1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hai số phận - Jeffrey Archer

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Amar, 08/08/2003.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    7​
    Wladek là người duy nhất trong những ai sống sót được biết kỹ các gian hầm của lâu đài. Hồi còn chơi ú tim với Leon, chú đã từng sống rất nhiều giờ thoải mái tự do trong những gian hầm bằng đá ấy, lúc nào thích thì lên lâu đài, không thì thôi.
    Dưới đó có tất cả bốn gian hầm, chia làm hai tầng. Hai ngăn, một lớn một nhỏ, ở ngang tầm với mặt đất. Ngăn nhỏ liền với tường của lâu đài và có chút ánh sáng rọi xuống qua tấm lưới sắt đặt lẩn vào trong đá ở phía trên. Đi xuống năm bậc còn có hai căn phòng bằng đá ở phía trên. Đi xuống năm bậc còn có hai căn phòng bằng đá nữa nhưng quanh năm tối om và không có mấy không khí. Wladek đưa Nam tước vào căn phòng bằng đá ở phía trên. Ông cứ ngồi yên trong góc, không động đậy, chỉ nhìn vào khoảng không mà không nói một lời. Chú cử chị Florentyna làm người hầu riêng của Nam tước.
    Vì Wladek là người duy nhất dám ở lại trong cùng ngăn hầm ấy với Nam tước, những người hầu khác không ai hỏi chú là có quyền gì. Thế là mới chín tuổi, chú đứng ra đảm đương trách nhiệm đối với các bạn tù khác ở đây. Mọi người, vốn hàng ngày rất bình thản nhưng quá khiếp sợ với cảnh tự nhiên bị giam giữ ở hầm nhà này, chẳng lấy làm lạ về việc một chú bé chín tuổi nắm vận mệnh của họ. Trong nhà hầm, chú trở thành người chủ của các tù nhân. Chú chia số người hầu ra làm ba nhóm, mỗi nhóm tám người, cộng tất cả hai mươi bốn, cố xếp cho các gia đình được ở cùng với nhau một chỗ. Ba nhóm người này luân phiên nhau đổi chỗ, tám giờ đầu trong ngày được lên tầng trên để có ánh sáng, không khí, ăn uống và vận động thân thể. Tốp thứ hai là phổ biến nhất trong tám giờ đó là làm việc phục vụ bọn chiếm đóng lâu đài, còn tám giờ cuối trong ngày là xuống ngủ ở tầng hầm dưới. Không ai, trừ Nam tước và Florentyna, có thể biết được Wladek ngủ vào lúc nào, vì cuối mỗi ca chú đều có mặt tại chỗ để giám sát việc họ luân chuyển. Cứ mười hai tiếng đồng hồ lại chia thức ăn một lần. Bọn lính gác sẽ giao cho chú một bọc sữa dê, bánh mì đen, kê hoặc thỉnh thoảng là một ít bạc. Wladek chia số đó ra làm hai mươi tám phần, bao giờ cũng nhường cho Nam tước hai suất nhưng không để cho ông ta biết.
    Mỗi khi thu xếp xong một ca làm việc rồi, chú trở về chỗ Nam tước ở căn hầm nhỏ. Lúc đầu, chú chờ đợi ở Nam tước đôi điều hướng dẫn nào đó, nhưng lâu dần chú thấy cái nhìn của ông cũng dữ dội và lạnh nhạt chả kém gì cái nhìn của bọn lính gác Đức. Từ khi bị bắt giam ở chính lâu đài của mình đến giờ, Nam tước không hề thốt ra một lời nào. Râu của ông đã mọc dài đến ngực. Cái dáng khỏe mạnh của ông đã bắt đầu hom hem. Cái vẻ tự hào trước kia của ông đã chuyển sang nhịn nhục. Wladek hầu như không còn nhớ lại được cái giọng nói dễ thương của anh trước đây nữa. Chú nghĩ có lẽ không bao giờ còn nghe lại được tiếng nói ấy. Dần dà, chú cũng im lặng, không nói gì, chỉ làm theo những gì Nam tước muốn nhưng không nói thành lời mà thôi.
    Trước đây sống trong cảnh an toàn của lâu đài, Wladek không bao giờ nghĩ đến chuyện đã xảy ra ngày hôm trước, vì hàng ngày hàng giờ chú cú những việc bận mới. Nhưng bây giờ thì chú không thể nhớ được chuyện gì vừa xảy ra lúc nãy, vì cuộc sống không hề có tí gì thay đổi. Những phút vô hy vọng biến thành giờ, giờ biến thành ngày, ngày biến thành tháng, và cứ thế trôi đi không để lại dấu vết gì. Chỉ có thức ăn đưa đến, chỉ có ánh sáng và bóng tối, cho biết là mươi hai tiếng đồng hồ đã trôi qua. Chỉ có ánh sáng nhiều hay ít, tùy ở trời quang hay có giông bão, rồi đến băng tuyết đóng trên tường hầm, và khi có ánh sáng rọi vào nó lại chảy ra, là báo cho biết từ mùa này chuyển sang mùa khác, mà Wladek thì không thể nào rút ra được bài học gì của thiên nhiên cả. Qua những đêm dài, Wladek cảm thấy cái mùi ghê tởm của thần chết đã thấp thoáng ngay ở những góc xa xa của tường hầm, chỉ đến lúc có chút nắng của buổi sáng chiếu vàom hoặc một làn gió lạnh, hoặc có trận mưa kéo đến thì mới xua tan được nó đi phần nào mà thôi.
    Cuối một ngày giông bão liên miên, Wladek và Florentyna lợi dụng trời mưa ra tắm rửa ở vũng nước hình thành trên nền đá của tầng hầm trên. Cả hai người đều không để ý đến cặp mắt của Nam tước đang trợn trừng lên nhìn Wladek khi chú cởi chiếc sơ mi rách ra cuộn tròn bỏ xuống chỗ nước còn tương đối sạch, và lấy tay kỳ cọ người chú đến trắng bệch. Bỗng nhiên, Nam tước lên tiếng.
    - Wladek, - tiếng nói nghe không rõ lắm, - ta không nhìn rõ được cháu lắm. Cháu lại đây coi.
    Wladek hoảng hồn khi nghe thấy tiếng nói của ông chủ mình, vì đã lâu lắm chú chỉ thấy ông im lặng. Thậm chí chú không nhìn về phía có tiếng nói nữa. Chú chợt nghĩ ngay đó là cái điềm báo trước một tình trạng điên dại đã từng xảy đến với hai người hầu già trước đây.
    - Lại đây, cháu.
    Wladek sợ hãi bước đến trước mặt Nam tước. Ông nheo đôi mắt và giơ tay sờ vào người chú. Ông lần ngón tay lên ngực Wladek rồi nhìn chú rất kỹ.
    - Wladek, cháu có thể giải thích cho ta biết tại sao lại có chút khuyết điểm trên cơ thể cháu thế này không?
    - Không, thưa ông, - Wladek lúng túng nói. - Từ khi cháu sinh ra đã thế rồi. Mẹ nuôi cháu thường nói là dấu Đức chúa đã để lại trên người cháu.
    - Những người đàn bà ngốc thế. Đây là cái dấu của chính cha đẻ của cháu.
    Nam tước nhẹ nhàng nói, rồi im lặng mấy phút. Wladek vẫn cứ đứng trước mặt ông, không động đậy. Nam tước lại lên tiếng, lần này giọng dứt khoát hơn.
    - Ngồi xuống, cháu.
    Wladek tuân theo lời ông ngay. Lúc ngồi xuống, một lần nữa chú lại để ý cái vòng bạc đeo lủng lẳng ở cổ tay Nam tước. Chút ánh sáng từ khe tường rọi vào khiến cho huy hiệu Rosnovski của ông lóe lên trong bóng tối của căn hầm.
    - Ta không biết bọn Đức có ý muốn giam giữ chúng ta ở đây bao nhiêu lâu nữa. Lúc đầu ta nghĩ cuộc chiến tranh này chỉ mấy tuần lễ. Nhưng ta đã nhầm. Bây giờ chúng ta phải xét đến khả nẳng nó sẽ còn tiếp tục một thời gian rất lâu nữa. Vì nghĩ như vậy, cho nên chúng ta phải biết sử dụng thời gian một cách có tính chất xây dựng hơn, mà ta thì biết mình cũng sắp chết rồi.
    - Không, không, - Wladek lên tiếng ngăn lại, nhưng Nam tước vẫn nói tiếp, coi như không nghe thấy chú.
    - Còn đời cháu thì bây giờ mới bắt đầu. Do đó, ta sẽ tiếp tục làm cái việc dạy dỗ cho cháu.
    Ngày hôm đó, Nam tước không nói thêm gì nữa. Hình như ông đang suy ngẫm về ý nghĩ lời tuyên bố của mình. Thế là Wladek đã có được một ông thầy học mới. Do hai người không có sách vở và phương tiện viết lách gì, nên Nam tước nói câu nào là bắt chú phải nhắc lại câu đó. Ông dạy chú những đoạn thơ dài của Adam Mickiewicz và Jan Kochanowski (hai nhà thơ Ba Lan thế kỷ 19) cùng những phần trích từ Aenied (anh hùng ca tiếng La-tin của Virgil, nhà thơ La Mã, 79-19 trCN). Trong cái lớp học đơn giản ấy, Wladek đã được biết thế nào là địa lý, toán, và chú nắm thêm được bốn ngoại ngữ nữa là Nga, Đức, Pháp và Anh. Nhưng thú vị nhất đối với chú là những lúc chú được học về sử. Đó là sử của đất nước hàng trăm năm bị chia cắt, của những hy vọng bất thành về một nước Ba Lan thống nhất, của nỗi lo âu của những người dân Ba Lan khi Napoleon thất bại thảm hại trước quân Nga năm 1812. Chú được học về những chuyện dũng của cảm của những thời quang vinh đã qua do vua Jan Casimir đánh lui người Thụy Điển ở Czestochowa và hiến dâng đất nước này cho Đức mẹ đồng trinh, về chuyện Hoàng tử Radziwill, một người rất nhiều quyền thế, một đại địa chủ và một nhà săn bắn nổi tiếng, đã lên ngôi và thiết triều của mình ở lâu đài lớn gần Warsaw như thế nào. Bài học cuổi mỗi ngày của Wladek là về lịch sử gia đình của dòng họ Rosnovski. Chú được nghe nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần về tổ tiên vẻ vang của Nam tước đã phục vụ trong quân ngũ năm 1794 dưới quyền của chính Napoleon, và sau đó được Hoàng đế thưởng công, cấp đất và ban tước. Chú cũng được biết là ông nội của Nam tước đã từng có chân trong Hội đồng Warsaw, rồi sau đó bố đẻ của Nam tước cũng có một vai trò trong việc xây dựng đất nước Ba Lan mới. Wladek cảm thấy rất hạnh phúc việc Nam tước đã biến căn hầm nhỏ này thành một lớp học.
    Lính gác đứng ngoài cửa hầm cứ bốn giờ lại một lần đổi phiên. Chúng bị cấm không được nói chuyện với tù nhân. Thoáng nghe những mẫu chuyện giữa chúng với nhau, Wladek có thể biết được về diễn biến của cuộc chiến tranh, về những việc chúng đang tiến hành ở Hindenburg và Ludendorff, về cách mạng nổi lên ở nước Nga và nước này đã rút khỏi chiến tranh bằng Hòa ước Brest-Litovsk.
    Wladek bắt đầu nghĩ rằng con đường thoát duy nhất của tất cả những người ở dưới căn hầm này chỉ có chết. Trong hai năm sau đó, cánh cửa dẫn xuống địa ngục đã mở ra chín lần, và Wladek cũng tự hỏi nếu như mình không được tự do thì tất cả những kiến thức chú được trang bị này sẽ coi như vô ích.
    Nam tước tiếp tục dạy cho chú mặc dầu tai và mắt ông đã dần kém đi. Mỗi ngày Wladek lại phải ngồi xích gần ông thêm một ít.
    Florentyna, người vừa là chị vừa là mẹ vừa là bạn gần gũi nhất của chú, đã phải rất vất vả đối phó với tình trạng ô uế trong căn hầm. Thỉnh thoảng bọn lính gác đem đến cho một chậu cát hoặc một ít rơm rạ để trải lên nền nhà. Như vậy cũng đỡ được hôi thôiứ trong vài ngày. Chuột bọ chạy ra chạy vào chỗ tối nhặt nhạnh những mẩu bánh hay mẩu khoai rơi vãi, nhưng chúng cũng đem theo đủ các thức bẩn thỉu với bệnh tật. Mùi nước tiểu với của cả người lẫn súc vật hóa vào nhau xông lên săc sụa đến không thở được. Wladek lúc nào cũng thấy mình như người ốm, chỉ muốn nôn mửa. Chú rất thèm khát làm sao được sạch sẽ trở lại. Chú ngồi hàng giờ nhìn lên trần hầm nhớ lại những bồn nước tắm bốc hơi và có cả xà phòng của cô bảo mẫu mang đến cho Leon với chú sau một ngày họ chơi đùa thỏa thích. Chỗ đó cũng ở trong lâu đài này, cách chỗ chú đang ngồi không xa lắm, nhưng chuyện ấy đã từ bao giở bao giờ rồi.
    Đến mùa xuân 1918, chỉ còn mười lăm trong số hai mươi sáu người bị giam cùng với Wladek là còn sống. Nam tước vẫn được mọi người đối xử như với một ống chủ, con Wladek thì được coi như người quản lý của ông. Wladek cảm thấy rất buồn cho Florentyna mà chú rất yêu quý. Florentyna đến giờ đã hai mươi tuổi rồi. Cô đã hoàn toàn thất vọng về cuộc đời mình và cô tin rằng những ngày còn lại của cuộc đời mình sẽ chỉ là sống trong những căn hầm này thôi. Trước mặt cô, Wladek không bao giờ tỏ ra đã mất hết hy vọng, nhưng dù bây giờ mới chỉ mười hai tuổi chú cũng đã bắt đầu tự hỏi không biết mình còn có dám tin ở tương lai nữa không.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  2. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Một buổi chiều, vào đầu mùa thu, Florentyna đến bên Wladek lúc đó đang ở căn hầm lớn phía trên.
    - Nam tước gọi em đấy.
    Wladek đứng ngay dậy, đưa suất ăn của mình cho người hầu lớn tuổi rồi xuống gặp Nam tước. Ông đang đau nặng. Wladek nhìn thấy ông đã hốc hác đi ghê gớm, hầu như chỉ còn xương với da. Nam tước đòi uống nước, Florentyna đem đến cho ông lưng bơ nước vẫn treo bên ngoài tường đá. Uống xong rồi, ông từ từ nói với một giọng hổn hển.
    - Wladek, cháu đã trông thấy nhiều cái chết rồi, nên trông thấy một người chết nữa cũng vậy thôi. Ta thú thật là bây giờ có chết ta cũng không sợ nữa.
    - Không, không, không thể thế được, - Wladek kêu lên, ôm lấy Nam tước. ?" Chúng ta sắp gần đến ngày thắng rồi. Nam tước đừng bỏ đi. Bọn lính cho cháu biết là chiến tranh sắp kết thúc và chúng ta sắp được thả ra rồi.
    - Chúng hứa như vậy từ nhiều tháng nay rồi, Wladek. Ta không thể tin chúng được nữa. Dù sao ta cũng không muốn sống trong cái thế giới mà chúng tạo ra đâu. ?" Ông ngừng lại nghe chú khóc. Nam tước nghĩ giá như nước mắt ấy mà uống được cũng đỡ, nhưng ông nhớ ra nước mắt là rất mặn nên cười khẩy với mình. ?" Cháu đi gọi ông quản gia và người hầu bàn của ta đến đây, Wladek.
    Wladek làm theo nhưng trong bụng không hiểu sao lại đi gọi những người đó.
    Hai người hầu đang ngủ say được đánh thức dậy đến đứng trước mặt Nam tước. Sau ba năm bị bắt giam, đối với họ chỉ việc ngủ là dễ làm nhất. Họ vẫn còn mặc bộ đồng phục thêu hoa, nhưng những màu xanh và vàng của nhà Rosnovski mà họ tự hào mặc trên người mình bây giờ không còn ra màu gì nữa. Họ đứng yên lặng nghe ông chủ nói.
    - Họ đã đến đây chưa, Wladek? ?" Nam tước hỏi.
    - Dạ, đã. Ông không nhìn thấy nữa sao? ?" Wladek bây giờ mới hiểu ra là Nam tước đã mù hẳn rồi.
    - Bảo họ đến gần đây để ta sờ vào người họ.
    Wladek đưa hai người đến gần Nam tước sờ vào mặt.
