1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hai số phận - Jeffrey Archer

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Amar, 08/08/2003.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Sáng hôm sau Wladek dậy trước và Stefan thấy anh ngồi xem bản đồ.
    - Cái gì thế? ?" Stefan hỏi.
    - Đây là bản đồ vẽ con đường để tớ chạy ra khỏi nước Nga.
    - Cậu có thể ở đây và nhập bọn với tớ thì việc gì phải bỏ nước Nga? ?" Stefan nói. ?" Chúng mình cùng làm ăn với nhau được chứ?
    - Không, tớ phải đi đến Thổ Nhĩ Kỳ. Đến đó tớ sẽ được là người tự do lần đầu tiên trong đời. Sao cậu không cùng đi với tớ, hả Stefan?
    - Tớ chả bao giờ có thể bỏ được Odessa được. Đây là nhà tớ. Đường sắt là nơi tớ sống, những người ở đây tớ đã quen biết từ bé đến giờ rồi. Ở đây chẳng hay gì lắm, nhưng có khi ở Thổ Nhĩ Kỳ còn tệ hơn. Nhưng nếu cậu muốn đi thì tớ sẽ giúp.
    - Tớ làm sao biết được tàu nào đi Thổ Nhĩ Kỳ? ?" Wladek hỏi.
    - Dễ thôi, tớ có thể biết tất cả những tàu nào sắp đi đâu. Tụi mình sẽ hỏi ông Joe Một Răng ở cuối cầu tàu là biết ngay. Nhưng cậu phải trả ông ấy một rúp.
    - Chắc hai người lại chia nhau chứ gì?
    - Mỗi người một nửa. ?" Stefan nói. - Cậu học được nhanh đấy, cậu Moscow ạ. ?" Nói đến đây, hắn liền nhảy ngay ra ngoài toa.
    Wladek chạy theo hắn len lỏi giữa những toa tàu. Anh càng thấy bọn chúng đứa nào cũng nhanh nhẹn, chỉ có mình là phải đi cà nhắc thôi. Đến cuối cầu tàu, Stefan dẫn anh vào một căn lều nhỏ có những đống sách phủ đầy bụi và những bảng giờ tàu đã cũ. Wladek không nhìn thấy ai, nhưng bỗng có tiếng nói từ đằng sau đống sách.
    - Chúng mày muốn gì thế? Tao không có thì giờ đâu nhé.
    - Hỏi một tí cho anh bạn tôi đây Joe. Chuyến tàu sắp tới đi Thổ Nhĩ Kỳ là bao giờ đấy?
    - Bỏ tiền ra đã, - một ông già thò đầu từ phía sau đống sách nói. Mặt mũi ông rõ ra một người đã trải qua nhiều nắng gió. Đầu đội mũ lính thủy. Đôi mắt đen nhìn xoáy vào Wladek.
    - Ông ấy là người đi biển giỏi lắm nhé, - Stefan nói thầm với Wladek nhưng đủ để Joe nghe thấy.
    - Đừng nói lôi thôi mày. Một rúp đâu?
    - Ông bạn tôi cầm tiền, - Stefan nói. ?" Wladek, cậu đưa đồng rúp cho ông ấy.
    Wladek lấy ra đồng tiền. Joe cắn thử vào đồng tiền xem có thật không, rồi đi ra tủ sách rút ra một bảng giờ tàu màu xanh rất to. Bụi bay tứ tung. Ông ta vừa ho vừa lật mấy trang trong đó, đưa ngón tay sần sùi dò tìm các tên tàu.
    - Thứ năm sau, tàu Renaska sẽ đến lấy than, rồi có lẽ đi vào thứ bảy. Nếu nó lấy được nhanh thì có thể đi vào đêm thứ sáu để đỡ tiền thuê cảng. Nó sẽ đậu ở cảng mười bảy.
    - Cảm ơn ông Một Răng nhé, - Wladek nói. - Để tôi xem có thể dẫn vài ông bạn giàu đến đây được không.
    Joe Một Răng giơ nắm đấm lên chửi, còn Stefan với Wladek kéo nhau chạy ra ngoài.
    Trong ba ngày sau đó, hai anh chàng lại tiêp tục đi ăn cắp lương thực, khuân vác thuê và lăn ra ngủ. Đến hôm thứ năm tuần sau đó, chiếc tàu Thổ Nhĩ Kỳ đến cảng thì Stefan hầu như đã thuyết phục được Wladek ở lại Odessa. Nhưng cuối cùng vì nỗi sợ hãi đối với người Nga ám ảnh nên anh thấy cuộc sống mới với Stefan dù sao cũng không thể hấp dẫn anh hơn được nữa.
    Họ đứng trên cầu tàu nhìn con tàu mới đến đậu ở cảng mười bảy.
    - Mình làm thế nào để lên tàu được? ?" Wladek hỏi.
    - Dễ thôi, - Stefan nói, - Sáng mai mình sẽ nhập bọn với đám người khuân vác. Tớ sẽ đi sát ngay sau cậu. Chờ lúc nào than đổ gần đầy thì cậu nhảy ùm ngay xuống đó, tìm chỗ trốn, còn tớ thì nhặt cái giỏ của cậu và quay ra phía bên kia.
    - Rồi cậu lĩnh luôn cả phần tiền của tớ chứ gì, - Wladek nói.
    - Tất nhiên, - Stefan đáp. - Tớ có sáng kiến thế thì phải được thưởng tiền chứ, nếu không thì ai người ta còn tin ở chuyện làm ăn tự do được nữa?
    Sáng hôm sau, họ nhập hội với đám khuân vác than. Họ lên lên xuống xuống trên chiếc ván cầu đổ than, nhưng than đổ xuống chỉ thấy lọt thỏm. Cho đến tận chiều tối mà vẫn chưa được nửa khoang. Đêm đó, hai người ngủ thật say. Rồi lại đến sáng hôm sau nữa, họ tiếp tục khuân vác cho đến giữa buổi chiều thì khoang tàu chở than mới gần đầy. Stefan đá vào gót chân Wladek làm hiệu.
    - Lần sau nhé, cậu Moscow, - hắn nói.
    Lên đến đầu ván cầu, Wladek đổ thúng than của mình xuống, bỏ lại cái thúng trên cầu tàu, vịn vào lan can và nhảy xuống đống than. Stefan nhặt cái thúng của Wladek lên rồi tiếp tục đi sang phía bên kia, vừa đi vừa huýt sáo.
    - Tạm biệt anh bạn nhé, - Stefan nói. ?" Và chúc cậu may mắn với bọn Thổ Nhĩ Kỳ nhé.
    Wladek ép người vào góc khoang tàu và nhìn đống than tiếp tục đổ xuống bên cạnh mình. Bụi than bay mù lên, vào cả mũi mồm, chui cả vào phổi và vào mắt anh. Anh cố chịu đựng không dám ho lên, sợ thủy thủ trên tàu nghe thấy. Đúng đến lúc anh thấy không thể nào chịu được cái không khí ngột ngạt, đã định quay lên với Stefan để rồi sau này tìm cách khác mà trốn, thì người ta đóng cửa khoang lại. Wladek được thể, ho ran một hồi.
    Một lát sau, anh thấy có cái gì như cắn vào gót chân. Anh rùng mình nhìn xuống xem là cái gì, hóa ra đó là chuột rất to. Anh cầm cục than ném vào con vật khủng khiếp ấy, nhưng nó vừa chạy đi thì con khác, rồi lại con khác nữa kéo đến. Con sau vừa mạnh bạo hơn, leo cả lên chân anh. Không biết nó ở đâu ra, vừa to, vừa đen sì và rất đang đói ăn. Anh cúi xuống nhìn kỹ. Lần đầu tiên trong đời Wladek thấy chuột có mắt đỏ. Anh vội trèo lên đống than và cố mở nắp trên cửa khoang. Ánh mắt rọi vào và lũ chuột chui tọt xuống hầm dưới. Anh định trèo ra ngoài, nhưng con tàu vừa ra khỏi bến cảng. Anh hoảng sợ, lại rút vào trong khoang. Nếu như con tàu này buộc phải quay lại và giao Wladek cho nhà cầm quyền thì anh biết chắc mười mươi là sẽ phải trở lại trại giam 201 của bọn Nga mà vĩnh viễn không bao giờ ra khỏi được nữa. Anh đành ở lại với lũ chuột. Anh vừa đậy cái nắp vào là chúng lại kéo đến. Anh phải nhặt than ném liên tiếp vào chúng, nhưng con này vừa đi thì con khác lại xuất hiện. Chốc chốc anh phải hé mở cái nắp cho ánh sáng lọt vào, vì chỉ có ánh sáng mới là đồng minh duy nhất giúp cho anh có thể xua lũ chuột đi được.
    Suốt hai ngày ba đêm Wladek phải vật lộn chiến đấu với lũ chuột, không được một lúc nào ngủ yên với chúng. Cuối cùng khi con tàu đến cảng Constantinople và người ta mở nắp khoang ra thì Wladek đen kịt suốt từ đầu đến chân, còn từ đầu gối xuống đến ngón chân thì đầy những máu. Thủy thủ trên tàu kéo anh ra khỏi đống than. Wladek cố đứng dậy, nhưng rồi lại ngã gục xuống boong tàu.
    Lúc Wladek tỉnh lại anh không biết mình ở đâu, và sau đó bao lâu thấy mình nằm trên chiếc giường trong một căn phòng nhỏ, có ba người mặc áo dài trắng đứng chung quanh đang nhìn anh rất kỹ, và họ nói một thứ tiếng gì đó anh chưa từng nghe bao giờ. Trên thế giới này có bao nhiêu thứ ngôn ngữ nhỉ? Anh nhìn lại mình, vẫn còn đen kịt và đầy những máu me. Anh định ngồi dậy thì một trong ba người áo trắng, nhiều tuổi nhất và có bộ râu dê trên khuôn mặt gầy nhỏ, lại đẩy anh nằm xuống. Ông nói với Wladek bằng một thứ tiếng gì lạ lắm. Wladek lắc đầu. Ông ta lại nói tiếng Nga. Anh vẫn lắc đầu. Anh biết là nếu mình trả lời bằng tiếng đó thì lập tức bị đưa về chỗ cũ ngay. Thứ tiếng sau đó ông bác sĩ thử hỏi là tiếng Đức. Wladek biết rằng mình còn giỏi hơn ông ta về tiếng này.
    - Anh nói được tiếng Đức?
    - Vâng.
    - A, thế ra anh không phải người Nga?
    - Vâng.
    - Vậy anh làm gì ở Nga?
    - Tôi trốn.
    - À ra thế. ?" Ông ta quay lại nói với những người ngoài kia bằng thứ tiếng của mình, rồi ba người đi ra ngoài.
    Một cô y tá bước vào lau sạch người cho Wladek, mặc cho anh kêu đau. Cô ta buộc thuốc vào chân cho anh, rồi bỏ anh nằm đó ngủ tiếp. Lần thứ hai Wladek tỉnh dậy thấy chỉ có mỗi mình anh trong phòng. Anh nhìn lên trần nhà trắng toát, suy nghĩ xem sẽ làm gì.
    Anh vẫn không biết được mình đang ở xứ nào. Anh trèo lên bệ cửa sổ nhìn ra ngoài. Anh thấy có một cái chợ, không khác gì lắm với chợ ở Odessa, chỉ trừ có những người ở dây mặc áo dài trắng và da dẻ họ thẫm hơn. Họ cũng đội những chiếc mũ có nhiều màu, trông như những chậu hoa con ở trên đầu, còn chân thì đi dép. Đàn bà thì mặc toàn đồ đen, cả đến mặt họ cũng che kín chỉ chừa hai con mắt cũng đen. Wladek nhìn họ đi lại tấp nập trong chợ, nhìn các bà mua bán, và anh cảm thấy có lẽ ở xứ nào thì cũng chỉ là như vậy thôi.
    Lát sau anh nhìn thấy bên cửa sổ có chiếc thang đỏ bằng sắt gắn vào tường và xuống đến tận đất. Anh bước xuống và khẽ ra mở cửa, ngó nhìn hành lang bên ngoài. Mọi người đi đi lại lại nhưng không ai để ý gì đến anh. Anh lại khẽ đóng cửa vào, tìm ra mấy thứ đồ của anh trong ngăn tủ ở góc phòng rồi vội mặc quần áo vào. Quần áo của anh vẫn còn bám đầy than, cọ sát vào da thịt anh lúc này đã được rửa ráy sạch sẽ. Anh quay trở ra cửa sổ. Cánh cửa sổ mở rất dễ. Anh bám lấy thang vịn chữa cháy nhảy ra ngoài cửa sổ rồi theo cái thang sắt xuống đến đất. Điều đầu tiên là anh thấy nóng, nóng hết sức. Anh chỉ muốn mình đừng khoác cái áo lông nặng nề này nữa.
    Xuống đến đất, Wladek đã định chạy ngay, nhưng đôi chân anh còn yếu và rất đau nên chỉ có thể đi được chậm. Anh ước gì mình thoát được cái cảnh cà nhắc này. Anh không quay lại nhìn bệnh viện nữa mà đi lẩn vào đám đông trong chợ.
    Wladek nhìn vào những thứ bày trên quầy hàng mà thèm. Anh định mua một quả cam và ít lạc. Anh lần tìm trong áo, nhớ là tiền còn giấu ở trong tay áo. Nhưng anh không thấy gì, và cả đến chiếc vòng bạc cũng không còn nữa. Ra những người mặc áo trắng trong bệnh viện đòi cái di sản ấy nhưng nghĩ bụng phải ăn một cái gì đã, rồi có đi đâu mới đi được. Có lẽ trong túi còn tiền. Anh cho tay vào túi bỗng thấy cả ba tờ bạc và mộ tít tiền đồng. Cả tấm bản đồ của bác sĩ và chiếc vòng bạc cũng còn trong đó. Wladek vui mừng hết sức. Anh đeo lại chiếc vòng bạc vào tay và kéo nó lên tận khuỷu tay.
