1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hà Nội xưa và nay...

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi cuoihaymeu, 04/03/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Koibeto81

    Koibeto81 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/01/2002
    Bài viết:
    1.250
    Đã được thích:
    0
    Thành Cổ Loa nguyên thuỷ có mấy vòng?
    Hiện tại, nhìn vào di tích Cổ Loa, ta thấy có ba vòng thành khép kín, thành nội (Kiển thành), thành trung và thành ngoài. Thế nhưng đâu là thành Cổ Loa nguyên thủy do An Dương Vương xây dựng? Các nhà sử học vẫn chưa thống nhất ý kiến. Giáo sư Đỗ Văn Ninh cho rằng Kiển thành là do tướng Mã Viện của nhà Hán xây sau khi đánh thắng Hai bà Trưng.
    Thành Cổ Loa đã được xây như thế nào?
    Năm 257 trước Công nguyên, nước Âu Lạc được thành lập. An Dương Vương vừa định đô ở Cổ Loa đã bắt tay ngay vào việc xây đắp kinh thành. Theo cấu trúc còn lại hiện nay, Loa thành gồm có:
    Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6-12m, chân rộng từ 20-30m, chu vi 1.650m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy. Thành trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài 6.500m, nơi cao nhất 10m, mặt thành rộng trung bình 10m, có năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hoàng. Thành ngoài cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000m, cao trung bình 3-4m (có chỗ tới hơn 8m). Phía ngoài thành này có hào bao bọc bốn phía. Riêng phía nam không có hào vì con sông Hoàng chảy qua đây. Sở dĩ tường thành cổ quái như vậy là vì người xưa đã biết tận dụng triệt để những gò đất tự nhiên, đắp nối chúng lại để làm tường thành.
    Tương tự như tường ngoài, tường giữa cũng được xây dựng theo cách đắp nối các gò đống tự nhiên thành một vòng tường không có hình dạng cụ thể, do vậy khoảng cách giữa hai vòng thành không đều nhau. Càng về phía nam hai vòng càng gần nhau, cuối cùng được nối liền, chừa một khoảng trống làm cửa thành (cửa Trấn Nam) - lối vào chính.
    Như vậy, gần 15.000m tường thành Cổ Loa có cùng một đặc điểm xây dựng là triệt để lợi dụng địa thế tự nhiên, đắp vòng nối với nhau nơi Trấn Nam môn, tạo thành một hình xoáy trôn ốc nên được gọi là Loa thành. Cách đắp này cổ kim, Đông Tây chưa hề có.
    Chính nhờ phương pháp đắp nối nên trong một thời gian rất ngắn, với nhân lực không đông, sử dụng công cụ bằng đồng, An Dương Vương Thục Phán đã xây dựng được một công trình đồ sộ hiếm thấy. Phương pháp đào hào của dân Âu Lạc cũng có tính sáng tạo đáng kể. Đất hào đắp lên tường vừa giải quyết vấn đề vật liệu, vừa tăng thêm một vòng chướng ngại. Người xưa đã đạt được thành công kép, giảm được phân nửa công sức và nhân đôi mức độ hiểm trở của tòa thành.
    Vòng thành nào không do An Dương Vương xây?
    Theo giáo sư Đỗ Văn Ninh, vòng thành trong cùng (Kiển thành) lâu nay vẫn bị nhiều người lầm tưởng là vòng thứ ba của kinh thành Cổ Loa được An Dương Vương xây vào khoảng năm 257 TCN. Sự thực, Kiển thành là do tướng Mã Viện của nhà Hán xây sau khi đánh thắng Hai bà Trưng. Cổ Loa thời An Dương Vương chỉ có hai chứ không phải ba vòng thành.
    Về mặt kiến trúc, Kiển thành được đắp thành hình chữ nhật, chu vi 1.600m, mặt thành cao 10m. Thành chỉ mở một cửa ở chính giữa mặt tường phía nam và cũng có hào bao quanh. Đáng chú ý là thành có đắp 12 hồi (ụ đất) nhô ra ngoài rất cân xứng, mỗi mặt có bốn hồi.
    Cả bình đồ kiến trúc, kỹ thuật xây dựng và những phát hiện khảo cổ học trong thành đều chứng minh rằng vòng thành này không phải là sản phẩm của thời An Dương Vương. Hoả hồi của Kiển thành được dựng theo lối thành Hán có rất nhiều ở phía bắc Trung Quốc. Hỏa hồi được đắp để ngăn chặn đối phương tiếp cận chân thành. Đây cũng là di tích hỏa hồi đầu tiên ở Việt Nam.
    Giáo sư Đỗ Văn Ninh nhận định, cách xây dựng theo kiểu tạo một bình địa, gặp gò đống thì san bằng, gặp ao hồ thì san lấp rồi mới đắp tường để có tòa thành sắc cạnh là của người Trung Hoa. Kiển thành cũng đã được làm như thế bởi đất Cổ Loa xưa không ít ao đầm. Các nhà khảo cổ học đã từng khai quật và phát hiện những hòn đá và cây chống lầy để đắp tường thành. "Chúng tôi cũng đã tìm được một loại di chỉ có rất nhiều trong khu vực Kiển thành, mà một thời giới nghiên cứu gọi một cách không thỏa đáng là "gốm Cổ Loa". Di chỉ này là những mảnh ngói ống, ngói bản, đinh ngói và đầu ngói ống. Thực ra, những vật liệu lợp nhà này là sản phẩm của người Hán. Người Việt không lợp nhà bằng loại ngói này", giáo sư Ninh nói.
    Bên trong Kiển thành, các nhà khoa học còn tìm thấy những khuôn giếng bằng đất nung. Đây cũng là những khuôn giếng quen thuộc của người Hán. Trong tiến trình lịch sử văn hóa, người Việt đã tiếp thụ khá nhiều yếu tố văn hóa của Trung Hoa nhưng ngói ống lợp nhà, khuôn giếng đất nung vừa kể là những yếu tố người Việt đã từ chối tiếp nhận.