    - Hãy ngồi xuống đây, - Nam tước nói. ?" Các anh có nghe được ta nói không, Ludwik, Alfons?
    - Dạ có.
    - Tên ta là Nam tước Rosnovski.
    - Thưa ngài, chúng tôi biết, - người quản gia đáp.
    - Đừng ngắt lời ta, - Nam tước nói. ?" Ta sắp chết rồi.
    Chết đã thành chuyện bình thường nên hai người không có phản ứng gì.
    - Ta không thể làm được bản di chúc mới ở đây vì không có giấy bút hay mực gì hết. Vì vậy ta làm bản di chúc đó trước mặt các người ở đây, hai anh hãy làm chứng cho ta, theo luật cổ của nước Ba Lan đã thừa nhận như vậy. Hai anh hiểu ta nói gì không?
    - Dạ, hiểu, - hai người cùng đáp.
    - Đứa con đầu lòng của ta là Leon đã chết rồi, - Nam tước ngừng lại một lát . ?" Vì vậy, ta để lại toàn bộ đất đai tài sản của ta cho đứa nhỏ có tên là Wladek Koskiewicz.
    Wladek đã nhiều năm không nghe nói đến tên họ của mình nên chú chưa hiểu được ý nghĩa những lời Nam tước vừa nói.
    - Và để chứng minh cho quyết định của ta, - Nam tước nói tiếp. ?" ta giao cho nó cái vòng tay của gia đình.
    Ông từ từ giơ cánh tay phải lên, rút chiếc vòng ra khỏi cổ tay và đưa nó ra phía trước cho Wladek. Chú im lặng, không biết nói gì. Nam tước chỉ nắm chặt lấy chú, đưa ngón tay sờ lên ngực chú để biết chắc đó là Wladek.
    - Còn ta, - ông thốt lên và ***g chiếc vòng bạc vào cổ tay chú bé.
    Wladek khóc và suốt đêm nằm trong cánh tay Nam tước, cho đến lúc chú không còn nghe tiếng tim ông đập nữa và cảm thấy những ngón tay ôm vào người chú đã cứng ra. Đến sáng, xác Nam tước được bọn lính gác đem ra bên ngoài, và chúng cho phép Wladek được đem ông chôn lên bên cạnh mộ con trai ông, Leon, ở trong sân nhà thờ, gần tháp chuông. Wladek lấy tay không bới đất. Một nông choèn. Lúc đặt xác Nam tước xuống, chiếc áo sơ mi rách của ông bất tung ra. Wladek nhìn vào ngực Nam tước. Ông chỉ có một bên vú.
    Thế là Wladek Koskiewciz, mười hai tuổi, thừa kế 60000 mẫu đất, một lâu đài, hai trang viên, hai mươi bảy ngôi nhà nông thôn, một bộ sưu tập tranh quý giá, nhiều bàn ghế đồ đạc châu báu khác, trong khi đó chú sống ở căn hầm bằng đá dưới đất. Từ hôm đó trở đi, tất cả những người bị bắt giam còn lại đều coi chú như ông chủ có đầy đủ quyền hành đối với họ. Giang sơn của chú bây giờ là bốn căn hầm. Hầu hạ thì có mười ba kẻ ốm yêu với một người duy nhất còn lại cho chú yêu quý là Florentyna.
    Chú trở về với nếp sống tưởng như vô tận ở dưới hầm cho đến cuối mùa đông năm 1918. Vào một ngày ấm áp, khô ráo, bỗng có một loạt tiếng súng nổ vang gần đó và nghe như có vật lộn gì ở phía trên. Wladek tin chắc là quân đội Ba Lan đã về cứu sống và bây giờ chú sẽ có thể đàng hoàng đòi họ nhận quyền thừa kế của mình. Bọn lính người Đức không còn đứng ngoài cửa hầm nữa. Các tù nhân lặng lẽ ngồi xích lại gần nhau ở tầng hầm phía dưới. Wladek đứng một mình ở cửa ra vào, xoay chiếc vòng bạc ở cổ tay với một vẻ đắc thắng, và chờ người đến giải phóng. Những người thắng trận quả đã đến. Nhưng họ nói bằng thứ tiếng Xlavơ khàn khàn, thứ tiếng mà hồi đi học chú đã được biết và nghe còn sợ hơn cả tiếng Đức nữa. Wladek và tất cả bị lôi ra bên ngoài ngồi chờ. Họ bị khám xét lục soát một lần nữa rồi lại bị tống trở lại các căn hầm. Bọn mới chiếm đóng ở đây không hề biết rằng chú bé mười hai tuổi này chính là chủ nhân của tất cả những gì đang diễn ra trước mặt họ. Họ không nói tiếng Ba Lan. Nhưng những gì họ nói chú đều hiểu hết: ai chống lại hòa ước Brest-Litovsk là giết luôn, phần đất Ba Lan này là thuộc về họ, còn những ai không chống lại cũng cho tất cả về Trại 201 để sống nốt những ngày cuối cùng. Bọn Đức chỉ chống lại qua loa rồi bỏ chạy, rút về sau đường ranh giới mới. Wladek và mọi người lại chờ xem sẽ còn những gì xảy ra, không biết số phận của mình như thế nào.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  3. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    8​
    Tháng Chín, William trở lại Viện Sayre để tiếp tục học với tâm lý ổn định và sẵn sang hòa với mọi người hơn. Chú lập tức tìm cách ganh đua với những người lớn tuổi hơn mình. Với bất cứ môn học gì, nếu chú thấy mình không giỏi hơn người thì không yên tâm. Những người cùng lớp với chú xem ra không ai địch nổi được chú. Dần dần William hiểu ra là phần lớn những ai xuất than từ hoàn cảnh quyền quý như chú thì đều không có gì để kích thích đua tranh được, mà muốn có được địch thủ thì phải đọc những ai so với chú nhỏ hơn và có ít điều kiện học hành hơn kia.
    Năm 1915, trong trường có một phong trào sưu tập nhãn diêm. William đứng ngoài quan sát phong trào này một cách rất thích thú nhưng không tham gia. Chỉ trong mấy ngày những nhãn diêm bình thường đã trao tay với giá mười xu một nhãn, thứ nào hiếm có giá tới năm mươi xu. William nghiên cứu tình hình đó rồi quyết định sẽ không làm chuyện sưu tập mà làm việc kinh doanh.
    Vào ngày thứ bảy đó, chú đến nhà hang Leavitt và Peirce, một trong những nhà buôn thuốc lớn nhất Boston, và ngồi cả buổi chiều ghi lại tên và địa chỉ của những nhà sản xuất diêm chủ yếu trên thế giới, đặc biệt ghi tên những nước nào không tham gia chiến tranh. Chú bỏ ra năm đôla mua giấy, phong bì và tem, viết thư cho tất cả những chủ tịch hay giám đốc công ty mà chú đã có trong danh sách. Thư chú viết rất đơn giản, nhưng cũng phải viết đi viết lại đến bảy lần.
    Thưa ông chủ tịch,
    Tôi là một người rất thích sưu tập các thứ nhãn diêm, nhưng tôi không có tiền để mua tất cả mọi thứ diêm được. Tiền túi của tôi mỗi tuần chỉ có một đôla thôi, nhưng tôi xin gửi kèm theo đây chiếc tem ba xu để chứng thực rằng việc sưu tập nhãn diêm của tôi là nghiêm túc. Tôi xin lỗi đã làm ông phải phiền long nhưng tôi chỉ có thể tìm được tên ông để viết thư này.
    Kính thư,
    William Kane (9 tuổi)
    T.B. Nhãn diêm của ông là một trong những thứ tôi thích nhất.

    Trong vòng hai tuần, William có được 55 phần trăm thư trả lời và có được 78 loại nhãn diêm khác nhau. Hầu hết những người trả lời thư cho chú đều trả lại chiếc tem ba xu, mà William cũng dự kiến trước là họ sẽ làm như vậy.
    Trong bảy ngày sau đó, William dựng lên một thị trường về nhãn diêm ở ngay trong trường. Chú luôn luôn nghĩ xem cái gì có thể bán được thì mới mua. Chú để ý thấy có một số bạn học không quan tâm mấy đến loại nhãn diêm hiếm, mà chỉ xem nó đẹp hay không thôi. Thế là với những người này, chú đem những nhãn đẹp đổi lấy nhãn hiếm để bán lại cho những ai sưu tập công phu hơn. Sau hai tuần mua bán, chú cảm thấy thị trường đã đạt đến một đỉnh cao và chú tính nếu không cẩn thận thì sắp đến những ngày nghỉ lễ là sẽ không mấy ai quan tâm đến chuyện này nữa. Chú bèn nghĩ ra một cách quảng cáo, thuê in một lọat giấy thông báo, mỗi tờ mất nửa xu, và chú để tở giấy đo và từng chỗ ngồi của các lớp, báo cho biết chú sẽ tổ chức bán đấu giá tất cả 211 nhãn diêm chú đã sưu tập được. Cuộc bán đấu gí tất cả tiến hành trong phòng tắm rửa của trường vào giờ ăn trưa. Số người tham gia còn đông hơn cả những trận đấu khúc côn cầu trong trường.
    Kết quả là William đã thu được 57,32 đôla, so với số tiền đầu tư ban đầu của chú đã lại được 51,32 đôla. William gửi 25 đôla vào ngân hàng với lãi suất 2,5 phần trăm, mua chiếc máy ảnh 10 đôla, đem 5 đôla biếu cho Hội Thiên Chúa những người trẻ tuổi lúc này đang mở rộng hoạt động cứu trợ cho những người mới nhập cư, mua một ít hoa tặng mẹ, còn mấy đôla cất vào túi. Thị trường nhãn diêm bị xẹp xuống trước khi kết thúc khóa học. Đó là một trong những cơ hội đầu tiên William học làm chủ được tình hình thị trường. Bà nội bà ngoại của chú nghe kể lại chuyện này rất lấy làm tự hào về chú. Các cụ thấy rất giống như trường hợp của cụ ông ngày xưa đã làm giàu trong thời kỳ hỗn độn của năm 1873.
    Đến kỳ nghỉ hè, William nghĩ có lẽ có một cách khác đem lại lãi suất nhiều hơn cho số vốn chú gửi ngân hang tiết kiệm. Trong ba tháng sau đó, chú nghe bà nội Kane đem tiền bỏ vào những chứng khoán do tờ Nhật báo phố Wall quảng cáo. Chú đã bị mất quá nửa số tiền thu được từ kinh doanh nhãn diêm, vì vậy bây giờ chú chỉ tin vào những lời khuyên về chuyên môn của tờ báo trên đây, hoặc cùng lắm là dựa vào những thông tin chú nhặt được ở ngoài đường phố.
    Tức mình vì bị mất đi 20 đôla, William quyết định trong những ngày nghỉ lễ Phục sinh thế nào cũng phải tìm cách thu hồi lại. Chú tính xem trừ những buổi chiều dài và các việc khác mà mẹ chú cần chú tham gia, còn lại chú chỉ có mười bốn ngày được hoàn toàn tự do. Chừng đó thôi là đủ cho chú có thể tính chuyện làm ăn được. Chú đem bán hết những cổ phần còn lại trong tờ Nhật báo phố Wall, được 12 đôla. Với số tiền này, chú mua một mảnh gỗ, hai bộ bánh xe, trục, và một sợi dây thừng, tất cả hết 5 đôla sau khi đã mặc cả nhiều lần. Rồi chú đội một chiếc mũ vải và mặc bộ quần áo cũ đã chật và ra ga xe lửa địa phương kiếm ăn.Chú đứng ở ngoài cửa ra vào trông có vẻ đói và mệt, chờ một số hành khách bước ra ngoài và nói với họ rằng những khách sạn chính ở Boston đều gần ga xe lửa, không cần phải thuê taxi hoặc xe cộ gì khác, mà chú sẵn sang chở hành lý cho họ với 20 phần trăm giá taxi thôi. Chú còn thuyết phục họ là đi bộ cho khỏe người. Cứ như thế làm mỗi ngày sáu tiếng chú đã có thể kiếm được suýt soát 4 đôla.
    Năm ngày trước khi kỳ học mới bắt đầu, chú đã có thể phục hồi được khoản bị mất và còn kiếm thêm được 10 đôla lợi nhuận. Nhưng đến đây chú gặp phải một vấn đề. Những tay lái taxi đã bắt đầu khó chịu với chú. William bèn nói với họ là chú chỉ mới có chín tuổi, nhưng chú sẵn sàng rút lui khỏi chỗ này nếu mỗi người giúp cho chú 50 xu để chú bù vào cái tiền chú đã phải mua vật liệu để làm lấy chiếc xe chở đồ. Họ đồng ý ngay. Thế là chú lại kiếm được them 8,50 đôla nữa. Trên đường trở về nhà trên đồi Beacon, William bán lại chiếc xe đó với giá 2 đôla cho một bạn học lớn hơn chú hai tuổi, anh bạn kia tưởng có thể kiếm ăn bằng chiếc xe đó được, nhưng những tay lái taxi không cho, vả lại trời mưa suốt nhưng ngày còn lại trong tuần.
    Ngày trở về trường học, William lại gửi tiền vào ngân hang với lãi suất 2,5 phần trăm. Trong suốt năm học sau đó, chú không có điều gì đáng lo ngại vì tiền tiết kiệm của chú vẫn tiếp tục tăng lên. Việc con tàu Lusitania bị đắm vào tháng năm 1915 và lời tuyên chiến của Tổng thống Wilson đối với Đức năm 1917 không làm cho William bận tâm. Chú cam đoan với mẹ chú là chẳng có gì và chẳng có ai đánh nổi nước Mỹ đâu. William còn bỏ ra 10 đôla mua công trái tự do để chứng minh nhận định của chú là đúng.
    Đến ngày sinh nhật lần thứ mười một của William, cuốn sổ thu chi riêng của chú cho thấy chú đã thu được lợi nhuận 412 đôla. Chú mua tặng mẹ chiếc bút máy và tặng bà nội bà ngoại hai chiếc trâm cài áo mua ở cửa hang vàng bạc địa phương. Chiếc bút máy có nhãn hiệu Parler, còn hai chiếc trâm được gói vào những hộp đồ trang sức đặc biệt gửi về tận nhà cho hai cụ. Không phải là chú có ý lừa dối gì các cụ bằng những thứ bao bì rất đẹp ấy, mà chính chú đã rút được kinh nghiệm hồi bán nhãn diêm, biết rằng bao bì càng đẹp càng dễ bán sản phẩm. Các cụ thấy hộp đồ mang nhãn hiệu Shreve, Crump và Low, lấy làm hãnh diện về những chiếc trâm của mình và luôn luôn cài trên áo.
    Các cụ theo dõi từng bước của William và quyết định rằng đến tháng Chín năm tới sẽ chuyển chú đến học ở trường St Paul, ở Concord bang New Hamphires như trước đây đã dự kiến. Chú lại được hưởng học bổng cho môn toán, đỡ được khoản 300 đôla một năm cho gia đình mà thực ra điều đó không cần thiết. Vì vậy mặc dầu William nhận học bổng nhưng các cụ vẫn trả lại tiền cho nhà trường để ?onhường cho những đứa trẻ ít may mắn hơn?. Anne không thích chuyện William phải xa mẹ để vào trường nội trú, nhưng các cụ đã muốn như vậy, hơn nữa, chị biết rằng trước đây Richard đã muốn như vậy. Chị thêu tên đánh dấu vào những đồ dùng của William, giày dép, quần áo, và cuối cùng chị đích than sửa soạn hòm xiểng cho chú, không nhờ ai giúp đỡ. Khi William sắp sửa lên đường, mẹ chú hỏi, chú cần bao nhiêu tiền túi cho học kỳ sắp tới.
    - Con không cần, - chú trả lời gọn.
    William hôn vào má mẹ. Chú không hiểu được mẹ chú sẽ nhớ chú như thế nào.
    Chú đi xuống đường, mặc chiếc quần dài đầu tiên trong đời, tóc cắt rất ngăn, tay xách chiếc vali nhỏ, và chiếc xe Rolls-Royce. Chiếc xe đưa chú đi. Chú không ngoái cổ lại. Mẹ chú cứ vẫy tay mãi rồi khóc. William cũng muốn khóc, nhưng chú biết giá bố còn sống thì bố sẽ không bằng lòng như vậy.
    Điều đầu tiên William Kane thấy rất lạ là ở trường này, tất cả những học sinh khác không ai cần biết rằng chú là ai. Ở đây không còn những cái nhìn trầm trồ hoặc im lặng thừa nhận sự có mặt của chú nữa. Một đứa nhiều tuổi hơn hỏi tên chú là gì, nhưng sau khi chú nói tên rồi, không thấy nó tỏ vẻ xúc động gì hết. Thậm chứ có đứa gọi chú là Bill (tên tắt của William). Chú đã phải cải chính ngay và giải rằng xưa kia không ai gọi bố chú là Dick (tên tắt của Richard) cả.