    Wladek chọn lấy một quả cam to nhất với một gói lạc. Người bán hàng nói cái gì đó anh không hiểu. Wladek nghĩ cách dễ dàng nhất để ông hiểu được là đưa tờ bạc 50 rúp. Người bán hàng nhìn vào tờ giấy bạc, cười và giơ tay lên trời.
    - Lạy Thánh Allah! ?" Ông ta kêu lên, giằng lấy gói lạc và cam trong tay Wladek rồi giơ ngón tay trỏ xua anh đi. Wladek buồn rầu bước ra ngoài. Anh nghĩ là có lẽ tiếng nói khác thì phải dùng thứ tiền khác. Ở Nga thì nghèo, còn ở đây thì anh không có một xu nào. Nếu có anh phải ăn cắp một quả cam thôi, nếu sắp bị bắt thì vứt trả lại cho người bán hàng. Wladek đi ra đầu chợ đằng kia như kiểu Stefan đã làm, nhưng anh không bắt chước được kiểu Stefan đã làm, nhưng anh không bắt chước được kiểu đi đàng hoàng và tin tưởng như Stefan. Anh chọn quầy hàng cuối cùng, và liếc nhìn thấy không có ai trông hàng, anh vội nhặt một quả cam rồi bỏ chạy. Bỗng có tiếng ồn ào phía sau. Anh tưởng như có đến nửa thành phố này đang duổi theo anh.
    Một người to lớn nhảy đến túm lấy Wladek vật xuống đất. Sáu bảy người nữa nắm lấy anh kéo trở lại quầy hàng. Một đám đông xúm lại chung quanh. Một viên cảnh sát đứng đó chờ. Người ta làm biên bản. Người bán hàng với viên cảnh sát to tiếng với nhau. Viên cảnh sát quay sang quát tháo với Wladek, nhưng anh chẳng hiểu ông ta nói gì. Viên cảnh sát nhún vai rồi túm lấy tai Wladek dẫn đi. Những người chung quanh đó nhìn anh quát mắng. Một số người còn nhổ vào mặt anh. Về đến trạm cảnh sát, Wladek bị tống xuống một gian xà lim chật hẹp trong đó đã có sẵn vài ba chục những tên lưu manh ăn cắp mà anh không biết ai vào ai nữa. Wladek không nói năng gì với chúng, và bọn chúng cũng có vẻ không muốn nói gì với anh. Anh ngồi dựa lưng vào tường, co rúm người lại, im lặng và khiếp sợ. Họ để anh ngồi đó một ngày đêm không cho ăn uống gì. Ngửi mùi hôi thối trong xà lim khiến anh nôn mửa hết không còn gì trong bụng. Anh không thể ngờ rằng lại có một ngày mà ngay cả đến những căn hầm ở Slonim cũng còn yên ấm dễ chịu hơn.
    Sáng hôm sau có hai người lính gác đến kéo Wladek ra khỏi nhà hầm để ra bên ngoài cùng xếp hàng với nhiều tù nhân khác. Họ bị buộc vào với nhau bằng sợi dây thừng vòng quanh ngực rồi đưa ra phố. Một đám đông người đã đứng chờ sẵn ở đấy. Họ reo hò khi thấy tù nhân được dẫn ra. Rồi họ kéo theo đoàn tù ra chợ, vừa vỗ tay vừa hét. Wladek không hiểu tại sao họ làm như vậy. Ra đến chợ, tất cả dừng lại. Tên tù đầu tiên được cởi trói và dẫn ra giữa chợ. Ở đây đã có hàng trăm người đứng chung quanh, và ai cũng hò hét rầm trời.
    Wladek nhìn quang cảnh mà không thể tưởng tượng được. Khi tên tù đầu tiên ra đến quảng trường, hắn bị tên lính gác đánh cho quỳ xuống rồi bàn tay phải của hắn bị buộc lên một cục gỗ to. Một người khác to lớn giơ cao lưỡi kiếm lên khỏi đầu và chặt xuống cổ tay tên tù đó. Người kia chỉ chặt vào đúng mấy ngón tay. Tên tù hét lên đau đớn. Người kia lại giơ cao lưỡi kiếm lên. Lần này chặt vào đúng cổ tay, nhưng bàn tay chưa đứt hẳn, còn lủng lẳng ở cánh tay tên tù và máu tuôn xuống mặt đất. Lưỡi kiếm lại giơ lên lần thứ ba và lần này thì bàn tay của tên tù rụng hẳn xuống đất. Đám người chung quanh rồ lên tán thưởng. Tên tù được cởi dây trói và lăn ra đó, ngất đi. Một tên lính gác đến kéo hắn ra ngoài, vứt dưới chân đám người đó. Một người đàn bà khóc lóc, - Wladek đoán đó là vợ anh ta, - và vội lấy một mảnh vải ra buộc cho cầm máu. Tên tù thứ hai đã chết luôn sau nhát kiếm thứ tư. Tên đao phủ to lớn kia không quan tâm đến chuyện ai sống ai chết. Hắn chỉ vội vã làm nhiệm vụ vủa hắn. Hắn được trả lương để chuyện chặt tay những người khác.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  2. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Wladek nhìn ra chung quanh mà khiếp sợ đến nghẹt thở. Giá như còn cái gì trong bụng thì anh cũng đến nôn ra hết. Anh quay ra các phía xem có ai cứu giúp hoặc có cái gì trốn được. Không ai nói cho anh biết là theo luật của Hồi giáo, nên định chạy trốn thì sẽ bị chặt chân. Trong các khuôn mặt đứng trong đám đông, anh nhìn ra một người ăn mặc bộ đồ sẫm nhưn kiểu châu Âu. Người đó đứng cách Wladek chỉ độ vài chục mét và rõ ràng là ông ta nhìn cảnh này với một thái độ kinh tởm. Nhưng ông ta không nhìn về phía Wladek, cũng không nghe tiếng anh gào lên kêu cứu mỗi khi có nhát kiếm hạ xuống. Không biết ông ta là người Pháp, người Đức, người Anh, hoặc có thể là người Ba Lan nữa? Wladek không biết ông ta là người nước nào nhưng hẳn phải có lý do gì mới đứng xem cái cảnh rùng rợn này. Wladek vẫn cứ nhìn về phía ông ta, chỉ mong ông ta quay ra nhìn về phía mình. Nhưng không, ông ta vẫn nhìn đi chỗ khác. Wladek còn một bên tay không bị trói giơ lên vẫy nhưng ông ta không để ý. Họ cởi trói người thứ hai đứng trước Wladek và kéo anh ta đi. Lưỡi kiếm lại vung lên đám đông lại reo hò. Người đàn ông mặc bộ đồ sẫm quay mặt đi không dám nhìn. Wladek lại giơ tay vẫy ông ta lần nữa.
    Ông ta nhìn Wladek rồi quay sang nói với người bên cạnh mà Wladek từ nãy không để ý thấy. Lúc này tên lính gác đang giằng co với một tù nhân đứng trước Wladek. Anh ta đặt bàn tay tù nhân xuống dưới sạp. Lưỡi kiếm vung lên và chỉ một nhát là bàn tay đó rụng. Đám đông thấy thế thất vọng. Wladek lại quay lại nhìn mấy người châu Âu kia. Lúc này cả hai người đó đều nhìn anh. Anh muốn họ bước đến, nhưng họ chỉ đứng đó nhìn anh. Anh muốn họ bước đến, nhưng họ chỉ đứng đó nhìn.
    Tên lính gác bước đến, vứt chiếc áo 50 rúp của Wladek xuống đất, mở khóa và xắn tay áo của anh lên. Hắn lôi Wladek đi nhưng anh cố giẫy giụa. Anh không đủ sức cưỡng lại tên lính. Ra đến gần cục gỗ, hắn đá vào khoeo chân cho anh quỳ xuống đất. Sợi dây da lại được quấn vào cổ tay anh. Anh không còn biết làm gì nữa, chỉ nhắm mắt lại trong khi tên đao phủ giơ cao lưỡi kiếm lên trên đầu hắn. Anh hồi hộp chờ đợi nhát kiếm hạ xuống, nhưng tự nhiên thấy trong đám đông im lặng hẳn đi, và chiếc vòng bạc của Nam tước từ từ trên khuỷu tay của anh rơi tụt xuống lăn trên cục gỗ. Đám người chung quanh im lặng nhìn chiếc vòng bạc di sản kia óng ánh dưới nắng. Tên đao phủ ngưng lại, bỏ kiếm xuống và ngắm nghía chiếc vòng bạc. Wladek mở mắt ra. Tên lính đứng đó định vướng sợi dây da nên không kéo lên được. Một người mặc quân phục ở đâu vội chạy đến bên tên đao phủ. Anh ta cũng nhìn vào chiếc vòng bạc với những chữ viết trên đó rồi chạy đến người khác, có lẽ là cấp chỉ huy, vì người đó cũng đang chầm chậm bước đến chỗ Wladek. Thanh kiếm vẫn nằm trên mặt đất. Đám đông lại bắt đầu gào hét. Tên lính thứ hai cũng định kéo chiếc vòng bạc lên nhưng không được vì muốn thế thì hắn phải cởi sợi dây da mới được. Hắn quát mấy tiếng vào mặt Wladek, nhưng anh không hiểu gì và chỉ đáp lại bằng tiếng Ba Lan.
    - Tôi không nói được tiếng của ông.
    Tên sĩ quan tỏ vẻ ngạc nhiên, giơ hai tay lên trời và hét lên một tiếng:
    - Allah!
    Wladek nghĩ có lẽ đó cũng giống như câu ?oLạy Chúa?. Tên sĩ quan bước đến chỗ hai người mặc bộ đồ châu Âu đứng trong đám đông và hoa tay múa chân một lúc. Wladek thầm cầu nguyện. Trong hoàn cảnh này, người ta cầu nguyện bất cứ thần linh nào, dù đó là thánh Allah hay là Đức mẹ đồng trinh. Hai người châu Âu nhìn về phía Wladek và Wladek cũng gật đầu rối rít. Một trong hai người đó bước theo tên sĩ quan theo tên sĩ quan Thổ Nhĩ Kỳ đến chỗ anh. Người đó quỳ một chân xuống bên cạnh Wladek, nhìn chiếc vòng bạc rồi nhìn anh rất kỹ. Wladek chờ đợi. Anh có thể nói chuyện được bằng năm thứ tiếng. Và anh thầm ông ta sẽ nói được một trong năm thứ tiếng ấy. Khi nghe thấy người Âu châu đó quay sang nói với tên sĩ quan kia bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ thì anh thất vọng. Đám đông lúc này đang rít lên và ném những hoa quả thối vào phía trong. Tên sĩ quan kia gật đầu rồi người Âu châu quay sang nhìn Wladek.
    - Anh nói được tiếng Anh không?
    Wladek thở dài nhẹ người.
    - Thưa ông có. Tôi nói được. Tôi là công dân Ba Lan.
    - Tại sao anh có được chiếc vòng bạc ấy.
    - Nó là của cha tôi, thưa ông. Cha tôi chết trong nhà tù của người Đức ở Ba Lan, còn tôi thì bị bắt và tống giam vào một trại tù ở Nga. Tôi đã trốn được và đến đây bằng tàu thủy. Đã nhiều ngay nay tôi không được ăn uống gì. Khi người bán hàng không chịu bán cho tôi quả cam bằng tiền rúp, tôi phải lấy một quả vì tôi đói quá rồi.
    Người Anh kia từ từ đứng dậy, quay sang phía tên sĩ quan và nói với một giọng cứng rắn. Tên sĩ quan lại nói với tên đao phủ. Tên đao phủ ngập ngừng một chút, nhưng tên sĩ quan gắt lên hắn mới cúi xuống miễn cưỡng tháo sợi dây da. Wladek lại nôn ọe.
    - Đi theo tôi, - người Anh nói. ?" Đi mau lên, kẻo họ thay đổi ý kiến.
    Wladek vẫn còn hoang mang chưa hiểu, vội vơ lấy chiếc áo rồi đi theo ông ta. Đám đông đứng ngoài la ó kêu hét và ném theo các thứ họ có sẵn trong tay. Tên đao phủ nhanh chóng đặt bàn tay một tù nhân khác lên cục gỗ, rồi bằng nhát kiếm ban đầu chỉ chặt đi một ngón cái thôi. Hình như chỉ có cách đó mới làm yên được đám đông.
    Người Anh lách qua được đám đông nhốn nháo ra đến ngoài quảng trường, và người bạn cùng đi với ông ta cũng đi theo.
    - Chuyện gì thế, Edward?
    - Chú bé này nói là người Ba Lan và trốn khỏi nước Nga. Tôi nói với tên sĩ quan trong kia bảo nó là người Anh, vì vậy nó thuộc thẩm quyền của chúng ta. Bây giờ hãy đưa nó về sứ quán rồi tìm hiểu xem nó có nói thật hay không.
    Wladek chỵa theo giữa hai người rảo bước qua chợ và đi vào phố Bảy Ông Vua. Anh vẫn còn nghe loáng thoáng tiếng người trong đám đông mỗi khi lưỡi kiếm của tên đao phủ hạ xuống lại reo hò tán thưởng.
