông Dương?. Theo bia đá, khi tiến sĩ Vũ Tông Phan lập trường Hồ Đình năm 1835 thì cây đã vững chắc.
    Vậy là qui tụ: chống giặc giữ nước, văn học, triết học và tâm linh.
    Cái huyền thoại lớn nhất, kỳ thú nhất của Thăng Long là vua đầu nhà Lý thấy rồng bay lên khi đậu thuyền ở chân thành Đại La. Hồ Trả Gươm là gạch nối xứng đáng nhất để tạo thêm nét đối xứng tuyệt diệu - Dương: Rồng bay. Âm: Rùa lặn! Tuyệt vời làm sao! Bản sắc Thăng Long - Đại Việt là tổng hòa những giá trị hư và thực, thực và hư. Huyền mà thực, thực mà huyền (theo GS Trần Quốc Vượng).
    Chiến tranh mãi mãi qua rồi. Chưa bao giờ Hồ Gươm đẹp thế này. Những dốc nhỏ mềm mại thứ gạch lát mới, những cột đèn chiếu sáng xinh xinh, những ghế đá thanh thoát, những bồn hoa lắm sắc nhiều màu, ngan ngát hương. Chẳng còn những rào cản che khuất tượng Vua Lê. Nhà Khai Trí Tiến Đức đã lấy lại dáng vẻ quen thuộc xưa. Nước thi đã đổi dòng chẳng đổ vào lòng hồ. Các cụ Rùa nhiều lần trăm tuổi được các nhà khoa học nâng giấc, lo cái ăn, cái ở, mong các ?ocụ? bình an sinh arn nơi gò Rùa được sửa sang theo ?oý các cụ?.
    Không gian hồ Trả Gươm được các nhà quy hoạch kiến trúc đầu thế kỷ nâng niu và trân trọng. Rất thành công khi lấy tháp Rùa làm trục trung tâm qua vườn Chí Linh, hai bên là đường Lê Thạch - Lê Lai, kết thúc ở quảng trường Ngân hàng quốc gia bề thế.
    Từ phố cổ, vốn là các phường thợ thủ công và dịch vụ cho kinh thành, cũng là trung tâm ?otrên bến dưới thuyền?, với đường ngang ngõ dọc, với những mái úp lô xô, lan dần xuống phương Nam, đô thị thế kỷ 20 hình thành dần dần.
    Công thự, nhà cửa quanh hồ kiểu dáng du nhập từ phương Tây, nhưng đã có ý thức hoà nhập, không xa lạ, phô trương, tầm vóc vừa phải, hình dáng hoàn chỉnh, tất cả hoà quyện vào nhau một ý thức, một tư duy văn hoá rất hồ Gươm chẳng nơi nào có được.
    Góc đẹp nhất hồ Gươm, chuyển tiếp từ không gian 36 phố phường, nhà Thuỷ Tạ - tác giả là cố KTS Võ Đức Diên - như một dấu ấn của kỹ thuật phương Tây nâng lên sức mạnh văn hoá phương Đông.
    Từ thuở ấu thơ gắn với hồ Gươm không chỉ bằng tình cảm, như cả bằng ước mơ dù rất trẻ con, rất mong manh do thấm đậm trí tuệ sáng tạo kiến trúc lớp cha anh. Thật sung sướng, sau kháng chiến chống Pháp lại được cầm bút không phải là ?oviết thơ lên trời cao? mà tạo nên những khối hình cho đô thị văn hiến, cho khoáng đạt hồ Gươm.
    Nhưng lại không thể ngậm ngùi ?onghĩ mình công ít tội nhiều?! Có thể viện đủ thứ lý do để che chắn về pháp luật, về lý trí. Nhưng ở chiều sâu tâm hồn, ở lương tâm người cầm bút, sao cứ day dứt, và những lỗi nhịp của ?obản nhạc không lời mà âm thanh vang vọng mãi tới những đời sau?.
    Nhà Bưu điện thô kệch, nhà Hội đồng nhân dân cứng khô và lạnh lẽo (lối sảnh vào trước đây rất mềm mại), Trung tâm thương mại và khách sạn Vàng như bức tường thành án ngữ phố cổ với hồ Gươm...
    Vẫn còn đó, cái nhà vệ sinh công cộng án ngữ ngay trước nhà Hội đồng nhân dân Thành phố, cái vòi phun nước rất không đúng chỗ trên quảng trường Đông kinh Nghĩa thục. Bến xe điện Bờ Hồ được thay thế bằng điểm đỗ xe ô tô. Mảnh đất huyền thoại (mà giá trị cả vài chục cây vàng cho 1m2 đất) bậc nhất quốc gia này đâu phải chỗ cho xe cộ gầm rú, xả khí mù trời. Khối nhà chẳng cao cũng tới hơn 15m đồ sộ và cổ kính... Tây mới xây bên đường Lê Thái Tổ, cửa hàng Bách hoá Tổng hợp cũ (trước là nhà Gô - đa) đã bị gỡ bỏ để xây dựng lại to hơn (chưa chắc đã đẹp hơn). Chỉnh trang lại kiến trúc như đã làm ở các siêu thị cạnh khách sạn ?onhà giàu? (Phú Gia) là điều cần được bàn luận thêm. Hào nhoáng, bóng lộn đấy nhưng đâu rồi cái dáng quen quen xưa... Có người hùng hồn gọi đó là kiến trúc Pháp (oan uổng cho nền kiến trúc sáng chói một thời) để hài hoà với không gian xung quanh. Vật liệu hiện đại, mà lù lù hàng cột to cả người ôm, đỡ cái mái Marsard dựng đứng! Và những gờ, những chỉ như bản dập Nhà hát Thành phố... ở ngay chính quê hương của thứ kiến trúc này đã không được phát triển, nên chăng chúng ta dùng lại cái thứ mà người ta không dùng đến, lại đưa vào không gian kỳ diệu này.
    Những gì đã dỡ bỏ cũng có điều đáng tiếc. Bia kỷ niệm linh mục Alexandre de Rhode, người sáng lập chữ quốc ngữ hiện nay đang là chữ chính thức của quốc gia đã bị phá bỏ. Cần thiết tìm nơi dựng lại. Có thể ở ngay ven hồ cho hài hoà với trung tâm văn hoá Việt Nam như trên đã viết. Vòi nước rất cổ điển châu Âu ven hồ góc đường Hàng Khay - Đinh Tiên Hoàng đã mất như mất đi một điểm sáng đẹp của quá khứ. Thật may là chính quyền đã chặn lại những ngỡ ngàng buổi đầu đáp ứng ước vọng cả nước. Bản đồ chi tiết quy hoạch hồ Gươm đã được công bố, cơ sở pháp lý cho kỷ cương văn hoá: ?oXây dựng nhà cửa quanh khu vực hồ Gươm phải đúng quy hoạch, không xây nhà mới chỉ cải tạo trên hiện trạng nhà cũ, mật độ xây dựng 50% đến 60%. Tầng cao tối đa là 2,5 - 3 tầng...?
    Tôi thong thả đạp xe về, đường phố đã lên đèn, đại lộ mới thênh thang, người xe chen nhau. Đó đây một rào chắn nhẹ đoạn đường mới lấp. Dự án cải tạo hệ thống thoát nước. Cứ tưởng đường xá bị bới tung, bùn đất ngập ngụa. Vậy mà không, chẳng đào bới gì nhiều, vài chỗ xe cộ có ngập ngừng đôi chút nhưng vẫn đều dòng xuôi ngược. Đô thị hiện đại là từ đấy, từ chính những âm thầm lặng lẽ ấy.
    Ngô Huy Giao
    (Tác phẩm đoạt giải khuyến khích cuộc thi viết "Cả nước cùng thủ đô hướng tới 1000 năm Thăng Long - Hà Nội" năm 2001)

    Nguồn : http://www.vnn.vn/chuyenmuc/thanglong/thanglong.html

    NO PAIN NO GAIN ​
    Được sửa chữa bởi - koibeto81 vào 08/04/2002 17:51
  2. Koibeto81

    Koibeto81 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/01/2002
    Bài viết:
    1.250
    Đã được thích:
    0
    Hà Nội thanh lịch đêm​