    Cơ ngơi mới của chú là một căn phòng nhỏ với những giá sach bằng gỗ, hai chiếc bàn, hai ghế, hai giường với một chiếc ghế dài bọc da đã hơi cũ. Bàn ghế và chiếc giường kia là của một cậu học sinh khác từ New York tới, có tên là Matthew Lester. Bố cậu ta là Chủ tịch công ty Lester ở New York, cũng là một gia đình ngân hàng.
    William đã sớm quen ngay với những giờ giấc hang ngày ở trường. Bảy giờ rưỡi sang ngủ dậy, tắm rửa, ăn sang ở phòng ăn lớn với cả trường, 220 học sinh hối hả với những món ăn trứng, thịt rán và cháo kê. Ăn sang xong vào nhà thờ, rồi vào lớp, trước bữa ăn trưa có ba tiết, mỗi tiết 50 phút, sau bữa ăn trưa có hai tiết nữa, rồi tiếp theo đó là bài học nhạc mà William rất ghét vì chúng không thể nào hát được cho đúng nốt và chú cũng không hề có ý muốn học chơi bất cứ một thứ nhạc cụ nào. Bóng đá vào mùa thu, khúc côn cầu và bóng quần vào mùa đông, chèo thuyền và quần vợt vào mùa xuân, ngoài những thứ đó ra, chú không còn mất thời giờ làm gì khác. Vì là học lớp chuyên toán nên mỗi tuần William lại có ba buổi được phụ đạo đặc biệt do ông thầy thuê riêng tên là G.Raglan phụ trách. Bọn trẻ đặt cho ông thầy này một biệt danh, gọi là ông ?oXấu tính?.
    Trong năm học đầu, William tỏ ra rất xứng đáng với học bổng của chú, luôn luôn dẫn đầu ở tất cả các môn và cả trong lớp chuyên toán. Chỉ có anh bạn mới, Matthew Laster, là đối thủ thực sự với chú, vì hai người cùng ở một phòng với nhau. Trong khi theo học chính quy như vậy, William vẫn tỏ ra mình là một nhà tài chính. Mặc dầu chuyến đầu tư của chú không thành công, chú vẫn không từ bỏ niềm tin của mình là thế nào rồi cũng thu về được món tiền lớn, và chú cho rằng giành được nó trên thị trường chứng khoán mới là quan trọng. Chú theo dõi tờ Nhật báo phố Wall và báo cáo của các công ty. Mới mười hai tuổi, chú đã bắt đầu thí nghiệm làm những cuộc đầu tư vào một hồ sơ giả. Chú ghi lại tất cả những cuộc mua bán giả, cái tốt và cái không tôt lắm, vào một cuốn sổ khác màu, rồi đến cuối tháng đem so sánh những dự tính của mình với thị trường xem sao. Chú không theo những chứng khoán đã có trong danh sách mà tập trung vào một số những công ty vô danh nào đó không có khả năng mua vào nhiều hơn những cổ phần họ có được. William tự quy ước cho mình bốn điều trong đầu là: bội số thu nhập thấp, tỷ lệ phát triển cao, cơ sở tài sản mạnh, và triển vọng kinh doanh thuận lợi. Chú thấy ít có chỗ nào cổ phần đáp ứng được đầy đủ những tiêu chuẩn chú đặt ra như vậy. Nhưng chú tình nếu mình đã làm thì phải trông thấy lợi nhuận mới được.
    Đến lúc chú thấy rằng chương trình đầu tư ma của mình đã có thể liên tục thắng được những chỉ tiêu Down Jones, thế là William biết rằng đã có thể bỏ tiền ra đầu tư được rồi. Chú bắt đầu với 100 dôla và luôn luôn cải tiến phương pháp của mình. Chú theo sát lợi nhuận và giảm bớt hao hụt. Một khi chứng khoán tăng lên gấp đôi, chú đem bán ngay một nửa cổ phần, giữ lại nguyên một nửa không suy chuyển và kinh doanh phần chứng khoán còn lại của chú, coi như đó là một phần thưởng của lãi suất. Một số những công ty chú phát hiện ra lúc đầu, như Eastman Kodak và I.B.M sau trở thành những công ty đứng đầu ở quy mô toàn quốc. Chú cũng ủng hộ cả công ty Sears, một công ty kinh doanh hàm thụ, vì chú cho rằng càng về sau này nó sẽ là một khuynh hướng phổ biến trong cách mua bán.
    Vào khoảng cuối năm học đầu tiên ở trường, chú đã trở thành cố vấn cho nửa số nhân viên và một số phụ huynh học sinh về chuyện làm ăn. William Kane thấy mình ở trường rất hạnh phúc.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  4. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    William đi học ở St. Paul nên ở nhà chỉ còn có một mình Anne Kane đơn độc với hai bà nội và bà ngoại giờ đã mỗi lúc một già thêm. Chị lấy làm buồn thấy mình đã ngoài ba mươi tuổi rồi, và cái tươi đẹp của tuổi trẻ trước đây bây giờ đã biến đi đâu mất. Chị bắt đầu liên hệ lại với những bạn cũ do cái chết của Richard làm cho đứt đoạn. John và Milly Preston, mẹ đỡ đầu của William, lại mời chị đi ăn và đi xem hát, lần nào cũng chú ý kéo thêm một người đàn ông để cho Anne có bạn. Những người mà vợ chồng Preston mời đi theo thường là những người mà Anne thấy khủng khiếp, và chị cười thầm với mình mỗi khi họ tỏ ra muốn ve vãn. Cho đến một hôm vào tháng giêng 1919, sau ngày William về nghỉ đông và đã trở lại trường, Anne được mời đến dự bữa ăn thân mật bốn người. Milly thú thật với chị là họ chưa hề gặp người khách này bao giờ, chỉ biết đó là Henry Osborne và nghe như trước đây cùng học với John ở Harvard.
    Milly nói trên điện thoại:
    - Thực ra John không biết rõ lắm về anh ấy, có điều John bảo anh ta khá đẹp trai.
    Về điều này, cả Anne và Milly đều công nhận ý kiến của John là đúng. Lúc Anne đến, anh ta đang ngồi bên lò sưởi. Anh ta đứng ngay dậy để chờ Milly giới thiệu. Người cao lớn, tóc đen, mắt đen, dong dỏng và có dáng thể thao. Anne cảm thấy hài lòng được ngồi nói chuyện buổi tối với một người đàn ông trẻ đẹp và có vẻ cương nghị, còn Milly thì cũng bằng lòng với ông chồng đang bước vào tuổi trung niên so với anh bạn học cũ kia. Henry Osborne phải đeo tay vào một sợi băng gần che lấp chiếc cavát Harvard trên ngực.
    - Anh là thương bình ư? ?" Anne hỏi với giọng thương cảm.
    - Không, tôi bị ngã cầu thang ngay sau cái tuần ở mặt trận phía Tây về, - anh ta cười nói.
    Đó là một trong những bữa ăn khá hiếm đối với Anne, vì thời gian trôi đi một cách vui vẻ nhẹ nhõm. Henry Osborne trả lời tất cả những gì Anne tò mò muốn hỏi. Sau khi rời trường Harvard, anh ta làm việc cho một công ty quản lý nhà đất ở Chicago là nơi anh ta sinh trưởng. Chiến tranh nổ ra, anh không thể không tham gia. Anh có cả một kho chuyện lý thú về châu Âu và về cuộc đời anh đóng vai một trung úy đứng ra bảo vệ danh dự của nước Mỹ ở trận Marne. Từ sau khi Richard mất đi, Milly và John chưa từng thấy Anne cười nhiều như thế bao giờ, và lúc Henry đề nghị đánh xe đưa chị về nhà thì họ mỉm cười nhìn nhau ra vẻ hiểu ý.
    - Bây giờ sau khi đã trở về với đất của những anh hùng này, anh định sẽ làm gì đây? Anne hỏi trong khi Henry Osborne đánh chiếc xe Stutz ra ngoài và đi vào phố Charles.
    - Tôi chưa định gì hết, - anh ta đáp. ?" May mà tôi còn một ít tiền riêng nên chưa vội lao vào chuyện gì hết. Có thể tôi sẽ tiến hành đặt ngay công ty nhà đất của tôi ở Boston này. Từ hồi ở trường Harvard, tôi vẫn luôn luôn cảm thấy gần gũi với thành phố này.
    - Vậy anh không quay về Chicago nữa ư?
    - Không, tôi chả còn gì ở đó. Cha mẹ tôi đã chết cả, mà tôi lại là con một, vì vậy tôi có thể lại bắt đầu ở bất cứ chỗ nào cũng được. Ta phải đi hướng nào đây?
    - Ô, rẽ sang phải ở ngã tư đầu, - Anne nói.
    - Chị ở trên đồi Beacon ư?
    - Vâng. Khoảng hơn một trăm thước phía bên phải trên đường Chesnut, có ngôi nhà đỏ ở góc quảng trường Louisburg ấy.
    Henry Osborne đỗ xe lại và đưa Anne đến tận cửa nhà. Chào và chúc ngủ ngon xong, anh ta đi ngay mà Anne chưa kịp cảm ơn. Chị nhìn theo xe anh ta từ từ đi xuống đồi Beacon, biết rằng thế nào cũng còn gặp lại. Ngay sáng hôm sau, chị lấy làm sung sướng tuy không ngạc nhiên lắm thấy anh ta gọi điện thoại lại cho chị.
    - Dàn nhạc giao hưởng Boston, Mozart với một nhân tài mới rất sôi nổi, Mahler, vào thứ hai tới, mời chị đi được không?
    Anne bối rối thấy mình mong cho chóng đến thứ hai. Hình như đã lâu lắm chị mới thấy có một người mà chị cho là hấp dẫn theo đuổi chị. Henry Osborne đến rất đúng giờ hẹn. Hai người bắt tay nhau hơi ngượng ngập. Chị mời anh ta uống một cốc wisky.
    - Ở trên quảng trường Louisburg này cũng thú vị lắm nhỉ. Chị thật là một người may mắn.
    - Vâng, có lẽ thế. Thực ra tôi cũng không để ý lắm. Tôi sinh trưởng trên đại lộ Commonwealth kia. Tôi thì lại cho là ở chỗ này hơi bí.
    - Tôi đang nghĩ nếu tôi quyết định ở lại Boston thì có thể mua một ngôi nhà ở ngay trên đồi này.
    - Người ta không có sẵn nhà bán như vậy nhiều lắm đâu, - Anne nói, - Nhưng có thể anh sẽ may mắn mua được. Ta đi thôi chứ? Đi nghe hòa nhạc mà đến muộn và phải dẫm lên chân người khác để vào chỗ ngồi của mình thì chán lắm.
    Henry liếc nhìn đồng hồ tay.
    - Vâng, tôi cũng thấy thế. Vả lại cũng còn phải xem nhạc trưởng bước vào nữa chứ. Tuy nhiên, chị không phải lo giẫm lên chân ai trừ chân tôi, vì chúng ta ngồi ở đầu hàng ghế.
    Sau buổi hòa nhạc thú vị ấy, Henry cầm tay Anne dẫn chị vào nhà hàng Ritz, và anh ta cho điều đó là tự nhiên. Từ sau khi Richard mất, chỉ có William là người đã cầm tay chị nhưng phải nói mãi chú mới làm vì chú cho rằng như thế là có tính đàn bà. Lại một lần nữa, thời gian trôi qua nhanh, không biết đó là do món ăn ngon hay do có Henry cùng đi? Lần này, anh ta kể những chuyện về Harvard làm cho chị cười, và những kỷ niệm biết rằng trông bề ngoài anh ta trẻ hơn chị, nhưng đời anh ta đã trải qua rất nhiều sự kiện nên ngồi trước mặt anh ta, chị cảm thấy mình bé nhỏ và ngây thơ hơn nhiều. Chị nói lại cho anh ta biết về cái chết của chồng chị, và lại khóc. Anh ta cầm lấy tay chị. Chị nói về đứa con trai của mình, nhưng Anne biết chắc là anh ta thấy thiếu gia đình lắm. Đêm đó đưa chị về nhà, anh ta nán ngồi lại uống rượu một lát rồi lúc ra về hôn vào má chị. Trước khi ngủ, Anne ôn lại trong đầu từng phút hai người đã ở bên nhau.
    Ngày thứ ba, họ lại cùng nhau đi xem hát. Thứ tư, họ rủ nhau lên thăm ngôi nhà nghỉ hè của Anne ở Bờ Bắc. Thứ năm, rủ nhau về nông thôn Massachusetts phủ đầy băng tuyết. Thứ sáu, đi mua đồ cổ và thứ bảy thì ******** với nhau. Sau ngày chủ nhật, hai người hầu như không rời nhau nữa. Milly và John Preston hoàn toàn sung sướng thấy việc giới thiệu của mình như thế là đã rất thành công. Milly đến khắp nơi ở Boston khoe với mọi người rằng chính chị đã làm cho hai người gắn bó với nhau được.
    Không ai ngạc nhiên đối với việc hai người tuyên bố đính hôn với nhau mùa hè năm đó, trừ có một người là William. Chú đã tỏ ra không thích Henry ngay từ cái hôm Anne, với một vẻ ngần ngại, đã giới thiệu hai người với nhau. Câu chuyện đầu tiên diễn ra dưới dạng Henry thì hỏi rất nhiều, tỏ ra muốn thân mật, nhưng William thì toàn trả lời nhát gừng, ra vẻ không ưa anh ta. Từ đó William vẫn cứ như thế. Anne cho rằng chẳng qua con mình ghen đó thôi, vì sau khi Richard qua đời chỉ có William là người thân yêu nhất. Hơn nữa, William luôn luôn cho rằng sau khi bố chú mất đi, trên đời này không thể có ai thay thế vào đó được nữa. Anne cố thuyết phục Henry rằng với thời gian rồi William sẽ thay đổi tính nết và thái độ lạnh nhạt của chú.
    Anne Kane trở thành bà Osborne vào tháng mười năm đó ở nhà thờ của giáo phái Episcopan tại St. Paul, đúng vào lúc lá vàng bắt đầu rụng, tức là khoảng hơn chín tháng kể từ ngày họ mới gặp nhau. William giả vờ ốm để khỏi đến dự đám cưới, và chú cũng quyết định ở lại trường luôn. Các cụ nội ngoại đều có tham dự nhưng không giấu được sự bất bình của các cụ đối với việc Anne tái giá, nhất là lại đi lấy một người có vẻ trẻ hơn chị rất nhiều. Bà nội Kane nói: - Thế nà rồi cũng kết thúc bằng một tai họa.
    Đôi vợ chồng mới ngay ngày hôm sau đáp tàu đi Hy Lạp cho đến tận giữa tháng chạp mới trở về căn nhà đỏ trên đồi, vừa đúng lúc để đón William về nghỉ những ngày lễ Giáng sinh. William khó chịu khi thấy ngôi nhà đã trang hoàng lại, hầu như không còn dấu vết gì của cha chú nữa. Qua lễ Giáng sinh, thái độ của William đối với ông bố dượng vẫn không tỏ ra dịu đi chút nào, mặc dầu Henry đã tặng chú chiếc xe đạp mới và chú vẫn hiểu đó là một thứ hối lộ. Henry Osborne vẫn kiên nhẫn chịu đựng thái độ ấy và không thèm nói gì nữa. Anne lấy làm buồn thấy anh chồng mới tuyệt vời của mình không tỏ ra cố gắng tranh thủ cảm tình gì của con mình nữa.
    William cảm thấy bực dọc về chuyện ngôi nhà của mình bị người khác xâm chiếm. chú thường biến đi đâu chơi cả ngày. Khi Anne hỏi chú đi đâu, chú chỉ ậm ừ hoặc không nói gì. Các cụ bà cũng thấy vắng chú nhưng không hỏi. Những ngày nghỉ lễ Giáng sinh vừa hết là William trở lại trường ngay. Thấy chú đi, Henry cũng không lấy gì làm buồn.
    Còn Anne thì lấy làm lo ngại đối với cả chồng và con.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  5. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    9​
    - Dậy đi! Bé con! Dậy đi!
    Một tên lính thúc báng súng vào cạnh sườn Wladek. Chú giật mình ngồi dậy, nhìn vào nấm mộ của chị chú, của Leon và của Nam tước. Rồi chú ngước lên nhìn tên lính. Chú không còn giọt nước mắt nào nữa.
    - Tôi sẽ sống. Anh không giết tôi được, - chú nói bằng tiếng Ba Lan. ?" Đây là nhà tôi, Các anh đang ở trên đất của tôi.