    Hai người Anh đi qua một cái cổng cuốn vào một mảnh sân rải sỏi và đến trước một ngôi nhà lớn quét sơn màu xám. Họ bảo Wladek đi theo. Trên cửa có tấm biển đề Đại Sứ Quán Anh. Bước vào trong nhà rồi, Wladek mới cảm thấy an toàn. Anh đi theo sau hai người qua một dãy hành lang dài trên tường có treo những bức tranh vẽ lính và thủy thủ ăn mặc rất lạ. Ở cuối hành lang là bức chân dung một người già trong bộ quân phục màu xanh của Hải quân và trên ngực đeo rất nhiều huân chương. Bộ râu của người đó khiến Wladek nhớ đến Nam tước. Một người lính ở đâu bước ra chào.
    - Ông cai Smithers, ông nhận lấy chú bé này, cho nó đi tắm. Rồi cho nó ăn ở trong bếp. Bao giờ nó ăn xong và đỡ cái mùi hôi thối thì ông kiếm cho nó vài cái quần áo mới rồi dẫn nó lên chỗ tôi nhé.
    - Thưa vâng, - ông cai nói và lại giơ tay chào.
    - Cậu bé, đi theo tôi.
    Ông ta bước đi và Wladek ngoan ngoãn theo sau. Anh phải chạy mới theo kịp bước chân ông ta được. Ông ta đưa anh xuống tầng hầm sứ quán và dẫn vào một cằn phòng nhỏ, có cửa sổ bé tí. Ông bảo anh cởi quần áo rồi chờ đó. Lát sau ông vẫn xoay nguyên quần áo và ngồi ở cạnh giường xoay xoay chiếc vòng bạc quanh cổ tay.
    - Nhanh lên cậu bé. Đây không phải chỗ dưỡng bệnh đâu nhé.
    - Xin lỗi ngài ạ. ?" Wladek nói.
    - Đừng gọi tôi là ngài. Tôi là ông cai Smithers. Gọi tôi là Cai thôi.
    - Còn tôi là Wladek Koskiewicz. Ông gọi tôi là Wladek.
    - Này đừng có đùa. Trong quân đội Anh đã có khối người đùa rồi, không cần phải có thêm cậu vào đấy nữa.
    Wladek không hiểu ông ta nói gì. Anh vội cởi quần áo.
    - Theo tôi nhanh lên.
    Wladek lại được tắm một lần tuyệt vời với xà phòng và nước nóng. Wladek nghĩ đến người đàn bà Nga đã che chở cho anh. Suýt nữa thì anh đã trở thành con trai bà ta, nếu như không có chồng bà ta. Và lại bộ quần áo mới nữa, lạ nhưng sạch sẽ thơm tho. Không biết nó là của con ai thế nhỉ. Nhưng kia, ông ấy đã đến rồi kìa.
    Ông cai Smithers dẫn Wladek vào bếp và giao cho anh một bà làm bếp to béo có bộ mặt hồng hào, một bộ mặt dễ thương nhất kể từ khi anh rời đất Ba Lan đến giờ. Bà ta khiến anh nhớ đến mẹ nuôi nhưng không biết bây giờ bà đã ra sao?
    - Chào chú, - bà ta tươi cười nói, - Tên chú là gì nào?
    Wladek xưng tên.
    - Này chú, tôi sẽ cho chú ăn một bữa đàng hoàng của người Anh, chứ những cái món Thổ Nhĩ Kỳ ở đây là không ăn được đâu. Bắt đầu bằng súp nóng với thịt bò. Trước khi đi gặp ông Prendergast, thì chú phải chén cho đã vào chứ. ?" Bà ta cười. ?" Chú nhớ là đừng có sợ ông ấy, nghe không. Mặc dù ông ấy là người Anh, nhưng ông ấy cũng tốt đấy.
    - Thế bà không phải là người Anh ư? ?" Wladek ngạc nhiên hỏi.
    - Trời ơi, không đâu chú ạ. Tôi là người Scotland, khác lắm chứ. Người Scotland chúng tôi ghét người Anh hơn cả bọn Đức ghét người Anh nữa kia, - bà ta vừa nói vừa cười.
    Bà đặt xuống trước mặt Wladek một đĩa súp nóng có rất nhiều thịt và rau trong đó. Anh đã hoàn toàn quên mất rằng thức ăn có thể thơm ngon như vậy. Anh ăn từ từ, trong bụng chỉ sợ rằng có thể còn rất lâu nữa mới lại được ăn như thế này.
    Ông cai xuất hiện.
    - Cậu bé đã no chưa?
    - Dạ no lắm rồi, cảm ơn ông lắm.
    Ông cai nhìn Wladek với vẻ nghi hoặc, nhưng thấy Wladek không có vẻ đùa, bèn nói:
    - Tốt. Bây giờ đi thôi. Phải lên trình diện với ông Prendergast cho sớm.
    Ông Cai đi khuất sau cửa bếp nhưng Wladek còn nán lại nhìn bà bếp. Anh rất không thích chia tay với người nào mới gặp, nhất là người đó lại tốt với mình.
    - Thôi, chú đi đi, chúc chú gặp nhiều may mắn nhé.
    - Cảm ơn bà, - Wladek nói. Thức ăn của bà là ngon nhất. Tôi sẽ nhớ mãi.
    Bà bếp nhìn anh mỉm cười. Anh lại phải nhảy cà nhắc để chạy theo ông cai có những bước đi rất dài. Ông ta dừng lại bất ngờ trước một khung cửa khiến Wladek suýt đâm sầm vào.
    - Nào cậu bé cẩn thận đấy, phải nhìn chứ.
    Ông ta đưa tay lên gõ cửa.
    - Vào, - một giọng nói bên trong vẳng ra.
    Ông cai mở cửa và chào.
    - Cậu bé Ba Lan, thưa ngài. Đã tắm rửa ăn uống tử tế rồi.
    - Cảm ơn ông Cai. Có lẽ nhờ ông nói giùm với ông Grant bảo ông ấy cùng đến đây cho.
    Edward Prendergast ngồi phía sau bàn giấy nhìn lên. Ông ta ra hiệu cho Wladek ngồi xuống. Ông không nói gì và lại tiếp tục xem giấy tờ. Wladek ngồi nhìn ông ta rồi lại nhìn lên những bức chân dung trên tường. Lại thấy những ông tướng và đô đốc và cả ông có râu anh đã thấy lúc trước, nhưng trong tranh này ông ta mặc quần áo ka ki của quân đội. Vài phút sau một người Anh khác mà anh nhớ là đã thấy ở ngoài chợ bước vào phòng.
    - Cảm ơn anh cùng đến, Harry. Mời anh ngồi. ?" Ông Prendergast quay sang Wladek. ?" Nào chú bé, giờ chú nói từ đầu đi xem nào. Chú phải nói đúng sự thật, không được nói quá, hiểu không?
    - Thưa ông, vâng.
    Wladek bắt đầu câu chuyện từ những ngày sống ở Ba Lan. Anh phải dừng lại một đôi chỗ để tìm cho đúng từ tiếng Anh. Cứ xem nét mặt hai người Anh này, Wladek cũng thấy là lúc đầu họ tỏ ra không tin. Thỉnh thoảng họ ngắt lời và hỏi anh vài câu hỏi, rồi nhìn nhau gật đầu sau khi anh trả lời. Sau một giờ nói chuyện, những điều Wladek kể mới đi đến chỗ lúc này anh đang ngồi trong cơ quan lãnh sự của Nữ hoàng Anh tại Thổ Nhĩ Kỳ.
    - Harry ạ, - ông Prendergast, phó lãnh sự nói, - tôi nghĩ bổn phận chúng ta là báo ngay cho đoàn Ba Lan biết rồi trao chú Koskiewicz này lại cho họ. Tôi thấy trong trường hợp này thì dứt khoát đó là trách nhiệm của họ.
    - Đồng ý, - người có tên là Harry nói. ?" Chú bé này, hôm nay chỉ suýt nữa là chú chết ở ngoài chợ. Cái luật Hồi giáo đã cũ này, người ta gọi là Sher, quy định hễ ai ăn cắp là phải chặt một tay, về lý thuyết mà nói, đã bị chính thức bãi bỏ từ lâu rồi. Thực ra, trong bộ luật hình Ottman thì xử như thế là phạm tội ác rồi. Tuy nhiên, trên thực tế thì bọn man rợ vẫn tiếp tục thực hiện điều đó. ?" Ông ta nhún vai.
    - Tại sao họ không chặt tay tôi? ?" Wladek hỏi và ôm lấy cổ tay.
    - Tôi bảo họ là muốn chặt tay tất cả những người Hồi giáo thì tùy, không được chặt tay người Anh, - Edward Prendergast nói.
    - Ôi, tạ ơn Chúa, - Wladek nói.
    - Tạ ơn Edward Prendergast chứ, - ông phó lãnh sự nói và bây giờ ông ta mới mỉm cười. ?" Đêm nay chú có thể nghỉ lại đây, rồi mai chúng tôi sẽ đưa sang đoàn đại diện bên đó. Người Ba Lan không có sứ quán ở Constantinople, - ông ta nói bằng một giọng hơi khinh thường, - nhưng ông bạn đồng sự của tôi bên đó là một người tốt, vì là người ngoại quốc.
    Ông ta bấm chuông và ông cai xuất hiện ngay.
    - Ngài gọi gì ạ.
    - Ông Cai, ông đưa chú bé Koskiewicz này về phòng. Sáng mai cho chú ấy ăn sáng rồi chín giờ đúng đưa đến chỗ tôi.
    - Vâng. Đi lối này cậu bé, mau lên.
    Wladek đi theo ông cai. Anh không kịp cám ơn hai người Anh đã cứu cho bàn tay của anh, có lẽ cứu cả mạng sống của anh nữa. Trở về văn phòng nhỏ có chiếc giường sạch sẽ chẳng khác gì như anh là khách danh dự ở đây, anh cởi quần áo ra, vứt chiếc gối xuống sàn rồi lăn ra ngủ một mạch cho đến tận sáng hôm sau khi mặt trời chiếu qua khung cửa sổ nhỏ tí.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  3. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    - Dậy rửa mặt cậu bé, mau lên.
    Đó là ông cai, mặc bộ quân phục trắng bong và là thẳng tắp như ông ta không nằm giường bao giờ. Trong khoảnh khắc bừng tỉnh dậy, Wladek tưởng như mình đang còn ở trong trại201. vì tiếng đập bằng gậy của ông cai vào khung giường sắt giống như tiếng gõ cửa thanh sắt tam giác mà Wladek vẫn nghe quen trong trại. Anh trườn xuống giường và vơ lấy quần áo.
    - Đi rửa mặt mũi đã cậu bé. Chúng ta không nên để ông Prendergast sáng sớm ra phải ngửi cái mùi của cậu, phải thế không nào?
    Wladek không phải là mình phải rửa ráy như thế nào nữa, vì anh thấy đã sạch lắm rồi. Ông cai chăm chú nhìn anh.
    - Chân cậu làm sao thế?
    - Không sao, không sao, - Wladek nói và quay mặt đi chỗ khác.
    - Thôi được, ba phút sau tôi trở lại. Ba phút đấy, nghe không? Phải sửa soạn cho xong đấy.
    Wladek rửa tay rửa mặt thật nhanh rồi mặc quần áo. Anh phải ở đầu giường ôm chiếc áo lông cừu chờ ông cai đưa anh đi gặp ông phó lãnh sự. Ông Prendergast tỏ ra ôn hòa hơn hôm qua rất nhiều.
    - Chào chú Koskiewicz.
    - Dạ thưa chào ông.
    - Chú ăn sáng ngon không?
    - Dạ tôi không ăn sáng, thưa ông?
    - Tại sao không? ?" ông phó lãnh sự nói, và quay nhìn ông cai.
    - Ngủ quá giờ, thưa ngài. Nếu ăn sẽ đến muộn.
    - Ồ, thế thì ta phải làm thế nào chú nhỉ. Ông cai, nhờ ông nói với bà Henderson cho đem một quả táo hay cái gì đó.
    - Vâng, thưa ngài.
    Wladek cùng ông phó lãnh sự chầm chạp bước theo hành lang đi ra phía cửa sứ quán, rồi đi tiếp qua sân rải sỏi ra một chiếc xe đỗ bên ngoài. Đó là chiếc xe Austin, một trong những chiếc xe hiếm có ở Thổ Nhĩ Kỳ và cũng là lần đầu tiên Wladek được ngồi trên một chiếc xe riêng. Anh lấy làm tiếc phải rời sứ quán Anh. Đây là nơi an toàn đầu tiên mà từ bao nhiêu năm nay anh mới cảm thấy được. Anh không biết là suốt đời mình còn có dịp nào được ngủ một đêm nữa trên chiếc giường như ở đó nữa không. Ông cai chạy xuống ngồi vào tay lái. Ông đưa Wladek một quả táo với vài tấm bánh còn nóng.
    - Cậu ăn đi và đừng để vãi ra xe nhé. Bà bếp gửi lời chào cậu đấy.
    Chiếc xe từ từ chạy qua những phố đông đúc và nóng nực. Tốc độ như người đi bộ. Người Thổ Nhĩ Kỳ luôn luôn cho rằng chẳng có gì có thể đi nhanh hơn một con lạc đà, vì vậy họ cũng không tránh đường cho chiếc xe Austin đi lên làm gì. Xe mở tất cả các cửa kính mà Wladek vẫn thấy nóng đến ngạt thở, nhưng ông Prendergast thì vẫn cứ tỉnh như không, không hề tỏ ra khó chịu gì. Wladek chúi người vào sau xe, sợ có ai đã chứng kiến sự việc hôm trước và nhận ra trong xe có thể lại hô hoán lên chăng. Chiếc xe Austin nhỏ và sơn đen đỗ lại trước một ngôi nhà nhỏ đã cũ có biển đề Lãnh Sự Quán Ba Lan. Wladek cảm thấy xúc động pha lẫn với thất vọng.
    Cả ba người bước xuống xe.