    Có một điều lạ là cái câu ??oChẳng thơm cũng thể hoa nhài. Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An???- về thơ, chẳng hay lắm vì không có hình ảnh gì đặc biệt, là câu lục bát mà lại gieo vần không chuẩn; về sử thì không đúng vì chưa bao giờ thủ đô Hà Nội của chúng ta có tên là Tràng An. ấy vậy mà nó lại có sức lao động. Có lẽ tất cả nằm ở chữ ??o thanh lịch???. Không biết khái niệm ??othanh lịch??? được dùng rộng rãi từ bao giờ, nhưng rõ ràng văn hoá, lối sống, cách ứng xử... của người Hà thành góp phần tạo nên nội hàm khái niệm này. Ngày nay ??othanh lịch??? gần như là một tài sản phi vật thể của người thủ đô vậy. Nhưng sống cho ra, tìm cho được chất thanh lịch không pari dễ, nhất là về ban đêm.
    Tôi đã từng có mười năm sống một mình ở một góc phố bên hồ Thiền Quang, nên có điều kiện và thời gian để quan sát phố phường, hoà mình vào đó để chiêm nghiệm, chắt lọc. Có lần vào đêm Noel, tôi và một người bạn hẹn nhau đi dạo phố. Bạn tôi đến muộn, đã vậy còn mào đầu bằng câu: ??oGiá người Hà Nội không quá điệu, nói không sai một số phụ âm thì lấy tiếng thủ đô làm chuẩn cho tiếng Việt được rồi. Cái sai có lẽ bắt đầu từ các cô gái trẻ làm duyên, làm điệu???. Thế là chúng tôi cãi nhau về cái đúng, cái sai trong ngôn ngữ của người Hà Nội. Chẳng ai thắng, chẳng ai thua trong cuộc cãi vã này, chỉ có điều, khi chúng tôi dừng lại thì đêm đã quá khuya. Dẫu vậy, cơ hội vẫn ra phố. Sau khi vòng vèo qua các phố cổ, chúng tôi thả xuôi đường Bà Triệu. Đường vắng, xe lướt êm ru, được một lúc thì ??ovấp??? phải năm cô gái đi xe đạp dàn hàng ngang trước mặt. Các cô vui vẻ, nói chuyện khá thoải mái và đi rất đủng đỉnh. Chúng tôi đành hãm phanh đi chầm chậm phía sau. Giọng các cô trong và vui quá, khiến chúng tôi ??otự nguyện??? im lặng lắng nghe. Không kìm được, bạn tôi quay sang nói khẽ: ??oDẫu sao nghe các cô gái Hà Nội nói vẫn thích, tiếng trong và ấm quá???. Không ngờ một cô quay đầu lại, nói gần như thì thầm: ??oTất nhiên rồi, mãi đến bây giờ các anh mới nhận ra sao?!???. Thế là chúng tôi có thêm những người bạn mới...
    Đó là chuyện của những năm trước. Bây giờ người ta đi đứng không thong dong như vậy nữa. Và nói cũng không thì thầm. Cách đây mấy hôm, trời nóng, không ngủ được, tôi chọn một trong những con đường đẹp nhất của Hà Nội: Liễu Giai - Nguyễn Chí Thanh - Láng - Hoà Lạc để thung dung ngắm phố đêm. Đi chầm chậm trên con đường này, đã thấy vóc dáng của thủ đô hiện đại: đường rộng, đèn sáng, thảm cỏ xanh và những bồn hoa đa sắc... Một số sinh viên ham học và tiết kiệm, mang sách đọc dưới đèn đường. Đêm về khuya, người thưa, đường thoáng, bỗng đâu một đoàn xe máy gầm rít và chồm lên. Không biết các cậu lạng lách thế nào mà khẽ va vào vai tôi. Cả hai xe đều đổ kềnh, tôi đi chậm nên không hề gì.
    Mới lồm cồm bò dậy đã nghe tiếng quát: ??oĐi đứng gì mà chậm như rùa, cản trở người ta, rách bố nó cái quần rồi đây này, liệu mà đền! Cả đèn xi nhan nữa!???. Tôi chưa nói gì và thấy một cậu còn chưa ngồi dậy. Tôi và cậu vừa quát cùng đến đỡ cậu kia dậy, may là cũng không có gì nghiêm trọng lắm. Hai thanh niên gườm gườm nhìn tôi, cậu vừa to tiếng lúc nãy kêu lên: ??oÔi thầy, em xin lỗi thầy!???. Tôi nhỏ nhẹ: ??oCác em đi sau, phóng nhanh quá va vào tôi là các em sai, tại sao lại quát và bắt vạ????. ??oThầy thông cảm, cứ phủ đầu ngay như vậy mới dành được thế chủ động, đổi sai thành đúng! May mà không ai việc gì, chúng em xin phép???. Nói rồi các em lên xe phóng như bay. Tôi không nhớ hai thanh niên ấy là ai, có lẽ là sinh viên một trường Đại học mà tôi đã dạy. May mà họ nhớ tôi là thầy, nếu không phải đền quần áo chứ chẳng chơi!
    Chuyện ngoài đường đã vậy, chuyện trong quán chắc còn nhiều cung bậc hơn. Những chuyện kín không nói đến làm gì, chỉ nguyên việc mời chào thôi cũng đã khiếp. Cứ mỗi lần có việc đi qua đường Mai Hắc Đế vào quãng 7 giờ tối là tôi phát rét. Người ta mời ăn mà cứ như trấn lột mình vậy! Những cửa hàng ??oĐặc sản biển??? ở Tô Hiến Thành còn táo tợn hơn, người ta chặn xe, rút chìa khoá! Mời ăn là cả một cử chỉ cần phải mang đậm chất thanh lịch, thế mà người Hà Nội lại làm như vậy sao?!
    Nhưng trong cái hỗn độn, cái quấy quả của việc buôn bán cũng đã xuất hiện những cái mới mà nhiều người trân trọng. Điều gây cho tôi nhiều cảm mến là những sạp báo đêm. Vài năm trước chỉ trên đường Bà Triệu, Lý Thường Kiệt lác đác có mấy quán bán báo đến khoảng 10 giờ tối. Nhưng nay thì hầu như ở tất cả các con đường lớn đều có những sạp bán tới tận 12 giờ đêm. Mật độ đông đúc nhất vẫn là cuối đường Bà Triệu, Kim Liên, Thái Hà, Huỳnh Thúc Kháng, Lý Thái Tổ. Nét nổi bật nhất là thái độ của người bán báo: nhẹ nhàng, lịch sự, chu đáo, hiểu biết. Tôi có cảm giác những người bán báo đêm vui vì được phục vụ mọi người là chính chứ không phải kiếm tiền là chính: họ bán đúng giá và mỗi đêm không bán được là bao. Thậm chí có người còn bán... chịu. Tôi đã hai lần mua báo chịu của cô gái bán ở góc đường Đê La Thành cắt Nguyễn Chí Thanh. Cả hai lần cô đều nói: ??omai chú trả cho cháu cũng được???, mặc dù cô không biết tôi là ai và sống ở đâu.
    Tin tưởng, cho người không quen biết chịu tiền cũng bao hàm ý nghĩa thanh lịch. Về phương diện này thì tôi nhớ mãi mấy chị bán xăng ở phố Nguyễn Đình Chiểu. 21 giờ đêm có việc cần tôi phóng xe đi. Ngang triển lãm Vân Hồ thì hết xăng. Tôi dắt nhanh đến trạm xăng gần nhất và hô: ??oChị cho đầy bình???. Đồng hồ báo 18.000 đồng. Tôi lục túi, tất cả chỉ có 6.000 đồng. Tôi lột đồng hồ đưa cho chị, chị bảo: ??otôi giữ đồng hồ của anh làm gì? Anh đi đi, mai trả tiền cũng được!???. Hôm sau tôi mang tiền đến trả còn được khen là thật thà!
    Chắc có những người cho rằng khoản tiền nho nhỏ như vậy thì đáng gì, thử tiền triệu xem! Tôi cho rằng cái chính là ở cách nghĩ, cách ứng xử. Nhưng không phải không có người trả lại tiền triệu đâu nhé! Hầu như cùng một thời điểm, ở cầu thang cuối cùng của nhà tập thể Bộ Tư Pháp (Cống Vị-Ba Đình-Hà Nội), một người ở tầng bốn) anh là công an phường Hàng Bài) trả lại ví có bốn triệu đồng cho người mất (anh nhặt được trên đường đi làm về), còn một người ở tầng ba là nhà báo) thì được người làm ở quán bia 251 Thụy Khuê trả lại cặp với đầy đủ tài liệu, giấy tờ cùng ba triệu đồng (anh bị mất vào tối hôm trước). Lòng tốt, sự trung thực với mọi người (và với chính mình) chính là một nét đẹp của những người thủ đô.
    Nhưng cái thanh lịch vô cùng quí giá của Hà Nội hiện nay là sự thanh bình trên đường phố vào ban đêm. Điều này chính người Hà Nội tạo ra nhưng chưa nhận thức hết. Chúng ta thường không dám đi bộ trên đường phố đêm, vì lo ngại cho sự an toàn của bản thân. Nhưng người nước ngoài lại ung dung dạo bước bên Hồ Gươm, hồ Tây. Tiến sĩ người Nga, A.Xô-cô-lốp đã nhiều lần nói với tôi: ??oTôi cảm thấy thoải mái nhất là được đi dưới lòng đường những phố phường Hà Nội vào đêm khuya, khi người và xe rất ít trên đường???. Còn An-đrây Sơ-ra-gơt, một cựu lính pháo binh Mỹ, trưởng đại diện công ty General Electric thì nói: ??oĐiều kỳ lạ ở đây là chúng tôi không cảm thấy sự thù địch đối với người Mỹ. Đường phố Việt Nam về đêm còn an toàn cho công dân Mỹ hơn cả nhiều thành phố Mỹ. Điều đó không phải vì có nhiều công an, mà là vì Việt Nam không dung nạp những ác ý???. Nghe một người Mỹ nói như vậy thì việc UNESCO công nhận Hà Nội là ??othành phố vì hoà bình??? là điều xác đáng.
    Không băn khoăn về tình hình an ninh hôm nay, mà điều tôi băn khoăn nhất lại nằm ở những lĩnh vực cần nhiều chất thanh lịch. Đó là âm nhạc và thời trang. Những buổi biểu diễn lớn ở Nhà hát lớn hay Cung Hữu nghị thì chưa bàn tới vội. Chỉ nói tới ca nhạc phòng trà. ở đây hát và ăn mặc đều đòi hỏi chất thanh lịch. Nơi này người nghe được quyền lựa chọn, yêu cầu, đề nghị; người hát không bị săm soi, đưa vào khuôn mẫu. Tóm lại họ được tự do thể hiện. Chính vì có sự tự do, thoải mái mà yêu cầu chất thanh lịch càng phải cao. Cũng có một số nơi thể hiện được. Tiêu biểu cho cái được có lẽ là phòng trà của một ca sĩ nổi tiếng ở trong ngõ trên đường Hàng Bột. Mọi người đến đây ăn, uống nhẹ nhàng và yêu cầu các ca sĩ hát những bài hát mà mình thích. Người hát và người nghe đứng ngồi cạnh nhau, có thể chuyện trò, giao lưu. Các ca sĩ có giọng tốt, phong cách biểu diễn hiền lành thường hát ở đây. Người nghe có thể tặng hoa, biếu tiền. Đây cũng là một kiểu kinh doanh giải khát, âm nhạc, văn hoá có văn hoá. Cái tôi không thích ở đây chính là cái tên của quán, chữ và nghĩa đều không Việt Nam chút nào: ??oA-la-đin Club???.
    Những thành phố ở vùng Châu Á đều có sinh hoạt ban đêm dài, sôi động, phong phú. Hà Nội không là ngoại lệ, nhưng đừng biến thủ đô của chúng ta thành Hồng Kông hay Băng Kốc. Hà Nội về đêm vẫn rất cần thanh lịch truyền thống của mình. Đó là sự tế nhị, tao nhã, trung thực, cao thượng cộng thêm một chút hài hước. Cái này vốn đã có, chỉ cần chúng được bộc lộ thường xuyên ở khắp nơi mà thôi.
    Hồ Bất Khuất
    (Tác phẩm đoạt giải khuyến khích cuộc thi viết "Cả nước cùng thủ đô hướng tới 1000 năm Thăng Long - Hà Nội" năm 2001)

    Nguồn :http://www.vnn.vn/chuyenmuc/thanglong/thanglong.html

    NO PAIN NO GAIN ​
    Được sửa chữa bởi - koibeto81 vào 10/04/2002 05:30
  3. Koibeto81

    Koibeto81 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/01/2002
    Bài viết:
    1.250
    Đã được thích:
    0
    Hà Nội có Cầu Long Biên