    Khi tiến hành khai quật ở Kiển thành, nhóm nghiên cứu của giáo sư Ninh đã đào được những ngôi mộ Hán xếp bằng gạch in chữ, có niên đại rất xa xưa như: Vĩnh Nguyên thập nhất niên trị (năm thứ 11, niên hiệu Vĩnh Nguyên - đời vua Hán Hòa Đế - năm 99); Vĩnh Nguyên thập thất niên trung tự (năm thứ 17, niên hiệu Vĩnh Nguyên - đời vua Hán Hòa Đế - năm 105) và Vĩnh Sơ ngũ niên trung trị đại hình chuyên (năm thứ 5, niên hiệu Vĩnh Sơ - đời vua Hán An Đế - năm 111). Như vậy, những viên gạch này cho chúng ta biết thời gian người Hán sống, cai trị, xây nhà và được an táng ở đây.
    Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên đã chép: "Mã Viện sau khi đánh bại Hai Bà Trưng đã chia huyện Tây Vu làm hai huyện là Phong Khê và Vọng Hải. ở Phong Khê đắp Kiển thành làm trị sở".
    Kiển thành là thành hình con kén. Nhà sử học Đào Duy Anh cho rằng Kiển thành là nhân địa điểm cũ mà xây lên. Những phát hiện khảo cổ học cũng chứng minh điều đó. Vì địa thế vùng Phong Khê rất thuận lợi nên Mã Viện đã chọn Cổ Loa (nơi mà 300 năm trước đó, An Dương Vương đã định đô để đắp Loa Thành) làm trị sở, sửa sang hai bên vòng thành cũ của An Dương Vương làm "vỏ kén", đồng thời đắp Kiển thành làm "con nhộng" của mình.
    Như vậy, trên đất nước Âu Lạc, đã có một kinh thành Cổ Loa xây dựng vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên và một Kiển thành, trị sở huyện Phong Khê, xây vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên. Vì vậy, việc phân biệt rạch ròi tòa thành xây dựng từ thời An Dương Vương với những công trình bổ sung của giai đoạn lịch sử về sau là điều cần thiết, nhất là khi dự án bảo tồn, tôn tạo di tích Cổ Loa với nhiều hạng mục lớn đã được Ban Quản lý di tích - danh thắng Hà Nội trình thành phố phê duyệt.
    Nguồn : http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2002/07/3B9BE054/
    Koibeto81

    Được koibeto81 sửa chữa / chuyển vào 05:56 ngày 11/07/2002
  2. Ghen

    Ghen Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/06/2002
    Bài viết:
    92
    Đã được thích:
    0
    Nhân các cao thủ của box đang nói về phố tạn gọi là cổ cho nó thống nhất đi.Xin kể hầu các bác một vài câu truyện vụn vặt,lượm lặt được ở các nơi về đền Bạch Mã - nơi thờ vị thần trấn phía Đong của Thăng Long như chúng ta vẫn biết.Đong thời cũng nhờ các bác giúp đỡ,tại ở đây có khá nhiều khúc mắc.
    Đền Bạch Mã,theo iem được nghe kể thì được lập từ trước khi Cao Biền sang xây dựng thành.Vốn được lập ra để thờ Tô Lịch - có lẽ là vị già làng đầu tiên của làng ở ven sông Tô khi xưa < tức là khi nó chưa có tên là sông Tô > - ở nơi bây giờ là núi Nùng.Sau đó cao Biền sang nước ta với sứ mệnh đồng hoá dân ta.Ông ta đã dùng nhiều thủ đoạn để đạt mục đích và thực tế là ông ta rất thành công nếu không có cái chuyện dân ta nhất định thờ các vị thần của dân ta,không bỏ.Cao Biền bèn nghĩ ra cách tiêu diệt các vị thần của ta.Ông ta đi bắt các cô gái đẹp,sau đó lập đàn,nói rằng để tế các vị thần của ta và bày biện cỗ bàn linh đình 1 cách công khai,và khấn vái sì sụp.Sau đó ông ta cho các cô gái ăn bữa cỗ đó và đem chém từng cô,và nói rằng các vị thần của ta đã nhập vào các cô gái và đã bị chém hết rồi.Nhưng ngay khi đó,thần Tô Lịch đã hiện thân,phá hỏng âm mưu của CB.CB tìm mọi cách để triệt TL nhưng không được nên ông ta đành công nhận đền đó.Nhưng sau này khi Tô Định sang hắn lại cho rước thêm linh vị của 1 ông thần nào đó vào thờ trong đền,tức là đền thờ cả hai vị.Sau này,khi Lý Công Uẩn chọn Đại La làm đô và cho xây thành thì ông đã cho chuyển đền ra phía Đông thành.Và đưa thêm thần Bạch Mã vào thờ vì thần đã giúp Lý Công Uẩn xây dựng thành Thăng Long.Mọi người đều biết câu chuyện ngựa hiện lên trong giấc mơ của vua,đi 1 vòng quanh thành,và thành đã được dựng lên theo đường ngựa đi.
    Xung quanh vị thần Bạch mã này,có nhiều ý kiến khác nhau,có người cho rằng đó là Long Đỗ thần quân,có ý kiến cho rằng đó là thần mặt trời,vì ngựa trắng chính là biểu tượng của mặt trời trong quan niệm của người xưa và thêm nữa là hướng đi của ngựa trắng là từ Đông sang Tây,ứng với đường đi của mặt trời.Không biết ý kiến nào là đúng đây.Vậy la lúc này đền đã thờ đến ba vị.Mới đây iem được biết là mấy bà buôn bán ở khu vực quanh đền đưa luôn cả Liễu Mẫu - vị thần của những người buôn bán vào đền thờ.Vậy là đền thờ tới 4 vị thần.Bác nào có tư liệu về đền xin nói cho iem rõ với,được không,thực hư về đền này là thế nào ???
