1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hà Văn Thể ??" thi sĩ cô đơn mơ mộng

Chủ đề trong 'Văn học' bởi nguyendinhchieu24, 25/07/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. nguyendinhchieu24

    nguyendinhchieu24 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/07/2006
    Bài viết:
    1
    Đã được thích:
    0
    Hà Văn Thể ?" thi sĩ cô đơn mơ mộng

    Hà Văn Thể ?" thi sĩ cô đơn mơ mộng
    Đọc ?oLạy xin mây trắng? ?" Thơ Hà Văn Thể ?" Nxb Hội Nhà văn, 2005
    Dương Kiều Minh

    Không khỏi bất ngờ, vào lúc này vẫn còn có những nhà thơ ôm theo khối tâm sự từ thế kỷ XX với dòng máu lãng mạn đến chân thành, như cơn gió thổi ào đến thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI:
    Tắt mặt trời. Nồng bụi tro than
    Gió hú thét. Đá rầm rầm chuyển động
    Tôi cưỡi đá bay qua phố phường, đồng ruộng
    Hoảng loạn gọi con người ?" người trốn biệt nơi nao

    Mơ mộng quá và cô đơn quá! Trơ trọi vì yêu con người quá hay là dự cảm hoặc một sự cảnh báo về một nền đạo đức chăng? Có những câu hỏi sẽ được đặt ra, nhưng đối với tôi, những câu thơ này vẫn hút tôi về phía một tinh cầu nhỏ bé của nhà thơ đang lượn theo vòng quay miên viễn của trái đất và của thế thái nhân tình. Tinh cầu nhỏ bé này luôn theo sát con người, trong chờ đợi và hy vọng. Liệu ai dám quả quyết rằng suốt cuộc đời, họ sẽ chẳng bao giờ rơi vào những hoàn cảnh khó khăn và nhận ra mình hoàn toàn trơ trọi, bất lực, chẳng là cái gì đáng kể ở trần gian này?
    Sự trơ trọi và hoang vắng được tạo nên trong những câu thơ thuộc về thế giới tâm cảm phát lộ từ thần thức của nhà thơ. Nếu xét về phương diện lý trí chúng không là hiện thực ?" song, chúng vẫn cuốn hút bởi khát vọng giao cảm giữa con người với con người được đặt ở vị trí cấp bách. Và, tôi nhận thấy cái tinh cầu nhỏ bé của nhà thơ đã đánh thức toàn bộ những xung động tiềm ẩn về tính nhân văn đang ẩn chứa trong mỗi chúng ta. Ngay lập tức, chúng lấp đầy cái hố vực hoang vắng trơ trọi từng hiện ra trong tâm thức con người.

    Đoạn thơ tôi vừa trích dẫn ở trên nằm trong tập thơ Lạy xin mây trắng của nhà thơ Hà Văn Thể, do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm 2005. Trước tập thơ Lạy xin mây trắng, Hà Văn Thể đã xuất bản ba tập thơ: Khi tôi trên mặt đất (1991), Thời bình (1995) và tập thơ dành cho thiếu nhi Vườn cây bà ngoại (2001). Tôi đã được đọc tập thơ Khi tôi trên mặt đất của Hà Văn Thể, và đến tập thơ Lạy xin mây trắng, tôi thấy rằng Hà Văn Thể vẫn duy trì được cái năng lượng thi sỹ đã từng được thổi lên từ tập thơ đầu tay của anh. Khi tôi trên mặt đất là một trong những tập thơ mà tôi có ấn tượng cho tới lúc này. ở đó cái tinh thần thi ca lãng mạn, phóng túng và vô cùng chân thật ?" nó như ngọn gió đầy hứng khởi và nhiệt huyết cuốn đi mê man tưởng như bất tận trong ?ocõi người ta?. Và, tôi nhớ mãi Hà Văn Thể với bức chân dung mà anh đã tự phác hoạ cho mình đó. Tất nhiên, đây chỉ là cảm nhận của riêng tôi, còn sự cảm nhận đánh giá của những người trong giới như thế nào, thực ra tôi làm sao mà quan tâm hết được.