    Bao nhiêu xương máu cho cây cầu này? Lần đầu tiên tôi giáp mặt với cầu Long Biên là vào một sáng đầu năm 1955. Chiếc mảng thả trôi từ một bến sông Thao thuộc xã Vĩnh Chân (huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ) chừng 5 cây số, cách nơi gia đình tôi tản cư và sống suốt 9 năm kháng chiến. Sau hai ngày hai đêm lênh đênh trên sông nước, từ xa (chắc quãng Nhật Tân bây giờ) mẹ tôi bỗng chỉ: "Cầu Long Biên kia rồi, liệu mà táp vào bờ đi con" ?" cầu gì mà lạ thế, cứ nhấp nha nhấp nhô. Tôi loay hoay với cái mái chèo ghép bằng nứa ?ocậy cậy? ?obát bát? mãi mới cắm được mảng ở đúng dưới gầm cầu. Trong mấy năm làm đội viên Đoàn Thiếu nhi Nghệ thuật Lưu Hữu Phước đi khắp núi rừng Việt Bắc, tôi chỉ biết có cầu gỗ, cầu tre, cầu song mây. Chưa bao giờ thấy cầu sắt. Thế mà bây giờ, một cây cầu sắt chiếm cả một khoảng trời trên đầu tôi.
    Lúc ấy tôi không biết rằng con đường mẹ con tôi từ vùng kháng chiến về, hoá ra là con đường rút ra vùng kháng chiến của Trung Đoàn Thủ Đô và mấy chục đồng bào ta. Một đêm cách đó chín năm, cũng ở bãi gầm cầu trên bãi Phúc Xá này, đoàn người ngậm tăm bò lên đê, tụt xuống, lăn xuống bãi. Trẻ con sợ quá có đứa không dám kêu. Nhưng một đứa lại bật khóc. Người mẹ vội bịt miệng con để cứu cả đoàn người. Trên đầu, lính Pháp gác ở đầu cầu vẫn đi lại, đi lại. Được một đoạn, người mẹ trẻ bỗng bật khóc. Đứa trẻ đã chết trên tay lúc nào! Không biết vì sự sợ hãi vượt quá sức chịu đựng của hệ thần kinh non nớt của nó hay vì người mẹ quá sợ đã vô tình bịt cả miệng và mũi con?
    Lúc ấy, tôi cũng không biết rằng, chỉ mấy tháng trước đó, cũng chính đoạn cầu trên đầu tôi, những người lính Pháp cuối cùng đã phải rút khỏi Hà Nội, trả chủ quyền Thủ đô, chủ quyền chiếc cầu cho anh bộ đội mũ nan của Uỷ ban Quân quản do thiếu tướng Vương Thừa Vũ đứng đầu.
    Chiếm xong ?oxứ Bắc kỳ? rồi, người Pháp tính chuyện khai thác xứ thuộc địa. Không có cầu, làm sao chuyển chở được hàng hoá, tài nguyên của cả cái xứ bắc bộ bằng tàu hoả xuống Hải Phòng về Pháp? Có thả con săn sắt mới bắt được con cá rô. Con săn sắt ấy là 6.200.000 Frăng Pháp (vào thời gian ấy không phải là ít của). Vì thế, theo thiết kế ban đầu, chiếc cầu hoàn thành chỉ có đường tàu hoả thôi, đường ô tô đi chung với đường như cầu Đuống cũ ấy. 19 năm sau (1921) mới làm thêm hai đường hai bên cho các loại xe, nhờ các vì sắt hình nửa củ hành bắt vào các khung chính. Đấy cũng là một biểu hiện kỳ tài của người thiết kế. Đường cho các loại xe rộng 2,6 m và 0,4 m trên ?ohè? cho người đi bộ. Tác giả còn chu đáo thiết kế mỗi nhịp một đoạn cho các loại xe thô sơ tạt vào nhường đường cho xe ô tô.
    Cho đến năm 1985, ở Việt Nam chưa mấy người biết tác giả của công trình này, kỹ sư Ep-Phen (EIFFEL). Người Việt Nam ta trong 100 năm nay phải kính cẩn nghiêng mình trước tài năng sáng tạo trác việt này. Công việc khảo sát địa chất, nghiên cứu chế độ lũ của sông Hồng đã được tiến hành từ nhiều năm trước. Năm 1897, thi vẽ mẫu thiết kế. Mẫu thiết kế của Ep-phen được chọn thi công. Ngay sau đó là việc tổ chức đấu thầu xây dựng. Hai hãng Đay-đê và Pi-lê trúng thầu xây dựng phần cầu chính. Nha Công chính Đông Dương thi công phần cầu dẫn có 5 cầu sắt. Nối giữa 5 cầu sắt này là 129 cầu đá xây theo kiểu vòm cuốn, hoàn toàn bằng đá tảng, không dùng một tấc sắt thép nào. Dưới 134 chiếc cầu vừa sắt, vừa đá, dài 800m này, người và xe có thể qua lại bình thường, thậm chí sau này còn là nơi ở của nhiều gia đình cơ nhỡ, mặc cho hàng chục đoàn tầu đinh tai nhức óc chạy trên đầu ngày đêm. Sau này, để gia cố thêm cho an toàn, ta mới xây bịt lại tất cả. Chỉ còn chừa lại hai cầu cho phố Nguyễn Thiệp và ngõ Hàng Hương chạy qua sau khi đã đổ thêm vòm bê tông đỡ. Phía Gia Lâm là đường đất đắp cao chạy từ đầu cầu vào đến ga Gia Lâm, dài 1000m.
    Tốc độ cho công tác chuẩn bị, so với bây giờ thế là nhanh lắm và việc thi công xây dựng cũng là tốc độ kỷ lục. Tính từ ngày 13/9/1898, khi toàn quyền Đông Dương thuộc Pháp: Việt Nam, Ai lao (Lào) và Campốt (Cam Pu Chia) không có một công trình nào lớn hơn. Thời ấy nó được xếp vào hàng thứ hai trên thế giới sau cây cầu sắt Bruc-klin bắc qua East River của Mỹ.
    Dẫu cây cầu được xây vì mục đích rất... thực dân thì ta cũng phải ghi nhận đầu óc tính toán rất khôn ngoan của ông Toàn quyền thực dân cáo già thời ấy. Chỉ có 5.300 tấn thanh thép dẹt, thép góc, thép chữ T, thép chữ I là phải mua từ Pháp. Còn xi măng đã có Hải Phòng, vôi từ Huế. 30.000m3 đá hộc xanh khai thác ở Thanh Hoá. Gỗ tà vẹt, gỗ lát chèn mặt đường sắt cũng mua từ Thanh Hoá. Tất cả chi phí khảo sát, thiết kế, thi công và toàn bộ nguyên vật liệu đều không phải lấy từ ngân khố quốc gia Pháp, mà là từ tiền... công trái Đông Dương! Nghĩa là ngài Toàn quyền Đô My (Domer - đọc theo cách phiên âm Hán Việt của các cụ Nho ta thời ấy) đã biết dùng cái cách mà nay ta gọi là... lấy mỡ nó rán nó! Dẫu thế thì chúng ta cũng phải thừa nhận lợi ích khách quan do cây cầu mang lại cho sự phát triển nước ta, khu vực và cho dân ta.
    Và dẫu cầu là của người Pháp, do những bộ óc kỹ thuật tài năng của nước Pháp sáng tạo và tổ chức thực hiện thì việc thực hiện chủ yếu vẫn là lao động của người Việt Nam.
    Ngày ấy, người ta chưa nghĩ ra kiểu thi công móng trụ theo phương pháp đào nổi giếng chìm và dùng các máy móc thiết bị hiện đại như bây giờ. Vì thế con người phải mó tay vào tất cả. Thế là những công việc khó nhọc, vất vả nhất, nguy hiểm nhất họ đều dùng công nhân Việt Nam.?o...Họ làm việc trong những điều kiện tự nhiên, ngồi trong những thùng sắt đi xuống nước như những con tàu và ngày càng dấn sâu xuống đáy sông. Rồi sau đó họ làm việc trong những vùng khí nén, ngồi trong những buồng kín, đào xới đất đáy sông để đặt trụ đá. Buồng làm việc ấy mỗi ngày một dấn sâu xuống nước 20m đến 30m với áp lực lớn tới 3 atmophe?. Đấy chính là lời viên Toàn quyền Đông Dương viết trong hồi ký.
    Tất nhiên, ông ta không nói tới cái cảnh nhiều người thợ Việt Nam vừa đưa xuống sâu không thấy động đậy đầu dây, kéo lên đã chỉ còn là cái xác không hồn.
    Tất nhiên, ông ta không kể lại cái cảnh những người thợ làm xong vừa lên đến bờ đã hộc máu mồm, dồn máu mũi, máu tai. Cũng không kể cảnh những người rơi từ nóc vì cầu xuống nước trong khi đang cố ghì hai thanh sắt để cho người khác ***g vào một cái đinh rivê. Cũng không đưa ra con số người bị thương, bị chết do tai nạn sau khi hoàn công. Nhưng hơn 4 năm trước, tôi có được nghe một cụ thợ nề công giáo, người đã tham gia làm nhà thờ Cửa Bắc kể: Làm cái cầu ấy chết nhiều lắm. Không có mấy ngày là không có người chết. Có ngày chết mấy người. Còn bị thương thì nhiều vô kể.
    Đánh giá những người thợ Việt Nam, dù là với đầu óc thực dân và miệt thị chủng tộc thì ông ta cũng phải thừa nhận thế này: ?o Việc xây dựng cầu được thực hiện với nhiều phương tiện và cố gắng liên tục của con người... Lại cũng chính là những người thợ bản xứ lắp ráp các cấu kiện kim khí, vận hành cần cẩu, tán các đinh chốt. Thoạt đầu người ta tuyển phần lớn là người Tàu vì họ khoẻ hơn người An Nam. Nhưng dần dần họ bị thay thế bởi người An Nam, tuy có thể kém sức một chút, nhưng năng động, tinh nhanh và khéo léo...?.
    Có thể nói, cây cầu vĩ đại đầu tiên trong lịch sử cầu đường Việt Nam, cũng là cây cầu vĩ đại nhất Châu Á lúc ấy, là sản phẩm tài năng, trí tuệ của các nhà quản lý, các nhà khoa học kỹ thuật Pháp và cũng là sản phẩm của nhân lực, tài lực của người Việt Nam.
    Chắc nhiều bạn không biết rằng, để cầu Long Biên tồn tại suốt hơn 100 năm qua, không ít những người công nhân vệ sinh môi trường trên cầu thường xuyên có tới bốn kíp thợ theo bốn đội, với bốn chuyên môn làm việc: thợ sắt, thợ rèn, thợ sơn và thợ... mộc.
    Cầu sắt thi công nhanh nhưng lại đòi hỏi một chế độ duy tu, bổ dưỡng định kỳ thường xuyên. Để chống gỉ sắt, biện pháp thông dụng nhất là sơn. Đầu tiên là sơn lót chống gỉ. Ta thường dùng một loại sơn chống gỉ trong đó có Dioxit chì nên có màu da cam sẫm. Sau đó mới phun lớp sơn trang trí theo ý các nhà thiết kế. Sơn là để tránh ôxy hoá mà ôxy hoá mạnh nhất là nước mưa, ?onước mưa cưa giời? kia mà. Nhưng nước mưa cưa chưa ghê bằng nước... tiểu, nước phân thi ra từ buồng vệ sinh trên tàu. Ngành Đường sắt có quy định, khi tàu vào ga hay qua cầu thì không được dùng buồng vệ sinh. Nhưng trên thực tế việc ấy vẫn cứ diễn ra. Thế là những thanh rầm ngang cứ thế mà hứng lấy cái ?ocủa nợ? ấy mà gỉ dần gỉ mòn đi (thiết bị chứa nước thi vệ sinh cực đắt, ngay tàu tốc hành Bắc Kinh ?" Thượng Hi tôi mới đi cuối năm ngoái cũng chưa có).
    Để khắc phục, một mặt người ta ốp một tấm tôn che những thanh rầm ngang. Mặt khác gia cường cho những thanh rầm này bằng hai tấm thép dày ốp hai bên.
    Những người thợ rèn, thợ sắt liền ta tay. Bốn lò rèn được mang lên đặt vào khoảng giữa khu vực các thợ sắt làm việc. Mấy tiếng gõ cành cạch là tín hiện ?otôi cần?. Anh thợ rèn cũng gõ mấy tiếng đáp lại. Hai mắt cùng liếc, hai tay cùng nhăm nhăm chờ đợi. Người thợ rèn cặp một chiếc đinh rivê đã nung đỏ tung một cách rất điệu nghệ vừa đúng tầm tay anh thợ sắt cách mình gần thì 2-3m, xa tới 4-5m. Người thợ sắt như một thủ môn điệu nghệ giơ tay ra đón. Chiếc đinh đỏ rực đã nằm gọn trong một chiếc phễu tôn. Anh ta nhanh nhẹn cặp lấy nó tra vào lỗ. Một người khác liền dí búa máy vào... xiết co. Tiếng búa hơi nổ ròn rã như liên thanh. Chiếc đinh nóng đỏ bị tán thành mủ, gắn chặt hai tấm thép lại và nguội dần...
    Chiến tranh! Cầu trở thành mục tiêu số 1 của giặc Mỹ. Ta nhận định sớm muộn cầu Long Biên cũng bị đánh phá. Không thể nghi trang một cây cầu đồ sộ như thế trên một khúc sông rộng như thế (1700m) giữa một địa hình trống trải như thế, ở một tọa độ mà phi công Mỹ nhắm mắt cũng thấy trên bản đồ.