    Khôn ngoan thường thua thiệt
    Ngu si hưởng thái bình
  3. Chitto

    Chitto Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    5.198
    Đã được thích:
    13
    Xin lỗi các bác, hôm nay thấy bác Ma_Xo post cái bài về kinh thành Thăng Long - Hà Nội, tớ sực nhớ đến cái công trình này của các bác (và cũng có một tí ti của tớ nữa) nên lôi nó lên.
    Bác Ma Xó có thể post lại cái bài của bác sang đây được không, để mọi người đọc cho có hệ thổng và để topic ảnh của bác Rùa Vàng được nhiều ảnh hơn.???
    -----------------------------------------------------------
    Sống trên đời sống cần có một tấm lòng
  4. Chitto

    Chitto Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    5.198
    Đã được thích:
    13
    Đây là hai bài của bác Hector bên topic tương tự là "Về lịch sử và Văn hoá Thăng Long Hà Nội, tớ chuyển luôn sang đây cho nó tập trung.
    ___________________________________________
    Hector
    Tản mạn về Thăng Long-Hà Nội
    và về
    tác phẩm của Philippe Papin
    (Histoire de Hanoi, Fayard, 2001, 404 tr.)
    Văn Ngọc
    Một thành phố ví như một tấm gương phản ảnh nếp sống văn hoá vật chất và tinh thần của một dân tộc. Hơn thế nữa, nó còn là một nhân chứng lịch sử, một tấm gương soi bóng những thời đại đã qua.
    Một thành phố còn là một cơ thể sống. Nó tuân theo qui luật của sự sống. Nó có một hình hài vật chất, song lại có một linh hồn. Cái hồn của một thành phố là cái cốt lõi, tinh tuý, thể hiện lên sự sống của nó. Người ta thường nói hồn nước, hay nét vẽ có hồn, cũng là với cái nghĩa đó, và cũng với cái nghĩa là hồn có thể tồn tại, như hồn người, khi thể xác đã mất.
    Song, áp dụng cho một thành phố, chữ hồn còn có thêm một nội dung khác. Đó là cái bản sắc của nó, bao gồm những nét đặc trưng về các mặt lịch sử, kinh tế, xã hội và văn hoá của thành phố đó. Bản sắc vừa hàm chứa những giá trị truyền thống của một dân tộc, lại vừa hội tụ những giá trị nhân bản và thẩm mỹ phổ biến của nhân loại.
    Những giá trị nói trên, không cần phải thời gian mới tích tụ lại được. Một thành phố mới xây dựng xong cũng có thể có được một bản sắc nào đó. Tuy nhiên, một thành phố có một bề dày lịch sử, tích tụ được nhiều nét đặc trưng về các mặt văn hoá, nghệ thuật của những thời kỳ lịch sử khác nhau, thường có một bản sắc đa dạng, phong phú hơn là một thành phố mới.
    Hồn của một thành phố là cái duyên thầm, là cái tinh hoa của những giá trị đặc trưng, đích thực, không phân biệt mới cũ, tạo nên cái sức quyến rũ của nó.
    Khi hình hài của một thành phố suy tàn đến độ mất hết bản sắc, mất hết sự sống, thì cái hồn của nó cũng không còn nữa. Điều này đã xảy ra hơn một lần trong lịch sử. Đó là trường hợp của Thăng Long, thủ đô của nước Việt Nam bắt đầu từ thế kỷ XI, trải qua bao đời phồn thịnh, đến thế kỷ XVIII, bỗng nhiên tàn tạ một cách nhanh chóng, do những cuộc binh biến triền miên, nào loạn trong, giặc ngoài, song chủ yếu là do cuộc tranh chấp giữa chúa Trịnh, chúa Nguyễn, và vua Lê), đến mức vào cuối thế kỷ, khi cả chúa Trịnh, chúa Nguyễn, cả vua Lê và triều đình Tây Sơn đều đã bị gạt ra khỏi chính trường, thì Thăng Long cũng không còn giữ được dấu tích gì của một chốn kinh kỳ nữa, thậm chí ngay cả đến cuộc sống của người dân kẻ chợ trước kia tấp nập bao nhiêu, thì nay trống vắng, tiêu điều bấy nhiêu. Bà huyện Thanh Quan đã có bài thơ nổi tiếng nói lên cảnh tiêu điều này, và tác giả cuốn Histoire de Hanoï cũngđã không quên nhắc tới ở chương 10, tr. 206 :
    Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
    Nền cũ lâu đài bóng tịch dương...
    ...Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
    Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường.
    (Bà Huyện Thanh Quan, Thăng Long hoài cổ, đầu thế kỷ19)
    Hiện tượng kinh thành Thăng Long xuống cấp một cách nghiêm trọng, thậm chí không thể cứu vãn được, vào cuối thế kỷ XVIII, phải chăng cũng là một trong những nguyên nhân khách quan khiến cho vua Gia Long khi lên ngôi hoàng đế (1802), đã chọn ngay Huế (Phú Xuân) làm kinh đô, để có thể xây dựng mới một cách dễ dàng hơn ? (song, chắc hẳn những nguyên nhân chủ quan còn quan trọng hơn nhiều đối với vị vua này !).
    Thăng Long bắt đầu " xuống cấp " từ thế kỷ XVI (thời nhà Mạc), XVII (thời chúa Trịnh), đến thế kỷ XVIII, là thời kỳ cực suy : năm 1786, vua Lê Chiêu Thống đã cho đốt hết tất cả các cung điện của chúa Trịnh ở trong hoàng thành, và chắc hẳn các cung điện ở ngoài thành cũng đã chịu chung một số phận (thời ấy, các chúa xây dựng rất nhiều ở bên ngoài hoàng thành, trong khu dân cư ở). Người ta có thể hình dung được dễ dàng Thăng Long vào thời kỳ đó điêu tàn như thế nào ! Vì ngay từ trước đó nhiều năm (1740), trong hoàng thành đã thấy xuất hiện những cái " trại " (thập tam trại) để cho dân một số làng vào đây ở và làm việc, như thể làm khoán : nhiệm vụ của họ là cắt cỏ hoang, và dọn dẹp gạch ngói ở các cung điện bị tàn phá ! (sđd, chương 8, tr.139-160)
    Đọc cuốn Histoire de Hanoï của Philippe Papin như đọc một cuốn sử Việt Nam tóm lược, song được viết lại với một cái nhìn mới mẻ, sắc bén, cách trình bày lại sáng sủa, hấp dẫn.