    Lạy xin mây trắng là tập thơ tiếp tục duy trì cái khí mạch chính của thơ Hà Văn Thể. ở nước ta, hình ảnh cây cọ vốn là loài cây đặc trưng của vùng trung du, từng được mô phỏng và tái hiện trong nghệ thuật và thơ ca. Đến Hà Văn Thể, hình ảnh cây cọ đã được đẩy lên thành hình tượng thâu tóm toàn bộ hồn vía, mang tính tâm thức tâm linh của văn hoá trung du.
    Đây là hình ảnh thực của cây cọ gắn với đời sống cá thể của nhà thơ:
    Ban mai tôi thức dậy
    Vẫn cây cọ trước nhà đứng vẫy
    Những tàu xanh
    Sương đêm vơi đi phần tươi non của lá
    Chiếc gai dần cứng lại và cùn
    ?
    Ban mai tôi thức dậy
    Gặp sợi tóc trên đầu rụng xuống (Ban mai)

    Cây cọ hiện lên song trùng với chặng đời mang tính sinh học của nhà thơ. Theo thời gian, qua nắng lửa, qua gió rét, rồi bão táp mưa sa, làm ?ovơi đi phần tươi non của lá/ Chiếc gai dần cứng lại và cùn?. Rồi: ?oBan mai tôi thức dậy/ Gặp sợi tóc trên đầu rụng xuống?, ta như nghe thấy tiếng vang lên của tàu lá cọ vừa rụng xuống trên sườn đồi. Cũng hình ảnh cây cọ này được đẩy lên thành hình tượng: ?oNhư người lính đứng canh dọc thuở vua Hùng?:
    Bởi yêu đất những người lính ngàn năm không đi khuất
    Hoá thân tươi xanh đứng hát dưới trời (Những cây cọ Trung du)

    Cây cọ được dựng dậy trong sáng tạo nghệ thuật của Hà Văn Thể chính là những người lính tự nghìn năm ?ođứng canh dọc thuở vua Hùng?, ?oáo giáp khiên xanh/Vung gươm lên trời thề cùng đất? đã hoá thân thành những cây cọ hiên ngang vẫy gió đại ngàn. Tại hình tượng cây cọ này không thể không ghi điểm về sự sáng tạo độc đáo của thơ Hà Văn Thể. Hình tượng cây cọ lần đầu tiên trong thơ Việt Nam đã thâu tụ và truyền dẫn đầy đủ khí mạnh từ nguồn cội tổ tiên, phất lên ý chí kiên cường, khí phách giống nòi của dân tộc Việt. Khát vọng sáng tạo hình tượng nghệ thuật này đã được phôi thai từ trước đó ở một đoạn thơ khác, một cảnh giới khác, nhà thơ đã tự bạch một cách cụ thể và chân thực như sau:
    Khu vườn của tôi làng nhỏ của tôi ơi
    Nơi thịt da tôi sinh thành, nơi anh em quần tụ
    Dưới lớp đất nâu kia và trên ngọn cây kia
    Tôi hoà tan trong tươi non, trong cằn cỗi
    Giữa bầu trời nặng như chì,
    Hoặc nhẹ bẫng như không
    Tôi là đám cỏ khô, là dòng nhựa chảy
    Tôi hoà vào mặt đất nhão bùn
    Là những hoàng hôn và ban mai hối thúc
    Giữa dòng người đến sau, đến trước
    Cùng hát lên khát vọng tổ tiên mình? (Khúc hát về làng nhỏ)

    Đọc thơ Hà Văn Thể, xuất hiện trong tôi một ý nghĩ, tôi băn khoăn về ý nghĩ này nhưng rồi cuối cùng vẫn quyết định nói ra. Hình như kiếp trước Hà Văn Thể mang bản thể mộc, tức là cây thì phải.
    Không chỉ hình tượng về cây cọ, mà hình ảnh về cây đa ở làng quê hiện dậy trong thơ anh với nhiều nét riêng biệt và có đặc trưng ?oHà Văn Thể?. Có lẽ vì vậy, chúng tạo sự ám thị đối với tôi khi tiếp xúc với những hình ảnh thơ này:

    Cây đa mấy trăm năm ở ngã ba đường
    Nhân chứng cho sự đi về, lụi tàn hay phát đạt
    ?
    Cây đa cổ thụ ngã ba đường
    Từng chứng kiến cuộc ?" ra - đi ?" lặng lẽ
    Những cuộc ra đi, đi mãi, đi dài
    ?
    Tạc lên gương mặt người vết chìm nổi thời gian
    Tạc lên con đường nặng nề sỏi đá
    Tạc lên cánh đồng mưa, nắng, bão, lũ
    Tạc lên dòng sông khuya khoắt, đầy vơi
    Trong giấc ngủ chập chờn kiệt sức
    Lại mơ về đầy đặn ngày mai (Khúc hát về làng nhỏ)

    Về cây cối cũng như sinh vật cùng những các hiện tượng trong tự nhiên khác, Hà Văn Thể đã sở hữu chiếc chìa khoá mở cánh cửa bí mật vào thế giới và đời sống của chúng với cái nhìn nhất thể:
    Mỗi loài có cuộc sống riêng, một bài ca, một lễ hội riêng mình
    Bình đẳng, tự tin giữa đất trời nắng mưa, bão táp

    Đọc đoạn thơ, tôi thấy tin ngay sự khơi mở từ những câu thơ về đời sống của muôn vật, chúng đều có một lễ hội riêng mình. Phát hiện này quả là lạ và độc đáo.

    x x x

    Đọc tập thơ Lạy xin mây trắng, tôi tiếp tục bị thuyết phục bởi những ý tưởng được khơi lên từ những câu thơ. Tại một bài thơ, nhà thơ kể về ?olàn gió sớm mai? ?oùa vào căn nhà nhỏ?, và nhà thơ nhận thấy chúng ?osắp xếp những bộn bề ngày qua còn lại/Chở ý nghĩ tôi ra khỏi ngôi nhà?.
    Phải để lòng trống vắng thanh tĩnh lắm, cùng với đôi cánh của sự lãng mạn mới cảm nhận được sự sinh động biến hiện của làn gió đến như vậy.
    Ơi chú nhện giăng tơ ngoài cửa sổ/ Dệt nên tấm lưới mẫn cảm bằng thịt da mình/?/ Con tôi mở cửa ra vô tình làm hỏng mất/Nhưng chú không buồn/ Lại nhẫn nại dệt nên tấm khác/ Bởi thế ngôi nhà tôi có bao nhiêu sinh linh, thì bấy nhiêu niềm hy vọng/ Cứ diễn ra như thế ngày ngày (Bài ca ngôi nhà nhỏ)

    Đoạn thơ này tàng chứa đậm đặc Phật tính, làm tôi hoàn toàn bất ngờ. Đây là một sự thật chưa hề được biết tới, chưa có nhà thơ nào nói bằng một cách chân thực và trực tiếp về sự hiện diện có tính thiêng liêng của mỗi sinh linh bé nhỏ, luôn hằng tồn bên cạnh đời sống của chúng ta, như Hà Văn Thể vừa biểu đạt bằng một ngôn ngữ giản dị và chúng quả đã được hiện hình từ một đời sống đặc biệt, một kinh nghiệm đặc biệt của nhà thơ.
    Có lẽ xuất phát từ cảm nghiệm về cái nghiệp lực đeo đẳng con người trong cuộc sống nơi trần gian, làm cho nhà thơ không khỏi bận lòng.
    Chợ trần gian họp ngày đêm
    Bước chân mỏi mệt vấp trên cõi đời
    ?
    Bao nhiêu người trước khuất rồi
    Lối sau ngoảnh lại, lá rơi lớp đầy (Đi chợ trần gian)

    Hình như có một sự phũ phàng nào đó phả lên từ những câu thơ lục bát này, và nỗi niềm thật không mới nhưng chưa từng cũ, bởi những lời đó phù hợp và chỉ thẳng vào tình trạng đời sống tâm thức của con người, thời nào cũng vậy không ai tránh được.
    Phố nhỏ ven sông
    Cứ đêm vẳng về tiếng chim thảm thiết
    Chúng tìm gì trên nóc phố nhấp nhô
    Trên những ngôi nhà trăm năm hình thù không đổi khác
    Chỉ có những khuôn viên méo mó, vuông vức
    Nơi con người trú ngụ, được chở che
    Từ lúc lọt lòng trần trụi sinh ra
    Đến khi mở cửa: Đi khuất (Tiếng chim kêu đêm)