    Thế là các trụ cầu trên bãi giữa và bãi Phúc Xá đều được đắp đất lên đến tận mặt trụ, thành những quả núi đất. Quả không sai, tháng 3 /1967 lần đầu tiên giặc Mỹ đánh bom cầu Long Biên (và cầu Đuống). Người Hà Nội bỗng thấy trên đỉnh của một trong hai chóp nón của mỗi vì cầu, một cái bệ vuông vuông, có lan can bao bọc. Mấy chiếc mũ sắt lố nhố quanh một nòng súng máy cao xạ. Từ biển vào, máy bay Mỹ cứ lấy sông Hồng làm đường bay chuẩn, lại bay được thấp, tránh lưới lửa phòng không của ta, đến gần Hà Nội mới ngóc lên cắt bom. Chúng đánh bom 13 lần mà cây cầu chỉ bị xây sát. Những chiếc mũ sắt phơi mặt ra giữa nắng mưa bên nòng cao xạ 12 ly 7 trực cả ngày lẫn đêm. Từ những vị trí lợi thế, nhưng cũng rất nguy hiểm vì không một nơi ẩn nấp, các chiến sĩ noi gương Nguyễn Viết Xuân nhằm thẳng quân thù mà bắn, cứ thế quạt đạn vào mặt chúng. Bom, rốc két cày tung đất phù sa hoặc rơi xuống nước. Cho mãi đến lần đánh thứ 14, với ?obom thông minh? điều khiển bằng laze chúng mới đánh gục được hai đoạn mà đoạn nặng nhất là ở dòng chảy chính phía Gia Lâm.
    Cả Hà Nội thắt lòng nhìn cây cầu huyết mạch gục xuống. Dòng sông uất hận ngầu máu đỏ. Với khẩu hiệu ?oPhá thế độc tuyến?, lập tức bảy biện pháp vượt sông được tổ chức. Ngoài sáu bến phà: Chèm, Bác Cổ, Chương Dương, Hàm Tử Quan, Khuyến Lương, Mễ Sở còn các loại cầu phao làm bằng những cây luồng, cầu phao gỗ, cầu phao LPP và cầu phao dành cho tầu hoả. Nhưng mặt khác, bằng mọi cách phải khôi phục được cầu Long Biên. Các chuyên gia đầu ngành được mời đến. Một giải pháp kỹ thuật mang tính tình thế được thông qua: cắt bỏ những chỗ bị bom vặn gẫy. Căng dây cáp nối hai mặt cầu lại, lát ván cho xe ô tô đi tạm. Xe lửa thì đành chịu vậy. Giải pháp này lẽ ra chỉ dùng như ta đã dùng, trên những cầu có khẩu độ ngắn trên đường Trường Sơn.
    Nhưng không còn cách nào khác. Sau nhiều ngày đêm đánh vật với đoạn cầu gẫy và làm công tác chuẩn bị, đoạn cầu cáp dài quá khổ ấy đã làm xong. Vì khổ độ quá dài nên đoạn cầu võng xuống. Người đi qua thì không nói làm gì. Ô tô mới là chuyện phải lo. Phải có một chiếc ô tô không tải đi thử nghiệm.
    Đêm ấy... Đủ mọi dự kiến các tình huống xấu có thể xảy ra. Bao nhiêu lời dặn dò và cả những lời chúc may mắn. Nhưng trên gương mặt của các đồng chí có trách nhiệm và bạn bè vẫn hiện lên tất cả sự lo lắng không cùng. Chiếc xe không tải, cánh cửa buồng lái đã được tháo ra, dò dẫm lăn từng vòng chậm chạp. Mọi người thắt ruột, nín thở, dán mắt nhìn vào chiếc xe bò dần ra xa. Cầu và xe rung rinh. Lắc bên này, rồi bên kia. Xe càng ra xa, biên độ dao động của cầu càng lớn. Ra đến giữa đoạn cầu cáp thì cầu đưa võng thật sự. Mọi người đều nhìn thấy tai họa đang đến từng giây, nhưng vẫn nín thở mong cho không có chuyện gì xảy ra. Không một ai biết nên đi hay dừng lại. Thời ấy chưa có điện thoại di động để liên lạc với lái xe trong hoàn cảnh như thế nên không thể biết được tính toán, tâm trạng của người lái xe. Nếu cứ đi thì có thoát khỏi tai nạn không? Không ai biết người lái xe dũng cảm ấy tính toán thế nào trong giây phút mà sự thành bại của một thử nghiệm và cả sinh mệnh của mình, phương tiện của mình bám hờ trên mấy sợi dây cáp đong đưa ấy? Chỉ biết anh đã phanh lại. Lập tức người và xe bị hất xuống dòng nước đen ngòm, không để lại dấu vết.
    Cuộc thử nghiệm không thành, nhưng nó đã chỉ cho các nhà kỹ thuật thấy nguyên nhân của tai họa. Các nhà vật lý được mời đến, tính toán khử dao động ngang, chỉ cho phép nó dao động dọc. Trong khi đợi làm thêm trụ để lắp đặt các vì cấu cứng cho cả xe lửa qua được thì chiếc cầu cáp âý đã cõng được hàng ngàn chiếc xe hàng từ Hải Phòng về ga Hàng Cỏ.
    Bây giờ dải đăng ten vắt ngang trời đã bị rách một đoạn dài. Những khung hộp rỗng lắp ghép bằng những thanh sắt, liên kết với nhau bằng những đinh rivê đặc trưng thiết kế của Ep-phen buộc lòng phải chịu những nhát cắt nhiệt nham nhở. ở đoạn và víu này, xe tầu đi trên lưng cầu chứ không phải đi trong bụng cầu như những đoạn cầu của Ep - phen còn lại.
    Rồi năm 1973 lại đến lượt người Mỹ. Những người định dùng bom đạn hòng bắt chúng ta trở lại thời kỳ đồ đá, sau trận ?oĐiện Biên Phủ trên không? đã phải chấp nhận... không thắng. Để rồi cuối cùng, những ?ophi công mặc... áo ngủ? và cả những ?ophi công mặc... complé... sáu tấm? cũng lại đi qua cây cầu này sang sân bay Gia Lâm về nước.
    Cầu Long Biên sẽ còn mãi với Hà Nội.
    Đã hàng trăm lần tôi đi bộ qua cầu, nhưng không phải theo đường từ phía ga Đầu Cầu dành cho người đi bộ từ Hà Nội sang mà từ bãi đá bóng Long Biên, theo mái đất đắp bảo vệ quanh trụ cầu, rồi qua trụ cầu leo lên đường sắt, vượt qua rào chắn lên mặt cầu. Cũng hàng ngàn lần đi xe đạp, xe máy, ô tô, tàu hoả qua cầu. Nhưng năm 1998 bằng cách riêng của một nhà báo tôi đã qua cầu trên buồng lái của chiếc đầu máy diezen kéo đoàn tàu liên vận Hà Nôi - Đồng Đăng do hai anh Phạm Quốc Quang và Bùi Thái Sơn lái. Cuộc hành trình 168km, theo công lệnh tốc độ chạy tàu năm 1998 của ngành đường sắt thì, tốc độ tối đa được chạy ở những cung đường tốt là 50km/h. Còn quãng đường phải chạy như người đi bộ là 5km/h chính là đoạn cầu Long Biên. Tôi rúm người lại, rùng mình khi đầu máy đi đến đâu là cây cầu cứ rung lên đến đấy! Cây cầu già yếu đang phải gồng mình cố chịu sức nặng của đoàn tàu. Chỉ có ở vị trí này tôi mới nhìn suốt được hai thanh đường ray chạy song song. Và không thể tin được, xa xa có một chỗ hai thanh ray bị vẹo lệch đi một chút. Nhiều người xem như không tin đó là chuyện thật. Cây cầu cứ run bần bật như lên cơn sốt rét. Các rầm ngang vẫn bị rỉ nhiều hơn cả, trừ phần từ mặt cầu trở lên, còn tất cả đều bị gỉ không nhiều thì ít. Nhìn mép các thanh rầm ngang chỗ nào cũng thấy màu nâu của gỉ sắt, cứ như vẩy ốc dính vào tay.
    Từ dưới gầm cầu nhìn lên mới thấy hết thương tích và sự già nua của cây cầu, nhất là phần làm lại sau khi bị bom Mỹ. Chắc hẳn vì giờ đây nó không còn là ?ocon một? mà đã là ?ocon đàn? nên chế độ duy tu, bổ dưỡng không còn được như trước. Giờ nó là cây cầu của người nghèo, nghĩa là chỉ xe lửa và những người đi bộ, đi xe đạp mới đi cây cầu này. Thì hơn 100 năm nay, rau xanh của của vùng Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, đóm diêm của gỗ diêm Cầu Đuống vẫn cứ sang Hà Nội bằng xe đạp thồ, xe đạp lai và gồng gánh. Quen đi trên cây cầu Chương Dương đang thì con gái chỉ dành cho xe có động cơ, giờ cót két xe đạp qua ?oông lão? Long Biên, thương cái ọp ẹp già nua, cũ kỹ của cây cầu, càng thương cái vất vả, lam lũ của những người lao động, dường như tụ tập cả về đây. Ngay trên chỗ tránh nhường cho xe đõ ngay sát cạnh đường nhánh mạn Bắc, hơn hai chục rổ cà pháo vừa hái dưới bãi lên và một vài sảo rau bí. Một cái chợ của người nghèo.
    Liệu Long Biên có còn mãi với lịch sử?
    Khoảng giữa hai cây cầu này là một đường ngầm. Trên cầu Thăng Long sẽ là một cây cầu ở xã Thượng Cát. Dưới cầu Chương Dương sẽ có một cây cầu ở xã Vĩnh Tuy. Xa nhất, nhưng sẽ là cầu thứ 4 sau Chương Dương là cầu Thanh Trì.
    Đến lúc ấy cầu Long Biên sẽ như thế nào?
    Đã có một tiền lệ, ấy là cây cầu lịch sử Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải. Cuối cùng thì nó đã tránh được số phận bị thanh lý làm sắt vụ, sẽ tồn tại mãi như một chứng tích của lịch sử đấu tranh thống nhất đất nước. Năm 1996, một đoàn các nhà quản lý và kỹ thuật cầu Pháp do một người cháu của chính toàn quyền Đu - me dẫn đầu đã sang thăm và khảo sát cây cầu Long Biên. Phía bạn đưa ra lời khuyến cáo là không nên xây dựng lại cây cầu này. Nhưng vừa rồi, trong dịp Tổng bí thư Lê Khả Phiêu sang thăm Pháp các bạn Pháp lại đưa ra đề án khảo sát lại cầu Long Biên để đại tu. Còn theo kế hoạch của ta thì Long Biên vẫn phải sử dụng tới năm 2005, rồi phải lui thêm 5 năm nữa vào đúng năm thủ đô chẵn ngàn tuổi (2010). Nghĩa là nó phải chờ xây dựng thêm cầu Thanh Trì nối liền với cầu Đuống mới vừa khánh thành.
    Nếu di tích Long Biên nay được trùng tu để tiếp tục phục vụ giao thông thì càng hay. Nếu phương án ấy không thành thì... Nếu không còn phải chịu tải xe lửa mà chỉ còn người đi bộ và xe thô sơ thì coi như Long Biên là cầu không tải, vẫn sử dụng được lâu dài (dĩ nhiên cần phải tu dưỡng tốt). Đường xe lửa sẽ trở thành đường cho người đi bộ và xe thô sơ.
    Những chỗ tránh nhau của hai làn đường cho người đi bộ và xe thô sơ bây giờ sẽ mọc lên những quán tranh ảnh, sách báo, điểm tâm, giải khát... còn lại là đường đi dạo chơi. Ngồi đấy mà đọc sách, mà ăn uống, ngắm tàu bè xuôi ngược, ngắm nước sông Hồng cuồn cuộn tải phù sa ra biển, ngắm trời sao mùa hè, ngắm thành phố về đêm, mà gió sông Hồng thổi dào dạt... chao ơi, mới tuyệt làm sao!
    Dù sao chúng ta cũng cảm ơn ý tưởng xây dựng cây cầu của ngài toàn quyền đã trở thành hiện thực. Nhưng người Việt Nam không thích tên ngài gắn với cây cầu này, cứ cầu Bồ Đề, cầu Sông Cái, cầu Long Biên mà gọi.
    Vào đúng dịp kỷ niệm ngàn năm văn hiến của mình, Hà Nội sẽ có thêm một phố du lịch đặc biệt, vùa là cầu, vừa là phố mà khách du lịch sẽ không thể bỏ qua. Đi dạo trên cầu, khách du lịch sẽ thầm nhắc đến kỹ sư Ép - phen, cha đẻ của cây cầu, sẽ ngắm những bức tượng đồng điểm tô cho cây cầu lịch sử, mỹ thuật này như họ đang đi dạo trên cầu Sác - lơ bắc trên sông Vôntava của Praha (Tiệp Khắc) vậy. Cầu Phố Long Biên sẽ rực rỡ muôn ánh đèn, lung linh soi bóng xuống sông Hồng như chứng tích của lịch sử đau thương, hào hùng và phồn vinh của đất nước Việt Nam. Mong sao nét phác thảo ấy trở thành hiện thực.
    Bắc Sơn
    (Tác phẩm đoạt giải nhất cuộc thi viết "Cả nước cùng thủ đô hướng tới 1000 năm Thăng Long - Hà Nội" năm 2001)