    Sự mới mẻ này được thể hiện ngay từ quan niệm của tác giả về phương pháp nghiên cứu. Nói về lịch sử của một thành phố đã từng là thủ đô của một nước trong nhiều thế kỷ như Hà Nội, không thể nào không bắt đầu từ những cội nguồn xa xôi nhất của nó, và đặt nó vào trong bối cảnh kinh tế, văn hoá, và lịch sử chung của cả một dân tộc. Tác giả đã quậy lên các truyền thuyết, các sự tích, thần thoại, tham khảo các kết quả nghiên cứu về khảo cổ học, về địa hình, địa thế của vùng đất Thăng Long xưa, cũng như về những biến động của sông Hồng, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu. Về mặt lịch sử, ông đã đi ngược lên đến tận thế kỷ 3 trước Công Nguyên, tức thời An Dương Vương và thành Cổ Loa. Ông luôn luôn có một cái nhìn so sánh : ông so sánh các truyền thuyết dân gian, và nhận xét rằng có những truyền thuyết mang đậm dấu vết giao lưu văn hoá giữa Việt Nam và Trung Quốc, như truyền thuyết về sư Không Lộ và con trâu vàng, truyền thuyết về con cáo chín đuôi, cả hai cùng là để giải thích sự hình thành của hồ Tây ; truyền thuyết về thần Bạch Mã giúp vua nhà Lý xây thành, cũng có nguồn gốc trong thần thoại Trung Quốc). Cũng như, về khảo cổ học, ông đã so sánh những mảnh gốm tìm được ở chân thành Đại La của Cao Biền với những dấu tích của tháp chùa Phật Tích thời Lý (mà nền móng cũ cũng đã được xây từ thời Cao Biền). Theo tác giả, nghệ thuật chạm khắc ở Đại La, cũng như ở Phật Tích, hay ở Bình Sơn, đều có mối liên hệ mật thiết với nhau và đều dựa trên một truyền thống nghệ thuật Trung Quốc có ít nhất từ thế kỷ 9, mà những tiêu chuẩn đã được ghi chép lại ở thế kỷ 11.
    Một điều đáng chú ý nữa trong cách phân tích của Philippe Papin, tuy không phải là một điều gì mới mẻ đối với giới nghiên cứu, là ông không chỉ dừng lại ở những hiện tượng, những sự kiện riêng lẻ, mà chủ yếu quan tâm đến những mối quan hệ đôi khi chồng chéo nhau giữa những sự kiện ấy.
    Cũng trong tinh thần đó, tác giả trình bày lịch sử Hà Nội, không phải bắt đầu từ lúc nhà Lý lập kinh đô Thăng Long trở đi (1010), mà từ tận cái thời mà vùng đất này còn được gọi là Long Đỗ (cái rốn con rồng), lúc bấy giờ mới chỉ là một làng nhỏ nằm trên sông Tô Lịch (trước thế kỷ 7). Trong hai thế kỷ 7 và 8, Long Đỗ được nhà Đường nâng lên hàng thủ phủ của quận Giao Chỉ và được đặt tên mới là Tống Bình (chữ Tonkin trong tiếng Pháp cũng từ đó mà ra). Đến thế kỷ 9, Cao Biền xây lên toà thành đầu tiên ở đây, tức thành Đại La.
    Cái tài tình của tác giả là gây được hứng thú cho người đọc, thuyết phục được họ với những bằng chứng cụ thể, khiến cho họ nắm bắt được mối liên hệ hữu cơ giữa một thành phố, sản phẩm kinh tế-văn hoá của một xã hội, và lịch sử của xã hội ấy qua các thời đại.
    Philippe Papin không những đã đem lại một cách nhìn, một phương pháp mới mẻ trong việc nghiên cứu và trình bày một đề tài phức tạp như lịch sử của thành phố Hà Nội, mà do công phu tìm tòi, tra cứu, qua các tài liệu thư tịch, những hiện vật, cũng như qua các đợt điền dã, ông còn đưa ra ánh sáng nhiều thông tin bổ ích cho việc tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển, cũng như những đặc trưng của thành phố này.
    Về kinh thành Thăng Long của nhà Lý, tác giả đã có một nhận xét rất tinh tường : thành này đã không rập theo kiểu mẫu của Trung Quốc. Quan niệm truyền thống bất di bất dịch của Trung Quốc là, một kinh thành bắt buộc phải có Cấm thành, là nơi vua ngự ; Hoàng thành là nơi dành cho triều đình ; thị là nơi dân cư ở, làm ăn, buôn bán. Thăng Long lúc mới xây lên, gần như không có cấm thành, chỉ có cung vua (cung Càn Nguyên, sau này, năm 1029 đổi tên là cung Thiên An) nằm bên cạnh vài cung điện khác dành cho công việc của triều đình, như cung Tập Hiền, cung Giảng Võ, v.v. Các gia đình hoàng tộc phần đông đều lập dinh thự ở bên ngoài thành nội, ngay tại khu dân cư ở : cung của công chúa Từ Hoa và nhiều cung điện khác được xây cất ở ven hồ Tây, Cung Khánh Thuỵ nằm ở trên hồ Lục Thuỷ (tức hồ Hoàn Kiếm sau này), v.v. Về hình thức bố trí mặt bằng, Thăng Long khác xa với kiểu mẫu kinh thành cổ điển của Trung Quốc, luôn luôn được thiết kế với những đường thẳng góc và trục đối xứng. Ở kinh thành nhà Lý, các bức tường của thành ngoài cũng như thành trong đều được xây theo địa hình của cái nơi có " núi Nùng, sông Nhị ", chủ yếu là theo địa hình của sông Hồng, sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu, nghĩa là không theo một đường thẳng nào cả, trừ góc đông-nam trông ra sông Hồng. (Ngược lại, kinh thành Huế của vua Gia Long sau này lại rập theo đúng khuôn mẫu của kinh thành Bắc Kinh).