    Chúng ta từng biết, thế giới trước hết hiện ra khi chủ thể tự phóng chiếu ra ngoài. Sự sợ hãi mất mát chính mình rình rập sau mỗi con người. Làm sao thoát khỏi ảo giác của sinh thành hoại diệt. Thực ra, khi con người ta khuất núi, rời khỏi thế gian ?ochỉ là giai đoạn rơi xuống một đời sống mới, đời sống này mang con người tới gần đích giải thoát thêm một bước nữa. Đây chính là mục đích cao tột, cuối cùng của tất cả các cố gắng trong kiếp người?. (C.G.Jung)
    Những câu thơ trên của Hà Văn Thể đã mở toang cánh cửa trực tiếp đối diện với một vấn đề cơ bản nhất của con người, đó là cái chết; nhưng với một cách nhìn, một tâm thế vô cùng bình thản và nhẹ nhõm:
    Từ lúc lọt lòng trần trụi sinh ra
    Đến khi mở cửa: Đi khuất
    Cái chết chỉ là những cuộc đi, những hành trình dù là miên viễn nhưng đã được định sẵn với một tâm hồn đã được khai phóng.
    Tôi nhìn về phía ngôi nhà của mình sau màu mây trắng
    Thấy tất cả những ngôi nhà đã trắng màu mây (Đò đầy)
    ?
    Ta sống, người ơi ta được sống
    Dẫu rủi ro cũng là hạnh phúc rồi
    Vũ trụ vạn kỷ nay bình lặng
    Những tinh cầu hừng hực
    Thầm trôi (Tản mạn)
    Một cuộc đi, ngoái lại và sự bình thản tràn ngập dâng cao. Nguyên sự sống, được sống đã là sự hân hưởng niềm vĩnh phúc lớn lao, dẫu những rủi ro cũng là những yếu tố cần thiết để xác lập nên cái vĩnh phúc của cuộc đời mỗi con người, như Những tinh cầu hừng hực/ Thầm trôi. Hỏi còn muồn gì hơn?
    Về điều này, Tiến sỹ W.Y.Evans Wentz đã giảng giải một cách sáng tỏ: ?oTrong thân thể con người có đủ sự hiện diện của bốn yếu tố cấu thành thế giới vật chất, đó là các yếu tố lửa, gió, nước và đất. Những yếu tố này không phải bao giờ cũng hoàn toàn hoà hợp với nhau. Vì thế, sự tồn tại và hoạt động của chúng được đặt dưới sự chi phối tổng quát của tâm thức con người?.
    ?oThế giới có thực là một thế giới có niềm vui, nỗi buồn, có thiện, có ác. Tóm lại đó là một thế giới luôn luôn có hai cực, thế giới nhị nguyên. Nếu có ai đứng ngoài được sự tranh chấp giữa hai cực đó, người ấy sẽ hiểu thấu được tri kiến nhất nguyên. Với tri kiến này, người ta sẽ không còn mâu thuẫn, vì nhìn thấy được vạn hữu trong một thể trọn vẹn thống nhất? (Lạt ma Chogyam Trangpa Rinpoche)
    Những ý thơ của Hà Văn Thể thực tế đã tiến sát những vấn đề rất cơ bản mà những kiến giả tôi vừa dẫn trên đây với những câu thơ sâu sắc một cách trực giác. Tưởng chừng có vẻ hơi thừa, nhưng tôi vẫn xin được lưu ý rằng: những vấn đề tôi vừa nêu về thơ Hà Văn Thể là những vấn đề rất nghiêm túc, không hề có ý suy diễn hay tán tụng ?" những gợi ý này được lộ rõ từ văn tự những câu thơ của Hà Văn Thể, như tôi đã dẫn chứng và bình giảng một cách đại lược.