    Nguồn : http://www.vnn.vn/chuyenmuc/thanglong/thanglong.html

    NO PAIN NO GAIN ​
    Được sửa chữa bởi - koibeto81 vào 14/04/2002 06:12
  4. Koibeto81

    Koibeto81 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/01/2002
    Bài viết:
    1.250
    Đã được thích:
    0
    Hà Nội là như thế​

    Trên trái đất này chỉ có một nước mang tên Việt Nam. Nước Việt Nam chỉ có một thành phố mang tên Hà Nội, như vậy là thành phố duy nhất trên trái đất, không có một thành phố Hà Nội thứ hai nào như thế, giống thế, là thế.
    Nhưng Hà Nội không chỉ đóng khung trong không gian mà thành phố hiện hữu. Còn có một Hà Nội trong lòng người bốn phương trời, vượt năm châu bốn biển, khắp Đông Tây Nam Bắc.
    Chỉ nói riêng gần 80 triệu người Việt Nam, có ai không mang một chút Hà Nội trong lòng, trong tâm tưởng dù chỉ một lần hay chưa hề được đến thủ đô. Một chút sóng xanh Hồ Gươm, một làn sóng Hồ Tây, một lung linh huyền thoại con rùa vàng, một ánh nắng Ba Đình, một tiếng còi tàu vang khuya ga Hàng cỏ, một màu đỏ nước sông Hồng, một xanh óng cốm Vòng đựng gió thu, một làn khói lam bún chả, một chút mưa lây phây trên má hoa đào Nhật Tân, Quảng Bá, một tiếng rao đêm vang lên như âm nhạc xa xôi làm thức cùng tĩnh lặng...
    Nhiều lắm, nhiều nhiều lắm, Hà Nội đã xẻ mình ra thành trăm triệu phần cho mỗi người mang giữ một mảnh hình hài, âm thanh, màu sắc, khối lấp lánh, hương vị nhớ đời... đến tận cùng mũi Rạch Tàu Cà Mau hay đỉnh non cao Lũng Cú cho chí những Hải Dương, Hải Phòng, Thanh Hoá, Thừa Thiên, Tây Nguyên, Phú Quốc...
    Bấy năm nay, Hà Nội đón bao du khách. Hẳn trong mắt, trong hồn những con người ấy còn có lâu dài một mái cong Văn Miếu, một trụ đá chùa Một Cột, Một pho tượng Huyền Thiên Trấn Võ, một chiếc nón bài thơ, một bát phở khuya, một đôi câu đối cửa đền Ngọc Sơn, một mùi hương hoa sấu tháng ba...
    Người Hà Nội là ai đó? Phạm Đình Hổ người Đan Loan Hồng Châu. Thạch Lam ở Cẩm Giàng, Hồ Xuân Hương quê Nghệ An, Nguyễn Du cha Hà Tĩnh mẹ người Kinh Bắc, Cao Bá Quát xứ Đông Ngàn, Trần Hưng Đạo người phủ Thiên Trường, Lý Công Uẩn ở hương Cổ Pháp, Hồ Chí Minh quê xứ Nghệ, Võ Nguyên Giáp sinh ra từ Quảng Bình... trăm nghìn thi hào danh tướng... dù sinh ra lớn lên ở đâu, nhưng hầu như đều có thời gian kinh qua cuộc đời người Hà Nội còn để lại một phần mình cho Hà Nội và cũng mang Hà Nội trong lòng mà toả sáng với muôn nơi.
    Hà Nội là thanh nam châm khổng lồ, hút vào mình và toả từ mình ra sức mạnh từ trường đã nghìn năm càng ngày càng mạnh.
    Khi Nguyễn Tuân viết tuỳ bút ?oThiếu quê hương?, ông mang Hà Nội trong lòng ra sao để từng trang, từng trang tha thiết thế. Vũ Bằng mấy chục năm nắng gió phương Nam, nhúng bút vào nước mắt mà viết ?oThương nhớ mười hai?, Hà Nội đã thành hơi thở quấn quýt quanh ông suốt bao đêm ngày cho câu chữ hiện hình, cho máu thịt toàn nguyên, cho tâm tình giải toả... Cao Bá Quát viết câu thơ ?oNhất sinh độ thủ bái mai hoa? (một đời chỉ biết cúi lạy trước hoa mai) có phải ở làng Đình Ngang, nay là phố Đình Ngang gần cửa Nam Hoàn Kiếm? Phạm Đình Hổ hạ bút trong ?oVũ Trung Tuỳ Bút? rằng: Nhà ta ở phường Hà Khẩu thì ông đã đích thực là người Hàng Buồm, nơi giang khẩu, nơi sóng con sông Tô Lịch toàn trăng và lộng gió.
    Và gần ta hơn, Phạm Tiến Duật viết bài thơ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây, anh nhớ gì về Hà Nội. Xuân Quỳnh lúc sinh thời yêu Hà Nội đến nỗi yêu cả cái va chạm làm đổ chiếc xe đạp trên đường, lúc thường là bực mình, khi xa nhau, nhớ nhau thì nỗi bực mình cũng biến thành niềm thương nỗi nhớ.
    Nhà thơ Nguyễn Hà khi đi làm thợ sửa đường trên Phú Thọ, đêm đêm trong lán, những người công nhân ?okhao? nhau bằng những bữa tiệc linh đình: Kể chuyện món ngon Hà Nội như bún thang, bún chả, phở gầu đến ngọn húng Láng, con cá rô đầm Sét thơm thoáng vị gừng trong món canh rau cải. Cả vị giáo sư lừng danh thế giới Tôn Thất Tùng trong chiến dịch Điện Biên năm 1954 cũng phải ghi nhật ký: ?oNgày về Hà Nội, trước hết là phải đi khắp bệnh viện để tìm lấy những dụng cụ mổ xẻ và nhất là phải đi ăn một bữa bún chả Hà Nội thoả thích?.
    Thạch Lam đã mang ?oHà Nội? băm sáu phố phường vào mình cho đến khi nhắm mắt bên bờ Hồ Tây không còn ai có thể nhận ra đó là người con của Cẩm Phố Quảng Nam hay người con đất ẩm Giàng Hải Dương, mà chỉ thấy ông là Hà Nội, nghìn phần trăm Hà Nội. Vũ Trọng Phụng ra đi quá sớm, mới 27 tuổi đầu nhưng hầu như toàn bộ tác phẩm cay chua, mặn chát, ngọt bùi của ông đều viết về Hà Nội, viết trong Hà Nội.
    Người cha đẻ thực sự ra Thăng Long Hà Nội chính là người con trai Đình Bảng, nghìn năm rồi, tầm mắt ấy còn để lại cho ta một kinh thành, một thủ đô, một thành phố chói loà vinh quang và ánh sáng, thanh lịch và hào hoa, văn chương và khí tiết. Lý Công Uẩn và Lý Thái Tổ lại hiện về sau nghìn năm trong mỗi lòng người của thiên niên kỷ thứ III vừa khởi hành cùng lịch sử.
    Miền Nam thừa nắng càng thèm một ngày mưa bụi. Người xa đất nước lâu ngày mới thèm một bữa rau muống luộc với quả cà dầm tương của quê hương. Ta quen sống giữa lòng Hà Nội, quen Hồ Gươm, Hồ Tây đến nỗi khi ta quên mất niềm hạnh phúc được gần gũi đó. Phải đến khi đi xa, lúc nhớ về ta mới thao thức trắng đêm không ngủ, nhớ từ một gốc cây đường phố, cái ngõ Tràng An hình chữ chi, món bún chả hàng Mành, rặng cây me đường Ngô Quyền, hương hoàng lan đường Cửa Bắc, cầu long Biên uốn lượn những khúc lưng, bến Phà Đen bụi bặm, món xôi lúa Hoàng Mai...
    Có người Hà Nội sau hơn 30 năm xa mới trở về, hỏi ?oQuán Trung Đổ? là đâu. Xin thưa nó vẫn còn ở quãng số 260 phố Huế. Anh lạ con đường Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Quốc Việt, lạ con đường láng Hoà Lạc, lạ cả cây cầu Chương Dương vi vút xe qua, lạ khu biệt thự quanh Hồ Tây trên đường Lạc Long Quân và Âu Cơ, Đặng Thai Mai, Xuân Diệu... Hồ Bảy mẫu đã thành công viên, Làng Thanh Nhàn bùn lầy nước đọng, muỗi tha hồ tấu nhạc ngày đêm đã thành đường Kim Ngưu xanh bóng cây gỗ Tếch. Trăm điều lạ ngơ ngẩn bước đi và mắt nhìn không cần đến xe tắc-xi, cũng chẳng dùng đến mô tô trăm phân khối, cứ cho anh mượn chiếc xe đạp để anh rong ruổi vào ký ức, thả hồn mình vào hiện tại... suốt mấy ngày như Từ Thức trở về trần gian mà hể hả nỗi chờ mong và hy vọng.
    Những cao ốc Tháp Hà Nội, Melia, khách sạn Daewoo... là cần thiết. Nhưng niềm tự hào của một Hà Nội ngàn năm không là ở đó, không dừng lại đó, từ sâu thẳm ngàn năm, từ những thư tịch chất ngất, từ lòng người bao thế hệ, từ khuôn cửa tò vò phố cổ chồng diêm, gạch vồ mái ngói... ta có một Hà Nội linh thiêng, huyền thoại, một Hà Nội nhân phẩm con người thời đại, một Hà Nội của tám mươi triệu trái tim, một Hà Nội không ơi nào có được... ta đã đi vào thế giới (hay đi ra thế giới).
    Đã có chuyến xe lửa du lịch quanh vành đai Hà Nội, qua Gia Lâm, Đông Anh, vòng về Văn Điển mất ba tiếng đồng hồ. Đã có chuyến tàu thuỷ xuôi sông Hồng qua đền Ghềnh, đền Lộ, qua bãi Tự Nhiên có chuyện tình bất hủ Tiên Dung và Chử Đồng Tử, qua Bát Tràng gốm sứ, chỉ một ngày mà đi vào lịch sử Thăng Long. Những cái tên làng, tên xã gợi nhớ xa xôi trong hiện đại: Lâm Du (rừng cây du) Gia Lâm (rừng cây gia), những Giáp Nhất, Giáp Nhị đến Giáp Bát tức tám làng cổ kính bao bọc kinh thành. Và ta cũng còn đây những Hoàng Mai, Hồng mai, Bạch Mai ven đường thiên lý mở nước xuống phương Nam... mà Bà Huyện Thanh Quan qua đèo Ngang tức cảnh, mà công chúa Ngọc Hân theo vua Quang Trung vào Huế, mà Huyền Trân sang xứ người để đổi lấy hoà bình, mà Nguyễn Hữu Cảnh mở mang Nam Bộ phì nhiêu...
    Hà Nội ngàn năm là ngôi sao trên mặt Trống Đồng to ra những tia sáng từ thời Hùng Vương cho đến thời Hồ Chí Minh còn đang lan tỏa .Cần ba triệu người Hà Nội, riêng nội thành là hơn một triệu, có phố nào trong những ngày hôm nay lại không là chỗ ở của một tài năng nào đó đã cống hiến, đang âm thầm cống hiến và sẽ lớn lên mai này cống hiến. Hội nhà văn, hội nhạc sĩ, hội kiến trúc, người tạo ra phần mềm, nhà kinh doanh quốc tế, nhà ngoại giao, thày giáo, kể cả một bà nội trợ vô danh nhưng hàng ngày đã tạo ra bao món ngon Hà Nội thành tinh hoa văn hoá trăm đời...
    Họ ở trong các phố mà ta không biết nhưng ta vinh dự được là người cùng thời với họ, là người Hà Nội cùng với họ.Ba triệu người là ba triệu cuốn sách đang viết tiếp cho Hà Nội, không kể cả 80 triệu người cũng đang hướng về Hà Nội suốt nghìn năm và không hề ngừng lại.
    Đêm nằm nghe tiếng còi tàu vọng về từ ga Hàng Cỏ, ta hình dung ra Hà Nội đang xẻ mình ra đi bốn phương trời và cũng đang mở rộng tâm hồn đón gió bốn phương. Còn bao điều chưa vừa lòng đẹp ý. Nhưng chỉ là tiểu tiết. Một con sâu gặm lá, làm rụng chiếc lá, nó không thể làm đổ cây cổ thụ từng rờn xanh nhiều thế kỷ. Hà Nội là thế nên mỗi ngày được gặp Hồ Gươm ta lại thấy hồn mình tươi trẻ cùng hồn Hà Nội tươi trẻ để bước vào năm thứ Nghìn dũng mãnh rồng bay.
    Băng Sơn
    (Tác phẩm đoạt giải nhì cuộc thi viết "Cả nước cùng thủ đô hướng tới 1000 năm Thăng Long - Hà Nội" năm 2001)

    Nguồn : http://www.vnn.vn/chuyenmuc/thanglong/thanglong.html

    NO PAIN NO GAIN ​
    Được sửa chữa bởi - koibeto81 vào 08/04/2002 22:02
  5. Koibeto81

    Koibeto81 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/01/2002
    Bài viết:
    1.250
    Đã được thích:
    0
    Bản lĩnh văn hoá Hà Nội ngàn năm​