    - Hạt táo đâu, cậu bé,- ông cai hỏi.
    - Tôi ăn rồi.
    Ông cai cười rồi gõ cửa. Một người đàn ông nhỏ bé, tóc đen, cằm vuông và có vẻ thân mật ra mở cửa. Ông ta mặc áo sơ mi ngắn tay, người sạm đen, rõ ràng là do cái nắng Thổ Nhĩ Kỳ. Ông ta nói tiếng Ba Lan. Đây là những tiếng mẹ đẻ đầu tiên Wladek được nghe thấy kể từ hôm rời trại giam đến nay.
    Wladek nhanh chóng trả lời ngay và giải thích tại sao anh đến đây. Ông ta quay sang ông phó lãnh sự Anh.
    - Xin mời ông đi lối này, ông Prendergast, - ông ta nói tiếng Anh rất thạo. ?" Ông đích thân đưa cậu bé đến đây, thật là quý hóa quá.
    Họ trao đổi với nhau vài câu ngoại ngữ lịch sự rồi ông Prendergast và ông cai ra về. Wladek nhìn theo họ, cố nghĩ ra xem câu tiếng Anh nào đầy đủ hơn chữ ?ocảm ơn? không.
    Ông Prendergast thân mật xoa lên đầu Wladek. Ông ra theo ông Cai rồi nháy mắt nói với Wladek.
    - Chúc chú may mắn nhé. Chúa phù hộ cho chú được hưởng may mắn đấy.
    Ông lãnh sự Ba Lan tự giới thiệu tên mình là Pawel Zeleski. Wladek lại một lần nữa kể lại câu chuyện của mình và anh thấy mô tả bằng tiếng Ba Lan dễ hơn tiếng Anh nhiều. Pawel Zeleski yên lặng nghe anh nói, và lắc đầu buồn bã.
    - Tội nghiệp chú quá, - ông khẽ nói. ?" Chú còn trẻ thế mà đã phải chịu đựng quá nhiều cái đau khổ của đất nước ta. Bây giờ phải làm gì cho chú đây?
    - Tôi phải trở về Ba Lan để đòi lại cái lâu đài của tôi, - Wladek nói
    - Ba Lan ư? ?" Pawel Zeleski nói. ?" Đó là đâu? Mảnh đất chú đã sống ấy hiện nay còn đang tranh chấp, và chiến sự còn đang nổ ra giữa người Ba Lan với người Nga. Tướng Pilsudski còn đang làm mọi cách để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc chúng ta. Nhưng nếu chúng ta lạc quan thì sẽ là điên rồ. Ở Ba Lan bây giờ chẳng còn mấy chút gì cho chú đâu. Không, điều tốt nhất cho chú bây giờ là bắt đầu một cuộc sống mới hoặc ở Anh hoặc ở Mỹ.
    - Nhưng tôi không muốn sang Anh hay Mỹ. Tôi là người Ba Lan.
    - Chú vẫn cứ là người Ba Lan, Wladek ạ. Dù chú quyết định sống ở đâu thì cũng chẳng ai lấy đi được cái danh nghĩa đó của chú. Nhưng chú phải thực tế đối với cuộc sống của mình, mà cuộc sống ấy bây giờ mới chỉ là bắt đầu thôi.
    Wladek cúi đầu thất vọng. Anh đã phải trải qua tất cả những điều trên đây để rồi bây giờ được nghe nói là sẽ chẳng bao giờ trở lại với quê cha đất tổ nữa hay sao? Anh cố nín khóc.
    Pawel Zaleski quàng tay ôm lấy vai anh.
    - Chú đừng bao giờ quên rằng chú là một trong những người may mắn đã có thể trốn thoát và sống sót được. Chú chỉ cần nhớ đến ông bạn bác sĩ Dubien để thấy rằng cuộc sống có thể như thế nào.
    Wladek không nói gì.
    - Bây giờ chú phải gạt bỏ tất cả những chuyện quá khứ lại phía sau, và chỉ nên nghĩ đến tương lai thôi. Có thể, trong đời chú, một ngày kia lại trông thấy đất nước Ba Lan đứng dậy, mà điều đó thì ai cũng mong muốn lắm.
    Wladek vẫn im lặng, không nói gì.
    - Nhưng thôi, chú không cần phải có ngay một quyết định gì, - ông lãnh sự thân mật nói. ?" Chú có thể ở lại đây muốn bao lâu cũng được, rồi sẽ tính đến tương lai của chú sau.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  4. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    10​
    Tương lai là điều Anne lấy làm lo ngại. Mấy tháng đầu lấy nhau là hạnh phúc. Chị chỉ hơi phiền về chuyện William mỗi lúc một tỏ ra không ưa Henry, còn anh chồng mới của chị xem ra cũng chưa thể làm việc ngay được. Henry có phần nào không yên, giải thích cho Anne biết là đến bây giờ anh vẫn còn bị chiến tranh làm cho chệch choạc, và anh không muốn vội vã lao vào một cái gì đó để rồi bị kẹt suốt cả đời. Chị nghe nói thế không thông, và cuối cùng thì hai người bắt đầu cãi lộn.
    - Em không hiểu tại sao anh không thể tiếp tục cái nghề kinh doanh nhà đất mà anh đã thông thạo rồi ấy, Henry.
    - Anh không thể. Mà cũng chưa đến lúc. Thị trường nhà đất lúc này không có vẻ hứa hẹn gì lắm.
    - Gần một năm nay anh vẫn cứ nói lại câu đó. Không biết đến bao giờ anh mới thực hiện được.
    - Nhất định chứ. Sự thực là anh cần có thêm chút vốn liếng nữa mởi khởi sự được. Nếu em cho anh có được ít tiền của em, thì ngay ngày mai anh khởi sự được ngay.
    - Điều đó là không được, Henry. Anh biết những điều khoản trong di chúc của Richard rồi. Chúng ta lấy nhau là lập tức trợ cấp của em bị chấm dứt, và bây giờ thì chỉ còn lại vốn riêng thôi.
    - Chỉ cần một chút đó thôi là giúp cho anh làm ăn được rồi, mà em cũng đừng quên là cái thằng bé yêu quý của em còn có trên hai mươi triệu tiền ủy thác của gia đình.
    - Hình như anh biết kỹ về tiền của William lắm nhỉ, - Anne nói với một giọng nghi hoặc.
    - Thôi đi, em. Em cũng phải cho anh được làm chồng của em chứ. Đừng làm anh cảm thấy như mình là khách trong nhà của chính mình.
    - Vậy tiền của anh đâu? Anh vẫn nói với em tin rằng anh có đủ tiền làm ăn rồi kia mà.
    - Em vẫn biết là về mặt tài chính thì anh không thể đứng vào hạng của Richard được. Mà trước đây đã có lúc em nói rằng điều đó không quan trọng. Em vẫn sẽ lấy anh, Henry, dù anh không có một xu nào, - anh nhại lại cái giọng của Anne.
    Anne bật khúc. Henry tìm cách an ủi. Cả buổi tối chị nằm trong vòng tay của anh, họ bàn đi bàn lại chuyện ấy. Anne nghĩ bụng mình làm như vậy thì không phải là người vợ, và cũng không rộng rãi gì lắm. Chị có nhiều tiền hơn là chị cần. Chẳng lẽ chị không trao được một ít cho người đàn ông mà chị nguyện đã trao cả cuộc đời mình cho anh ta hay sao?
    Nghĩ thế, chị đồng ý cho Henry 100 nghìn đôla để anh thiết lập một văn phòng nhà đất ở Boston. Trong vòng một tháng, Henry đã tìm được địa điểm làm văn phòng rất đẹp trong khu hiện đại của thành phố, kiếm một số nhân viên và khởi sự làm việc. Chẳng bao lâu anh đã có những mối quan hệ được với những chính khách quan trọng của thành phố và những vị kinh doanh nhà đất khác ở Boston. Họ bàn tán với nhau về chuyện ruộng đất đang phát triển mạnh và tỏ ra ca tụng Henry. Anne không quan tâm lắm về những mối quan hệ xã hội ấy, nhưng Henry thì sung sướng và có vẻ như anh rất thành công trong những hoạt động của mình.
    Khi William mười lăm tuổi thì anh đã học năm thứ ba ở trường St.Paul, đứng thứ sáu trong lớp và đứng đầu về toán. Anh cũng trở thành một nhân vật đang nổi trong Hội Tranh Luận (Các trường học ở Mỹ có truyền thống lập ra các nhóm học sinh để học tập tranh luận cho quen trước khi vào đời). Mỗi tuần, anh viết thư về cho mẹ một lần để báo cáo về việc học hành của mình. Thư nào anh cũng chỉ đề ngoài bì là bà Richard Kane, không thừa nhận là có Henry Osborne. Anne phân vân không biết có nên nhắc nhở điều đó với con không. Mỗi buổi sáng thứ hai, chị cẩn thận ra hòm thư để lấy thư của William gửi về, cốt để cho Henry khỏi trông thấy chữ đề trên phong bì. Chị vẫn hy vọng là đến một lúc William sẽ thấy thích Henry. Nhưng rõ ràng hy vọng đó là không thực tế, nhất là khi viết thư về nhà William có một lần xin phép mẹ cho anh cùng đi nghỉ hè với người bạn là Matthew Lester, lúc đầu là đi trại hè ở Vermont và sau đó là về với gia đình của Lester ở New York. Yêu cầu đó của anh làm cho Anne thấy đau buồn, nhưng rồi chị cũng đành chấp nhận và Henry hình như cũng tán thành như vậy.
    William rất ghét Henry Osborne và cứ nuôi trong lòng sự căm giận ấy mà không biết mình phải làm thế nào. Anh mừng thầm là Henry không bao giờ đến trường thăm anh. Anh không thể nào chịu được để cho các bạn khác trông thấy, mẹ anh đi với con người ấy. Anh lấy làm khổ tâm phải sống với Henry ở Boston.
    Lần đầu tiên kể từ sau khi mẹ anh tái giá, William nóng ruột muốn cho những ngày nghỉ hè đến sớm.
    Chiếc xe Packard của nhà Lester có người lái và chạy rất êm đưa William và Matthew đến trại hè ở Vermont. Trên đường đi, Matthew bỗng hỏi William là ở trường St.Paul ra anh sẽ làm gì.
    - Lúc ra trường, mình sẽ đứng đầu lớp, là trưởng lớp, và mình sẽ giành được giải thưởng học bổng Hamiton về toán để lên Harvard, - William trả lời không hề lúng túng.
    - Tại sao lại quan trọng thế? ?" Matthew ngớ ngẩn hỏi.
    - Bố mình ngày xưa đạt được cả ba điều ấy.
    - Vậy khi nào cậu làm được như thế, mình sẽ giới thiệu cậu với bố mình.
    William mỉm cười.
    Hai anh chàng thanh niên này sống sáu tuần vui vẻ và họat động sôi nổi ở Vermont, từ đánh cờ đến đá bóng. Hết kỳ nghỉ ở đây, họ lại quay về New York sống nốt một tháng hè nữa với gia đình Lester.
    Người quản gia đứng sẵn ở cửa đón họ. Ông ta gọi Mathew là ?oông?. Một cô gái mười hai tuổi mặt đdầy tàn nhang thì gọi anh là ?obéo?. William buồn cười, vì bọn anh thì gầy, mà chính cô ta mới béo. Cô gái cười nhe bộ răng gần như bịt hết.
    - Chắc cậu không tin rằng Susan là em gái mình đâu nhỉ, - Matthew nói với một vẻ khinh thường cô em.
    - Không, mình không biết, - William nói và nhìn Susan cười. ?" Cô em trông còn xinh hơn cậu nhiều.
    Từ đó trở đi, cô ta rất quý William.
    William mới gặp bố Matthew đã thích ông ta ngay. Anh thấy ông có nhiều cái rất giống với bố mình trước kia. Anh đề nghị ngay với ông Charles Lester cho anh được xem ngân hàng lớn mà ông làm chủ tịch. Charles Lester suy nghĩ mãi về yêu cầu đó của anh. Xưa nay chưa có đứa nhỏ nào được phép vào đến khu vực 17 phố Broad bao giờ, kể cả chính con ông. Ông bèn làm như mọi nhà ngân hàng khác là chiều chủ nhật đưa anh đi quanh các tòa nhà ở phố Wall vậy.
    William phải hoa mắt về những cơ quan làm việc, những cửa cuốn, phòng ngoại hối, phòng họp của các vị lãnh đạo và văn phòng của chủ tịch. Những hoạt động ngân hàng của nhà Lester còn rộng rãi sôi nổi hơn nhiều so với nhà Kane và Cabot. Qua tài khoản đầu tư rất nhỏ của mình, William vẫn nhận được bản sao báo cáo hàng năm và anh biết rằng nhà Lester còn có vốn hơn rất nhiều so với nhà Kane và Cabot. Ngồi trên xe trở về nhà, William yên lặng và có vẻ rất tư lự.
    - Thế nào William, cháu xem ngân hàng có thích không? ?" Ông Charles Lester vui vẻ hỏi.
    - Ồ; thưa ông có, - William đáp. ?" Cháu thích lắm.
    Ngừng một lát, anh mới tiếp: - Ông Lester ạ, một ngày kia cháu cũng muốn làm chủ tích ngân hàng của ông.
    Charles Lester cười. Tối hôm đó ngồi ăn với các vị khách mời đến nhà, ông cũng kể lại câu nói của William Kane đối với Công ty Lester và mọi người cười ran.
    Chỉ có William thì không nghĩ rằng đó là một câu đùa.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  5. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Anne rất lạ thấy Henry lại về đòi chị bỏ thêm tiền ra nữa.