    Để chuẩn bị kết thúc bài này, tôi xin phép được nhắc lại một phát hiện quan trọng, tôi đã nêu ở phần trên, vì tôi tin rằng rất ít người để ý đến phát hiện này. Có một điều bất ngờ đối với tôi khi đọc tập thơ Lạy xin mây trắng của Hà Văn Thể, đó là Phật tính đậm đặc nơi khoảng rỗng của tâm hồn anh, chúng được hiển lộ thành công năng của những câu thơ. Điều này tôi chưa từng nghĩ đến trong thơ của nhiều nhà thơ, đặc biệt đối với thơ của Hà Văn Thể tôi, lại càng không có một gợn ý thức nào về vấn đề này trước khi đọc tập thơ mới xuất bản của anh. ấn tượng mạnh mẽ nhất của thơ Hà Văn Thể đối với tôi trước đây là tinh thần lãng mạn ngập tràn trong những vần thơ chân thật dung dị, chứa đầy cường lực của anh; đến tập thơ mới này vẫn còn tiếp tục duy trì được khí mạch đó ?" dù chúng chưa phủ được ở một diện rộng và dâng thành cao trào. Nhưng, một điều kỳ diệu là sự xuất hiện phẩm tính Phật tính trong tập thơ mới này, quả có gây chấn động trong tôi ?" tiếc rằng, yếu tố mới mẻ và cuốn hút này anh chưa tạo ra được một dòng chảy có tính chất là mạch chủ đủ mạnh quán xuyến toàn bộ tập thơ này.
    Cách đây vài ngày, do vô tình tôi gặp Hà Văn Thể, trong khi trò chuyện tôi nhắc lại kỷ niệm. ấn tượng từ tập thơ đầu tay của anh Khi tôi trên mặt đất, Hà Văn Thể bộc bạch rằng, tập thơ đó ám anh đến bây giờ, nó làm anh long đong vất vả và lận đận trong đường đời. Tôi nói đùa anh: nếu không còn long đong, lận đận, chắc gì đã còn thơ? Hà Văn Thể lặng im, tôi thấy đôi mắt anh nhìn xa vời. Đêm về tôi giở tập thơ anh mới tặng và đọc, và những bất ngờ từ những câu thơ chân thật giản dị đã lay động lý trí của tôi.
    Đêm
    Ngọn đèn
    Khuya khoắt
    Khi những con muỗi no nê đi ngủ rồi
    Gió không còn về lay cửa
    Trang giấy thành biển khơi?
    Tôi ngửa mặt lên trời
    Bóng tối nửa tinh cầu đè xuống
    Những âm thanh không có trên mặt đất
    Vây bủa tôi
    Lại như mọi lần
    Tôi khát đợi một tiếng chó sủa
    Tôi cầu mong một tiếng đập cửa
    Tiếp sức cho mình đón một bình minh (Hằng đêm)

    Những câu thơ hiện trên trang giấy trắng quá mỏng manh, mà mênh mông vô tận dường nào. áp lực của đời sống hay áp lực của kiếp người như trái núi lớn đè lên thân tâm của nhà thơ? ?" Và, một lần nữa, tôi lại thấy hiện lên cái tinh cầu nhỏ bé của nhà thơ trống trải, cô đơn và trơi trọi quá, hoang vắng quá, mà chất chứa trong lòng nó một khối lửa nóng bỏng, đang miệt mài lượn theo vòng quay của thế gian, không ngớt dõi theo từng biến động của kiếp người; quỵ xuống rồi lại gắng gượng đứng dậy: Lại như mọi lần/ Tôi khát đợi một tiếng chó sủa/ Tôi cầu mong một tiếng đập cửa/ Tiếp sức cho mình đón một bình minh.
    Nghị lực hay là khát vọng, hay là tác động của một nghiệp lực đeo đuổi? Tôi vẫn thấy chùm toả bao quanh nhà thơ ngọn lửa cháy lên rừng rực trong hoang lạnh và trơ trọi. ?oTôi cưỡi đá bay qua phố phường, đồng ruộng/Hoảng loạn gọi con người- Người trốn biệt nơi nao?
    Ôi, ở thập niên đầu tiên của thế kỷ 21 này, nhà thơ còn khao khát về con người đến vậy sao- đó có phải là câu hỏi lớn dựng lên trước thời đại này!

    Hà Đông, những ngày cuối xuân Bính Tuất 2006
    DKM
    (Theo Báo Văn NGhệ TRẻ sô 20 ngày 14/5/2006)
  2. codet

    codet Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/03/2002
    Bài viết:
    1.130
    Đã được thích:
    0
    Đồng chí Hà văn Thể? sao trùng với đồng chí Thể ở báo VHVN Công An thế nhẩy? Ko có nhẽ nào? Mà cũng có thể nhỉ?

Chia sẻ trang này