    Thời kỳ " vàng son " của Thăng Long, ở thế kỷ 15, dưới thời nhà Lê, đã được tác giả dành cho nhiều chương hấp dẫn, (các chương 7-8-9) trong đó có một chương nói về khu phố cổ " 36 phố phường " của Hà Nội (sđd, tr.171-189). Tác giả cho biết là ở vào các thế kỷ từ 15 đến 18, thuyền bè từ sông Cái (tức sông Hồng, hay sông Nhị) ra vào sông Tô Lịch rất là tấp nập. Các phố hàng Bè và hàng Buồm đều có nguồn gốc từ đó. Các phố hàng Mắm, hàng Muối, hàng Đường, cũng là những nơi có bến, có chợ cho thuyền bè dừng lại để giao bốc hàng và mua bán. Hai phường Diên Hưng (khu phố hàng Ngang) và Đồng Lạc (khu phố hàng Đào) là hai nơi đông vui nhất, cũng như chợ Bạch Mã, ở gần đền Bạch Mã (phố hàng Trống).
    Thực ra, ngay từ thế kỷ 13, 14 dưới thời nhà Trần, các phường phố cũng đã tấp nập lắm rồi. Vua Trần Anh Tôn hay thích đi dạo chơi phố phường về đêm (khi đó các phố chưa có cổng chắn ở hai đầu). Phường là một đơn vị hành chính, có từ thời nhà Lý. Đó là những khu đôi khi ở ngoại vi, có lẽ vì cần nước cho công việc sản xuất (trồng trọt, làm giấy, dệt lụa, v.v.) cho nên chúng giống như những xóm làng ở nông thôn. Chung quanh hồ Tây có các phường : Nghi Tàm, Quảng Bá, trồng rau ; Thịnh Quang trồng nhãn ; Yên Phụ sản xuất tranh ; Ngũ Xá đúc đồng ; Bái Ân dệt lụa thường, Võng Thị dệt lụa đen, Trích Sào dệt gấm ; Bưởi, Nghĩa Đô, làm giấy, v.v. Những sản phẩm được làm ra ở phường được đem lên phố bán, như giấy và lụa của phường Yên Thái và phường Hồ Khẩu được đem lên bán ở các cửa hiệu phố hàng Giấy và phố hàng Đào. Sau này, chỉ còn lại các phường ở ngoại vi, còn các phường ở trong khu phố buôn bán cũ đều bị xoá bỏ đi hết, và được thay thế bằng các phố (trừ phường Đồng Xuân). Phố chỉ là cái mặt tiền của phường. Có lẽ do lẫn lộn hai khái niệm này, mà người ta quen gọi khu phố cổ của Hà Nội, tức khu phố buôn bán cũ, là khu " 36 phố phường ". Thực ra chỉ riêng trong khu này cũng đã có đến cả trăm phố rồi. Nhưng có lẽ con số 36 cũng chỉ có nghĩa là nhiều mà thôi, như người ta thường hiểu trong ngôn ngữ dân gian.
    Trong chương nói về thành phố Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc, Philippe Papin cũng đã cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin bổ ích (sđd, chương 12, tr.225-250). Có những sự kiện lịch sử, những yếu tố thuộc lãnh vực chính trị, hay kinh tế, đã làm thay đổi hẳn bộ mặt của thành phố. Chẳng hạn như trục đường Tràng Tiền-Tràng Thi là trục đường, mà vào năm 1883-84, quân đội thuộc địa Pháp, trước khi đánh chiếm thành Hà Nội, đã lấy làm trục đường chiến lược nối liền khu vực nhượng địa đầu tiên (1875), nằm ở phía bờ sông (khu phố Phạm Ngũ Lão ngày nay), với Cửa Nam (thành nhà Nguyễn) (xem bản đồ tr. 222, sđd). Trước khi đánh thành Hà Nội, tổng hành dinh của Francis Garnier nằm ở ngay trên đường Tràng Thi. Sơ đồ chiến lược này, vô hình trung, làm cho người ta nghĩ đến sơ đồ cũng nhằm một mục đích quân sự tương tự, mà Napoléon III và Hausmann đã áp dụng trong phương án cải tạo Paris, trước đó không lâu.
    Trục đường Tràng Tiền-Tràng Thi-Cửa Nam cũng là trục đường ngăn đôi khu phố ta và khu phố Tây. Bắt đầu từ đó trở xuống phía Nam, ngay sau khi chiếm được Hà Nội rồi (1884), chính quyền thuộc địa bắt đầu tiến hành trưng mua đất để xây dựng phố sá, nhà cửa, vượt xa hẳn ranh giới đã được thoả thuận giữa vua Đồng Khánh và chính quyền thuộc địa Pháp ngày 1-10-1888, trong một hiệp ước qui định " Hà Nội, Hải Phòng và Tourane là đất nhượng địa thuộc toàn quyền sở hữu của người Pháp ", có kèm theo cả bản đồ, mà sau này không hiểu sao lại bị thất lạc ! (sđd, tr. 225-227)
    Trên đây là một vài ý kiến tản mạn về Thăng Long, về Hà Nội và về cuốn Histoire de Hanoï của Philippe Papin. Mặc dầu đây đó có một vài sơ sót, và có những nhận định của tác giả có thể làm cho một số người ngạc nhiên, song tác phẩm của Philippe Papin dẫu sao cũng là một đóng góp to lớn cho việc tìm hiểu sâu thêm về Hà Nội. Nó ra đời thật đúng lúc. Tôi tin rằng nó sẽ là một tư liệu quí báu, cung cấp nhiều thông tin bổ ích cho giới nghiên cứu về dân tộc học, nói chung, cũng như cho những người làm về qui hoạch-kiến trúc cho thủ đô Hà Nội, và cho việc chuẩn bị kỷ niệm 1000 năm Thăng Long sắp tới. Tôi cũng mong rằng từ đây đến năm 2010 sẽ còn có nhiều tác phẩm khác viết về thủ đô Hà Nội, và cũng có cùng một chất lượng như thế.