    - Tiền này cũng vững như ngôi nhà vậy, - anh ta đảm bảo với chị. ?" Em cứ hỏi Alan Lloyd xem. Là chủ tịch ngân hàng thì bao giờ ông ấy chả nghĩ lợi tức của em là chuyện hàng đầu.
    - Nhưng còn hai trăm năm mươi nghìn? ?" Anne hỏi.
    - Một cơ hội tuyệt vời, em ơi. Em phải coi đó như một khoản đầu tư mà trong hai năm nó sẽ tăng gấp đôi.
    Sau một hồi cãi lộn với nhau nữa, Anne lại phải đồng ý, và cuộc sống lại vui vẻ như cũ. Lúc kiểm tra lại tài khoản của mình trong ngân hàng. Anne thấy vốn đã tụt xuống còn có một trăm năm mươi nghìn. Nhưng chị cũng thấy hình như Henry vẫn làm ăn với những người tử tế và thu chi đâu ra đấy. Chị đem vấn đề ra bàn với Alan Lloyd bên nhà Kane và Cabot, nhưng nghĩ thế nào lại thôi, vì như vậy sẽ có nghĩa là chị không tin ở người chồng mà chị muốn để cho mọi người tôn trọng. Vả lại, Henry cũng đã chẳng đưa ra đề nghị ấy nếu như anh ta không chắc chắn là vụ vay mượn này không được sự tán thành của Alan.
    Anne cũng bắt đầu thăm bác sĩ MacKenzie và hỏi xem chị có hy vọng gì đẻ được nữa không, nhưng bác sĩ vẫn khuyên chị là không nên. Với tình trạng huyết áp cao đã làm cho chị sẩy thai lần trước, Andrew Mackenzie cho rằng ở cái tuổi ba mươi lăm thì Anne không nên nghĩ đến chuyện làm mẹ một lần nữa. Anne đem vấn đề bàn với các bà nội ngoại thì các cụ hoàn toàn nhất trí với ý kiến của bác sĩ. Cả hai cụ, chẳng ai muốn quan tâm gì đến Henry, và các cụ lại càng không muốn nghĩ đến chuyện mai kia một đứa con đẻ ra mang dòng họ Osborne lại đòi được hưởng tài sản của họ nhà Kane, mà lúc đó các cụ đã đi cả rồi thì làm sao. Anne đành chịu làm mẹ của một đứa con vậy. Henry thì lấy thế làm tức giận, bảo chị là đồ phản bội. Anh ta nói giá như Richard còn sống thì chị đã đẻ nữa rồi. Chị nghĩ bụng không biết mình yêu ai hơn. Chị cố làm cho Henry yên lòng, thầm mong cho công việc của anh ta khấm khá lên và lúc nào cũng bận rộn để quên đi. Anh ta thường ở lại cơ quan làm việc rất khuya.
    Vào một ngày thứ hai tháng Mười, tức là sau ngày nghỉ cuối tuần kỷ niệm hai năm họ cưới nhau, Anne nhận được mấy lá thư của một ?ongười bạn? không ký tên, báo cho chị biết là Henry đi với những người phụ nữ khác ở chung quanh Boston, đặc biệt đi với một bà mà trong thư không tiện nói tên. Lúc đầu, Anne đốt ngay những bức thư ấy. Mặc dầu nó làm chị băn khoăn lo lắng, chị vẫn mong đó là lá thư cuối cùng. Chị cũng vẫn không có đủ can đảm nói lên chuyện đó với Henry, nếu như không có việc Henry lại đòi chị bỏ ra nốt số tiền 150000 đôla còn lại của chị.
    - Anh sẽ mất hết toàn bộ số vốn liếng nếu như không có được số tiền ấy bây giờ, Anne.
    - Nhưng tất cả em chỉ còn có thế thôi, Henry. Nếu bây giờ đưa cho em nữa thì em không còn gì hết.
    - Riêng ngôi nhà này thôi đã đáng giá trên hai trăm nghìn. Ngày mai em có thể đem cầm nó được.
    - Ngôi nhà này là của William.
    - William, William, William. Bao giờ cũng chỉ có William cản trở hết cả công việc của tôi, - Henry quát lên và vùng vằng đi ra.
    Mãi đến sau mười hai giờ đêm anh ta mới đi về, tỏ vẻ hối hận, nói là đáng lẽ không nên đụng gì đến tiền của chị nữa, vì dù sao hai người cũng còn rất yêu nhau. Anné nghe anh nói thế rất yên tâm, rồi đến khuya hai người lại ******** với nhau. Sáng hôm sau, chị ký luôn vào tờ séc 150000 đôla, cố quên đi rằng mình chẳng còn một đồng nào nữa để cho Henry có thể tiếp tục theo đuổi vụ làm ăn của anh ta. Chị cũng hơi lạ thấy yêu cầu của Henry lần này đúng với số tiền còn lại trong gia tài chị được hưởng.
    Tháng sau đó, Anne tắt kinh.
    Bác sĩ MacKenzie rất lo ngại nhưng không biểu lộ ra mặt. Các cụ bà thì hoảng hốt và lo ra mặt, nhưng Henry thì sung sướng và bảo Anne rằng đó là điều tuyệt diệu nhất trong cả đời anh ta. Anh ta còn đồng ý xây một khoa nhi cho bệnh viện, điều mà trước đây Richard đã định làm khi chưa qua đời.

    Khi William nhận được tin đó, anh ngồi suy nghĩ suốt cả buổi tối, ngay cả với Matthew anh cũng không dám nói gì về điều lo ngại. Sáng thứ bảy sau đó, được phép của ông chủ nhà trọ, ông Raglan Nóng Tính, anh đi xe lửa lên Boston. Đến nơi, anh rút một trăm đôla trong quỹ tiết kiệm rồi đến văn phòng luật sư Cohen và Yablons ở phố Jefferson. Ông Thomas Cohen, một người cao lớn, xương xương và có chiếc cằm bạnh, rất ngạc nhiên thấy William bước vào văn phòng ông ta.
    - Tôi chưa bao giờ tiếp một người mười sáu tuổi như thế này, - ông Cohen nói. - Với tôi thì chuyện này là rất mới đây.
    Ông ta ngập ngừng nói: ?" Ông Kane. ?" Ông ta thấy nói ?oông Kane? nó ngường ngượng thế nào ấy.
    - Cha tôi, - William nói, - là một người rất khâm phục những thành tựu của dân tộc Hibru và đặc biệt quý trọng hãng của ông vì ông đứng ra bênh vực cho đối thủ của cha tôi. Tôi có nghe cha tôi và ông Lloyd nhắc đến tên ông rất nhiều lần. Vì vậy mà hôm nay tôi tìm đến ông, chứ không phải ông tìm tôi. Như vậy ông đủ tin được chưa?
    Ông Cohen lập tức gạt bỏ chuyện tuổi của William sang một bên.
    - Đúng thế, đúng thế. Tôi nghĩ là phải coi con trai của Richard Kane như một người ngoại lệ. Nào, bây giờ tôi có thể giúp anh được gì đây?
    - Tôi muốn được ông trả lời cho tôi ba câu hỏi, thưa ông Cohen. Một là, tôi muốn biết nếu mẹ tôi, tức bà Henry Osborne, đẻ ra một đứa con, dù là trai hay gái, thì đứa con đó có quyền hợp pháp gì đối với gia tài ủy thác của gia đình Kane hay không. Hai là, tôi có nghĩa vụ gì về mặt pháp lý với ông Henry Osborne chỉ vì ông ấy lấy mẹ tôi hay không? Và ba là, đến tuổi nào thì tôi còn quyền đòi ông Osborne phải rời khỏi ngôi nhà của tôi trên quảng trường Luisburd ở Boston?
    Ngòi bút của ông Cohen chạy rất nhanh trên mảnh giấy để trước mặt, làm bắn cả mấy giọt mực xanh lên mặt bàn vốn đã có nhiều vết mực rồi.
    William đặt một trăm đôla lên mặt bàn. Ông luật sư sửng sốt nhưng vẫn cầm đồng tiền lên đếm.
    - Xin ông dùng tiền cho thận trọng, thưa ông Cohen. Lúc ra trường Harvard, tôi sẽ cần đến một luật sư giỏi .
    - Anh đã được nhận vào trường Harvard rồi ư? Tôi xin chúc mừng. Tôi hy vọng con trai tôi cũng sẽ được vào đó.
    - Không, tôi chưa vào, nhưng trong hai năm nữa tôi sẽ vào. Một tuần nữa tôi sẽ trở lại Boston, thưa ông Cohen. Nếu trong đời tôi còn nghe thấy ai nói đến chuyện này ngoài ông ra, thì coi như quan hệ giữa ông với tôi chấm dứt tại đây. Xin chào ông.
    Lẽ ra Thomas Cohen cũng phải chào lại, nhưng ông chưa kịp thốt ra lời nào thì William đã ra ngoài và cánh cửa đã khép sau lưng anh rồi.
    Bảy ngày sau, William trở lại văn phòng luật sư Cohen và Yablons.
    - A, chào ông Kane, - Thomas Cohen nói - rất mừng gặp lại ông. Ông uống cà phê chứ?
    - Không ạ, xin cảm ơn ông.
    - Tôi cho người đi mua Coca-cola về nhé?
    Mặt William phớt tỉnh.
    - Thôi ta làm việc vậy, - ông Cohen nói với vẻ hơi lúng túng. ?" Ông Kane, chúng tôi đã cho đi điều tra với sự giúp đỡ của một số người. Những câu hỏi của ông nếu ra không hoàn toàn thuộc về lĩnh vực kinh viện. Tôi nghĩ là có thể có được những câu trả lời chắc chắn cho tất cả những câu hỏi ông nêu ra. Ông hỏi nếu như đứa con mà mẹ ông đẻ ra cho ông Osborne thì đứa con đó có được quyền hưởng gì tài sản của họ Kane hay không, hay nói đúng hơn là tài sản được ủy thác do cha ông để lại. Câu trả lời đơn giản là không, nhưng cố nhiên bà Osborne vẫn có thể để một phần trong số năm trăm nghìn đôla do cha ông để lại cho bà và bà muốn đem nó cho ai thì tùy.
    Ông Cohen nhìn lên.
    - Tuy nhiên, ông Kane ạ, có lẽ ông cũng muốn biết rằng mẹ ông đã rút hết toàn bộ số tiền năm trăm nghìn trong tài khoản ấy của bà ở ngân hàng Kane và Cabot trong mười tám tháng qua rồi, nhưng chúng tôi thì không sao tìm ra được là số tiền ấy đã được dùng như thế nào. Rất có thể là bà ấy đã quyết định gửi số tiền ấy sang một ngân hàng khác.
    William tỏ vẻ khó chịu. Đó là dấu hiệu đầu tiên của sự mất bình tĩnh mà Thomas Cohen thấy được ở ânh.
    - Không có lý gì bà ấy làm thế, - William nói. - Số tiền đó chỉ có thể vào tay một người.
    Ông luật sư ngồi im chờ anh nói nữa. Nhưng William chững lại không nói gì thêm. Ông Cohen lại tiếp tục.
    - Trả lời cho câu hỏi thứ hai của ông: ông không có bất cứ nghĩa vụ gì, dù là cá nhân hay pháp nhân, đối với ông Henry Osborne hết. Theo những điều khoản trong di chúc của cha ông, thì mẹ ông là người được ủy thác quản lý nhà đất cùng với ông Alan Lloyd và bà John Preston là những cha mẹ đỡ đầu hãy còn sống, cho đến khi ông hai mươi mốt tuổi.
    Thomas Cohen lại nhìn lên, William không biểu lộ gì trên mặt. Ông Cohen biết như vậy là cứ tiếp tục nói nốt.
    - Và thứ ba là: Ông không thể nào đuổi được ông Osborne ra khỏi ngôi nhà trên đồi Beacon chừng nào ông ta vẫn còn lấy mẹ ông và tiếp tục sống với bà ấy. Khi nào mẹ ông chết thì ngôi nhà này tự nhiên thuộc về ông. Đến lúc đó, nếu ông ta còn sống, thì ông có thể yêu cầu ông ta đi được. Tôi nghĩ như vậy là đã trả lời được hết những câu hỏi của ông rồi đó, ông Kane.
    - Xin cám ơn ông, ông Cohen, - William nói. ?" Tôi cảm tạ ông về hiệu quả và sự kín đáo của ông trong vấn đề này. Bây giờ, xin ông cho biết tôi phải trả ông bao nhiêu tiền?
    - Một trăm đôla thì không hoàn toàn bao được hết công việc này, ông Kane ạ. Nhưng chúng tôi tin ở tương lai của ông, và?
    - Tôi không muốn mang ơn đối với bất cứ ai, thưa ông Cohen. Xin ông cứ coi tôi như một người mà không bao giờ ông còn phải bận tâm đến nữa. Như vậy tôi còn thiếu bao nhiêu, xin ông cứ cho biết.
    Ông Cohen suy nghĩ một lúc rồi nói:
    - Nếu vậy thì chúng tôi tính ông hai trăm hai mươi đôla.
    William rút trong túi ra sáu tờ bạc 20 đôla đưa cho ông Cohen. Lần này, ông luật sư không đếm nữa.
    - Tôi rất cảm ơn ông giúp đỡ, thưa ông Cohen. Tôi tin chắc rằng chúng ta sẽ còn gặp nhau nữa. Xin chào ông.
    - Xin chào ông Kane. Tôi có thể nói mặc dầu chưa có vinh dự được gặp người cha kính yêu của ông trước đây, nhưng được làm việc với ông thì tôi tin tưởng như đã có vinh dự đó rồi.
    William mỉm cười và dịu giọng xuống.
