1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hải Quân Nhân Dân Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi anhkhoayy, 15/07/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Condor

    Condor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/02/2003
    Bài viết:
    2.311
    Đã được thích:
    0
    Trong cuộc chiến giửa Syria và Israel, hỏa tiển Styx được sử dụng là SS-N-2A, hiện nay hầu hết các nước không còn sử dụng version này do tầm bắn và độ chính xác không đáp ứng yêu cầu. Các version sau được cải tiến bộ phận dẩn đường/ tìm mục tiêu (version B, D active radar homing head, version C IR homing head - version D được lắp hệ thống điện tử của SS-N-22 Moskit) và có tầm bắn xa hơn (version B: 80km, C: 85km, D: 100km). Tuy nhiên hiện nay loại hỏa tiển này bị coi là không có hiệu quả lắm do tốc độ chậm (0.9 mach), độ cao hành trình khoãng từ 100m - 200m nên dể bị phát hiện và tiêu diệt.
    Các loại FAC-M có gắn loại hỏa tiển Styx này, theo tớ, tốt hơn nên cải tiến để gắn SS-N-25 vừa hiệu quả hơn vừa lắp được nhiều hơn (8 SS-N-25/ tàu so với 4 Styx/ tàu). Còn mấy cái Styx bỏ ra này thì lắp lên giá đở làm hỏa tiển duyên phòng.
  2. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Bác tieuphu81 có tài liệu thì post tiếp cho mọi người tham khảo đi. Em không có, đành cứ post theo trí nhớ vậy, mốc thời gian không chuẩn được, các bác sửa giúp nhé.
    Năm 1956-1957, VN thành lập 2 thủy đội tuần tra mang tên Sông Lô, Bạch Đằng gồm 4 canô chiến đấu của Pháp (2 chiếc do công nhân Hải Phòng lấy được, 2 chiếc do bộ đội Khu 5 thu được trong chiến đấu), trang bị đại liên.
    Sau đó, quân xưởng 46 được giao nhiệm vụ cải tiến thuyền vỏ gỗ thành thuyền có khả năng chiến đấu, chủ yếu để tuần tra ven bờ. Xưởng đã hoàn thành 20 thuyền chiến đấu gắn đại liên Maxim và trọng liên 14,5mm. Tuy sức chịu đựng kém (vỏ gỗ), tốc độ chậm như rùa (15km/h), các thủy đội này cũng đã nhiều lần giáp chiến, tiêu diệt thuyền biệt kích Tàu Tưởng ở vùng biển Đông Bắc.
    Sau đó, có thêm một số tàu vỏ sắt, tốt hơn của LX được bổ sung.
    Giai đoạn gần 1960, VN có tiếp nhận 24 tàu tuần tiễu (loại 79 tấn) của Liên Xô, tổ chức thành 6 phân đội. Đây là lực lượng chủ yếu. Tiếp theo đó là 8 tàu phóng lôi tổ chức thành đoàn 135. Song song, VN hoàn chỉnh hệ thống đài quan sát, rađa, pháo bờ biển, căn cứ, xưởng sửa chữa... và phòng thủ trên các đảo.
    1960-1963, HQNDVN có một số trận đụng độ với tàu biệt kích ngụy. Người nhái ngụy từng đột nhập căn cứ hải quân sông Gianh nhưng thất bại.
    Từ đầu 1964, HQ Mĩ tiến hành khiêu khích ở biển Đông.
    Ngày 2-8-1964, tàu khu trục Maddox 731 xâm phạm hải phận nước VNDCCH, chỉ cách đảo của ta 10 hải lý. 3 tàu phóng lôi 333, 336, 339 thuộc đoàn 135 được lệnh xuất kích. Các tàu ta cố gắng dùng tốc độ cao áp sát địch, tàu 339 chuẩn bị phóng ngư lôi thì trúng đạn, chỉ huy tàu hy sinh. Tàu 336 áp sát phóng 2 quả ngư lôi trúng tàu Maddox và dùng trọng liên bắn quét lên boong tàu. Ngay lập tức, máy bay Mĩ lao đến bắn yểm trợ cho tàu Maddox rời khu vực, tàu 336 trúng đạn vào khoang máy và súng phòng không, chiến sĩ trên tàu dùng trung liên đánh trả máy bay cho đến khi rút lui.