    Tên lính nhổ toẹt vào Wladek một cái và đẩy chú về bên bãi cỏ đang có tất cả đám người hầu ở đó, người nào cũng mặc áo ngủ màu xám trên lưng đều có ghi số. Vừa trông thấy thế Wladek đã khiếp sơ. Chú biết là mình sẽ không tránh khỏi số phận ấy. Tên lính dẫn chú về phía sau lâu đài và bảo quỳ xuống. Chú nghe có tiếng dao trên đầu và thấy mớ tóc đen rậm của chú rụng xuống cỏ. Chỉ độ mười nhát như thế là họ đã cạo sạch tóc trên đầu chú, chẳng khác gì người ra cắt lông cừu. Sau đó chú được lệnh mặc vào người bộ đồng phục mới, tức bộ áo ngủ màu xám gồm một chiếc sơ mi rộng thùng thình và một chiếc quần. Wladek cố giấu chiếc vòng bạc đeo ở cổ tay. Rồi chú được dẫn ra nhập bọn với đám người hầu ở phía trước lâu đài.
    Họ đứng chờ trên bãi cỏ. Bây giờ không ai còn tên gì nữa, chỉ có số. Wladek bỗng nghe xa xa có tiếng ì ầm rất lạ tai. Chú quay về hướng có tiếng ghê rợn ấy. Một chiếc xe từ ngoài cổng sắt lớn tiến vào. Xe này có bốn bánh, không có ngựa hay bò kéo mà nó di chuyển được. Tất cả tù nhân đều nhìn vào đó mà không tin ở mắt mình. Khi chiếc xe đã dừng lại, bọn lính kéo đám tù nhân đến gần và bắt trèo lên xe. Rồi chiếc xe không có ngựa kéo ấy quay đầu đi ra ngoài những hàng cổng sắt. Không một ai dám mở miệng nói gì. Wladek ngồi phía sau xe, đăm đăm nhìn lại tòa lâu đài của chú cho đến lúc không còn nhìn thấy những tháp gôtích trên nóc nó nữa.
    Chiếc xe không có ngựa kéo chạy về phía làm Slonim. Wladek vừa không hiểu sao chiếc xe đó chạy được, vừa không biết nó đưa mọi người đi đâu. Chú bắt đầu nhận ra những con đường chú đã từng đi học trước đây. Ba năm sống dưới hầm lâu đài khiến chú không còn nhớ được những con đường ấy đi đến tận nơi nào. Đi được mấy dặm thì chiếc xe dừng lại và mọi người bị xua xuống. Ra đây là nhà ga xe lửa. Wladek chỉ mới trông thấy chỗ này một lần trong đời, tức là khi chú cùng Leon ra đón Nam tước ở Warsaw về. Chú còn nhớ là khi họ bước vào sân ga thì người lính gác ở đó đã giơ tay chào. Lần này không có ai chào, và tù nhân thì chỉ được uống sữa dê, ăn súp củ cải và bánh mì đen. Wladek lại được đứng ra nhận thức ăn về đem chia cho mười ba người còn lại với chú. Chú ngồi trên một chiếc xe ghê gỗ và đoán rằng họ đang chờ một chuyến xe lửa. Đêm đó, mọi người nằm ngủ trên đất nhìn trời sao. Nếu so với căn hầm thì đây đã là thiên đường rồi. Chú cảm ơn Chúa là mùa đông này không lấy gì làm rét lắm.
    Đến sáng hôm sau, mọi người vẫn chờ đợi. Wladek hướng dẫn mọi người vận động một chút, nhưng chỉ được vài phút thì phần lớn đã gục xuống. Chú bắt đầu nhẩm trong bụng để nhớ tên những người cho đến hôm nay còn sống sót. Tất cả còn lại có mười hai người đàn ông, hai người đàn bà, trong số hai mươi bảy người đã bị giam trong hầm trước đây. Cả ngày hôm ấy họ vẫn cứ phải ngồi chờ chuyến xe lửa mà không thấy nó đến. Có một chuyến tàu đến nhưng chỉ thả thêm lính xuống đây, rồi lại đi mà không chở đám người của Wladek. Họ lại ngủ một đêm nữa trên đất.
    Wladek nằm nhìn lên trời cao trong bụng nghĩ không biết có thể làm thế nào để trốn đi được. Trong đêm, một trong số mười ba người của chú bỏ chạy sang bên kia đường xe lửa, nhưng chưa sang được đến nơi đã bị lính bắn chết. Wladek chăm chăm nhìn vào chỗ đồng bào của chú vừa ngã xuống. Chú sợ không dám chạy ra cứu vì rất có thể lại cùng chịu số phận ấy. Sáng hôm sau, bọn lính gác cứ để xác chết đó nằm trên đường để đe những người khác đừng có bắt chước chạy mà chết.
    Không ai nói gì về chuyện đã xảy ra, nhưng suốt ngày hôm đó mắt Wladek không rời được người đã chết. Người đó chính là Ludwik, một trong hai người đã đến làm chứng lúc Nam tước dặn dò để lại gia tài cho Wladek.
    Vào buổi tối ngày thứ bà, một chiếc xe lửa khác từ từ lăn bánh vào ga. Một chiếc đầu tàu rất to chạy bằng hơi nước kéo theo một lô toa chở hàng và chở hành khách. Những toa chở hàng chất đầy rơm và hai bên sườn có viêt chữ Gia Súc. Một số toa khác đã chở toàn những tù nhân mà Wladek trông họ cũng nhem nhuốc như đám người của chú vậy. Chú và tốp người của chú bị vứt lên một trong những toa đó để bắt đầu một cuộc hành trình. Phải chờ mấy tiếng đồng hồ nữa đoàn tàu mới bắt đầu ra khỏi ga và đi về một hướng mà Wladek đoán là hướng Đông vì mặt trời đang lặn phía sau.
    Cứ ba toa lộ thiên thì có một lính gác ngồi bắt chéo chân ở toa bên trên có mái. Suốt dọc đường tưởng như không bao giờ hết ấy, thỉnh thoảng lại có tiếng súng bắn trên tàu, khiến Wladek nghĩ có muốn chạy trốn cũng vô ích.
    Lúc tàu đỗ lại ở Minsk, họ được cho ăn một bữa đầu tiên gồm bánh mì đen, nước uống, lạc và kê. Rồi lại đi tiếp. Có khi họ đi đến ba ngày trời mà chẳng thấy một ga nào. Rất nhiều người trên tàu này bị đói lả và chết. Họ bị vứt xuống đường trong khi tàu đang chạy. Khi tàu dừng lại, có khi họ phải chờ đến hai ngày để nhường đường cho tàu khác đi về phía Tây. Những chuyến tàu ấy thường là chở lính. Wladek hiểu ra là tàu chở quân đội bao giờ cũng được ưu tiên đi trước. Trong đầu Wladek lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện trốn, nhưng có hai điều khiến chú chưa dám thực hiện tham vọng ấy. Thứ nhất chú thấy hai bên đường chỉ toàn là rừng thẳm không biết đến đâu mới hết, và thứ hai là tất cả những người còn sống sót ở nhà hầm ra đây đều chỉ biết dựa vào chú. Chính Wladek là người lo ăn uống cho họ và cố động viên cho họ còn muốn sống. Chú là người trẻ nhất trong cả bọn và cũng là người cuối cùng tin ở cuộc sống.
    Từ đấy trở đi, đêm nào cũng rất lạnh, có khi lạnh tới 30 độ dưới không. Họ phải năm sát vào nhau trên sàn để người nọ truyền hơi ấm cho người kia. Wladek thầm đọc lại những đoạn Aeneid để cố ngủ cho được. Nếu một người muốn trở mình thì tất cả những người khác đều phải đồng ý giở mình một lượt mới được. Wladek nằm ở đằng đầu và cứ qua mỗi giờ đồng hồ, chú đoán như vậy vì chỉ có thể căn cứ vào bọn lính đổi gác, thì chú lại lấy tay gõ vào thành xe và mọi người lại cứ thế trở mình quay sang phía kia. Một đêm, có một người không trở mình nữa. Họ báo cho Wladek biết và chú báo lại cho tên lính gác biết. Đó là một người đàn bà trong nhóm, và ba ta đã chết. Phải bốn người mới nhấc được xác bà lên và vứt xuống cạnh đường trong khi tàu vẫn đang chạy. Tên lính gác còn bắn theo xác chết một loạt đạn nữa để biết chắc rằng đó không phải là người định trốn.
    Đi qua Minsk hai trăm dặm, họ đến một thị trấn tên là Smolenski. Ở đây họ được ăn súp củ cải nóng hơn với bánh mì đen. Trong toa xe của Wladek có thêm mấy tù nhân nữa, và mấy người này nói cùng một thứ tiếng với bọn lính gác. Người cầm đầu nhóm mới này hình cũng cùng tuổi với Wladek. Wladek với mười một người còn lại trong nhóm đã thấy nghi ngờ ngay bọn mới lên này, Họ chia toa xe ra làm hai nửa, mỗi nhóm ở một bên toa.
    Một đêm trong khi Wladek đang nằm thức và ngắm nhìn trời sao, chờ cho người nóng lên, chú bỗng thấy tên cầm đầu của nhóm người mới lên ở Smolenski bò đến chỗ người nằm ngoài của nhóm chú, tay hắn cầm một sợi dây thừng. Chú trông rõ thấy hắn luồn sợi dây và cổ Alfons lúc này đang ngủ. Alfons là người hầu cận của Nam tước trước đây. Wladek biết rằng nếu mình nhổm dậy ngay thì hắn sẽ nghe thấy và chạy về đầu toa bên kia, vì thế chú khẽ bò dọc theo nhóm người của chú. Họ biết chú bò qua mình nhưng không ai lên tiếng. Đến cuối hàng, chú nhảy chồm lên người tên kia. Mọi người trong toa thức dậy ngay. Ai nấy kéo dồn về một đầu toa, trừ có Alfons nằm lại đó không động đậy.
    Tên cầm đầu đám Smolenski cao lớn và nhanh nhẹn hơn Wladek. Nhưng vật nhau trên sàu toa thì cũng như nhau cả. Cuộc đấu diễn ra đến mấy phút. Bọn gác nhìn cười và đánh cuộc xem ai được. Một tên thấy đánh nhau mà không có máu thì không thích, bèn quẳng một chiếc lưỡi lê xuống giữa sàn tàu. Cả hai tranh nhau giành lấy lưỡi lê sáng loáng. Tên Smolenski vớ được trước. Hắn đâm một nhát vào cạnh chân Wladek tóe máu. Bọn người Smolenski thấy thế hoan hô. Nhát đâm thứ hai trượt qua tai Wladek cắm xuống sàn tàu. Hắn chưa kịp rút lưỡi lê được thì Wladek đã dùng hết sức mình thúc một cái thật mạnh vào dái hắn. Hắn ngửa người ra sau và phải rời tay khỏi lưỡi lê. Wladek chồm lên, nắm lấy cán lưỡi lê và đè lên người tên Smolenski, thọc một nhát vào miệng hắn. Hắn thét lên một tiếng làm náo động cả đoàn tàu. Wladek rút lưỡi lê ra rồi lại liên tiếp thọc xuống mấy nhát nữa cho đến khi tên kia hết cựa quậy. Wladek quỳ lên người hắn thở dốc rồi lát sau nhác người hắn lên vứt ra ngoài tàu, Chú nghe rõ tiếng xác hắn rơi đành huỵch xuống cạnh đường tàu và cả tiếng súng của bọn gác bắn theo.
    Wladek loạng choạng đi đến chỗ Alfons còn nằm đó. Chú quỳ xuống bên cạnh. Anh ta chết thật rồi. Thế là người làm chứng thứ hai của chú cũng chết nốt. Bây giờ còn ai tin được Wladek là người Nam tước đã chọn ra để thừa kế tài sản của ông nữa? Cuộc đời thế là không còn mục đích gì nữa rồi.
    Chú cúi gục xuống, nắm chặt hai tay vào cán và xoay mũi lưỡi lê vào bụng. Bỗng một tên lính gác nhảu xuống giằng lưỡi lê ra khỏi tay chú.
    - Ô, không được, không được, - hắn càu nhàu. ?" Chúng tao cần có những người sống như mày ở trong trại giam. Đừng hòng chúng tao làm mọi việc, nghe không.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  6. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Wladek ôm hai tay lên đầu. Bây giờ chú mới thấy đau buốt ở chỗ chân bị lưỡi lê đâm lúc nãy. Chú đã mất hết cả gia tài, để bây giờ cầm đầu luôn cả lũ người Smolenski kia nữa. Cả toa tàu bây giờ là giang sơn của chú, và chú phải quản hai chục tù nhânh. Chú lập tức chia họ ra để mỗi người Ba Lan bao giờ cũng phải nằm kề với một người Smolenski, và như vậy giữa hai nhóm không còn có chuyện lục đục với nhau được nữa.
    Wladek bỏ thì giờ ra để học cái ngôn ngữ quái lạ của họ. Mãi sau chú mới biết đó chính là tiêng Nga, rất khác với thứ tiếng Nga cổ điển mà Nam tước đã dạy cho chú. Và bây giờ thì chú biết là đoàn tàu đi về hướng nào.
    Ban ngày, chú lấy ra hai người Smolenski để dạy tiếng của họ cho chú. Khi nào hai người đó mệt quá rồi, chú lại lấy hai người khác, cứ thế cho đến lúc cả bọn người đó mệt rũ.
    Dần dần chú đã có thể nói chuyện dễ dàng với bọn người mới phụ thuộc vào chú. Chú phát hiện ra một số trong bọn đó là lính Nga, sau khi về nước bị đi đày ngay về cái tội đã để cho bọn Đức bắt làm tù bình. Số còn lại toàn là dân làm ruộng, làm mỏ và lao động bình thường nhưng đều là những người rất chống đối cách mạng.
    Đoàn tàu đi tiếp đến những vùng đất trơ trụi mà Wladek chưa hề thấy bao giờ. Họ đi qua những thị trấn mà chú cũng chưa từng nghe nói đến bao giờ, như Omsk, Novosbirsk, Krasnoyarsk. Chỉ những nghe đến tên thôi chú cũng đã thấy sợ. Cuối cùng, sau hai tháng trời và qua hơn ba ngàn dặm họ đến được Irkutsk, và đến đây là hết đường sắt.
    Họ bị xua ra khỏi tàu, được cho ăn uống và được phát những đôi giày bằng da thô, và những chiếc áo choàng rất nặng. Họ phải tranh nhau để giành lấy áo ấm những cũng chẳng có thứ áo nào chống nổi cái lạnh mỗi lúc một ghê gớm hơn.
    Lúc sau thấy xuất hiện những chiếc xe không có ngựa kéo, giống như loại xe Wladek đã thấy lúc rời khỏi lâu đài. Họ quẳng xuống một loạt dây xích. Các tù nhân bị khóa một tay vào dây xích dài ấy, mỗi bên hai mươi lăm người. Bọn lính gác trèo lên xe, còn đám tù nhân đi theo với dây xích buộc vào xe. Họ cứ đi bộ như thế liền trong mười hai tiếng đồng hồ, được nghỉ lại hai tiếng rồi lại đi tiếp. Sau ba ngày, Wladek tưởng mình sẽ chết vì lạnh và mệt, nhưng ra khỏi những vùng có dân cư rồi, họ chỉ phải đi ban ngày, còn ban đêm được nghỉ. Một bếp lưu động của tù nhân trong trại cứ sáng ra và tối trước khi nghỉ cho họ ăn súp củ cải và bánh mì. Wladek hỏi những tù nhân trong trại thì được biết rằng tình hình ở đó còn tệ hơn.
    Trong tuần đầu, họ không được tháo ra khỏi xích nhưng dần dà thấy không ai có thể nghĩ đến trốn chạy được nữa, họ phải tháo xích vào ban đêm để ngủ. Tù nhân phải tự đào hố trong tuyết để tìm chỗ ấm. Đôi khi vào những ngày nắng ráo họ tìm được một khu rừng để ngả lưng, nằm ngổn ngang khắp chỗ. Họ vẫn tiếp tục đi, qua những hồ nước rất rộng và những con sông băng giá. Họ đi mãi về phía bắc, gió càng lạnh, tuyết càng dầy. Chỗ chân bị thương của Wladek luôn luôn đau buốt, nhưng đến giờ thì hai tai và các đầu ngón tay bị giá lạnh còn buốt hơn nữa. Chung quanh là cả một khoảng mênh mông trắng toát, không có dấu hiệu gì của sự sống và thứ gì ăn được. Wladek biết rằng ban đêm có trốn đi đâu thì cũng chỉ chết mòn vì đói. Những người già yêu ốm đau thì đêm đêm chết dần, và như thế họ cũng còn là may mắn. Còn những người không may, không bước đi được nữa, thì được tháo ra khỏi xích và bỏ lại một mình trong bãi tuyết vô tận. Những người còn sống sót với dây xích lại đi tiếp, đi mãi về phía Bắc, cho đến lúc Wladek hoàn toàn không còn khái niệm gì về thời gian nữa, chỉ còn biết tay mình vẫn bị khóa vào xích. Chú cũng không còn nhớ là mình đã đào hố vào trong tuyết để ngủ đêm và sáng hôm sau tỉnh dậy như thế nào nữa. Những ai không còn biết được như vậy coi như đã sắp đào mồ để chôn chính mình rồi.