    Đã từng có nhiều học giả phương Tây nhìn nhận văn hoá Thăng Long - Đại Việt như một phát sinh của văn hoá Trung Hoa hay Ấn Độ, hay Pháp hoặc một hệ quả hỗn dung của cả hai hay ba nền văn minh đó, từ văn thơ, nhạc hoạ hay đến sân khấu. Cách nhìn nhận hồ đồ đó không phải bây giờ đã hết, và không phải không gây ít nhiều ảnh hưởng khá nguy hiểm cho một số người. Bởi lẽ đó, việc nhìn nhận và đánh giá đúng bản lĩnh văn hoá Thăng Long - Hà Nội trong quá trình tiến tới 1000 năm luôn là việc quan trọng và cần thiết.
    Thăng Long - Đại Việt, do vị trí địa lý nằm giữa hai nền văn minh lớn Bắc Á và Nam Á (Trung Hoa và Ấn Độ), ngay từ rất sớm đã tiếp nhận và chịu ảnh hưởng rất lớn của hai nền văn minh này. Tiếp đó lại bị ảnh hưởng lớn của nền văn hoá Pháp - phương Tây trên 100 năm qua.
    Song, như vậy không có nghĩa là nền văn hoá Việt Nam- Hà Nội là bản sao của những nền văn hoá nói trên. Trong lịch sử lâu dài hàng nghìn năm của mình, nền văn hoá Đất Việt và thành phố Rồng Bay luôn phải tiếp xúc, giao lưu( cưỡng bức và tự nguyện) với nhiều nền văn hoá ngoại lai. Nhưng với bản lĩnh của mình, con người trên mảnh đất này đã tiếp thu, hấp thụ một cách có chọn lọc những nét văn hoá đặc sắc, tinh hoa nhất, đồng thời biến đổi nó mềm mại, dịu dàng hơn cho phù hợp với con người và mảnh đất Kinh Kỳ. Bản lĩnh ấy, trải hàng nghìn năm, đã ăn sâu, in đậm trong hàng loạt những di sản văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể của Thủ đô.
    Trước hết, điều đó thể hiện rất rõ trong những công trình kiến trúc của Thủ đô. Trải qua triều đại phong kiến, kiến trúc của thành Thăng Long đã sớm có sự giao thoa, tiếp xúc tự nguyện với kiến trúc Chăm Pa (một nền văn hoá có ảnh hưởng sâu rộng của văn hoá Ấn Độ). Sự hoà quyện giữa văn hoá Việt - Chăm trên đất kinh thành tạo ra một nét đặc sắc riêng, trở thành một thành tố cấu thành nghệ thuật điêu khắc ??" kiến trúc Thăng Long. Điều đó còn thấy rõ ở khá nhiều công trình văn hoá. Sử sách còn ghi dấu một kiến trúc rất Chăm Pa, tháp Báo Thiên nằm bên hồ Lục Thuỷ,( phần còn lại chính là Hồ Gươm hiện nay), ở vào vị trí khu vực chùa Bà Đá - Nhà thờ lớn hiện nay và hồi đó được ca ngợi như ??ocột chống trời, cao chót vót hơn 4 chục trượng, 12 tầng, do vua Lý sai tù binh chiếm thành (Chăm Pa) xây??? (Sách An Nam chí lược của Lê Trắc viết năm 1333). Kiểu kiến trúc như tháp Báo Thiên có thể coi là đặc trưng kiến trúc thời kỳ đầu dựng thành Thăng Long, sau đó đã xuất hiện rất nhiều bên cạnh những ngôi chùa cổ kính mang đậm sắc thái Việt ở nhiều làng quê Bắc bộ như một phần không thể thiếu của nét văn hoá Kinh Kỳ. Nhiều sắc thái của văn hoá Chăm Pa khác còn được lưu giữ ở nhiều di tích như chùa Châu Lâm tức chùa Bà Banh - Bà Đanh, quãng trường Bưởi ( Chu Văn An), rồi chùa ??oBà Già??? ở Phú Xá, Chùa Tứ Liên ( cũng đều quanh Hồ Tây), đặc biệt là đã đi vào tấm bia chạm ??oBà Banh??? trần trụi, rất Chăm còn đọng lại ở nhiều giai thoại văn học.
    Tương tự như vậy, chúng ta có thể nhìn thấy ít nhiều ảnh hưởng của Trung Quốc qua một vài công trình điêu khắc, kiến trúc còn lại ít ỏi tại Thăng Long thành. Đó là việc tuân thủ những mô hình cơ bản tiếp thu từ văn hoá Trung Quốc trong lĩnh vực mỹ thuật, là một số kiểu thức và hoạ tiết tuy xuất phát từ Trung Hoa nhưng trải bao đời đã thành quen thuộc và máu thịt của nghệ nhân Việt Nam, và đã được sáng tạo thật linh hoạt để biểu lộ sự phóng túng, thanh cao, khát vọng một cách hồn nhiên, dí dỏm, có thể thấy ở rất nhiều hoạ tiết điêu khắc tại các đình, chùa, miếu mạo của cả vùng châu thổ sông Hồng.
    Kiểu cách tiếp thu này phản ánh phần nào sự tiếp thu có chọn lọc tư tưởng Nho giáo để tự tạo thành kiểu thức Tam giáo đồng lưu trong một quan niệm dân dã về sự hoà đồng, vui vẻ.
    Đến thời Pháp thuộc, văn hoá và kinh tế Pháp ??" phương Tây đã du nhập sang Việt Nam, kéo theo sự phát triển đô thị và kiến trúc đô thị. Các kiến trúc đồ sộ kiểu phương Tây vào Việt Nam đều được Việt hoá, để phù hợp với thời tiết, khí hậu nhiệt đới và không lạc điệu giữa những công trình kiến trúc cổ truyền. Toà nhà của trường đại học Đông Dương (nay là trường ĐH Quốc gia Hà Nội), Viện Viễn đông Bác Cổ (nay là Viện Bảo tàng lịch sử), Bộ Ngoại giao, Phủ Toàn quyền ( nay là Phủ Chủ tịch), Thư viện quốc gia, Nhà hát thành phố ( trước còn được gọi là ??o Nhà hát Tây??? v.v... là những ví dụ cụ thể.
    Song biểu hiện rõ nhất, mạnh nhất của bản lĩnh Thăng Long ??" Hà Nội chính lại nằm trong những dấu tích văn hoá phi vật thể ??" những dấu tích văn hoá vô hình. Sự du nhập của Phật giáo có thể thấy ở hội Láng, là một lễ hội phật Giáo, ấy vậy mà những nghi lễ tôn vinh phật Tổ lại là những lễ thức đầy màu sắc dân gian như lễ rước và đặc biệt là có tục đốt ??opháo thần??? ??" một tín ngưỡng dân gian gắn với tục cầu mưa, gắn với quan niệm đốt pháo để gợi lên sấm sét, cầu có sấm sét để dẫn tới mưa rào.
    Nho giáo khi giao lưu tiếp xúc với văn hoá Thăng Long - Đại Việt cũng bị bản lĩnh của vùng đất này làm cho mềm mại, dịu dàng hơn. Con người Hà thành vốn rất mực hiếu thuận với cha mẹ, tôn trọng đạo vợ chồng ??" nét đẹp văn hoá này của vùng đất kinh kỳ có cội nguồn phần nào chính là từ những tư tưởng Nho giáo. Tương tự như vậy, Tam cương trong Nho giáo đề cao đạo vua tôi, cha con, vợ chồng (quân thần, phu tử, phu phụ), không những đã trở thành trí thức, đạo đức, mà còn trở thành pháp luật chốn kinh kỳ. Sự cứng nhắc trong tư tưởng Trọng phụ của Nho giáo, vào Thăng Long - Đại Việt được hiểu là công đức sinh thành, dưỡng dục của cha ??" mẹ:
    Công cha như núi Thái Sơn
    Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra​
    ...Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, sự hoà nhập tất yếu là điều kiện cho văn hoá phương Tây du nhập một cách dễ dàng vào mảnh đất ngàn năm văn vật. Không phải cuộc du nhập này không có tác động xấu, làm biến dạng, hoen ố những nét đẹp văn hoá của Hà thành, khiến không ít người phải e ngại. Song, với bản lĩnh riêng của mình, mảnh đất này vẫn tiếp thu, kế thừa một cách có chọn lọc những nét vă hoá cổ truyền, kết hợp với những nét văn hoá đặc sắc của nhân loại, thâu hoá chúng để tạo nên những sắc thái riêng cho mình.
    Hà Nội hôm nay tiên tiến, hiện đại nhưng vẫn hàm chứa trong nó những giá trị văn hoá cổ truyền khổng lồ: theo số liệu thống kê của Sở VHTT Hà Nội, hiện nay trên địa bàn thành phố có 423 lễ hội, trong đó ở nội thành có 56 lễ hội, hàng trăm di tích lịch sử ??" văn hoá nổi tiếng như Văn Miếu ??" Quốc Tử Giám, gò Đống Đa, Tứ trấn Thăng Long... Hơn thế nữa trên địa bàn nội thành Hà Nội ( chỉ tính riêng 4 quận gốc như Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, chưa nói đến khu vực ngoại thành), khá nhiều khu vực vẫn còn giữ được cái căn cốt làng xưa với những thiết chế văn hoá cổ: đình, đền, chùa, miếu, nhà thờ họ và những hoạt động dòng họ. Một ví dụ rất điển hình: khu vực chợ Giời ồn ào, náo nhiệt ở quận Hai Bà Trưng vẫn là cái làng cổ Thịnh Yên với miếu Thổ thần, chùa Vua, đền họ Lê, họ Nguyễn, những già làng... Những lễ hội cổ truyền vẫn do một làng tổ chức, ví như hội Láng, hội Chèm, hội Đồng Nhân... và vẫn giữ được nét cổ truyền mà tự nó vốn có như: lễ hội Hồ Khẩu ven Hồ Tây có trò bắt chạch trong chum, mang dấu ấn tín ngưỡng phồn thực, hội Láng có tục đốt ??oPháo thần???, hội đền Đồng Nhân có lễ thi rước nước và hội tế trâu mùa xuân ở ô Đông Hà (Hàng Chiếu) mang đậm tín ngưỡng của vùng nông nghiệp lúa nước từ thời sơ khai...
    Kế thừa những truyền thống tốt đẹp của một Hà Nội nghìn xưa để xây dựng một Hà Nội hôm nay hiện đại và phát triển mà vẫn mang đậm bản sắc riêng luôn là bản lĩnh văn hoá kiên cường của con người, mảnh đất Thủ đô. Đó còn là vũ khí quý báu nhất để trường tồn trong mọi thời đại và càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, đúng như Nghị quyết V TƯ Đảng khoá VIII: ??oVăn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế ??" xã hội???.
    Đoàn Minh Châu
    (Tác phẩm đoạt giải nhì cuộc thi viết "Cả nước cùng thủ đô hướng tới 1000 năm Thăng Long - Hà Nội" năm 2001)

    Nguồn : http://www.vnn.vn/chuyenmuc/thanglong/thanglong.html

    NO PAIN NO GAIN ​
    Được sửa chữa bởi - koibeto81 vào 08/04/2002 22:02
  6. Koibeto81

    Koibeto81 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/01/2002
    Bài viết:
    1.250
    Đã được thích:
    0
    Bao giờ tranh Hàng Trống trở về phố...Hàng Trống​