    Ngày 5-8-1964, Mĩ bắt đầu ném bom miền Bắc. Hầu hết các căn cứ và tàu hải quân đều bị tấn công. Tàu hải quân phối hợp với hoả lực phòng không trên bờ bắn rơi 8 máy bay, bắt sống phi công Anvares.
    Từ 1964-1968, hoạt động chủ yếu của hải quân là tham gia đánh máy bay Mĩ, rà phá thủy lôi. Năm 1967, trong thời kì cao điểm Hà Nội bị đánh phá, tàu tuần tiễu điều về đóng trên sông Hồng tham gia bảo vệ cầu Long Biên.
    Từ 7-1959, đoàn 125 bắt đầu mở tuyến chi viện đường biển cho các chiến trường nơi mà tuyến chi viện đường bộ không tới được. Có 167 chuyến tàu không số (trang bị ĐKZ, B41, 12 ly 7) đã chuyển 3000 tấn vũ khí cho chiến trường.
    Năm 1967, lực lượng đặc công của hải quân bắt đầu hoạt động ở cảng Cửa Việt. Đoàn 126 đặc công nước có những đội luòn sâu, dùng B41 bắn chìm nhiều tàu Mĩ ngụy. Ở miền Nam, đoàn 10 đóng căn cứ ở Rừng Sác cũng có những trận đánh hiệu quả.
    Năm 1972, đoàn 126 tham gia các trận chiếm và giữ cảng cửa Việt. HQ dùng thuyền máy theo sông Thạch Hãn chở vũ khí cho bộ đội giữ Thành cổ Quảng Trị và tham gia giải toả các cảng miền Bắc.
    Tháng 3-1975, trong trận đánh ở Huế, tiểu đoàn 5 HQ đã dùng thuyền máy rải thủy lôi phong toả cửa Thuận An, bịt đường rút lui trên biển của địch. Ở Đà Nẵng, HQ chở đặc công đổ bộ lên bán đảo Sơn trà phối hợp với bộ binh.
    Ngày 14-4-1975, đặc công đoàn 126 và tàu của đoàn 125 nổ súng chiếm đảo Song Tử Tây thuộc quần đảo Trường Sa. Sau đó lần lượt giải phóng đảo Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa, An Bang...
    Ngày 1-5-1975, 2 tàu chiến và 1 tàu chở quân tiến ra Côn Đảo, đón tù chính trị bị địch giam về đất liền.
    Sau khi lên nắm quyền, Khmer Đỏ mở nhiều cuộc tấn công vào biên giới, đồng thời cho tàu xâm phạm hải phận VN. Tàu chiến VN đã kiên quyết tấn công và tiêu diệt toàn bộ số này. Hải quân đánh bộ VN tham gia bảo vệ biên giới, diệt gần 2.000 lính Khmer Đỏ.
    Cuối 12-1978, bộ tư lệnh HQ đặt tại Phú Quốc mở cuộc tấn công cảng Cong Pong Xom, quân cảng Rêman(?) phối hợp với quân đoàn 4 nhằm vào sư đoàn 164 hải quân và trung đoàn biên phòng 17 của Khmer Đỏ. Tàu chiến VN đánh chìm nhiều tàu Khmer Đỏ, đồng thời dùng pháo chế áp quân Khmer Đỏ, hải quân đánh bộ cùng xe tăng, xe bọc thép, xe vận tải được không quân yểm trợ đổ bộ. Mặc dù bị thiệt hại khá nặng, hải quân đánh bộ đã phối hợp với quân đoàn 4 làm chủ các cảng này và giải phóng bờ biển CPC. Sau đó, 1 lực lượng gồm 41 tàu chiến tiếp tục hành quân đường sông bảo vệ sườn cho quân đoàn 4, tiêu diệt những tàu Khmer Đỏ còn lại. Ngày 6-1-1979, hải quân đã chở quân đoàn 4 và binh đoàn 1 QĐNDCPC vượt bến Niếc Lương tiến vào Phnom Penh.

Chia sẻ trang này