    - Xin cảm ơn ông.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  6. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Để chuẩn bị cho đứa trẻ ra đời, Anne lúc nào cũng bận rộn. Chị thấy dễ mệt và cứ làm gì một chút là lại nghỉ. Mỗi khi chị hỏi Henry xem làm ăn thế nào, anh ta đều có sẵn những câu trả lời có lý để làm chị yên tâm mọi thứ đâu vào đấy, nhưng không cho chị biết bất cứ một chi tiết cụ thể nào.
    Rồi đến một buổi sáng lại có những bức thư nặc danh gửi đến. Lần này, thư viết rõ ràng tên tuổi những người đàn bà và cả những chỗ mà họ đi với Henry. Anne đốt ngay những thư đó mà không cần nhớ những chỗ nào. Chị không muốn tin là chồng chị lại có thể không trung thành trong lúc chị mang thai như vậy. Hẳn là có ai đó ghen ghét gì đó đối với Henry nên họ phải bịa ra thế thôi.
    Những thư nặc danh ấy vẫn tiếp tục gửi đến, đôi khi có những tên mới được nêu lên. Anne vẫn cứ hủy đi, nhưng bây giờ nó bắt đầu khiến chị phải bận tâm. Chị muốn đem chuyện đó tâm sự nhưng không nghĩ ra được có thể nói với ai. Các cụ bà mà nghe thấy chuyện này hẳn sẽ hoảng loạn cả lên, mà vốn các cụ đã sẵn có thành kiến với Henry rồi. Alan Lloyd ở ngân hàng thì không thể hiểu được chuyện này vì ông ta chả lấy vợ bao giờ, còn William thì lại quá trẻ. Không có ai thích hợp để nói chuyện. Anne nghĩ đến việc đi hỏi một bác sĩ khoa tâm thần sau khi nghe một bài giảng của Sigmund Freud (nhà sáng lập khoa phân tích tâm lý, người Áo 1865-1939), nhưng rồi chị lại nghĩ một người của dòng họ Cabot không bao giờ có thể đem chuyện riêng gia đình ra nói với người hoàn toàn xa lạ được.
    Vấn đề cuối cùng đã đi đến một tình hình mà Anne không tính trước được. Trong một buổi sáng thứ hai, chị nhận được ba lá thư. Một lá thư như mọi khi William gửi về đề cho bà Richard Kane và hỏi xem anh có thể đi nghỉ hè với bạn Matthew Lester được nữa không. Một thư nặc danh nữa nói Henry đang có chuyện dan díu với Milly Preston. Còn lá thư thứ ba là của Alan Lloyd, chủ tịch ngân hàng, viết nhắn chị gọi điện thoại và hẹn ngày cho ông ta gặp có chút việc. Anne mệt mỏi ngồi xuống đọc lại một cách khiến chị nhói đau. Chị lấy làm buồn thấy con muốn đi nghỉ hè với Matthew Lester hơn. Từ khi chị tái giá lấy Henry, hai mẹ con mỗi ngày một cách biệt. Bức thư nặc danh nói Henry đang dan díu với người bạn thân nhất của chị là điều chị khó có thể không biết đến. Anne không thể không nhớ rằng chính Milly là người đã giới thiệu chị với Henry, và cũng là mẹ đỡ đầu của William. Bức thư thứ ba của Alan Lloyd, hiện nay đã là chủ tịch của ngân hàng Kane và Cabot sau khi Richard qua đời, khiến chị rất phân vân. Bức thư duy nhất chị nhận được của Alan trước đây là thư chia buồn về cái chết của Richard. Chị ngờ rằng thư này chỉ có thể báo tin buồn hơn nữa mà thôi.
    Chị gọi điện thoại cho ngân hàng. Tổng đài chuyển cuộc gọi ngay cho chị.
    - Alan, ông muốn gặp tôi phải không?
    - Vâng, chị ạ. Tôi muốn trao đổi một tí. Chị thấy lúc nào tiện?
    - Có phải tin dữ không đấy? ?" Anne hỏi.
    - Không hẳn đâu, nhưng tôi không muốn nói trên điện thoại. Không có điều gì khiến chị phải lo đâu. Chị có thể ăn trưa với tôi được không?
    - Được chứ, Alan.
    - Vậy ta sẽ gặp ở nhà hàng Ritz vào một giờ. Chốc nữa gặp lại chị nhé.
    Một giờ. Từ đây đến lúc đó chỉ còn ba tiếng. Óc chị nghĩ luẩn quẩn từ Alan đến William đến Henry nhưng rồi dừng lại ở Milly Preston. Có thể là thật chăng? Anne quyết định đi tắm nước nóng ấm một lúc lâu rồi mặc bộ áo mới vào người. Nhưng không thay đổi gì được. Chị cảm thấy mình đã bắt đầu bệu lên. Da dẻ, tay chân trước đây thon thả lịch sự là thế, bây giờ đã trở nên phục phịch và có những nốt tím đỏ. Chị lo sợ không biết được khi đẻ thì người chị sẽ ra thế nào nữa. Chị nhìn mình trong gương thở dài và cố sửa sang lại bề ngoài cho dễ trông hơn một chút.
    - Trông chị xôm lắm đấy, Anne. Giá như tôi không phải là một anh già độc thân thì tôi sẽ tán tỉnh chị ngay mà không hề xấu hổ chút nào, - nhà ngân hàng có bộ tóc trắng nói và hôn vào hai bên má chị, làm như một ông tướng người Pháp. Ông ta đưa chị vào ngôi ở bàn mình.
    Chiếc bàn trong góc phòng ấy là chỗ chuyên dành cho ông chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot khi nào ông không ăn trưa ở ngay cơ quan. Trước kia Richard đã làm như vậy và bây giờ đến lượt Alan Lloyd. Đây là lần đầu Anne ngồi ăn ở bàn với một người khác. Những người phục vụ nháo nhác chạy ra chạy vào nhưng không làm gì ảnh hưởng đến hai người nói chuyện.
    - Còn bao lâu nữa chị đẻ, Anne?
    - Ồ, phải còn ba tháng nữa.
    - Tôi hy vọng là không rắc rối gì. Tôi nhớ là?
    - Bác sĩ vẫn gặp tôi mỗi tuần một lần và cứ nhăn nhó về chuyện huyết áp, nhưng tôi thì không lo quá đáng như thế.
    - À thế thì tôi mừng cho chị, - ông ta nói và sờ vào tay chị như một bậc cha chú. ?" Nhưng tôi thấy chị có vẻ mệt mỏi đấy, chị đứng có làm cái gì quá nhiều.
    Alan Lloyd khẽ giơ tay ra hiệu. Một người hầu bàn đến ngay bên cạnh và hai người gọi món ăn.
    - Anne này, tôi muốn chị cho một vài lời khuyên.
    Anne rất biết Alan Lloyd là người có tài ngoại giao. Chẳng phải ông ta ngồi ăn trưa với chị để mà nghe chị khuyên đâu. Hẳn là ông ta đến để khuyên chị điều gì đó thì đúng hơn.
    - Chị có rõ những chương trình nhà đất của Henry tiến hành như thế nào không?
    - Không, tôi không biết, - Anne đáp. ?" Tôi chả bao giờ muốn dính đến những công việc làm ăn của Henry cả. Ông cũng nhớ đấy, tôi không dính gì đến những hoạt động của Richard. Nhưng sao? Có chuyện gì đáng phải lo ngại phải không?
    - Không, không, chúng tôi ở ngân hàng thì không biết là có chuyện gì đáng lo cả. Trái lại, chúng tôi biết là Henry đang có yêu cầu ký kết một hợp đồng lớn với thành phố để xây dựng một tổ hợp bệnh viện mới. Tôi hỏi chị thế là vì anh ấy có đến ngân hàng vay một khoản năm trăm nghìn đôla.
    Anne choáng người.
    - Tôi biết là chuyện đó làm chị ngạc nhiên, - ông ta nói. ?" Chúng tôi biết là trong tài khoản dự trữ của chị còn khoảng dưới hai chục nghìn, thế mà số tiền rút ra theo tên chị thì đã quá mười bảy nghìn rồi.
    Anne bỏ thìa súp đang ăn xuống hoảng hốt. Chị không ngờ tình hình đến mức như vậy. Alan có thể thấy rõ là chị đang hoang mang, thất vọng.
    - Nhưng bữa ăn này không phải là để nói chuyện đó, Anne, - ông ta vội tiếp ngay. ?" Ngân hàng sẵn sàng chịu hụt tiền với chị cho đến hết đời. Tiền ủy thác của William mỗi năm đã có lãi suất đến hơn một triệu đôla, vì vậy tiền rút quá mức của chị sẽ chẳng có nghĩa gì, ngay cả đến năm trăm nghìn đôla mà Henry yêu cầu cũng không quan trọng nếu như được chị đồng ý, vì chị là người quản lý hợp pháp tài sản của William.
    - Tôi không biết là mình còn có quyền gì đối với tài sản ủy tháccủa William cả, - Anne nói.
    - Với tổng số tài sản gốc thì không, nhưng về mặt pháp lý mà nói thì lãi suất của nó có thể đầu từ vào bất cứ công trình nào để làm lợi cho William, và cái đó thì thuộc quyền quản lý của chị, của tôi và của Milly Preston với tư cách là cha mẹ đỡ đầu cho đến khi nào William hai mươi mốt tuổi. Bây giờ, với danh nghĩ chủ tịch tài sản ủy thác của William, tôi đề nghị chị chuẩn y cho khoản tiền năm trăm nghìn ấy. Milly đã báo cho tôi biết là chị ấy rất tán thành, như vậy là hai người có hai phiếu thì ý kiến của tôi sẽ không có giá trị nữa.
    - Milly Preston đã tán thành rồi ư?
    - Rồi. Thế chị ấy chưa nói cho chị biết à?
    Anne không trả lời ngay.
    - Vậy ý kiến của riêng ông thế nào? ?" Anne nghĩ một lúc rồi hỏi.
    - Tôi thì tôi chưa biết những tài khoản của Henry thế nào, vì anh ta chỉ mới bắt đầu làm việc được mười tám tháng thôi, và anh ta cũng không giao dịch gì với ngân hàng chúng tôi cả. Vì vậy tôi không thể biết được thi chi của anh ta trong năm nay thế nào, và cũng không biết anh ta dự kiến trong năm 1923 sẽ thu về được bao nhiêu. Tôi chỉ biết anh ta xin làm hợp đồng xây dựng bệnh viện mới, và dư luận đồn là anh ta làm thật.
    - Ông quỹ trưởng của tôi bao giờ cũng cho tôi biết ngay mỗi khi có chuyện rút những món tiền lớn ở bất cứ tài khoản nào. Tôi không biết chị lấy tiền đó ra làm gì, vả lại đó không phải việc của tôi. Đó là tiền Richard để lại cho chị nên muốn tiêu như thế nào là tùy chị.
    - Còn chuyện lãi suất của tài sản ủy thác thì lại là chuyện khác. Nếu chị quyết định rút ra năm trăm nghìn để đầu tư vào cho công ty của Henry thì ngân hàng lúc đó sẽ có bổn phận phải kiểm soát sổ sách của Henry, vì đồng tiền lúc đó được coi như tiền đầu tư trong khuôn khổ tài sản William.Richard không cho những người được ủy thác cáiquyền cho vay, mà chỉ được đầu tư nhân danh William thôi. Tôi đã giải thích tình hình đó cho Henry biết. Nếu anh ta chịu đầu tư theo kiểu như vậy, thì những người được ủy thác sẽ quyết định về tỷ lệ lãi suất thích hợp cho công ty của Henry đối với khoản năm trăm nghìn. Cố nhiên William cũng phải được biết về chuyện chúng ta làm gì với những tiền đó, và cứ mỗi quý cũng phải được báo cáo của ngân hàng như mọi người được ủy thác. Riêng tôi thì tôi chắc chắn rằng sau khi nhận được báo cáo hàng sắp tới, William cũng sẽ có ý kiến riêng của cậu ta về vấn đề này.
    - Có lẽ chị cũng thấy lý thú nếu biết rằng kể từ khi cậu ta mười sáu tuổi, William thường vẫn gửi về ngân hàng cho chúng tôi những ý kiến về mỗi khoản đầu tư mà chúng tôi làm. Lúc đầu, tôi chỉ xem thoáng qua những ý kiến ấy thôi, nhưng gần đây tôi nghiên cứu kỹ thì thấy đó là những ý kiến cần được tôn trọng. Tôi nghĩ là sau này khi William có chân trong ban lãnh đạo thì cái ngân hàng Kane và Cabot này đối với cậu có thể quá nhỏ.
    - Trước nay tôi chưa từng được ai hỏi ý kiến về tài sản ủy thác của William là sao nhỉ, - Anne buồn bã nói.
    - Ôi, chị vẫn đọc những báo cáo của ngân hàng gửi đến vào ngày đầu của mỗi quý đấy chứ, và bây giờ chị cũng có quyền của người được ủy thác để chất vấn về tất cả những khuản đầu tư nào nhân danh William kia mà.
    Alan Lloyd rút trong túi ra một mảnh giấy nhưng không nói gì, chờ cho người hầu bàn rót rượu vang ?oNhững đêm St. Georges? vào cốc đã. Anh bước ra khỏi một quãng rồi Alan nói tiếp.
    - William có khoảng trên hai mươi mốt triệu tiền được ngân hàng đem đầu tư với lãi suất 4,5 phần trăm cho đến khi cậu ta đầy hai mươi mốt tuổi. Cứ mỗi quý chúng tôi lại đem lãi suất tái đầu tư vào chứng khoán và cổ phiếu. Trước nay chúng tôi chưa hề đầu tư vào các công ty tư nhân. Anne, chị sẽ ngạc nhiên nghe nói là bây giờ chúng tôi thực hiện tái đầu tư trên cơ sở mỗi bên quyết định một nửa, tức là năm mươi phần trăm theo ý kiến do William đưa ra. Hiện nay, chúng tôi phát triển hơn William một chút. Tony Simmons, giám đốc phụ trách đầu tư của ngân hàng, đang rất lấy làm khoái vì William hứa là cứ năm nào nếu anh ta vượt lên được cậu ta mười phần trăm là cậu ta sẽ mất cho một chiếc xe Rollss ?" Royce.