    Sau một chặng dài chín trăm dặm, những người nào còn sống sót thì được dân Ostyak đem xe trượt do hươu kéo ra đón. Ostyak là dân du mục trên thảo nguyên Nga. Bây giờ tù nhân lại bị xích vào những xe trượt ấy và được dẫn đi tiếp. Gặp một trận bão tuyết lớn, đoàn tù phải dừng lại mất hai ngày. Wladek tranh thủ nói chuyện được với một tay Ostyak trẻ trên chiếc xe trượt mà chú đang bị xích vào đó. Chú dùng thứ tiếng Nga cổ với giọng Ba Lan để nói lõm bõm với anh ta được ít câu. Chú phát hiện ra một điều là dân Ostyak cũng rất ghét những người Nga ở phía Nam, vì họ đối đãi với dân này tồi tệ chẳng khác gì các tù nhân. Dân Ostyak do đó có phần nào cảm tình với những người tù tội nghiệp không có tương lai này. Họ gọi tù nhân là những người bất hạnh.
    Chín ngày sau, trong ánh sáng mờ của đêm mùa đông Bắc Cực, họ đến được trại 201. Wladek không thể nào ngờ được rằng mình còn có cái may mắn mà trông thấy chỗ này. Trước mắt chú là một dãy những căn lều bằng gỗ và một khoảng không gian mênh mông trống rỗng. Những căn lều cũng được đánh số như tù nhân vậy. Lều của Wladek số 33. Giữa căn lều có một chiếc lò đen sì. Chung quanh là những dãy giường ván có đệm rơm ở trên với chiếc chăn mỏng. Trong đêm đầu không có mấy tù nhân ngủ được. Tiếng gào tiếng khóc trong lều 33 có khi còn to hơn cả tiếng gầm rú của chó sói ở bên ngoài.
    Sáng hôm sau, ngay từ lúc mặt trời chưa mọc, họ đã bị tiếng gõ vào thanh sắt tam giác đánh thức dậy. Sương giá đóng đầy cả mặt cửa sổ khiến Wladek nghĩ thế nào mình cũng chết rét. Ăn sáng chỉ được kéo dài mười phút trong một gian chung lạnh buốt với một bát cháo kê hơi âm ấm trong có vài miếng cá mòi và một cọng rau cải nổi lềnh bềnh. Những người mới đến bỏ xương cá lên bàn, nhưng những tù nhân đã quen với cảnh ở đây rồi thì ăn hết xương và cả mắt cá nữa.
    Ăn sáng xong, họ được giao nhiệm vụ. Wladek trở thành anh chặt củi. Anh được dẫn đi bảy dặm đến một khu rừng hoang và được lệnh phải chặt được một số cây nhất định. Tên lính gác bỏ anh lại đó với nhóm sáu người và suất ăn của họ gồm có một ít cháo kê vàng nhạt nhẽo và bánh mì. Bọn lính gác không sợ tù nhân nào dám trốn, vì đến được thị trấn gần đó nhất cũng phải một nghìn dặm và dù có biết hướng đi cũng không đi nổi.
    Đến cuối ngày tên lính gác sẽ quay lại đếm số củi đã chặt được. Anh ta cũng đã nói trước với tù nhân là nếu chặt không dủ số củi đã quy định thì anh ta sẽ giữ thức ăn lại đến hôm sau mới phát. Nhưng lúc anh ta quay lại thì đã bảy giờ tối, chỉ còn thu thập được cho đầy đủ tù nhân thôi, chứ không nhìn được xem họ đã chặt bao nhiêu củi. Wladek bày cho những người trong nhóm biết cách để một phần thời gian buổi chiều quýet dọn tuyết trên đống củi đã chặt hôm trước và xếp vào cùng với củi chặt hôm sau. Cách đó của anh rất có hiệu quả, vì vậy nhóm của Wladek không ngày nào bị cắt suất ăn cả. Đôi khi họ cố gắng đem theo một ít củi về trại bằng cách buộc nó vào chân ở trong quần, để đến đêm có thể cho vào lò mà sưởi. Nhưng họ cũng phải rất cẩn thận vì mỗi lần ra vào đều bị khám xét kỹ lưỡng. Nếu chẳng may bị bắt mang theo gì trong người, họ có thể bị phạt ba ngày không được ăn.
    Qua mấy tuần nữa, cái chân của Wladek bị cứng ra và rất đau. Anh mong cho có những ngày cực rét, vì khi nào thời tiết xuống tới 40 độ dưới không thì họ không phải đi làm ở ngoài trại, mặc dầu ngày ở nhà ấy sẽ phải thế bằng một ngày chủ nhật khác, mà chủ nhật thì họ thường được phép nằm nghỉ cả ngày trên giường.
    Một buổi tối trong khi Wladek đang vác củi, anh bỗng thấy vết sẹo do tên Smolenski gây ra, anh thấy nó sưng vù lên và bóng đỏ. Đêm đó anh giơ vết thương cho tên lính gác xem. Hắn bảo anh đến sáng mai sớm phải báo cho bác sĩ của trại biết. Wladek ngồi suốt đêm áp chân vào gần lò. Chung quanh lò toàn những ủng ướt. Lửa trong lò quá yếu nên không làm cho anh bớt đau tí nào.
    Hôm sau Wladek dậy sớm hơn bình thường một giờ, vì anh nghĩ nếu không gặp được bác sĩ trước giờ làm việc thì sẽ lại phải để đến ngày hôm sau nữa. Nếu để qua một ngày nữa thì Wladek không thể chịu đau nổi. Anh đến báo cáo với bác sĩ, ghi tên và số tù của anh. Pierre Dubien hóa ra là một ông bác sĩ dễ tính. Ông ta hói đầu, hơi gù lưng. Wladek nghĩ có lẽ ông ta còn già hơn cả Nam tước trước khi qua đời. Bác sĩ khám chân Wladek và không nói gì.
    - Vết thương có việc gì không, thưa bác sĩ? ?" Wladek hỏi.
    - Anh nói tiếng Nga được hả?
    - Thưa được.
    - Mặc dầu, anh sẽ bị thọt, nhưng chân anh rồi sẽ khỏi. Nhưng khỏi để làm gì? Để suốt đời đi chặt củi ư?
    - Không, thưa bác sĩ, cháu có ý muốn trốn và trở về Ba Lan. - Wladek nói.
    Bác sĩ chằm chằm nhìn anh.
    - Nói khẽ chứ, ngốc ở đâu? Đến bây giờ thì anh biết là không trốn được chứ. Chính tôi đã bị bắt ở đây mười lăm năm nay rồi, và không một ngày nào là tôi không nghĩ đến trốn. Nhưng không có cách nào được. Chưa hề có ai trốn mà lại sống được, mà chỉ nói đến chuyện trốn không thôi cũng đã bị phạt giam mười ngày dưới xà lim, mà ở đó ba ngày người ta mới cho anh ăn một lần, còn lò thì đốt chỉ đủ để tan giá ở trên tường thôi. Qua được cái đoạn trừng phạt ấy mà anh còn sống là may lắm rồi đấy.
    - Cháu sẽ trốn, nhất định trốn, - Wladek nhìn ông già nói.
    Bác sĩ nhìn vào mắt Wladek và mỉm cười.
    - Này anh bạn ơi, chớ có nhắc đến chuyện trốn nữa, kẻo họ có thể giết anh đấy. Anh trở về làm việc đi, cố giữ cho cái chân tiếp tục vận động, rồi mỗi sáng đến đây tôi xem.
    Wladek trở về rừng chặt củi, nhưng anh thấy bây giờ mình chỉ kéo được gỗ đi mấy bước thôi. Chân đau đến mức anh tưởng như nớ sắp rụng ra. Sáng hôm sau trở lại chỗ bác sĩ, ông ta khám chân anh cẩn thận hơn.
    - Chà gay go đây, - bác sĩ nói. ?" Anh bao nhiêu tuổi rồi?
    - Có lẽ cháu mười ba rồi, - Wladek nói. ?" Năm nay là năm bao nhiêu ạ?
    - Một nghìn chín trăm mười chín. ?" Bác sĩ đáp.
    - Vâng mười ba ạ. Còn ông bao nhiêu? ?" Wladek hỏi.
    Ông ta nhìn xuống đôi mắt xanh của cậu thanh niên, hơi lấy làm ngạc nhiên về câu hỏi.
    - Ba mươi tám, - ông khẽ nói.
    - Ôi, lạy chúa. ?" Wladek nói.
    - Nếu anh bị tù mười lăm năm thì cũng sẽ già như tôi thôi, - bác sĩ nói với một giọng bình thản.
    - Nhưng tại sao ông lại ở đây chứ? ?" Wladek nói. - Tại sao đã bao nhiêu lâu thế mà họ không để cho ông đi?
    - Tôi bị bắt ở Moscow năm 1904, ngay sau khi tôi có danh nghĩa bác sĩ. Tôi làm việc cho sứ quán Pháp ở đó. Họ bảo tôi là gián điệp nên bỏ tôi vào tù ở Moscow. Tôi nghĩ cho đến sau cách mạng cũng vậy. Họ tống tôi vào cái địa ngục này đây. Ngay cả đến những người Pháp cũng quên rằng tôi còn sống. Cả thế giới chả ai tin được là có một chỗ như thế này. Ở cái trại 201 này chưa từng có ai ở cho đến hết hạn được, vì vậy tôi sẽ chết ở đây như một người khác mà thôi. Có điều chưa chết ngay được thôi.
    - Không, ông không nên mất hy vọng, bác sĩ ạ.
    - Hy vọng? Tôi đã mất hết hy vọng từ lâu rồi. Có lẽ anh thì không, nhưng anh nên nhớ là đứng có nhắc đến hy vọng ấy với bất cứ ai. Ở đây có những tù nhân họ chỉ nghe nói thế là đi báo cáo ngay, để nhận về một phần thưởng hoặc đó là thêm một miếng bánh hoặc một chiếc khăn mà thôi. Bây giờ thế này nhé Wladek. Tôi sẽ cho anh làm việc phụ bếp trong một tháng, và suốt thời gian đó sáng nào anh cũng phải đến báo cáo. Đó là cơ hội duy nhất để anh khỏi phải mất cái chân kia, mà tôi có cưa chân của anh đi thì cũng chẳng sung sướng gì. Ở đây chúng tôi không có những dụng cụ giải phẫu tốt lắm đâu, - ông vừa nói vừa nhìn lên một con dao to.
    Wladek rùng mình sợ hãi.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  7. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Bác sĩ Budien viết tên Wladek lên một mẩu giấy. Sáng hôm sau Wladek xuống trình diện dưới nhà bếp. Anh được giao việc rửa bát đĩa trong nước lạnh cóng và chuẩn bị thức ăn không cần phải ướp lạnh. Sau một thời gian phải chặt củi suốt ngày, anh thấy đây là một sự thay đổi đáng mừng. Được ăn thêm súp cá, thêm bánh mì đen, và nhất là được ở trong nhà ấm áp. Có hôm anh được nhà bếp chia cho một nửa quả trứng, mà không ai biết rằng đó là trứng con gì. Chân anh đã dần dần khỏi, tuy phải hơi chịu thọt một chút. Bác sĩ Dubien không thể có được thứ thuốc gì tử tế mà chữa cho anh, chỉ biết theo dõi từng ngày vậy thôi. Ngày giờ trôi qua, bác sĩ trở thành người bạn của Wladek, thậm chí còn tin ở hy vọng của tuổi trẻ đối với tương lai. Mỗi sáng hai người thường nói chuyện với nhau bằng các thứ ngôn ngữ, nhưng người bạn mới kia thích nhất là được nói tiếng Pháp vì đó là tiếng mẹ đẻ.
    - Trong bảy ngày nữa, Wladek, anh sẽ phải trở lại với nhiệm vụ ở trong rừng. Bọn lính gác sẽ khám phá cái chân của anh, và tôi không thể giữ anh ở lại trong bếp nữa. Vậy anh nghe kỹ tôi nói đây nhé, vì tôi đã có một kế hoạch cho anh trốn đi.
    - Cùng trốn, bác sĩ. ?" Wladek nói. ?" Chúng tôi cùng trốn.
    - Không, chỉ mình anh thôi. Tôi nhiều tuổi rồi, không đi được xa như thế, mặc dầu hơn mười lăm năm nay lúc nào tôi cũng mơ đến chuyện trốn. Tôi sẽ chỉ làm vướng chân anh thôi. Biết có ai trốn đi được là tôi đủ hài lòng rồi, và anh là con người đầu tiên tôi gặp khiến tôi tin rằng anh có thể thành công được.
    Wladek yên lặng ngồi trên sàn nghe bác sĩ nói kế hoạch của ông.
    - Trong mười lăm năm qua, tôi đã dành dụm được hai trăm rúp. Đây là tiền làm ?ongoài giờ? nhưng không phải như một tù nhân Nga đâu, - Wladek nhăn nhó cười. ?" Tôi giấu tiền trong một chai thuốc. Có bốn tờ, mỗi tờ năm mươi rúp. Khi nào anh đi thì phải khâu tiền đó vào trong áo. Tôi sẽ làm việc đó cho anh.
    - Áo nào? ?" Wladek hỏi.
    - Tôi có một bộ quần áo và một sơ mi trước đây mười hai năm tôi đã mua lại được của một tên lính gác, và hồi đó tôi còn tin ở chuyện trốn được. Bộ quần áo không mới lắm, nhưng có thể phục vụ cho mục đích của anh được.
    Mười lăm năm dành dụm được hai trăm rúp, một chiếc áo sơ mi và một bộ quần áo, thế mà bác sĩ sẵn sàng chỉ trong chốc lát hy sinh tất cả nhưng cái đó cho Wladek. Suốt đời mình, Wladek sẽ chẳng còn bao giờ được thấy một hành động quên mình như thế nữa.
    - Thứ năm tới sẽ là cơ hội duy nhất của anh, - bác sĩ nói tiếp. ?" Tù nhân mới sẽ đến Irkutsk bằng xe lửa. Bọn lính gác bao giờ cũng lấy bốn người của nhà bếp để tổ chức những chuyến xe thức ăn cho bọn người mới đến. Tôi đã thu xếp với bếp trưởng để anh được lên xe thức ăn. Tôi đem một ít thuốc đánh đổi cho anh ta đấy. Không khó khăn gì lắm đâu. Thực ra không ai muốn đi một chuyến đến tận đó rồi lại quay về đây, nhưng anh thì chỉ đi một lượt ra đến đó thôi.
    Wladek vân nghe rất kỹ.
    - Ra đến ga, anh hãy chờ cho đến khi nào tàu chở tù nhân vào ga. Một khi họ xuống ga cả rồi thì anh chạy qua đường sắt rồi nhảy lên chuyến tàu sẽ đi Moscow, mà chỉ sau khi tàu chở tù nhân đến rồi thì tàu đó mới khởi hành được vì bên ngoài ga chỉ có một đường tàu thôi. Anh phải mong làm sao cho đến lúc có hàng trăm tù nhân mới chạy đi chạy lại như thế thì bọn gác mới không để ý đến chuyện anh biến mất được. Từ lúc đó trở đi là tùy anh định liệu. Nên nhớ rằng nếu chúng trông thấy anh là chúng bắn liền chứ không cần hỏi han gì hết. Tôi chỉ có thể giúp anh được một điều này nữa. Mười lăm năm trước khi tôi bị đưa đến đây, tôi đã vẽ trong đầu óc một bản đồ con đường đi từ Moscow đến Thổ Nhĩ Kỳ. Có lẽ đến bây giờ nó không còn chính xác nữa nhưng có thể đáp ứng cho mục đích của anh được. Anh phải tìm hiểu cho chắc chắn xem người Nga họ đã chiếm đóng Thổ Nhĩ Kỳ chưa. Có trời mà biết được cho đến nay họ đã làm những gì. Theo tôi biết thì có thể họ cũng đã kiểm soát được cả nước Pháp nữa.