    Được Hector sửa chữa / chuyển vào 28/06/2002 ngày 10:36
    -----------------------------------------------------------
    Sống trên đời sống cần có một tấm lòng
  5. Chitto

    Chitto Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    5.198
    Đã được thích:
    13
    Tiếp theo đáng ra có bài trường ca của bác Hector post, và một đoạn bình khá dài nhưng không đầy đủ.
    Vì vậy tớ lấy đầy đủ bản trường ca này từ bên bài của bác VNHL (trong box GD ĐT, PBKT) cùng với phần bình
    ______________________________________________
    VNHL
    Năm hết, tết đến, copy lại bài thơ, à mà chính xác là trường ca đã rất phổ biến này để mọi người cùng đọc lại. Trường ca này được viết tính đến nay là tròn 30 năm.
    HÀ NỘI - PHỐ
    (trích)
    Phan Vũ
    Gửi những người Hà Nội đi xa ...
    Chương một
    1.
    Em ơi ! Hà Nội - phố !
    Ta còn em mùi hoàng lan
    Còn em hoa sữa.
    Tiếng giày gọi đường khuya
    Thang gác cọt kẹt thời gian
    Thân gỗ ...
    Ta còn em màu xanh thật đêm
    Ngôi sao lẻ
    Xào xạc chùm cây gió
    Chiếc lá lạc vào căn xép nhỏ
    Lá thư quên địa chỉ.
    Quay về ...
    2.
    Ta còn em một gốc cây
    Một cột đèn
    Ai đó chờ ai ?
    Tóc cắt ngang
    Xõa xõa bờ vai ...
    Ta còn em ngã ba nào ?
    Chiếc khăn quàng tím đỏ,
    Khuôn mặt chưa quen
    Bỗng xôn xao nỗi khổ !
    Góc phố ấy mở đầu
    Trang tình sử ! ...
    3.
    Ta còn em con đường vắng
    Rì rào cơn lốc nhỏ
    Gót chân ai qua mùa lá đổ ?
    Nhà thờ Cửa Bắc,
    Chiều tan lễ,
    Chuông nguyện còn mãi ngân nga ...
    Chương hai
    6.
    Ta còn em khúc tự tình ca
    Đôi chim khuyên gọi nhau
    Trong bụi cỏ
    Đôi guốc bỏ quên bên ghế đá,
    Tiếng ve ra rả mùa hè ...
    Còn em đường cũ Cổ Ngư
    La đà,
    Cành phượng vĩ.
    Hoàng hôn xa đến tự bao giờ,
    Nắng chiều phai trên sóng Tây Hồ.
    Những bước chân tìm nhau
    Rất vội,
    Tiếng thì thầm sớm hôm buổi tối,
    Cuộc tình hờ
    Bỗng chốc
    Nghiêm trang ...
    Chương ba
    9.
    Ta còn em đường lượn mái cong
    Ngôi chùa cũ,
    Tháng năm buồn lệch xô ngói âm dương
    Ai đó ngồi bên gốc đại,
    Chợt quên ai kia
    Đứng đợi bên đường.
    Chương bốn
    10.
    Em ơi ! Hà Nội - phố !
    Ta còn em đám mây in bóng rồng bay
    Cổng đền Quan Thánh
    Cờ đuôi nheo ngũ sắc
    Còn em dãy bia đá
    Nhân hình hội tụ
    Rêu phong gìn giữ nét tài hoa ...
    (...)
    Ta còn em tiếng trống tan trường
    Áo thanh thiên điệp màu liễu rủ.
    Đôi guốc cao mài mòn đại lộ,
    Một ngả nào lưu dấu gót tài hoa.
    Còn em mãi mãi dáng kiêu sa
    Lặng lẽ theo em về phố ...
    11.
    Ta còn em những ánh sao sa,
    Tia hồi quang
    Chớp chớp trên đường
    Toa xe điện cuối ngày,
    Áo bành tô cũ nát ...
    Lanh canh ! Lanh canh !
    Tiếng hàng ngày hay hồi âm
    Thuở chiềng khua ? ...
    Ta còn em ngọn đèn khuya
    Vùng sáng nhỏ
    Bà quán mải mê câu chuyện
    Nàng Kiều
    Rượu làng Vân lung linh men ngọt
    Mắt cô nàng lúng liếng, đong đưa
    Những chàng trai say suốt mùa ...
    Chương năm
    13.
    Ta còn em cánh cửa sắt
    Lâu ngày không mở.
    Nhà ai ?
    Qua đó.
    Bâng khuâng nhớ tuổi học trò
    Còn em giàn thiên lý chết khô,
    Cỏ mọc hoang trong vườn nắng,
    Còn em tiếng ghi-ta
    Bập bùng
    Tự sự
    Châm lửa điếu thuốc cuối cùng
    Xập xòa
    Kỷ niệm.
    Đêm Kinh Kỳ thuở ấy,
    Xanh lơ ...
    17.
    Ta còn em chiếc lá bàng đầu tiên
    Nhuộm đỏ
    Cô gái gặp nắng hanh.
    Chợt hồng đôi má
    Cơn mưa nào đi nhanh qua phố
    Một chút xanh hơn
    Trời Hà nội hôm qua ...
    Ta còn em cô hàng hoa
    Gánh mùa thu
    Qua cổng chợ
    Những chùm hoa tím
    Ngát
    Mùa thu ...
    Chương sáu
    18.
    Em ơi ! Hà Nội - phố !
    Ta còn em một màu xanh thời gian
    Chợt nhòe,
    Chợt hiện
    Chợt lung linh ngọn nến,
    Chợt mong manh
    Một dáng
    Một hình
    20.
    Ta còn em một phút mê cuồng
    Người nghệ sĩ lang thang hè phố
    Bơ vơ
    Không nhớ nổi con đường.
    Ngay trước cổng nhà mẹ cha
    Còn em một bóng chiều sa
    Những câu thơ, những bức tranh
    Đời đời
    Lỡ dở ...