    - Nhưng nếu như William thua cuộc thì thử hỏi nó lấy đâu ra mười nghìn đôla trả cho chiếc xe Rolls ?" Royce ấy, vì nó không được phép đụng đến tiền ủy thác nếu chưa đến hai mươi mốt tuổi.
    - Tôi chịu không biết trả lời cho câu hỏi đó như thế nào, Anne. Tôi chỉ biết cậu ta rất hãnh diện đến thẳng chỗ chúng tôi rồi, và nếu như không thực hiện được thì cậu ta đã chẳng dám đánh cuộc như vậy. Chị đã có dịp nào xem cuốn sổ của cậu ta bao giờ chưa?
    - Cuốn sổ do các cụ tặng nó ấy ư?
    Alan Lloyd gật đầu.
    - Không, từ khi nó đi học xa tôi không xem đến nữa. Mà tôi cũng không biết có còn không.
    - Còn đấy, - ông Lloyd nói, - Tôi sẵn sàng mất một tháng lương nếu biết được hiện nay cậu ta gửi ngân hàng được bao nhiêu. Tôi chắc chị cũng biết hiện nay cậu ta gửi tiền vào ngân hàng Lester ở New York chứ không gửi chúng tôi nữa. Tôi cũng tin chắc rằng ở đó họ không có ngoại lệ gì cho cậu ta, dù biết đó là con của Richard Kane.
    - Con Richard Kane, - Anne nói.
    - Xin lỗi. Tôi không có ý muốn tỏ ra vô lễ đâu, Anne.
    - Không, không, rõ ràng nó là con của Richard Kane rồi. Ông biết không, ngay từ khi nó mười hai tuổi, nó đã không thèm hỏi tôi lấy một xu. - Chị ngừng lại. ?" Tôi nghĩ có lẽ tôi phải báo trước để ông biết rằng nếu nó nghe nói phải đầu tư năm trăm nghìn đôla ủy thác của nó vào công ty của Henry thì nó sẽ không sẵn sàng chấp nhận đâu.
    - Sao, hai người không hợp nhau à? ?" Alan nhíu lông mày hỏi.
    - Có lẽ không. ?" Anne đáp.
    - Thế thì đáng tiếc. Nếu William thực sự phản đối thì việc chuyển khoản sẽ rất phức tạp. Mặc dầu cậu ta không có quyền đối với những người được ủy thác trước khi đầy hai mươi mốt tuổi, nhưng chúng tôi cũng có những nguồn tin cho biết William tìm đến một luật sư để hỏi xem tư thế hợp pháp của cậu ta thế nào.
    - Trời ơi, - Anne thốt lên, - ông nói thật đấy chứ?
    - Vâng, tôi nói nghiêm túc đấy. Nhưng chị không có gì phải lo ngại hết. Nói thật ra, chúng tôi ở ngân hàng nghe nói thế cũng rất lạ, nhưng sau khi hiểu ra nguồn gốc việc điều tra này, thì chúng tôi cũng đã đánh tin cho họ biết là chúng tôi sẽ giữ kín. Rõ ràng là vì một lý do riêng nào đó, cậu ta không muốn trực tiếp hỏi chúng tôi.
    - Trời đất, - Anne lại nói, - không biết nó ba mươi tuổi thì rồi sẽ thế nào nữa.
    - Điều đó còn tùy, - Alan nói, - còn tùy ở chỗ cậu ta có may mắn để yêu được một người nào đáng yêu như chị hay không. Trước kia, sức mạnh của Richard cũng ở đó mà ra.
    - Alan, ông già mà khéo nịnh lắm nhé. Chúng ta có thể gác lại vấn đề năm trăm nghìn cho đến khi nào tôi nói chuyện với Henry được chăng?
    - Cố nhiên được chứ. Tôi đã bảo gặp chị là để xin mấy lời khuyên kia mà.
    Alan gọi cà phê và thân mật cầm lấy tay Anne.
    - Chị nhớ là phải cẩn thận với sức khỏe của mình đấy nhé. Chị còn quan trọng hơn nhiều so với số phận của mấy nghìn đôla đấy.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
    Được Amar sửa chữa / chuyển vào 23:30 ngày 09/08/2003
  7. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Về đến nhà, Anne lập tức thấy lo ngại về hai bức thư chị nhận được lúc sang. Sau khi đã nghe Alan Lloyd nói tất cả về đứa con mình, bây giờ chị thấy tốt hơn hết là đồng ý để William cùng đi nghỉ hè sắp tới với Matthew Lester.
    Cái khả năng Henry và Milly dan díu với nhau là một vấn đề mà chị thấy không dễ dàng tìm ra được giải pháp gì. Chị ngồi trong chiếc ghế da màu nâu, chiếc ghế mà xưa kia Richard rất thích, nhìn ra bên ngoài cửa sổ có một dải đất trồng những bông hồng trắng và đỏ, chỉ nghĩ ngợi mà như không nhìn thấy gì. Anne thường mất rất nhiều thời gian mới đi đến một quyết định gì, nhưng đã quyết định rồi thì chị không mấy khi đảo ngược lại nữa.
    Henry về nhà sơm hơn mọi tối và chị không thể không tự hỏi tại sao? Nhưng rồi chị hiểu ra ngay.
    - Anh nghe nói hôm nay em ăn trưa với Alan Lloyd phải không? ?" Anh ta vừa bước vào phòng ăn đã hỏi ngay.
    - Ai bảo anh thế, Henry?
    - Anh có gián điệp khắp nơi, - anh ta vừa nói vừa cười.
    - Đúng đấy, Alan mời em ăn trưa. Ông ấy muốn biết em nghĩ thế nào về việc cho phép ngân hàng đầu tư số tiền ủy thác năm trăm nghìn đôla của William vào công ty của anh.
    - Vậy em nói thế nào? ?" Henry hỏi lại, cố làm như không lo lắng gì.
    - Em bảo ông ấy là để bàn với anh xem đã. Nhưng tại sao anh không hề nói cho em biết là anh hỏi ngân hàng? Bây giờ em mới nghe Alan nói mà ngớ cả người ra.
    - Anh tưởng là em không quan tâm gì đến chuyện kinh doanh, và anh ngẫu nhiên mà biết được rằng em, Alan Lloyd và Milly Preston đều là những người được ủy thác và mỗi người được một phiếu về quyết định với tiền đầu tư của William.
    - Làm sao anh biết được, - Anne hỏi, - trong khi chính em không biết gì về chuyện đó?
    - Em yêu quý, em không đọc mấy bản tin nhỏ kia. Anh thì cũng mãi đến gần đây mới đọc. Và cũng ngẫu nhiên mà Milly Preston cho anh biết những chi tiết về chuyện ủy thác này. Không những cô ta là mẹ đỡ đầu của William mà còn là một người được ủy thác nữa. Cô ta cũng ngạc nhiên có người nói mới biết được. Bây giờ ta thử xem có thể chuyển tình thế sang chỗ có lợi cho mình được không. Milly nói nếu em đồng ý thì cô ta cũng ủng hộ anh.
    Chỉ nhắc đến tên Milly thôi cũng làm Anne thấy khó chịu.
    - Em không nghĩ là chúng ta phải đụng đến tiền của William, - chị nói. ?" Em chưa bao giờ trông vào cái tài sản ủy thác ấy cả. Cứ để mặc nó đấy cho ngân hàng tiếp tục tái đầu tư tiền lãi như trước nay họ vẫn làm là yên chuyện.
    - Tại sao lại có thể thỏa mãn với chương trình đầu tư của ngân hàng trong khi anh đang có cơ hội làm ăn với thành phố về hợp đồng xây dựng bệnh viện? William sẽ thu được khối tiền ở công ty của anh. Chắc là Alan cũng tán thành thế chứ?
    - Em không biết chắc ông ta nghĩ thế nào. Ông ta vẫn kín đáo như mọi khi, mặc dầu ông ta cũng bảo hợp đồng này rất có lợi và anh có thể có cơ hội làm ăn được.
    - Đúng thế đấy.
    - Nhưng ông ấy nói là cần phải xem sổ sách của anh trước khi đi đến kết luận dứt khoát. Ông ấy còn hỏi xem khoản năm trăm nghìn của em bây giờ đi đâu rồi.
    - Khoản năm trăm nghìn của chúng ta, em yêu quý ạ, tiến triển rất tốt, và rồi em sẽ thấy. Sáng mai anh sẽ gửi sổ sách sang cho Alan để ông ta đích thân kiểm tra. Có thể đảm bảo với em rằng ông ta sẽ có ấn tượng rất tốt.
    - Em cũng hy vọng thế Henry, vì lợi ích của cả hai chúng ta, - Anne nói. ?" Hãy để xem ý kiến của ông ta thế nào đã. Anh biết là trước nay em vẫn rất tin ở Alan.
    - Nhưng không tin anh, - Henry nói.
    - Ồ không Henry, em không có ý?
    - Anh đùa thế thôi. Anh chắc là em phải tin chồng mình chứ.
    Anne bỗng thấy trong người trào lên muốn khóc. Trước đây với Richard thì chị cố nén. Nhưng với Henry chị không cầm được nữa.
    - Em hy vọng là có thể tin được. Trước nay em không bao giờ phải lo đến tiền bạc, thế mà bây giờ thì lại phải bận tâm quá sức. Bụng mang dạ chửa thế này, em càng thấy mệt và chán nản quá.
    Thái độ của Henry nhanh chóng chuyển sang âu yếm.
    - Anh biết, em yêu quý. Và anh cũng không muốn em phải bận tâm gì về những chuyện kinh doanh làm ăn ấy. Anh thì bây giờ cũng có thể giải quyết được chuyện đó. Thôi, em nên đi nằm sớm đi, anh sẽ mang bữa tối lên cho em bằng một cái khay. Như vậy, anh có thể tranh thủ đến cơ quan chuẩn bị hồ sơ để sang mai gửi sang cho Alan xem.
    Anne nghe theo. Nhưng sau khi Henry đi rồi, chị dù mệt cũng chưa có ý muốn ngủ ngay. Chị còn ngôi trên giường đọc truyện của Sinclair Lewis (nhà văn, nhà soạn kịch kiêm nhà báo của Mỹ, đoạt giải Nobel về văn học năm 1930). Chị biết là Henry sẽ mất mười lăm phút để đi đến cơ quan. Chị chờ cho đủ hai mươi phút mớiquay điện thoại gọi đến đó. Chuông điện thoại reo mãi đến gần một phút vẫn không có ai trả lời.
    Hai mươi phút sau, Anne lại gọi lần nữa. Vẫn không có ai trả lời. Rồi hai mươi phút sau đó, chị lại gọi. Hoàn toàn không có ai. Câu nói của Henry lúc trước về chuyện tin cứ văng vẳng trong đầu chị một cách cay đắng.
    Mãi đến sau mười hai giờ đêm Henry mới về nhà. Anh ta giật mình thấy Anne vẫn còn ngồi trên giường và đang đọc truyện của Sinclair Lewis.
    - Em không phải thức chờ anh làm gì.
    Anh ta hôn chị nồng nhiệt. Anne thấy như ngửi thấy mùi nước hoa? hay chị quá nghi ngờ mà tưởng thế.
    - Anh phải ngồi lại lâu hơn dự kiến. Anh không thể tìm ra được hết những thứ giấy tờ Alan cần đến. Cái cô thư ký chết tiệt lại nhét giấy tờ vào hồ sơ mà bên ngoài viết chữ khác.
    - Ngồi một mình ở cơ quan vào giữa đêm như thế thì thật là buồn. ?" Anne nói.
    - Ồ, nếu có việc gì làm thì cũng không đến nỗi nào, - Henry nói và trèo ngay lên giường nằm sát vào lưng Anne, - Ít ra cũng có cái hay là làm được rất nhiều việc mà không bị điện thoại gọi đến lien tục khiến mình phải bỏ dở giữa chừng.
    Mấy phút sau anh ta ngủ luôn. Còn Anne vẫn thức. Bây giờ chị quyết tâm thực hiện quyết định hồi chiều của chị.
    Sáng hôm sau, ăn sang xong rồi và Henry đã đi làm việc. Anne không còn biết chắc là Henry đi làm hay đi đâu nữa. Chị ngồi đọc tờ báo Toàn cầu của Boston và để ý tìm trong những chỗ quảng cáo nhỏ. Rồi chị nhấc điện thoại lên hẹn đến một nơi ở phía Nam Boston trước mười hai giờ trưa. Đến đây, Anne kinh ngạc thấy những nhà cửa ở nơi này rất bẩn. Chị chưa từng đặt chân đến khu miền Nam của thành phố này bao giờ. Nếu như bình thường không có chuyện gì thì có lẽ cả đời chị không biết là trong thành phố có những chỗ nào thế này.
    Qua chiếc cầu thang bằng gỗ vứt đầy những que diêm, đầu mẩu thuốc lá và những thứ rác rưởi khác, chị đến trước một cái cửa phía trên có biển đề một hàng chữ to: GLEN RICARDO, và bên dưới đó là THÁM TỬ TƯ (CÓ ĐĂNG KÝ TẠI TÒA ÁN BANG MASSACHUSETTS). Anne khẽ gõ cửa.
    - Mời vào, cửa mở đấy, - một giọng nói ồm ồm ở bên trong vang ra.