    Bác sĩ bước vào phòng thuốc và lấy ra một cái chai lớn trông như đựng một chất gì đó màu nâu. Ông mở nút lấy ra một tấm da khô đã cũ. Nét mực đen qua năm tháng đã bị nhạt màu, mang chữ ?oTháng mười 1904?. Trên mảng da vẽ con đường từ Moscow đến Odessa và từ Odessa đến Thổ Nhĩ Kỳ, tất cả 1500 dặm đường đi đến tự do.
    - Trong tuần này, mỗi sáng anh cứ phải đến đây và chúng ta sẽ lại bàn thêm về kế hoạch này. Nếu như không thành công thì đó không phải là do thiếu chuẩn bị.
    Mỗi đêm, Wladek thức giấc nhìn ra ánh sáng mờ mờ ngoài cửa sổ, thử nghĩ trước những tình huống bất ngờ xem mình sẽ đối phó như thế nào. Đến sáng, anh lại đem bàn thêm với bác sĩ. Vào tối thứ tư trước ngày Wladek định trốn, bác sĩ gấp mảnh bản đồ đó làm tám, cùng để với bốn tờ bạc 50 rúp vào một gói nhỏ và ghim nó vào bên trong tay áo của bộ đò. Wladek cởi bộ quần áo cũ, mặc chiếc sơ mi vào người rồi mặc quần áo tù ra ngoài. Lúc anh mặc lại thì cặp mắt bác sĩ bỗng trông thấy chiếc vòng bạc của Nam tước.
    Từ khi mặc áo tù, anh vẫn luôn luôn đeo nó lên trên khuỷu tay vì sợ bọn lích gác trông thấy sẽ cướp mất của quý duy nhất còn lại đó của anh.
    - Cái gì thế?- bác sĩ hỏi. ?" Trông rất đẹp đấy.
    - Đây là quà tặng của cha tôi, - Wladek nói. Tôi có thể tặng lại ông để tỏ lòng cảm tạ của tôi được không? ?" Anh trút chiéc vòng xuống cổ tay và đưa cho bác sĩ.
    Bác sĩ nhìn chiếc vòng bạc một lúc lâu rồi cúi đầu nói:
    - Không nên. Thứ này chỉ có thể thuộc về một người thôi. ?" Ông im lặng nhìn anh. - Hẳn cha anh là một người cao quý lắm.
    Bác sĩ đeo trả lại chiếc vòng bạc vào cổ tay Wladek, rồi bắt tay anh nồng nhiệt.
    - Chúc anh may mắn, Wladek. Có lẽ chúng ta không bao giờ còn gặp nhau nữa.
    Họ ôm chầm lấy nhau và bước ra ngoài. Anh cầu cho đây là đêm cuối cùng của mình ở trong lều trại giam. Anh không sao ngủ được suốt đêm đó, chỉ sợ một trong những tên lính gác phát hiện ra bộ quần áo mặc dưới áo tù. Tiếng chuông buổi sáng vừa vang lên, anh đã mặc xong quần áo và xuống bếp sớm. Tù nhân bếp trưởng đẩy Wladek đi lên trước khi bọn lính gác kiểm soát xe thức ăn. Tổ phục vụ chọn ra có bốn người tất cả. Wladek là trẻ nhất trong đám.
    - Tại sao lại thằng này? - một tên lính gác chỉ tay vào Wladek hỏi.
    Wladek như chết đứng và khắp người lạnh run. Kế hoạch của bác sĩ thế là hỏng, và phải ba tháng nữa mới lại có một đợt tù nhân nữa đến trại. Đến lúc đó thì anh sẽ không còn ở bếp nữa.
    - Nó nấu bếp rất giỏi, - tù nhân bếp trưởng nói. ?" Nó được rèn luyện trong lâu đài của một Nam tước đấy. Chỉ có nó mới nấu ăn được ngon lành cho lính gác thôi.
    - À, thế đấy, - tên lính gác nói, nghi ngờ không bằng tham ăn. - Vậy thì nhanh lên.
    Cả bốn người chạy ra xe, rồi đoàn xe lên đường. Cuộc hành trình lại một lần nữa chậm chạp, vất vả, nhưng lần này ít nhất anh không phải đi bộ và cũng không lạnh chết người vì bây giờ đang là mùa hè. Wladek làm việc cật lực để chuẩn bị thức ăn. Anh không muốn ai chú ý đến mình. Suốt dọc đường anh chỉ nói vài câu với bếp trưởng là Atanislaw.
    Cuối cùng, sau khi họ đã đến được Irkutsk tính ra gần hết mười sáu ngày. Chuyến tàu chờ đi Moscow đã nằm sẵn ở ga. Nó đã đến đây mấy tiếng đồng hồ rồi nhưng không thể bắt đầu cuộc hành trình quay trở về Moscow chừng nào chuyến tàu chở tù nhân mới chưa đến được. Wladek cùng với mấy người làm bếp ngồi chờ ở sân ga bên này, ba người không quan tâm đến gì khác chung quanh, còn một người chú ý theo dõi đoàn tàu ở bên kia sân ga. Có nhiều cửa lên tàu, nhưng Wladek đã ngắm trước một cửa để đến lúc là anh sẽ nhảy lên đó.
    - Anh có định trốn không? ?" Atanislaw chợt hỏi.
    Wladek toát mồ hôi nhưng không trả lời.
    - Đúng là anh định trốn rồi. ?" Atanislaw chăm chăm nhìn anh.
    Wladek vẫn không nói gì.
    Ông bếp trưởng già nhìn anh thanh niên mười ba tuổi, rồi ông gật đầu ra vẻ tán thành. Giá như anh có cái đuôi thì nó đã vẫy ngay rồi.
    - Chúc anh may mắn. Tôi sẽ cố làm cho họ không để ý đến chuyện anh vắng mặt, được chừng nào hay chừng đó.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  8. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Atanislaw nắm lấy tay anh. Wladek nhìn thấy đoàn tàu chở tù nhân ở ngoài xa đang từ từ tiến đến chỗ họ ngồi. Anh cảm thấy căng thẳng, tim dồn dập, mắt theo dõi cử chỉ của từng tên lính. Anh chờ cho đến khi đoàn tàu kia dừng hẳn, nhìn theo đám tù nhân trên tàu đổ xuống sân ga. Họ có hàng trăm người, dáng mệt mỏi, không tên tuổi gì. Trong lúc sân ga đang bề bộn một đống người và bọn lính gác bận rộn, Wladek chui xuống dưới gầm đoàn tàu chở tù nhân rồi nhảu lên đoàn tàu sẽ đi Moscow. Không một ai trên tàu để ý đến anh lúc đó vào phòng vệ sinh ở cuối toa. Anh cài cửa lại rồi đứng bên trong chờ, bụng lâm râm cầu nguyện, chỉ sợ có ai gõ cửa. Wladek cứ đứng như thế không biết bao nhiêu lâu rồi mới thấy đoàn tàu bắt đầu lăn bánh ra khỏi ga. Thực ra, chỉ có mười bảy phút.
    - Thế là xong, thế là xong, - anh thốt lên. Anh nhìn qua khung cửa sổ con của buồng vệ sinh, thấy nhà ga nhỏ dần và xa dần, đám tù nhân mới đã bị xích tay vào nhau sắp sửa lên đường về trại 201, và bọn lính gác vừa cười vừa xích họ lại. Không biết sẽ có bao nhiêu người sống sót khi về đến trại? Bao nhiêu người sẽ làm mồi cho chó sói? Bao lâu nữa thì họ biết là thấy thiếu anh?
    Wladek ngồi trong buồng vệ sinh thêm mấy phút nữa, không dám động đậy và không biết bây giờ mình phải làm gì. Bỗng có tiếng đập cửa, Wladek nghĩ ngay, không biết đó là tên lính gác hay người soát vé? Bao nhiêu hình ảnh diễn ra trong óc anh, mỗi hình ảnh một ghê sợ hơn. Anh thấy cần phải sử dụng buồng vệ sinh một lần xem sao. Tiếng đập cửa vẫn tiếp tục.
    - Nhanh lên, nhanh lên, - một giọng Nga ồm ồm lên tiếng.
    Wladek không chần chừ được nữa. Nếu là một tên lính thì anh sẽ không có lối thoát. Cửa sổ nhỏ thì đến một chú bé tí hon cũng không chui lọt qua được. Nhưng nếu không phải là một tên lính thì việc anh ở lâu trong này chỉ khiến người ta chú ý. Anh cởi bỏ bộ áo tù, cuộn nó lại thành một túm nhỏ rồi vứt ra ngoài cửa sổ. Sau đó anh lấy ra một cái mũ mềm để sẵn trong túi bộ đồ đội lên đầu bị cạo trọc và mở cửa bước ra. Một người đàn ông sốt ruột đẩy cửa bước vào. Wladek chưa bước ra khỏi thì thấy ông ta tụt quần ngồi xuống.
    Ra đến hành lang rồi, Wladek thấy mình bơ vơ ghê gớm, lại thêm nỗi khiếp sợ đối với bộ đồ lạc hậu mình đang mặc trên người, khác nào như một quả táo nằm giữa đống cam. Anh lập tức lại đi tìm ngay một chỗ nào khác có buồng vệ sinh. TÌm được một chỗ không có người, anh chui tọt ngay vào đó, khóa cửa lại, rồi tháo gỡ mấy tờ bạc 50 rúp giấu ở trong tay áo ra. Anh giấu trở lại ba tờ rồi quay ra hành lang. Anh tìm đến một toa nào đông người nhất rồi rúc vào ngồi trong một góc toa. Mấy người ngồi giữa toa đang đánh súc sắc ăn tiền. Wladek đã quen chơi trò này với Leon ở lâu đài và lần nào cũng được, nên anh rất muốn nhập vào đám người kia nhưng lại sợ đánh được thì họ chú ý đến mình ngay. Họ vẫn ngồi đánh rất lâu, và Wladek dần dần nhớ lại những thủ thuật của mình. Anh chợt thấy thèm đem 200 rúp của mình ra mà sử dụng lúc này.
    Một tay chơi bị thua khá nhiều tiền bỗng rút ra và ngồi xuống bên cạnh Wladek, miệng chửi thề.
    - Số ông không may rồi, - Wladek lên tiếng. Anh cũng muốn nói xem giọng mình thế nào.
    - À, đúng là không may, - tay kia nói. ?" Ngày nào tớ cũng đánh với bọn nông dân ấy, nhưng tớ cạn mất tiền rồi.
    - Ông có muốn bán áo cáo của ông không? ?" Wladek hỏi.
    Tay chơi này là một trong số ít hành khách trên toa khoác chiếc áo lông cừu dày đẹp và ấm như vậy. Ông ta nhìn cậu thanh niên.
    - Cậu không mua nổi đâu. ?" Wladek nghe giọng của ông ta thì biết là mình sẽ có thể mua được. - Tớ sẽ đòi bảy mươi lăm rúp.
    - Tôi trả ông bốn chục, - Wladek nói.
    - Sáu chục, - tay chơi kia nói.
    - Năm chục, - Wladek nói.
    - Không. Sáu chục là ít nhất thì tớ mới bán được. Chiếc áo này giá hơn một trăm rúp kia đấy, - tay chơi nói.
    - Áo cũ rồi, - Wladek nói và nghĩ bụng sẽ lấy tiền trong tay áo ra cho đủ, nhưng rồi anh lại thôi vì sợ làm người ta chú ý đến mình. Anh đành chờ một dịp khác vậy. Wladek không muốn tỏ ra mình có thể mua được chiếc áo. Anh sờ tay vào cái cổ và nói với một giọng khinh khỉnh. ?" Ông bạn ơi, đắt quá đấy! Thôi, năm chục rúp, không thêm một xu nào nữa. ?" Wladek đứng dậy làm như sắp bỏ đi chỗ khác.
    - Khoan, khoan, - tay chơi kia nói. - Tớ đã cho cậu năm chục rúp vậy.
    Wladek móc túi lấy ra tờ bạc năm mươi rúp và tay chơi kia cũng cở tấm áo đổi lấy tờ bạc đỏ đã cũ. Chiếc áo đối với Wladek quá rộng và dài gần chấm đất, nhưng chính anh đang cần như thế để che bộ đồ bên trong hơi lộ liễu. Anh nhìn tay chơi trở lại chỗ đánh bạc và thấy ông ta lại thua nữa. Từ ông thầy mới trước đây, anh đã học được hai điều, đó là: chớ bao giờ đánh bạc trừ phi anh có thủ thuật giỏi và chắc ăn, và khi đã mặc cả đến mức nhất định nào đó thì nên bỏ đi là vừa.
    Wladek bỏ sang ngồi toa khác, trong bụng cảm thấy yên tâm hơn với chiếc áo mới mua được. Anh bắt đầu nhìn ngắm toa tàu để tìm hiểu. Hình như các toa chia làm hai hạng, hạng phổ thông trong đó hành khách chỉ có đứng hoặc ngồi trên những dãy ghế gỗ, và hạng đặc biệt trong đó anh rất lấy làm lạ chỉ thấy có một người đàn bà ngồi mà thôi. Bà ta cỡ trung niên và ăn mặc có vẻ sang trọng hơn mọi hành khách khác trên tàu. Bà ta mặc chiếc áo xanh thẫm và quàng một tấm khăn trên đầu. Wladek nhìn bà ta ngập ngừng. Bà ta mỉm cười, khiến anh yên tâm bước vào trong toa.
    - Tôi ngồi được không?
    - Xin mời, - người đàn bà nhìn anh nói.
    Wladek không nói gì nữa. Anh để ý nhìn người đàn bà và những đồ đạc chung quanh. Bà ta có nước da nhợt và hơi nhăn nheo, to béo quá khổ, có lẽ vì ăn quá nhiều. Mớ tóc ngắn và đen, mắt nâu, có thể như đã từng một thời hấp dẫn. Bà có hai chiếc túi to bằng vải để ở giá trên đầu với một chiếc vali con để bên cạnh. Mặc dầu đang trong hoàn cảnh nguy hiểm như vậy, nhưng Wladek thấy mình đã mệt quá không chịu nổi nữa. Anh đang nghĩ không biết mình có dám đi ngủ ở đây không, thì người đàn bà lên tiếng.
    - Anh đi đâu?
    Câu hỏi bất chợt làm Wladek giật mình.
    - Moscow, - anh nói và nín thở.
    - Tôi cũng đi Moscow, - bà ta nói.
    Wladek bắt đầu cảm thấy toa xe này vắng vẻ quá và lấy làm chột dạ về điều mình vừa nói ra, dù chỉ là một câu. Anh nhớ là bác sĩ đã dặn: ?oChớ nói chuyện với ai. Nhớ đừng có tin ai hết.?
    Nhưng Wladek cũng yên tâm thấy bà ta không hỏi gì thêm nữa. Anh vừa cảm thấy thế thì người soát vé đến. Wladek bắt đầu toát mồ hôi, mặc dầu lúc đó thời tiết là hai mươi độ âm. Người soát vé cầm lấy tấm vé của người đàn bà, xé một đoạn rồi trả lại cho bà ta và quay sang Wladek.
    - Vé, anh bạn, - ông ta nói gọn lỏn, bằng một giọng trầm buồn.
    Wladek không biết nói gì, chỉ sở vào túi áo để tìm ít tiền.
    - Nó là con tôi, - người đàn bà nói ngay.
    Người soát vé quay lại nhìn bà ta, rồi lại nhìn Wladek, cúi đầu chào bà ta rồi bỏ đi không nói câu gì.
    Wladek ngước nhìn bà ta.
    - Cảm ơn bà ?" anh khẽ nói, và không biết làm gì hơn nữa.
    - Tôi đã trông thấy anh chui dưới gầm đoàn xe tù, - người đàn bà bình thản nói. Wladek cảm thấy rụng rời. ?" Nhưng tôi không tố giác anh đâu. Tôi cũng có một người anh họ ở trong cái trại khủng khiếp ấy, và tất cả chúng tôi cũng biết về những trại ấy đều sợ rằng sẽ có một ngày mình phải vào đấy. Anh mặc đồ gì dưới chiếc áo này?
    Wladek định bụng chạy ra ngoài cởi chiếc áo lông, nhưng nếu chạy ra ngoài kia thì trên tàu không còn chỗ nào khác mà trốn được. Anh đành chỉ cởi khuy ngoài.
    - Thế này cũng không có gì đáng ngại lắm đâu, - bà ta nói. - Vậy còn bộ áo tù anh để đâu?
    - Tôi vứt ra ngoài cửa sổ.
    - Mong rằng họ không tìm thấy nó trước khi anh đến Moscow.
    - Anh có chỗ nào ở Moscow không?
    Anh lại nghĩ đến lời dặn của bác sĩ là đừng có tin ai, nhưng anh nghĩ tin bà này thôi.
    - Tôi không có chỗ nào cả.