    Chương bảy
    21.
    Em ơi ! Hà Nội - phố !
    Ta còn em những giọt sương
    Nhòa nhòa bóng điện
    Mặt nước Hồ Gươm
    Một đêm trở lạnh.
    Cánh nhạn chao nghiêng
    Chiều cuối,
    Giã từ...
    23.
    Em ơi ! Hà Nội - phố !
    Ta còn em cánh tay trần
    Mở cửa
    Mùa Xuân trong khung :
    Giò phong lan
    Điệp vàng rực rỡ
    Từng cây khô óng ả sợi tơ hồng
    Đường phố dài
    Chi chít chồi sinh
    Màu ước vọng in hình
    Xanh nõn lá ...
    Ta còn em,
    Hà Nội - phố, em ơi !
    Ta còn em,
    Em ơi ! Hà Nội, phố ...
    Tháng Chạp, 1972
    PHAN VŨ
    ______________________
    Hector:
    Đôi lời về bài thơ "Hà Nội - phố"
    1. Bài thơ của Phan Vũ viết vào tháng Chạp năm 1972, khi cuộc chiến tranh Mỹ-Việt đang trong giai đoạn cuối, khi sự khốc liệt và chịu đựng trên khắp xứ sở như đã đến mức tột cùng. Hủy diệt có thể dẫn đến sớm kết thúc cuộc chiến. Bài học về hai thành phố Nhật bản vẫn còn. Có lẽ trong quyết định rải thảm Hà Nội bằng pháo đài bay B52 có mối liên hệ này.
    Hà Nội - thành phố nhỏ, nghèo, lặng lẽ, ít màu sắc rực rỡ. Cái sắc màu chính khi đó là màu xanh xám. Màu xanh của rêu tường, màu xanh của áo phòng không.
    Viết gửi những người đi xa khi thành phố quê hương đang bị tàn phá khốc liệt, bài thơ của Phan Vũ không có tiếng bom rơi, không có nhà đổ, không có người chết. Chỉ có lời bình thản của những ngày bình an. Giữa sự sống và cái chết, bình thản là một chọn lựa.
    2. Tuy phân ra nhiều chương, nhưng bài thơ như không có sự khác biệt giữa các chương. Tất cả là cảm xúc của tác giả về phố và người Hà Nội. Ba chữ "Ta còn em" được lặp nhiều lần, mở đầu cho nhiều khổ thơ. Đại từ "em" phải chăng có thể hiểu là phố Hà Nội, là người con gái nào đó ẩn hiện suốt bài thơ ? Tác giả, người ở lại trong thành phố bom rơi, như đã hóa thân. Ta còn em ... vì không muốn mất và không mất.
    Bài thơ nhiều hình ảnh, từng chữ, từng câu được chắt lọc kỹ lưỡng. Nhưng có lẽ điều làm bài thơ thật hay là những câu chữ chắt lọc rất đẹp ấy được viết thật giản dị. Giản dị như nói, như những lời người thân nhắn gửi. Và vì thế mà gửi gắm được tới người đọc, tới người đi xa.
    3. Thơ có nhạc và nhạc có thơ. Hay vì bản nhạc đã thấm vào lòng mà đọc bài thơ luôn thấy ngân nga tiếng hát. Hay vì bài thơ ngọt ngào mà khi đọc lòng thường cất tiếng hát theo.
    4. "Hà Nội - phố" có nhiều câu chữ, nhiều hình ảnh "đắt", gợi cảm xúc, gợi nhớ về những gì thật riêng của thành phố, những gì thật riêng của mỗi người. Đó là những lời tần ngần về "ngôi sao lẻ", "chiếc lá lạc", "mối tình hờ", "giàn thiên lý chết khô", "giọt sương nhòa nhòa bóng điện", tóc "xõa xõa bờ vai"...
    Một chút nao nao, một chút bâng khuâng, một chút lung linh.
    Về những căn nhà cũ của ba mươi sáu phố phường. Ở Hà Nội, chỉ những nhà đã xây cất từ thời Pháp mới có thang gác bằng gỗ, cũ lắm rồi
    Thang gác cọt kẹt thời gian
    Thân gỗ ...
    Về Hồ Tây mênh mông mà đứng đâu cũng thấy chiều tan trên mặt nước
    Nắng chiều phai trên sóng Tây Hồ.
    Những bước chân tìm nhau
    Rất vội
    Về những mái chùa xưa xiêu xiêu cùng năm tháng
    Tháng năm buồn lệch xô ngói âm dương
    Ai đó ngồi bên gốc đại
    Về tiếng chuông chiều nhà thờ quen thuộc
    Chiều tan lễ,
    Chuông nguyện còn mãi ngân nga ...
    Về một cuộc sống còn nhiều vất vả, một thuở xa xưa đã hào hoa
    Toa xe điện cuối ngày,
    Áo bành tô cũ nát
    Lanh canh ! lanh canh !
    Về say đắm quên cả đất trời
    Người nghệ sĩ lang thang hè phố
    Bơ vơ
    Không nhớ nổi con đường.
    Ngay trước cổng nhà mẹ cha
    Và khắc khoải của sự sáng tạo vốn không có bến bờ
    Những câu thơ, những bức tranh
    Đời đời
    Lỡ dở ...
    5. Bài thơ thấp thoáng nét kiêu sa của người con gái
    Rì rào cơn lốc nhỏ
    Gót chân ai qua mùa lá đổ ?
    để rồi mọi gã trai Hà Nội si tình
    Lặng lẽ theo em về phố ...
    Nhưng nhiều hơn vẫn là những con người của cuộc sống hàng ngày bình dị, là "bà quán" "mê câu chuyện nàng Kiều", là "cô nàng" mắt "lúng liếng, đong đưa", là "những chàng trai say suốt mùa" ...
    6. "Hà Nội - phố" có nhiều câu thơ lạ và đẹp. Lạ nhưng không cố tình làm lạ, và vì thế mà đẹp hơn.
    Khuôn mặt chưa quen
    Bỗng xôn xao nỗi khổ !