    Tình cờ trong một lần đến thăm Bảo tàng Mỹ thuật thành phố Hà Nội, tôi đã bắt gặp một dòng tranh dân gian quen mà lạ. Quen vì những bức tranh dân gian này đã gắn liền với những tháng ngày tuổi thơ tôi. Tôi nhớ là cứ mỗi dịp ngày rằm, ngày Tết là mẹ tôi lại mua về, khi thì bức ??oLý ngư vọng nguyệt???, khi thì bức ??oNgũ hổ???. Đấy là chưa kể nhà tôi hồi đó lúc nào cũng treo một bộ tranh ??oTố nữ??? ngay chính giữa nhà...
    Thời gian qua đi và đến hôm nay tôi mới gặp lại những gương mặt thân quen đó. Cũng chính hôm nay tôi mới phát hiện đó là những bức tranh thuộc dòng tranh dân gian nổi tiếng, lâu đời ở Hà Nội - tranh Hàng Trống. Một cảm giác vui thích, tò mò xuất hiện trong tôi. Và thế là tôi nảy ra ý định tìm mua một bức tranh Hàng Trống. Dù gì thì nghệ thuật truyền thống cũng đang được ưa chuộng. Thật bất ngờ, rất nhiều người cùng xem với tôi hôm đó cũng có ý định như vậy.
    Nhưng còn bất ngờ hơn nữa khi mà tôi lang thang cả một ngày, khắp các phố Hàng Bông, Hàng Gai, Hàng Trống... những nơi chuyên bán đồ lưu niệm ở Hà Nội mà chẳng thể tìm được một nơi bày, bán các loại tranh dân gian này. Càng đi tìm, tôi lại càng ngạc nhiên. Tựa như dòng tranh này chưa bao giờ xuất hiện vậy. Một vài phòng trưng bày tranh Đông Hồ cũng đã có mặt, nhưng tranh Hàng Trống thì tuyệt nhiên không.
    Một người chuyên vẽ truyền thần trên phố Hàng Trống nói với tôi rằng: ??oBây giờ còn ai làm tranh Hàng Trống nữa đâu, hôm trước cũng có mấy ông Việt kiều hỏi, nhưng tranh này bây giờ chỉ có trong Bảo tàng thôi???.
    Cuối cùng thì tôi cũng tìm ra, nhưng không phải là một dòng tranh mà là một con người - nghệ nhân cuối cùng của dòng tranh dân gian Hàng Trống. Đó là ông Lê Đình Nghiên.
    Đôi tay cầm bút tài hoa của người thợ vẽ cùng đôi mắt thẩm mỹ của người hoạ sĩ... tất cả đã được tôi luyện từ những ngày ông lẽo đẽo theo bà nội đi bán tranh, rồi những buổi trưa ngồi hàng giờ liền ngắm nhìn ông nội và bố vẽ tranh. Nghề của cha ông đã ngấm dần vào ông như một định mệnh. Và ông đã tự nguyện theo nghề này đến suốt đời - ngay cả khi các anh chị ông đã chuyển sang nghề khác. Gần 40 năm qua, ông gắn bó với công việc phục chế và bảo tồn tranh cổ. Cuộc đời ông dường như cũng gắn liền với sự thăng trầm của dòng tranh.
    Ông Nghiên kể: Tranh Hàng Trống xưa được làm chủ yếu ở các phố Hà Nội, Hàng Trống, Hàng Nón... của Hà Nội. Và, vì là của Hà Nội nên tranh Hàng Trống có nhiều điểm riêng biệt so với các dòng tranh dân gian khác.
    Tranh Hàng Trống cũng gồm hai dòng tranh chủ yếu là tranh thờ và tranh chi Tết. Tranh thờ thì có tranh Phật, Tam hoà Thánh mẫu, Tứ phủ, Ngũ hổ... Tranh chi tết thì Chúc phúc, Tứ quí, Tố nữ...
    Khác với tranh Đông Hồ khổ nhỏ, in trên giấy điệp bằng những bản khác nhiều màu, tranh Hàng Trống lại có nhiều khổ to, nhỏ, tuỳ theo người đặt. Tranh chỉ có một bản đen đầu tiên, sau khi in thì tranh được tô màu lại bằng tay. Chính vì vậy, vai trò của người vẽ tranh rất quan trọng. Chỉ với chiếc bút lông trên tay họ đã tạo nên được độ đậm nhạt khác nhau giữa nét vẽ, các gam màu. Chính vì vậy mà bố cục, nhịp điệu tranh rất sôi động và đa dạng. Mỗi nhân vật trong tranh lại có nét mặt, trạng thái, tư thế khác biệt.Kỹ sảo ??ovờn màu??? (tức pha nửa nước nửa phẩm) mà chỉ tranh Hàng trống mới có đã tạo cho dòng tranh này một gam màu tự nhiên, thanh và nhẹ hơn các dòng tranh khác. Nó không chỉ phù hợp với khung cảnh của những ngôi nhà thấp, bé Hà Nội mà còn phù hợp với thị hiếu của người Tràng An thanh lịch.
    Với các gam màu chủ yếu là lam, hồng có thêm lục, đỏ, da cam, vàng... tranh Hàng Trống được tạo hình không giống tranh hiện đại mà cũng chẳng giống tranh cổ điển. Tỷ lệ được tạo không hề đúng với công thức chuẩn mà chỉ sao cho thật thuận mắt và ưa nhìn.
    Cho đến nay vẫn chưa có tài liệu nào cho biết đích xác thời điểm ra đời cũng như điều kiện ra đời của dòng tranh dân gian Hàng Trống. Nhưng việc dòng tranh này chịu ảnh hưởng của các luồng tư tưởng, văn hoá, tôn giáo, của vùng miền, các dân tộc là một điều rõ rệt. Nó là kết quả của sự giao thoa tinh hoa giữa phật giáo, Nho giáo; giữa loại hình tượng thờ, điêu khắc ở đình, chùa với những nét đẹp trong sinh hoạt văn hoá hằng ngày. Nó là sản phẩm của tài nghệ, của lòng yêu nghệ thuật, sự thành tín của những người con đất Kinh Kỳ - những người đã tạo nên một dòng tranh dân gian đậm nét Hà Nội.
    Nhưng có một sự thực đáng buồn là không chỉ nguồn gốc mà cả tương lai của dòng tranh dân gian này cũng chưa được xác định. Theo lời ông Nghiên kể thì sau chiến tranh, hầu như các nhà làm tranh đều bỏ nghề. Nhiều nhà còn đốt bỏ hết những dụng cụ làm tranh như ván, bản khắc. Hiện nay số lượng bản khắc gỗ còn lại cũng chỉ xấp xỉ 30 ván.
    Trong vài chục bản khắc gỗ lưu lại, bản lớn nhất khổ 120 cm x 80 cm, bản nhỏ nhất khổ 45 cm x 30 cm. Giá trị nghệ thuật và giá trị lịch sử của những bản khắc này là rất lớn. Nhưng trong điều kiện bảo quản hiện nay- một số ván khắc để ở bảo tàng và số khác để ở nhà ông Nghiên - các mẫu tranh rất dễ bị hư hại, dẫn đến thất truyền.
    Từ các bản khắc quan trọng này, những bức tranh đã được in ra, bằng thứ mực Tàu mài nguyên chất . Sau đó là công đoạn bồi giấy. Có tranh bồi một lớp, có tranh lại phải bồi đến 2,3 lớp giấy. Khi hồ đã khô thì mới có thể vẽ mầu lại. Có khi phải mất đến 3,4 ngày mới hoàn thành một bức tranh.
    Công việc làm tranh khó khăn và phức tạp như vậy, nhưng lớp người kế tiếp ông Nghiên hiện nay thì lại... chưa thấy đâu. Cùng với lớp ông Nghiên, dòng tranh Hàng Trống đã lặng lẽ đi qua được thế kỷ XX. Nhưng còn thế kỷ tới?Câu hỏi này cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời. Vì giá thành của một bức tranh Hàng Trống quá thấp? Vì thị trường tranh truyền thống vắng lặng? Nhưng điều quan trọng hơn lại là sự lãng quên của chính những người dân Hà Nội. Trong khi chúng ta đang kêu gọi bảo tồn những bản sắc văn hoá, những giá trị truyền thống thì chúng ta lại lãng quên một dòng tranh dân gian ngay giữa thủ đô!
    Ông Nghiên trầm ngâm: ??oTừ lâu, tôi đã có ý định mở một phòng tranh ngay tại phố Hàng Trống. Điều mong muốn duy nhất của tôi là gợi lại trong trí nhớ người Hà Nội một tài sản quý báu đang bị lãng quên. Nhưng điều này thật khó khăn khi tôi phải giải quyết một mình mà không có sự trợ giúp...
    ???. tranh Hàng Trống được trở về với phố Hàng Trống, đã đến lúc chúng ta cần đưa ra giải pháp đúng đắn, kịp thời. Nhưng phòng tranh như ước mơ của ông Nghiên sẽ là cánh cửa mở ra kho tàng tranh dân gian truyền thống xưa. Hy vọng một ngày gần đây, ta sẽ gặp lại những bức tranh quen mà lạ ấy trên những đường phố Hà Nội.
    Việt Hà
    (Tác phẩm đoạt giải khuyến khích cuộc thi viết "Cả nước cùng thủ đô hướng tới 1000 năm Thăng Long - Hà Nội" năm 2001)

    Nguồn : http://www.vnn.vn/chuyenmuc/thanglong/thanglong.html

    NO PAIN NO GAIN ​
    Được sửa chữa bởi - koibeto81 vào 08/04/2002 22:03
  7. GodFatherHN

    GodFatherHN Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/02/2002
    Bài viết:
    58
    Đã được thích:
    0
    Hình như chỉ còn bác Koibeto với god ở topic này thôi thì phải. No vấn đề. God có một bài post bên Hà Nội, nay post lại bên này cho hợp thread, bác Koi thử trả lời xem. (Không phải câu bài nhá)
    "Chào các bạn, tôi là một người đã sống ở Hà Nội hơn 20 năm nay, cũng như nhiều người khác đã từng ở Hà Nội, tôi rất yêu thành phố này. Nhưng tôi thấy hiểu biết của mình về Hà Nội còn quá hời hợt. Lịch sử và văn hoá của thủ đô chúng ta đã và đang như thế nào? Tôi muốn nhờ các bạn cho ý kiến. Trước hết là về các khái niệm: Thế nào là phố cổ Hà Nội ?
    Khu phố cổ Hà Nội nằm ở đâu? Có lẽ là khu 36 phố phường (tạm gọi như thế cho dễ hình dung) với những phố như Bát Đàn, Hoè Nhai, Gia Ngư, Hàng Bông, Hàng Đào ???Khu phố cổ thì cứ cho là như vậy, còn phố Hàng Cháo (gần sân Hàng Đẫy, bây giờ toàn bán bánh răng và dây điện) liệu có được gọi là phố cổ không? Nó có là một phố trong 36 phố phường ngày xưa không? Không thể nói cứ phố nào có chữ ??~Hàng??T ở đầu thì thuộc 36 phố phường được, vì tôi thấy có gần 50 phố có chữ ??~Hàng??T ở đầu, chưa kể một số phố đã mất như Hàng Đẫy, Hàng Sơn???
    Một trường hợp khác là phố Khâm Thiên: ngày xưa là phố ăn chơi của Hà Nội nhưng đã bị bom Mỹ phá hủy hoàn toàn. Tôi muốn hỏi qua hai phố trên liệu có thể gọi một phố là phố cổ dựa vào giá trị lịch sử của phố đó được không?
    Tôi là dân Bách Khoa nên ngày trước hay đi qua các phố Đại La, Bạch Mai, tôi thấy nhiều nhà vẫn giữ được kiến trúc cổ, rất đẹp. Nếu chỉ chụp ảnh một đoạn phố thì tôi chắc nhiều người sẽ tưởng lầm đó là một phố thuộc khu 36 phố phường. Vậy có thể dựa vào kiến trúc của một phố để cho đó là phố cổ được không?
    Giả sử là ta dựa vào kiến trúc để xét một phố là phố cổ. Vậy những phố có nhiều kiến trúc kiểu Pháp như Quang Trung với các biệt thự, Trần Hưng Đạo với các cơ quan nhà nước, Nguyễn Quang Bích??? có được coi là phố cổ không, hay phố cổ chỉ áp dụng với những phố có kiến trúc thuần Việt? "
    Take a sad song and make it better.​
  8. cuoihaymeu