    - Vậy anh có thể ở với tôi đến khi nào anh tìm được một chỗ khác. Chồng tôi là trưởng ga ở Moscow, và toa này chỉ dành cho những quan chức chính phủ thôi, - bà ta giải thích. - Nếu anh lại nhầm một lần như thế nữa thì họ cho anh ngồi xe trở về Irkutsk ngay.
    - Bây giờ tôi có nên đi không? ?" Wladek hồi hộp.
    - Không, vì người soát vé đã trông thấy anh rồi. Lúc này anh ở đây với tôi thì được yên. Anh có giấy tờ gì không?
    - Không. Giấy tờ như thế nào?
    - Từ sau cách mạng, mỗi công dân Nga đều phải có giấy chứng minh để người ta biết mình là ai, ở đâu, làm gì, nếu không sẽ phải ngồi tù cho đến khi có được những giấy tờ ấy. Nếu không có được thì sẽ ngồi tù mãi, - bà ta thủng thẳng nói. - Vậy đến Moscow, anh phải đi sát bên tôi, và nhớ là đứng có mở miệng.
    - Bà đối với tôi tốt quá, - Wladek nói với vẻ ngờ vực.
    - Bây giờ Nga hoàng đã chết rồi, trong chúng ta đây chẳng có ai yên thân được đâu. Tôi may mắn mà lấy được một người có quyền thế, - bà ta nói tiếp. ?" Còn không có người dân nào ở nước Nga này, kể cả các quan chức chính phủ, mà lại không sống trong nỗi lo sợ là có thể bị bắt đưa vào trại giam. Tên anh là gì?
    - Wladek.
    - Tốt. Bây giờ anh ngủ đi Wladek, vì trông thấy anh mệt mỏi lắm. Đường thì còn rất xa, mà anh thì cũng chưa an toàn được đâu.
    Wladek ngủ ngay. Lúc anh tỉnh dậy thì mấy tiếng đồng hồ đã trôi qua nhưng trời bên ngoài đã tối. Anh nhìn người đàn bà đã che chở cho mình, bà ta mỉm cười nhìn lại.
    Wladek thầm mong có thể tin được bà ta, đừng có nói với các quan chức rằng anh là ai. Hay bà ta đã nói rồi? Bà ta lấy ra ít thức ăn trong gói đưa cho Wladek. Anh yên lặng ăn. Tàu đến ga sau, hầu hết hành khách bước xuống. Một số xuống hẳn, một số chỉ để ruỗi chân ruỗi tay, nhưng phần lớn là tìm xem có gì uống được không.
    Người đàn bà trung niên đứng dậy nhìn Wladek:
    - Đi theo tôi.
    Anh đứng dậy theo bà ta xuống sân ga. Bà ta đem anh nộp lại chăng? Nhưng không, bà ta giơ tay ra và anh cầm lấy tay bà như bất cứ đứa trẻ mười ba tuổi nào đi theo mẹ vậy. Bà ta đi đến một nhà vệ sinh dành cho nữ. Wladek ngập ngừng đứng lại. Bà cứ bảo anh vào. Vào đến bên trong rồi, bà bảo Wladek cởi bỏ quần áo ra. Anh ngoan ngoãn nghe theo. Từ sao khi Nam tước qua đời, anh chưa nghe theo ai như vậy. Trong khi anh cởi quần áo, bà mở vòi nước gần đó. Một làn nước vừa lạnh vừa đục chầm chậm chảy ra. Bà thấy kinh tởm, nhưng với Wladek thì nước này còn khá hơn nhiều so với nước ở trong trại giam. Người đàn bà bắt đầu lấy một mảnh khăn ướt lau những vết xây xát trên người anh. Bà nhăn mặt khi trông thấy vết thương xù xì ở chân. Wladek đau nhưng không xuýt xoa tí nào, và bà lau rất nhẹ.
    - Về đến nhà, tôi sẽ chữa chạy cho anh tử tế, - bà nói. ?" Còn ở đây hãy tạm thế này đã.
    Bà trông thấy chiếc vòng bạc ở tay anh. Bà đọc những chữ trên đó rồi nhìn kỹ Wladek, và hỏi:
    - Cái này có phải của anh không? Anh lấy nói của ai thế?
    Wladek hơi giận.
    - Tôi không lấy của ai. Bố tôi cho tôi trước khi ông chết.
    Bà ta lại chăm chăm nhìn anh, nhưng cái nhìn lần này khác. Không biết đó là sợ hay tôn kính. Bà ta cúi đầu nói:
    - Anh phải cẩn thận đấy, Wladek. Người ta có thể giết anh vì cái của quý này đấy.
    Anh gật đầu và bắt đầu mặc vội quần áo vào. Họ quay trở lại toa xe. Tàu chậm lại ở ga một giờ đồng hồ là chuyện thường. Đến khi đoàn tàu lại bắt đầu lăn bánh, Wladek cảm thấy mừng lại được nghe tiếng bánh xe lửa lạch cạch ở dưới. Tàu đi mất mười hai ngày rưỡi thì đến Moscow. Khi người soát vé mới xuất hiện, Wladek và người đàn bà lại diễn lại những động tác cũ. Wladek thì tỏ ra còn rất nhỏ dại và người đàn bà thì tỏ ra là một người mẹ. Người soát vé cúi chào người đàn bà trung niên ấy, và Wladek bắt đầu nghĩ rằng ở nước Nga thì những người trưởng ga hẳn phải là những người rất quan trọng.
    Sau khi đã hoàn thành chuyến đi một ngàn dặm đến Moscow, Wladek coi như đã tin hẳn người đàn bà và mau chóng được trông thấy ngôi nhà của bà ta.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  9. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Tàu đến ga vào đầu buổi chiều. Mặc dầu đã trải qua một đoạn đường dài như thế. Wladek vẫn thấy khiếp sợ, không hiểu tình hình sẽ ra sao. Anh chưa được thấy một thành phố lớn nào bao giờ, nói gì đến thủ đô của toàn nước Nga. Anh cũng chưa được thấy nhiều người như thế bao giờ, và ai cũng đi lại vội vã. Người đàn bà hiểu được tâm trạng của anh lúc này.
    - Đi theo tôi, đừng nói gì và đừng có bỏ mũ ra.
    Wladek lấy hai cái túi của bà ở trên giá xuống, kéo chặt cái mũ lên đầu lúc này đã lởm chởm ít tóc đen, rồi bước theo bà xuống sân ga. Một đống người đang nối nhau ở trước thang chắn để chờ ra khỏi một cánh cửa rất nhỏ.
    Họ ùn lại vì mỗi người phải xuất trình giấy tờ cho lính gác. Bước đến cái thang chắn ấy, Wladek thấy tim mình đập thình thình như trống trận. Nhưng đến lượt họ thì nỗi sợ lại tan biến đi rất nhanh. Người lính gác chỉ liếc nhìn vào giấy tờ của người đàn bà.
    - Đồng chí, - anh ta nói và giơ tay chào. Rồi nhìn Wladek.
    - Con tôi, - bà nói.
    - À vâng, mời đồng chí. - Anh ta lại chào.
    Thế là Wladek đã ở Moscow.
    Mặc dầu đã đặt hết lòng tin vào người đồng hành mới này, linh tính đầu tiên của Wladek là muốn bỏ chạy. Nhưng với 150 rúp thì không thể sống được nên anh quyết định hãy chờ đã, để khi nào có dịp sẽ chạy. Một chiếc xe ngựa đã chờ sẵn ở ngoài ga để đưa người đàn bà với đứa con mới của bà ta về nhà. Ông trưởng ga không có đấy, nên bà đã tranh thủ xếp ngay một cái giường cho Wladek nằm. Rồi bà đun nước đổ vào một chiếc thùng kẽm lớn và bảo anh ngồi vào đó. Đây là lần tắm đầu tiên của anh sau hơn bốn năm, trừ lần hụp xuống sông trước đây. Bà lại đun thêm nước nóng nữa và bảo anh tắm với xà phòng. Bà cọ lưng cho anh. Nước tắm dần dần đục ngầu. Wladek lau khô người rồi, bà bôi thuốc lên chân tay cho anh và băng bó vào những chỗ bị nặng. Bà nhìn vào bộ ngực chỉ có một bên vú và lấy làm lạ. Anh mặc vội quần áo và theo bà vào bếp. Bà đã chuẩn bị một bát súp nước với đậu. Wladek háo hức ăn như ăn tiệc. Hai người không ai nói gì. Anh ăn xong rồi, bà khuyên anh tốt nhất là lên giường ngủ một giấc.
    - Tôi không muốn cho ông nhà tôi trông thấy anh trước khi tôi cho ông ấy biết tại sao anh ở đây, - bà ta giải thích. ?" Anh có muốn ở đây với chúng tôi không, Wladek, nếu chồng tôi đồng ý?
    Wladek gật đầu cảm ơn.
    - Vậy anh đi ngủ ngay đi, - bà nói.
    Wladek nghe lời bà, trong bụng thầm mong ông chồng bà sẽ cho phép anh được ở đây. Anh chậm chạp cởi quần áo và trèo lên giường. Người anh đã sạch sẽ lắm rồi, khăn trải giường cũng rất sạch, đệm rất mềm. Anh bỏ chiếc gối lên sàn nhà. Tất cả những tiện nghi đó đều rất mới lạ nhưng anh đã quá mệt rồi nên nằm ngủ thiếp đi từ lúc nào không biết. Mấy tiếng đồng hồ sau, anh bỗng tỉnh dậy vì nghe có tiếng nói to ở bếp. Anh không biết là mình đi ngủ được bao lâu. Bên ngoài đã tối, anh bò ra khỏi giường, bước đến mở hé và nghe rõ hai người đang nói chuyện trong bếp.
    - Bà thật ngốc, - Wladek nghe một giọng hơi gắt. ?" Bà không hiểu là nếu họ bắt được thì sẽ rắc rối như thế nào ư? Có thể là bà bị người ta tống vào trại giam đấy.
    - Nhưng, Poitr, ông không biết là nó như một con thú bị săn đuổi ấy.
    - Thế là bà muốn bản thân mình chúng ta sẽ như những con thú bị săn đuổi chứ gì, - người đàn ông nói. ?" Có ai trông thấy nó không?
    - Không, không có ai đâu, - người đàn bà nói.
    - Thế thì cảm ơn Chúa. Phải cho nó đi ngay trước khi có ai biết là nó ở đây. Chỉ còn cách đó thôi.
    - Nhưng đi đâu, Poitr? Nó lạc lõng và không quen biết một ai, - người đàn bà nói. ?" Mà tôi thì vẫn mong có đứa con trai.
    - Tôi không cần biết bà muốn gì hay là nó đi đâu. Nó không phải là trách nhiệm của chúng ta, và chúng ta phải tống nó đi cho nhanh chóng.
    - Nhưng Poitr, tôi nghĩ nó là dòng dõi quý tộc. Hình như bố nó là một Nam tước. Nó có đeo một chiếc vòng bạc ở cổ tay, trên đó có những chữ?
    - Như thế lại càng rắc rối. Bà không biết là các nhà lãnh đạo mới đã ra lệnh như thế nào ư? Không Nga hoàng, không vua chúa, không đặc quyền đặc lợi gì hết. Mà chúng ta cũng chẳng cần phải đến trại giam nữa cơ, các nhà cầm quyền có thể bắn chết mình luôn chưa biết chừng.
    - Chúng ta vẫn mong có đứa con trai, Poitr. Chẳng lẽ chúng ta không dám mạo hiểm chuyện này được ư?
    - Bà mạo hiểm được, nhưng tôi thì không. Tôi bảo nó phải đi ngay.
    Wladek không cần nghe họ nói gì thêm nữa. Anh nghĩ cách duy nhất để đỡ cho bà ta là người đã có ơn với anh là biến hẳn vào đêm tối. Anh mặc vội quần áo vào và nhìn lại chiếc giường, chỉ mong không phải chờ thêm bốn năm nữa mới lại được nằm trên một chiếc giường như thế. Anh đang tìm cách mở cửa sổ thì cửa ra vào bỗng bật tung và ông trưởng ga bước vào. Người ông nhỏ bé, không cao hơn Wladek nhưng có cái bụng to và cái đầu hói chung quanh chỉ còn ít sợi bạc chải qua loa tưởng như một bộ tóc giả. Ông ta đeo đôi mắt kính không có gọng khiến dưới mỗi mắt có nét hằn đỏ trũng xuống. Tay ông cầm một chiếc đèn nến. Ông ta đứng nhìn Wladek. Wladek nhìn lại như thách thức.
    - Đi xuống dưới này, - ông ta ra lệnh.
    Wladek miễn cưỡng theo ông ta xuống bếp. Người đàn bà đang ngồi khóc bên bàn.
    - Bây giờ chú em nghe đây nhé, - ông ta nói.
    - Tên nó là Wladek, - người đàn bà chen vào.
    - Bây giờ chú bé nghe đây, - ông ta nhắc lại. ?" Anh sẽ gây ra chuyện rắc rối ở đây, vì vậy tôi muốn anh phải đi khỏi chỗ này và đi càng xa càng tốt. Tôi cho anh biết là tôi sẽ làm như thế nào để giúp anh nhé.
    Giúp ư? Wladek nhìn ông ta không nói.
    - Tôi sẽ cho anh một cái vé tàu. Anh muốn đi đâu?
    - Odessa, - Wladek nói. Anh không biết nơi đó là ở đâu và đây đến đó hết bao nhiêu tiền. Anh chỉ biết đó là thành phố thứ hai bác sĩ vẽ trên bản đồ để từ đó mà đi đến tự do.
    - Odessa, hừ, nơi sản sinh ra tội ác, thật là một địa chỉ thích hợp đấy, - ông trưởng ga cười khẩy. - Đến đó thì anh chỉ gặp toàn những người như anh và rắc rối thêm mà thôi.
    - Thế thì để nó ở lại đây, Poitr. Tôi sẽ chăm nom cho nó, tôi sẽ?
    - Không, không bao giờ. Tôi thà mất tiền cho nó còn hơn.
    - Nhưng làm sao nó đi lọt được? - Người đàn bà van nài.
    - Tôi sẽ cho nó tấm vé và một giấy thông hành đi làm việc ở Odessa. ?" Ông ta quay sang Wladek. ?" Anh lên tàu đó đi rồi, nếu tôi còn trông thấy anh nghe nói đến anh ở Moscow, tôi sẽ báo cho người ta bắt và giam anh ở một nhà tù nào đó gần đây nhất. Rồi người ta sẽ tống anh trở lại cái trại đó ngay, nếu không thì họ cũng bắn anh luôn.
    Ông ta nhìn lên chiếc đồng hồ trên bếp: đã mười một giờ năm phút. Ông ta quay sang phía vợ.
    - Có chuyến tàu đi Odessa vào mười hai giờ đêm. Tôi sẽ tự đưa nó ra ga. Tôi muốn biết chắc chắn là nó đã rời Moscow rồi. Anh có hành lý gì không?
    Wladek vừa sắp trả lời không thì người đàn bà đã nói ngay:
    - Có, để tôi đi lấy cho nó.
    Wladek với ông trưởng ga nhìn nhau hằn học. Người đàn bà đi một lúc lâu. Chuông đồng hồ đánh lên một tiếng. Hai người vẫn không nói gì. Mắt ông trưởng ga không rời khỏi Wladek. Bà vợ ông ta quay lại tay cầm một gói giấy màu nâu có buộc cẩn thận. Wladek nhìn gói giấy, định lên tiếng từ chối nhưng thấy trong ánh mắt của bà có cái gì như sợ hãi, nên anh chỉ biết nói:
    - Cảm ơn bà.
    - Hãy ăn cái này đi đã, - bà ta nói và đẩy bát súp nguội đến chỗ anh.
    Anh nghe theo. Mặc dầu bụng anh lúc này vẫn còn đang rất no, nhưng anh cũng ăn bát súp thật nhanh để bà ta khỏi phiền lòng.
    - Súc vật, - người đàn ông nói.
    Wladek ngước nhìn ông, mắt đầy căm giận. Anh lấy làm tội nghiệp cho người đàn bà phải sống với một ông chồng như vậy suốt đời.
    - Đi thôi chú bé, - ông trưởng ga nói. ?" Mau kẻo lỡ tàu thì phiền lắm.
    Wladek theo người đàn ông ra khỏi bếp. Anh ngập ngừng một chút khi đi qua chỗ người đàn bà đứng. Anh giơ ta ra và bà ta khẽ nắm lấy tay anh. Không ai nói gì, nhưng có nói cũng không nói được gì. Ông trưởng ga với con người tị nạn ấy vừa đi vừa nấp qua mấy phố tối của Moscow và đến ga. Ông ta lấy một chiếc vé đi một lượt đến Odessa và đưa cho Wladek.