    Người ta thường chỉ nói "xôn xao nỗi nhớ". Nhưng nhớ đã thành khổ là nhớ lắm. Thấy khổ vì người lạ thì chắc đã thầm mong nhiều. Khổ nhưng mong nên mới xôn xao.
    Ta còn em tiếng trống tan trường
    Áo thanh thiên điệp màu liễu rủ.
    Đôi guốc cao mài mòn đại lộ
    Guốc gỗ mài mòn được đại lộ bao giờ ? Thuở ấy con gái Hà Nội hay đi guốc. Đôi guốc được tác giả hai lần nói đến trong bài thơ
    Đôi guốc bỏ quên bên ghế đá
    Bỏ quên guốc bên ghế đá thì phải say sưa lắm, cũng say như "áo qua cầu gió bay".
    Ta còn em cô hàng hoa
    Gánh mùa thu
    Qua cổng chợ
    Hà Nội có nhiều làng trồng hoa, Nhật Tân, Nghi Tàm, Quảng Bá, Ngọc Hà ... những làng quanh Hồ Tây. Đàn bà, con gái nhà trồng hoa cũng thường là người gánh hoa vào phố bán. Gánh hàng hoa Hà Nội đã đi vào văn học mấy chục năm trước. Gánh gồng là việc nặng, nào có thơ gì. Nhưng "gánh mùa thu" vào phố thì thật là đẹp, thật trân trọng và biết ơn.
    Thơ ca hay nói đến Hà Nội với hoa lan, hoa sữa. Cây bàng lại thường đem cho tôi thật nhiều nỗi nhớ về tuổi thơ ở Hà Nội. Lũ trẻ con chúng tôi thường đi chọc hay ném những quả bàng chín vàng ăn ngọt lừ. Rồi hột bàng phơi khô đập lấy nhân ăn béo ngậy. Cây lá xứ mình xanh quanh năm, ít cây như cây bàng lá chuyển màu từ xanh sang đỏ, rồi rụng rồi chỉ còn những cành trơ trụi khẳng khiu run run trong gió bấc (mà tác giả bài hát "Hà Nội - phố" đã gọi là "cây bàng mồ côi mùa Đông")
    Ta còn em chiếc lá bàng đầu tiên
    Nhuộm đỏ
    Đấy là khi mùa Đông đến. Rồi mùa Đông đi qua mùa Xuân tới, khi trời Hà Nội hơi mưa phùn, hơi se se lạnh, cây cối trổ lộc, sẽ thật ấm lòng nhìn thấy cành cành xanh nõn lá non
    Chi chít chồi sinh
    Màu ước vọng in hình
    Và mùa Xuân bỗng xôn xao khi qua đường chợt thoáng thấy tay trần con gái trong cửa sổ
    Ta còn em cánh tay trần
    Mở cửa
    Mùa Xuân trong khung
    7. "Từ thuở mang gươm đi mở cõi
    Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long" ...
    Tháng chạp năm 1972, sau hai năm đầu đại học ngành toán tôi đã trong quân đội và xa Hà Nội. Đêm đêm trong căn hầm bên bờ Thạch Hãn chúng tôi quây quanh chiếc đài bán dẫn nhỏ ngóng chờ giọng nói thân quen, "Đây là tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội, thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa". Biết Hà Nội bị B52 đe dọa. Rồi những ngày bỗng không bắt được tín hiệu gì, mở máy chỉ thấy u u. Nhìn về trời đêm phương Bắc xa xăm mà lòng thắt lại ...
    Hà Nội bé nhỏ đã qua gần một thế kỷ của những xung đột và chinh chiến, của những tàn phá và xây dựng, của những điều làm Hà Nội "đẹp và chưa đẹp". Trong những ngày khốc liệt ấy, cái "ta còn" trong bài thơ của Phan Vũ là tình yêu bình dị của cuộc sống Hà Nội. Mãi mãi vẫn còn !
    Hà Nội - phố, Em ơi !
    Tháng 12, 1996
    Tùng Nguyên
    -----------------------------------------------------------
    Sống trên đời sống cần có một tấm lòng
  6. Quake3games

    Quake3games Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/03/2003
    Bài viết:
    344
    Đã được thích:
    0
    Hà Nội ngày nay sắp mất làng đào Nhật Tân rồi, còn húng Láng thì gần như đã tuyệt chủng rồi. Chán quá. Cứ đà này thì những cái đặc trưng cổ của Thăng Long sẽ biến mất cùng với tốc đô thị hoá.
    Chỉ có súc vật mới ghen tị,tức tối và luôn tìm cách chế giễu, bôi nhọ trước sự phát triển của Quê hương.
  7. mayor

    mayor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/11/2003
    Bài viết:
    194
    Đã được thích:
    0
    Mọi người có ai biết về thân thế và sự nghiệp, thân thế của các tổng đốc, Thị trưởng Hà nội.. từ những năm 1990 thế kỷ XX trở về trước không?
    Trong lịch sử, ai được coi là tổng đốc (hoặc chức vụ tương đương) cuả thành Thăng Long
    Các vị thị trưởng thời cách mạng (từ năm 45) là những ai vậy?
    Tôi chỉ nghe nói nhiều tới Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, thời chống Mỹ có thị trưởng Trần Duy Hưng. Có ai có tư liệu chi tiết về những vị này post lên với?
    Cám ơn
  8. sleeping_girl

    sleeping_girl Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/04/2004
    Bài viết:
    8
    Đã được thích:
    0
    hiz, mọi người hiểu biết ghê
    Zay co ai bít gì về phủ Tây Hồ và đền Quán Thánh ko, có thể nói cho tui bít được không. Tại tui ở Sài Gòn mà bị bà cô giao cho viết về lịch sử xưa đến nay của Phủ Tây Hồ + Quán Thánh, tìm sách mà chẳng thấy hết trơn, nếu có cũng chỉ 1 đoạn ngắn ngủn hà
    Ai có thể nói cho minh` biết rõ hơn không, càng chi tiết càng tốt, Thanks các bạn

Chia sẻ trang này