    cuoihaymeu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Bác Koi kiếm được nhiều bài hay quá đấy
    Bác nào bên Box HN đặt vấn đề hay quá.
    Cổ là cổ so với cái gì, phải có tiêu chí thì mới xác định được. Nhưng đúng là sẽ có chuyện nếu gọi đa số những nhà trong "khu phố cổ" ( khu 36 phố phường) của HN hiện nay là "cổ" vì chúng kịch kim chỉ có niên đại 40-50 năm trở lại đây mà thôi, ghê lắm thì có được một ít chiếc khoảng từ những năm 30. Còn cái nhà cổ nhất là số 87 Mã Mây, được xây từ cuối thế kỷ 19, tôi không nhớ chính xác là năm 187x hay 188x... Tuy nhiên khi nói đến "khu phố cổ" người ta vẫn xác định là kv 36 phố phường này.
    1) Cần phải nhớ là kiến trúc dân dụng ( tôi mới nói dân dụng, đừng bác nào quy đồng lên thành Kiến Trúc nhá) của người HN ta nói riêng và người VN ta nói chung cho đến gần đây ( khoảng nửa TK ) vẫn là kiến trúc tre nứa gỗ ( chủ yếu là tre ). Các bác có thể tham khảo những ảnh tư liệu trên tạp chí Xưa và Nay về HN, sẽ thấy đại đa số nhà ở của người HN đầu TK 20 trong kv nay được gọi là khu phố cổ là nhà tranh vách đất, ngay bên cạnh những những khu "phố" công sở to đẹp của Pháp. Thậm chí cả đến năm 1945 CMT8, trong ảnh tư liệu của các cụ Ng Bá Khoản, Võ An Ninh, Trần Văn Lưu... ta vẫn thấy nhà tranh vách đất là chủ yếu.
    Những công trình làm từ tre nứa không thể tồn tại nổi quá nửa TK, đặc biệt là trong điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm mưa nhiều như VN ta, chưa kể chiến tranh và những ảnh hưởng khác.
    2) Bên cạnh phân biệt cổ với phố cũ, theo tôi cần phải chú ý thêm một chi tiết dễ gây nhầm lẫn nữa là phân biệt "phố cổ " với " nhà cổ". HN có ( ít nhất là) một căn nhà cổ mà tôi đã nói ở trên. Nhưng "phố cổ" hay "khu phố cổ" thì tiêu chí để xác đinh nó lại không phải chỉ là có nhà cổ hay không?
    Phố là gì? Tôi tìm trong từ điển yếu tố Hán Việt ( Viện Ngôn ngữ học- NXB KHXH 1991, HN) thấy họ định nghĩa bằng đúng 1 từ :" Vườn". Sau này được đọc nhiều tài liệu tìm về nguồn gốc của chữ Phố thấy nó tiến triển dần lên thành cửa hàng, khu , dãy cửa hàng, có cả mấy cái chuyện bán vải ( vải âm Hán là "bố") đọc chệch thành phố ...
    Nhưng tóm lại cái được gọi là Phố được hiểu một cách thông dụng và phổ biến là một khu vực giao thông có: buôn bán (hoặc phường nghề), có nhà ở, có dân cư sinh sống tại chỗ ( 3 trong 1 chứ ko phải là 1 trong 3 đâu nhá), thậm chí còn yêu cầu có đặc trưng sinh hoạt và nghề nghiệp riêng một cách tương đối ( vd như Hàng Bún chuyên bún, Hàng Đồng chuyên đồng, hàng Bạc ...) ...
    Tức là Phố cổ phải được xem xét đến không chỉ mặt kiến trúc có cổ không ( và ngay mặt này cũng nên hiểu theo nghĩa là một quần thể KT, trong đó có những quan hệ hũu cơ giữa nhà ở và không gian KT xung quanh ) mà còn phải xem xét cả đến những đặc trưng sinh hoạt và dân cư sinh sống trong đó, ( xemnhững cái đó nó có "cổ" không, hì hì ), có bảo lưu được những nét lịch sử văn hoá của cả tiến trình phát triển cho đến ngày nay không , tất nhiên là hết sức tương đối và được ưu ái về cả lượng lẫn chất.
    Có nghĩa là một khu phố cổ thật sự cổ phải giống như một bảo tàng sống (tương đối), vẫn thở những hơi thở của lịch sử ( như PGS Dương Trung Quốc liên hệ đến sự ngủ quên của Hội An vậy ). Còn nếu nó chỉ có kiến trúc cổ, trong khi những đặc trưng văn hoá, sinh hoạt, dân cư bản địa... đã mất đi, chặc, thì kể ra cũng có thể gọi là cổ nếu ta "rộng rãi" trong quan niệm. Nhưng như thế nó chỉ còn như một bảo tàng chết trưng bày hiện vật đơn thuần mà thôi.
    Đó là lý do vì sao ko ai tranh cãi Hội An có phải là khu phố cổ hay không, còn thủ đô yêu dấu của chúng ta thì có đến gần 1000 năm văn hiến mà vẫn chưa tìm thấy một khu dân cư nào đáng gọi là kiến trúc cổ, chứ chưa nói đến một "khu phố cổ" thật là xịn.
    3) Nhưng cũng có vẻ vô lý khi một kinh đô hàng nghìn năm LS như kinh thành Thăng Long ta, trải qua bao triều đại PK với những giai đoạn phát triển rực rỡ chẳng lẽ lại không có một khu phố nào đáng gọi là cổ ư? Những thành quách, phố xá... thời Lý, Trần, Lê ... đâu cả rồi ?
    Thật ra là có đấy các bác ạ, nhưng chúng nằm đâu đó trong lòng đất, ngay dưới chân chúng ta thôi, nhưng đố biết ở chỗ nào. Gần đây có mấy vụ đào móng thi công các công trình hồi Đại hội Pháp ngữ, Bách hoá Tràng Tiền... giới sử học và khảo cổ học nháo nhào lên vì chỉ trong một khoảnh be bé mấy nghìn mét vuông đã thấy cơ man nào là dấu tích, là hiện vật về những khu dân cư cổ xưa ( còn nháo nhào hơn nữa vì thời hiệu các CQ quản lý đình công trình lại cho các nhà KH tìm kiếm đào bới ít quá). Nhưng dẫu sao chúng cũng nằm dưới lòng đất cả rồi ( những chỗ chưa biết) , va dưới móng mấy công trình đồ sộ của HN rồi.
    4) Bên cạnh kv cho đến nay gọi là "khu phố cổ", người ta quên đi một loại khu phố rất đẹp nữa của HN là "khu phố Tây" (trong ngoặc kép đấy nhá) , chính là toàn bộ những công trình kiến trúc do người Pháp xây dựng ở Đông và Nam HN, quanh hồ Hoàn Kiếm , cầu Tràng Tiền , các dãy công sở, dinh thự nằm trong tam giác Trần Hưng Đạo, Lê Thánh Tông, Tràng Thi - Tràng Tiền và khu vực phụ cận, một phần trong "khu phố cổ" .
    Khu phố này cũng chỉ còn "Tây" về hình thái kiến trúc thôi. Nhưng bên cạnh cái hồn của phố HN trong tranh Bùi Xuân Phái, ta vẫn có, còn, cái đẹp, cái cuốn hút, cái Hà Nội của phố Tây. Không thể phủ nhận giá trị văn hoá, thẩm mỹ và lịch sử ( vô cùng quan trọng) của phố Tây đối với HN và người HN. Chính khu phố Tây cũng đã và đang làm nên bản sắc văn hóa, đặc trưng kiến trúc, cái "Hà Nội" của HN.
    Thế mà cái gia tài ấy hình như hiện nay đang bị bỏ quên- như "phố cổ" đã bị bỏ quên cách đây vài năm trở về trước vậy. Tốc độ khai thác và phá hoại kiến trúc phố Tây đang ở mức báo động, nhưng hình như tôi chưa thấy có một hội thảo KH nào bàn về giá trị của phố Tây, chưa có một động thái nào của các CQ quản lý, cụ thể là Bộ VHTT, Sở VHTT HN, Chính quyền TP HN, giới KH ... nhằm giữ gìn và bảo vệ nó, để rồi độ 10 năm nữa lại đau đớn, nuối tiếc trước LS , lại đổ lỗi cho nhau về trách nhiệm LS.
    P/S: Hồi trước cái Thảo Luận cũ có cuộc tranh luận khá thú vị về Phố cổ, trên đây là một số ý kiến của tớ hồi ấy, còn bài của các bác khác thì tiếc là không giữ được khi nó sập.
    ----------
    Theo thông tin mới bạn The Mask thông báo thì một đoàn chiên da Tây sau khi khảo sát phố HN đã kết luận là chỉ có 7% số nhà hiện nay ở HN là được xây trước những năm 90 và trong số đó chỉ có 9% (của 7% kia) là những nhà còn tồn tại lại từ đầu TK 20 cho đến nay. The Mask hiệu đính lại cái thông tin này nhé.

    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...
  9. Koibeto81

    Koibeto81 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/01/2002
    Bài viết:
    1.250
    Đã được thích:
    0
    Bài của bác CHM quả là hết xảy, về Phố cổ Hà Nội thực ra tớ có suy nghĩ thế này..
    Rất đồng tình với định nghĩa Phố Cổ của bác CHM, do đó phải công nhận một điều là hiện nay Hà Nội không có cái gọi là ??oPhổ Cổ??? theo đúng nghĩa của nó. Cái mà bây giờ ta vẫn gọi là Phố Cổ Hà Nội nó hỗn tạp quá. Có lẽ người ta vẫn gọi Hà Nội với những cái tên như : ??oPhố cổ Hà Nội???, ??oHà Nội 36 phố phường??????bởi vì họ quá Yêu Hà Nội mà thôi. Nhân đây cũng xin trích lời Giáo sư sử học Dương Trung Quốc đánh giá về thực trạng của Phố Cổ Hà Nội thế này :
    Nếu khắt khe thì Hà Nội không còn Phố Cổ, có thể trên bản đồ Việt Nam có một khu vực nằm giữa một bên là bờ sông Hồng và bên kia là kinh thành Thăng Long xa, là nơi ngày xưa từng là phường hội với 36 phố phường của thời Lê, với 60 phố phường của nhiều thời đại khác nhau.
    Nói vậy nhưng tớ vẫn rất mong và tin là một ngày nào đó,chúng ta sẽ được thấy lại Phố Cổ Hà Nội bằng xương bằng thịt chứ không chỉ bằng tưởng tượng qua những bài viết ở chủ đề này. Tại sao lại không nhỉ ? Những gì Người dân Hội An đã làm để giữ cho Hội An được như ngày hôm nay???thì không có lý gì mà người Hà Nội lại không làm được điều tương tự cho Hà Nội.
    Hô khẩu hiệu tí nhé...Hãy Phục hồi và Bảo tồn những giá trị văn hoá đích thực, đặc sắc của Hà Nội cho Hôm nay và Mai sau
    Hìhì...với các thành viên TTVN thân mến của tớ thì, chúng ta hãy cùng bắt đầu Công việc đóbằng việc góp bài viết cho Chủ đề này...
    [​IMG]
    Một đoạn Phổ cổ Hà Nội xưa.

    NO PAIN NO GAIN ​
    Được sửa chữa bởi - koibeto81 vào 13/04/2002 05:23
  10. Koibeto81

    Koibeto81 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/01/2002
    Bài viết:
    1.250
    Đã được thích:
    0
    Nhân bác CHM có đề cập đến hai ngôi nhà được coi là cổ nhất ở Hà Nội hiện nay, tớ có tìm được một ít tư liệu, Post lên mấy bác đọc cho vui.
    Ngôi nhà 87 Mã Mây và 38 Hàng Đào là hai công trình nhà cổ đã được tôn tạo nhằm hướng tới kỷ niệm 990 năm Thăng Long- Hà Nội. Chúng sẽ trở thành điểm du lịch giới thiệu với khách tham quan hình dáng, kiến trúc, giá trị của nhà cổ Hà Nội.
    Ngôi nhà 87 Mã Mây​
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Theo bà Tô Thị Toàn, tiến sĩ - kiến trúc sư, phó trưởng Ban quản lý phố cổ Hà Nội, ngôi nhà 87 Mã Mây là nơi giới thiệu kiến trúc đặc trưng nhà cổ Hà Nội. Bà cho biết nhà cổ thường có hình dáng nhỏ nhắn, xinh xắn như dáng dấp của người Việt Nam. Theo ý thức hệ phong kiến trước đây, nhà không được xây cao hơn vai kiệu của vua, bởi khi vua ngồi trên kiệu không ai được phép thấy mặt Người. Nhà cổ có hình ống. Bề ngang hẹp, có khi chỉ rộng 2m, nhưng chiều sâu có thể lên tới 60-70m. Do vậy, để lấy ánh sáng và tạo luồng khí thông thoáng, giữa các lớp nhà đều có sân. Vật liệu xây dựng chủ yếu là gỗ. Nhưng khoảng 100 năm trở lại đây người ta đã dùng gạch và các loại vữa truyền thống làm từ mật và lá cây để xây tường hoặc gắn kết ngói trên mái dốc. Các song cửa sổ, cánh cửa, vì kèo... đều có trang trí hoạ tiết, hình rồng, phượng...
    Nhà số 87 Mã Mây được xác định có niên đại khoảng 110 năm. Phố Mã Mây xưa kia là hai phố: Ðoạn đầu là phố Hàng Mây chuyên bán song mây, đoạn sau là phố Hàng Mã bán đồ vàng mã. Tại dãy phố này tập trung nhiều thương gia trong và ngoài nước. Năm 1954 có 5 gia đình người Hoa đến sinh sống tại ngôi nhà này. Chính vì vậy, ngôi nhà đã bị thay đổi rất nhiều, kết cấu nhà truyền thống bị phá vỡ. Kiến trúc sư Tô Thị Toàn cùng Ban quản lý phố cổ đã tôn tạo, phục hồi, đưa ngôi nhà trở lại với hình dáng kiến trúc cổ ban đầu.
    Ngôi nhà 38 Hàng Đào​
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Ngôi nhà 38 Hàng Đào nguyên là đình Đồng Lạc - đình của chợ bán yếm lụa, được xây dựng từ thời vua Lê(thế kỷ XVII). Nhưng trong thời kỳ chiến tranh đình đã bị phá huỷ nhiều. Khoảng năm 1856 (niên hiệu Tự Đức-Bính Thìn) ngôi đình mới được trùng tu lại. Năm 1941 (niên hiệu Bảo Đại), đình được xây dựng lại với qui mô 2 tầng. Nhà chủ buôn bán và sinh sống ở tầng 1, tầng 2 dành cho điện thờ. Năm 1953 ngôi nhà trở thành cửa hàng bách hoá. Công việc tôn tạo được tiến hành từ tháng 2/2000 và kết thúc vào tháng 4/2000. Nhà 38 Hàng Đào được chọn làm nơi giới thiệu kỹ thuật xây dựng truyền thống kết hợp kỹ thuật tôn tạo hiện đại. Kiến trúc sư Tô Thị Toàn, người trực tiếp chỉ đạo thi công tại đây cho biết vật liệu xây dựng là bê tông cốt thép kết hợp với gỗ: sàn bê tông, cầu thang bê tông lát gỗ. Cửa của ngôi nhà được thiết kế theo phương thức cửa giữa cao, cửa hai bên thấp theo kiểu cửa của đình chùa xưa: Cửa giữa cao dành cho vua, quan; cửa bên nhỏ, thấp dành cho dân thường.
    Gian điện thờ trên tầng 2 được phục hồi nguyên dạng. Hoạ tiết trên các chấn song cửa, lan can được giữ nguyên theo mẫu cũ còn lại.Ngôi nhà 38 Hàng Đào không những trở thành điểm du lịch mà còn là nơi đặt trụ sở của Ban quản lý phố cổ Hà Nội. Tại đây bạn còn có thể tìm hiểu thêm những thông tin về phố cổ, nhà cổ của Hà Nội có kiểu cửa của đình chùa xưa: Cửa giữa cao dành cho vua, quan; cửa bên nhỏ, thấp dành cho dân thường. Gian điện thờ trên tầng 2 được phục hồi nguyên dạng. Hoạ tiết trên các chấn song cửa, lan can được giữ nguyên theo mẫu cũ còn lại.

    NO PAIN NO GAIN ​
    Được sửa chữa bởi - koibeto81 vào 13/04/2002 05:47
    Được sửa chữa bởi - koibeto81 vào 13/04/2002 06:01

Chia sẻ trang này