    - Còn giấy thông hành của tôi đâu? ?" Wladek hỏi.
    Ông ta rút ở túi trong ra một tấm giấy, ký vội vào đó rồi kín đáo đưa cho Wladek. Ông ta để ý nhìn quanh xem có thể có gì nguy hiểm không. Trong bốn năm qua, Wladek đã từng trông thấy những đôi mắt giống như của ông trưởng ga này nhiều lắm rồi. Đó là đôi mắt của những thằng hèn.
    - Đừng để tôi trông thấy anh hay nghe nói đến anh nữa nhé, - ông trưởng ga nói. Giọng nói thì ra vẻ hách dịch. Trong bốn năm qua Wladek cũng đã được nghe những giọng nói như thế nhiều lần.
    Anh nhìn lên ông ta, định nói lại, nhưng ông ta đã đi vào bóng đêm mất rồi. Wladek nhìn vào những người đi qua trước mặt anh. Cũng những đôi mắt sợ sệt như nhau cả. Trên đời này không ai được tự do cả sao? Wladek cắp cái gói giấy nâu vào nách, sửa lại mũ trên đầu rồi bước ra chỗ thang chắn. Lần này anh cảm thấy tự tin hơn. Anh xuất trình giấy thông hành cho người gác và đi qua không có chuyện gì. Anh trèo lên toa tàu. Thế là anh chỉ được thấy Moscow có một lúc ngắn ngủi, và trong đời anh sẽ chẳng còn bao giờ thấy lại thành phố này nữa. Anh sẽ nhớ mãi lòng tốt của người đàn bà vợ ông trưởng ga. Đồng chí gì nhỉ... Anh cũng không biết đến cả tên bà ta nữa.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  10. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Wladek ngồi ở toa thường. Odessa gần Moscow hơn nhiều so với Irkutsk. Trên bản đồ của bác sĩ, khoảng cách chỉ bằng ngón tay, vậy mà trên thực tế những 800 dặm. Wladek đang nhìn vào chiếc bản đồ sơ sài ấy thì ở đầu toa cũng đang diễn ra một vụ cờ bạc. Anh giấu bản đồ vào trong áo rồi bắt đầu để ý đến chỗ đánh bạc ấy. Anh thấy một người dù chơi thế nào cũng vẫn thắng không lần nào bị thua cả. Wladek nhìn kỹ một lúc thì hiểu ra anh chàng kia là một tên bịp bợm.
    Anh chuyển sang đứng phía bên kia, đối diện với tên bạc bịp để xem hắn làm ăn thế nào. Nhưng đứng chỗ này khó nhìn nên anh cố chen vào ngồi được bên trong. Anh thi hành một cái mẹo là chờ cho tên bạc bịp giả vờ thua thì anh bỏ tiền vào đó gấp đôi lên cho đến lượt hắn được. Tên bạc bịp không thấy ngay được thủ thuật ấy của anh nên không để ý. Chỉ mãi đến lúc tàu đỗ ở ga sau hắn mới hiểu ra. Wladek đánh được mười bốn rúp. Anh bỏ ra hai rúp mua quả táo và một chén súp nóng. Anh đã kiếm được đủ tiền cho cả chuyến đi đế Odessa. Anh thầm nghĩ nếu cứ tiếp tục chơi kiểu này thì sẽ kiếm thêm được ít tiền nữa. Nghĩ thế, anh quay trở lại chỗ đánh bạc và sẵn sàng theo đuổi cái mẹo cũ của mình. Nhưng vừa bước vào trong toa, anh đã bị đánh một nhát ngã dúi vào góc. Tay bị bẻ quặt ra sau lưng và đầu bị đập vào thành toa. Máu mũi anh chảy ra. Một mũi dao kề vào sau gáy.
    - Mày nghe tao nói không hả thằng nhóc?
    - Dạ, - Wladek hoảng sợ đáp.
    - Mày còn quay lại toa này nữa, tao sẽ cắt cái tai này đi, biết chưa? Tao mà cắt tai thì mày không còn nghe được nữa, biết chưa?
    - Vâng ạ, - Wladek nói.
    Wladek cảm thấy mũi dao ấn vào sau mang tai rồi máu bắt đầu chảy xuống cổ.
    - Tao cảnh cáo cho mày biết thế.
    Một cái đầu gối bỗng thúc mạnh vào bụng anh. Wladek nằm lăn ra sàn tàu. Một bàn tay sục vào mấy túi áo của anh, lấy đi mấy rúp vừa kiếm được.
    - Tiền của tao, - hắn nói.
    Máu vẫn chảy ra ở mũi và ở cổ Wladek. Lúc anh mở mắt ra nhìn lên thì không thấy tên bạc bịp đâu nữa. Anh cố đứng dậy nhưng không đứng được, đành cứ ngồi lại trong góc toa một lúc. Đứng dậy được rồi, anh lê bước ra đầu toa đằng kia, tránh xa chỗ tên bạc bịp chừng nào hay chừng đó. Anh chui vào một toa chỉ có đàn bà trẻ con rồi ngủ thiếp đi.
    Đến ga sau, Wladek không dám xuống tàu. Anh mở gói giấy xem trong đó đựng gì. Hóa ra trong đó có đủ thứ táo, bánh mì, lạc, một chiếc sơ mi, một chiếc quần và có cả đôi giầy nữa. Thật là cả một kho báu. Anh bèn thay ngay những quần áo mới vào người. Ôi, người đàn bà quý hóa quá. Còn ông chồng, sao mà quá đáng thế.
    Anh ăn rồi lại ngủ, lại mơ. Cuối cùng, sau năm đêm bốn ngày, đoàn tàu lừ đừ lăn bánh vào ga Odessa. Ở cửa chắn vẫn hợp lệ nên tên lính gác không để ý gì hết. Từ lúc này chở đi, anh phải tự lo lấy hết. Anh vẫn còn 150 rúp giấu trong tay áo. Anh chưa dám tiêu đi đồng nào vào lúc này.
    Wladek đi lang thang cả ngày trong thành phố để làm quen với đường xá ở đây, nhưng có nhiều cảnh lạ mắt quá nên anh không nhớ được chỗ nào với chỗ nào. Toàn những nhà to, cửa hàng lớn, rất nhiều những người đi bán rong trên đường phố, thậm chí có một con khỉ ngồi trên đầu gậy của người bán rong nữa. Wladek cứ đi mãi đến lúc anh ra tới bên cảng và trông thấy biển. À ra đây rồi, đúng cái mà Nam tước gọi là biển đây. Wladek đứng lặng nhìn khoảng mênh mông xanh ngắt. Nơi xa kia là tự do, là trốn thoát khỏi nước Nga. Thành phố này hẳn là vừa trải qua trận chiến ghê gớm, vì còn những căn nhà cháy trụi và nhiều chỗ nhếch nhác, không hợp với làn gió biển thơm mát đang thổi vào đây. Wladek không biết trong thành phố còn đánh nhau không. Anh không biết hỏi ai được. Mặt trời đã lặn xuống sau những ngôi nhà cao tầng. Anh phải bắt đầu đi tìm một chỗ nào để ngủ đêm. Wladek đi vào một ngõ dài bên đường cái. Khoác chiếc áo lông dài chấm đất và cắp một gói giấy nâu trong tay, trông anh thật lạc long giữa khung cảnh ở đây. Anh không tìm thấy một chỗ nào an toàn được. Lát sau anh ra đến khu đường sắt, thấy có một toa nằm đơn độc một chỗ. Anh ngó nhìn bên trong, chỉ thấy tối và yên lặng. Trong toa không có người. Anh quẳng gói giấy lên đó, trèo vào bên trong và chui vào một góc nằm ngủ. Anh vừa đặt mình xuống thì một thân hình đè lên người anh và hai tay ghì chặt lấy cổ họng. Anh hầu như không thở được.
    - Mày là ai? ?" giọng một đứa bé gầm lên. Trong bóng tối anh đoán tên kia không lớn tuổi hơn mình được.
    - Wladek Koskiewicz.
    - Mày ở đâu đến?
    - Moscow. ?" Lúc đó Wladek đã định nói là Slonim.
    - Mày không được ngủ trong toa của tao, dù là mày ở Moscow đến, - tên kia nói.
    - Xin lỗi, - Wladek nói. ?" Tôi không biết.
    - Mày có tiền không? ?" Hai ngón tay cái của tên kia ấn chặt xuống cổ họng anh.
    - Ít thôi. ?" Wladek nói.
    - Bao nhiêu?
    - Bảy rúp. ?" Đưa đây.
    Wladek thọc tay vào túi áo. Tên kia cũng bỏ một tay ra mở vào túi áo khoác. Còn một tay hắn bỏ lỏng.
    Wladek chợt dồn hết sức vào đầu gối thúc lên hạ bộ của nó một nhát. Tên kia ôm lấy dái lăn ra. Wladek chồm dậy đánh liên hồi. Tự nhiên tình hình thay đổi hẳn. Tên kia không thể địch lại Wladek. Thế là nằm ngủ trong một toa tàu bỏ hoang chẳng khác nào như một khách sạn năm sao so với những căn hầm và trại giam mà anh vừa trải qua.
    Wladek chỉ ngừng tay khi tên kia đã chịu nằm bẹp xuống sàn tàu, không cựa quậy gì được nữa. Hắn phải van xin Wladek.
    - Mày ra tít đầu toa kia mà nằm và cứ ở yên đấy, - Wladek nói. ?" Mày mà động đậy nữa tao giết.
    - Vâng, vâng, - tên kia cố bò đi.
    Wladek theo dõi thấy hắn đã bò đến đầu toa. Anh ngồi nghe động tĩnh một lúc không thấy gì mới từ từ đặt mình xuống sàn toa và lát sau ngủ thiếp đi.
    Lúc anh tình dậy đã thấy mặt trời chiếu qua khe ván của toa tàu. Anh quay người lại và bây giờ mới nhìn rõ tên địch thủ đêm qua. Hắn vẫn nằm co rúm và còn ngủ ở đầu toa đằng kia.
    - Lại đây. ?" Wladek ra lệnh.
    Tên kia từ từ thức dậy.
    - Lại đây, - Wladek nhắc lại, giọng to hơn trước.
    Tên kia vâng lời ngay. Lần đầu tiên Wladek nhìn kỹ hắn. Hai người trạc tuổi nhau nhưng rõ ràng tên kia cao lớn hơn Wladek một chút, mặt mũi trông trẻ hơn và mớ tóc hắn bù xù.
    - Việc đầu tiên là kiếm cái gì ăn đã, - Wladek nói.
    - Anh theo tôi, - tên kia nói và nhảy luôn ra ngoài toa. Wladek thất thểu đi theo hắn lên đồi và vào trong thành phố lúc đó đang họp chợ sáng.
    Kể từ sau những bữa ăn tuyện vời ở chỗ Nam tước đến giờ, anh chưa từng thấy ở đâu có nhiều thức ăn như thế. Các thứ hoa quả, rau cỏ, kể cả thứ lạc mà anh thích, chất đống trên các ngăn hàng. Tên kia cũng có thể thấy Wladek bị ngợp trước cảnh này.
    - Bây giờ chúng mình làm như thế này nhé, - tên kia nói bằng một giọng tin tưởng. ?" Tôi sẽ đi vào một góc ngăn hàng ăn cắp một quả cam rồi bỏ chạy. Anh sẽ đứng đó và hét thật to: Bắt lấy thằng ăn cắp! Người trông hàng sẽ đuổi theo tôi, thế là lúc đó anh nhặt ngay lấy mấy quả nhét vào túi. Đừng có lấy nhiều, chỉ đủ ăn một bữa thôi. Xong rồi, anh quay lại chỗ này, hiểu chưa nào?
    - Có lẽ thế, - Wladek nói.
    - Để xem dân Moscow như anh có làm được chuyện đó không. - Hắn nhìn theo anh cười khẩy một cái rồi bước ra. Wladek nhìn theo hắn với một vẻ khâm phục. Hắn đàng hoàng đi vào góc một sạp chợ nhấc lấy một quả trên cả một đống cam cao ngất, nói câu gì đó với người bán hàng rồi thủng thẳng bước đi. Hắn nhìn lại Wladek lúc đó đã hoàn toàn quên cả câu nói ?oBắt lấy thằng ăn cắp?, nhưng người bán hàng ngửng lên trông thấy vội chạy ra đuổi. Mọi người đang chú ý nhìn theo tên kia thì Wladek vơ quàng lấy ba quả cam, một quả táo và một củ khoai nhét cả vào túi áo ngoài. Lúc người bán hàng đã sắp đến gần tên kia thì hắn ném quả cam trả lại cho ông ta. Người đó đứng lại vừa nhặt quả cam vừa chửi rủa, giơ nắm tay lên dọa rồi quay lại quầy hàng phàn nàn với những người khách quanh đó.
    Wladek đang có vẻ khoái trá với cảnh vừa rồi thì một bàn tay đã đặt mạnh lên vai. Anh hoảng sợ quay lại tưởng mình bị bắt.
    - Anh có vớ được gì không, anh Moscow, hay chỉ đứng đó xem thôi?
    Wladek cười và đưa ra ba quả cam, quả táo với củ khoai. Tên kia cũng cười theo.
    - Tên cậu là gì? ?" Wladek hỏi.
    - Stefan.
    - Stefan này, mình lại làm một lần nữa đi.
    - Thôi di anh Moscow, anh đừng tưởng thế là khôn nhé. Nếu muốn làm nữa thì phải ra đầu chợ đằng kia và phải chờ ít ra một giờ nữa. Tôi đã chuyện làm ở đây rồi, nhưng anh đừng tưởng là thỉnh thoảng không bị bắt đâu.
    Hai anh chàng lặng lẽ đi ra đầu chợ. Stefan đi với một vẻ rất đàng hoàng khiến Wladek nghĩ bụng giá mình không biết thì đã mất hết với hắn rồi. Họ trà trộn vào chỗ những người mua hàng buổi sáng, và khi Stefan cho rằng đã đến lúc thì họ tái diễn hai lần cảnh đã làm lúc trước. Cả hai người đều rất thỏa mãn, quay trở về toa xe bỏ hoang để hưởng những gì đã ăn cắp được: sáu quả cam, năm quả táo, ba củ khoai, một quả lê, rất nhiều loại lạc với một phần thưởng đặc biệt là quả dưa to. Trước kia Stefan không bao giờ có túi đủ to để cho quả dưa vào đó được. Chiếc áo ngoài của Wladek bây giờ mới làm được câu chuyện ấy.
    - Ăn được, - Wladek cắn vào củ khoai và nói.
    - Cậu ăn được cả vỏ ư? ?" Stefan ngạc nhiên nói.
    - Mình đã ở những chỗ mà được ăn vỏ khoai đã là sang lắm rồi, - Wladek nói.
    Stefan nhìn anh bằng con mắt khâm phục.
    - Vấn đề nữa là chúng ta làm thế nào để có tiền đây! ?" Wladek nói.
    - Trong một ngày mà cậu muốn có đủ thứ thế ư, hả ông chủ? ?" Stefan nói. - Nếu cậu định làm ăn to thì phải nhập bọn với đám ở ngoài bến kia, ông Moscow ạ.
    - Cậu chỉ cho tớ xem. ?" Wladek nói.
    Họ ăn hết nửa số quả và giấu chỗ còn lại xuống dưới đống rơm ở góc toa xe, rồi Stefan dẫn Wladek xuống bến chỉ cho anh xem rất nhiều tàu đậu dưới đó. Wladek không tin ở mắt mình nữa. Anh đã được nghe Nam tước kể cho biết về những tàu to chạy xuyên qua các biển lớn đem hàng đến cho nước ngoài, nhưng những chiếc tàu anh được thấy tận mắt đây còn to hơn nhiều so với điều anh tưởng tượng, và chúng đậu thành một hàng dài không thể nhìn thấy hết được.
    Stefan nói làm sực tỉnh.
    - Cậu thấy chiếc tàu to tướng màu xanh kia không? Nếu muốn làm thì cậu chỉ việc xuống dưới gầm cái ván cầu, nhặt một cái rổ, chất đầy thóc vào đó rồi trèo lên thang và đổ xuống khoang tàu. Cứ bốn chuyến như thế thì cậu được một rúp. Cậu phải đếm cho đúng, không thì cái thằng cầm đầu ấy sẽ bịp và ăn chặntiền của cậu đấy.
    Cả buổi chiều, Stefan và Wladek làm cái việc vác thóc lên thang. Hai người kiếm được hai mươi sáu rúp. Sau một bữa ăn no nê với số lạc, bánh và hàng ăn cắp được, hai người lăn ra ngủ trong cái toa xe lúc trước.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này