    Anne bước vào. Người đàn ông ngồi đằng sau bàn giấy, hai chân gác lên mặt bàn, tay đang cầm xem một thứ gì đó như tạp chí dành cho con gái. Anh ta ngậm điếu xì gà ở đầu môi như sắp rơi ra ngoài. Anh ta ngước lên nhìn thấy Anne. Lần đầu tiên anh thấy một người mặc áo lông sang trọng bước vào bàn giấy này.
    Anh ta vội đứng dậy chào.
    - Tên tôi là Glen Ricardo. ?" Anh ta nghiêng người ra phía trước bàn và giơ ra một bàn tay lông lá vàng khè vì thuốc lá. Anne bắt tay bụng lấy làm may mình đeo găng.
    - Bà có hẹn đấy chứ? ?" Ricardo hỏi theo thói quen và không cần biết là khách có hẹn hay không. Trông thấy chiếc áo lông sang trọng thế là anh ta thấy mình đã phải sẵn sang tiếp rồi.
    - Tôi đã hẹn trước rồi.
    - A, vậy ra là bà Osborne. Để tôi cởi chiếc áo khoác cho bà nhé?
    - Tôi vẫn khoác áo được chứ, - Anne nói, vì nghĩ cởi ra thì không biết Ricardo treo nó vào đâu hay chỉ vứt trên sàn.
    - Dạ được, tất nhiên, tất nhiên.
    Anne kín đáo nhìn Ricardo trong khi anh ta ngồi xuống châm một điếu xì gà khác. Chị không quan tâm đến bộ quần áo màu xanh sáng hoặc chiếc ca vát sặc sỡ hoặc mớ tóc đầy bóng nhẫy của anh ta. Chị chỉ hơi ngại không biết mình có nên ngồi ở chỗ khác hơn là ở đây không.
    - Nào, bà có vấn đề gì? ?" Ricardo vừa nói vừa gọt chiếc bút chì đã ngắn ngủn bằng một lưỡi dao cùn. Những mảnh gọt bắn vung vãi khắp nơi mà không vào sọt rác.- Bà mất chó, vàng bạc, hay chồng?
    - Trước hết, ông Ricardo, tôi muốn được ông đảm bảo là hoàn toàn giữ kín, - Anne nói.
    - Vâng, tất nhiên, tất nhiên, điều đó nhất định là như thế rồi, - Richard nói và vẫn gọt bút chì, không nhìn lên.
    - Dù sao tôi cũng phải nói trước như vậy.
    - Vâng, tất nhiên, tất nhiên.
    Anne nghĩ bụng nếu anh còn nói ?otất nhiên? nữa, chị sẽ phải kêu to lên cho anh ta thấy. Chị hít một hơi thở dài.
    - Tôi nhận được một số thư nặc danh nói chồng tôi đang có chuyện dan díu với một người bạn thân của tôi. Tôi muốn biết ai là người đã gửi những bức thư đó, và những lời buộc tội ấy có thật hay không.
    Lần đâu tiên nói ra được những cảm giác lo sợ ấy, Anne thấy nhẹ người. Ricardo nhìn chị một cách thản nhiên, coi như anh ta được nghe những chuyện này không phải một lần. Anh ta giơ tay lên vuốt mớ tóc đen và dài.
    - Rồi, - anh ta nói. ?" Ông chồng thì dễ thôi. Nhưng ai gửi những bức thư đó mới là chuyện khó. Tất nhiên bà vẫn giữ những bức thư đó chứ?
    - Tôi chỉ giữ bức mới đây nhất, - Anne nói.
    Glen Ricardo buông một tiếng thở dài và chìa tay ra phía trước bàn. Anne ngần ngại lấy bức thư trong ví ra chưa đưa vội.
    - Tôi biết là bà đang nghĩ gì, thưa bà Osborne. Nhưng tôi không thể làm việc này nếu có một tay bị trói phía sau.
    - Tất nhiên, ông Ricardo, xin lỗi ông.
    Anne không ngờ là chính mình cũng nói ?otất nhiên?. Ricardo đọc đi đọc lại bức thư ba lần rồi nói:
    - Tất cả những bức thư kia đều đánh trên một loại giấy này và gửi trong cùng một phong bì như thế này chứ?
    - Vâng, có lẽ là như thế, - Anne nói. ?" Tôi nhớ là như thế.
    - Vậy nếu nhận được bức thư sau, xin bà...
    - Ông tin chắc là sẽ có thư nữa ư? ?" Anne ngắt lời.
    - Tất nhiên. Xin bà cứ giữ cho. Bây giờ, xin bà cho biết những chi tiết về chồng bà. Bà có tấm ảnh đó không ạ?
    - Vâng có. - Một lần nữa chị lại ngập ngừng.
    - Tôi chỉ muốn nhìn qua khuôn mặt, để khỏi phải mất thì giờ chạy theo người khác, có phải thế không ạ? ?" Ricardo nói.
    Anne lại mở ví lấy đưa anh ta xem bức ảnh đã sờn cạnh chụp Henry trong bộ quân phục trung úy.
    - Ông Osborne trông đẹp trai đấy, - nhà thám tử nói. - Tấm ảnh này chụp bây giờ ạ?
    - Có lẽ cách đây chừng năm năm, - Anne nói. - Hồi ông ta ở trong quân đội thì tôi chưa quen.
    Ricardo hỏi Anne thêm vài phút nữa về những họat động đi lại hàng ngày của Henry. Chị ngạc nhiên, đến bây giờ mới nhận ra là mình hiểu biết rất ít về quá khứ và những gì là thói quen của Henry.
    - Như thế thì không có gì nhiều lắm để giúp cho công việc của tôi được, thưa bà Osborne, nhưng tôi sẽ cố gắng hết sức. Tiền chi phía cho việc này, chúng tôi tính mỗi ngày mười đôla cộng với những khoản phục vụ cho công việc. Chúng tôi sẽ có báo cáo viết gửi đến cho bà mỗi tuần một lần. Xin bà trả trước cho hai tuần. ?" Anh ta chìa tay ra phía trước bàn một cách rất tự nhiên.
    Anne mở ví lấy ra hai tờ 100 đôla đưa cho Ricardo. Anh ta nhìn kỹ những tờ bạc như không biết là có nhân vật nào nổi danh của nước Mỹ được in trên đó. Benjamin Franklin trừng trừng nhìn vào Ricardo, rõ ràng là đã lâu nay anh không được ?onhìn thấy? con người vĩ đại ấy. Ricardo trả lại cho Anne 60 đôla bằng những tờ bạc năm đô la nhàu và bẩn.
    - Thế là ông làm việc cả những ngày chủ nhật, phải không ạ, - Anne tính nhẩm trong đầu và hỏi anh ta thế.
    - Tất nhiên, - anh ta đáp. ?" Cũng ngày này tuần sau tính từ thứ năm có được không, thưa bà Osborne?
    - Tất nhiên, - Anne đáp và vội bỏ đi ngay để khỏi phải bắt tay người đàn ông ngồi sau bàn giấy đó.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  8. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Khi William đọc báo cáo hàng quý của ngân hàng Kane và Cabot thấy nói Henry Osborne (?oHừ - Henry Osborne?... Anh mở miệng nhắc to cái tên ấy để tự nhủ là mình có thể tin được chuyện đó) yêu cầu 500000 để đầu tư riêng, anh bỗng thấy ngày hôm đó rất xúi quẩy. Lần đầu tiên sau bốn năm học ở St. Paul, anh bị đứng thứ nhì về toán. Matthew Lester là người thắng anh, đã hỏi xem có phải anh ốm không.
    Tối hôm đó, William gọi điện thoại về nhà Alan Lloyd. Ông chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot không lấy làm ngạc nhiên khi anh gọi đến, vì ông ta được nghe Anne nói về quan hệ không vui vẻ giữa con trai chị với Henry.
    - Chào cậu William, cậu khỏe không, tình hình ở St. Paul thế nào?
    - Cảm ơn ông, mọi thứ ở đây đều tốt đẹp, nhưng tôi gọi điện là về chuyện khác.
    Cậu ta khôn khéo thật, Alan nghĩ bụng.
    - Ồ, vậy à. Tôi giúp cậu được việc gì đây? ?" ông bình tĩnh nói.
    - Tôi muốn gặp vào chiều mai. Vâng, chỉ có ngày đó tôi mới ra khỏi trường được. Tôi xin gặp ông bất cứ lúc nào và ở đâu cũng được. ?" William nói như kiểu về phía anh có sự nhân nhượng. - Dù thế nào xin ông cũng đừng cho mẹ tôi biết là tôi có gặp ông.
    - William, thế này nhé... ?" Alan Lloyd bắt đầu.
    Giọng William bỗng cứng rắn hơn.
    - Có lẽ cũng không cần phải nhắc để ông nhớ rằng cái khoản đầu tư tiền ủy thác cho ông bố dượng của tôi ấy, tuy không hẳn là bất hợp pháp, nhưng rõ ràng có thể coi là vô lương tâm.
    Alan Lloyd lặng yên một lát. Ông tự hỏi không biết có nên xoa dịu anh chàng này hay không. Trước đây, ông đã có lúc nghĩ phải quở trách cho anh ta một trận, nhưng bây giờ thì điều đó không còn thích hợp nữa.
    - Được thôi, William. Cậu có thể đến cùng ăn trưa với tôi ở câu lạc bộ Hunt vào lúc một giờ được chứ?
    - Vâng, tôi sẽ xin gặp ông ở đó.
    Điện thoại đã bỏ xuống.
    Ít ra thì cuộc gặp đó cũng tiến hành trên đất nhà mình, Alan Lloyd nghĩ bụng và đặt ống nói xuống. Ông cũng rủa thầm hãng của Bell đã chết tạo ra cái máy điện thoại chết tiệt này.
    Alan đã chọn câu lạc bộ Hunt vì ông cho rằng gặp ở đây không có vẻ riêng tư gì lắm. Điều đầu tiên William có thể yêu cầu khi đến đây là sau khi ăn trưa sẽ được chơi một chầu gôn.
    - Thế thì tốt lắm, - Alan nói, và đặt ngay một chỗ chơi gôn vào lúc ba giờ.
    Ông ngạc nhiên thấy trong suốt cả bữa ăn William không hề đả động gì đến đề nghị của Henry Osborne. Trái lại, anh toàn nói một cách rất khó hiểu biết về những quan điểm của Tổng thống Hanrding về cải cách giá cả, về sự bất lực của Charles G. Dawes với tư cách là Giám đốc Ngân khố. Alan tự hỏi không biết có phải William đã nghĩ lại và đã thay đổi ý kiến về việc Henry Osborne vay tiền hay không? Có phải cậu ta đã quyết định để cho xong cuộc gặp này đi mà không nhắc gì đến nữa chăng? Alan nghĩ bụng, thôi được, nếu cậu ta muốn thế thì ông cũng chả quan tâm. Ông muốn cho buổi chiều đánh gôn trôi đi vui vẻ, không có chuyện gì nữa. Sau bữa ăn thú vị và đã uống một chầu rượu vang, William chỉ xin uống một cốc thôi, họ vào trong nhà câu lạc bộ thay quần áo rồi ra sân gôn.
    - Ông vẫn còn kiêng con số chín chứ ạ? ?" William hỏi.
    - Còn., nhưng sao?
    - Mỗi lỗ gôn mười đôla, ông xem như thế có được không?
    Alan Lloyd ngập ngừng, chợt nhớ ra gôn là một trong môn William chơi rất giỏi.
    - Được, đồng ý.
    Trong khi chơi lỗ đầu, không ai nói gì. Alan cố đánh được bốn, William được năm. Alan thắng cả trận thứ hai và thứ ba. Ông cảm thấy yên tâm hơn. Đến trận thứ tư thì hai người đã cách xa nhà câu lạc bộ đến nửa dặm. William chờ Alan nâng cây gậy lên rồi anh mới nói.
    - Trong bất cứ điều kiện nào ông cũng không được đem năm trăm nghìn đôla của quỹ ủy thác cho bất cứ công ty nào hay cá nhân nào liên quan đến Henry Osborne vay mượn.,
    Alan đánh một nhát cho quả bóng gôn văng đi rất xa, cốt để ông tách khỏi William một quãng và suy nghĩ xem sẽ trả lời anh như thế nào. Sau ba lần đánh nữa, họ cùng trở về bãi cỏ xanh, và Alan đành chịu thua không đưa được bóng vào lỗ.
    - William, anh biết rằng tôi chỉ có một phiếu trong ba người ủy thác, và anh cũng cần biết rằng anh không có quyền gì đối với những quyết định liên quan đến ủy thác, vì anh chưa đến hai mươi mốt tuổi thì cũng chưa tự mình có quyền gì được đối với số tiền ấy. Ngoài ra, anh cũng nên biết là chúng tôi không thể thảo luận vấn đề này ở đây.
    - Tôi hoàn toàn hiểu rõ những ý nghĩa pháp lý của nó, thưa ông, nhưng vì cả hai người được ủy thác kia đều ngủ với Henry Osborne thì?
    Alan Lloyd tỏ ra sững sờ.
    - Chả có lý ông là người duy nhất ở Boston không biết rằng Milly Preston đang có chuyện dan díu với ông bố dượng của tôi?
    Alan Lloyd không nói gì. William tiếp:
    - Tôi muốn được biết rằng ông sẽ bỏ phiếu chống cũng như ông sẽ làm hết sức mình để khuyên mẹ tôi chống lại chuyện vay mượn này, dù cho ông có phải cắn răng mà nói cho mẹ tôi biết sự thật về chuyện Milly Preston.
    Alan lại đánh một nhát gôn rất dở nữa. Quả bóng sau đó văng cả vào bụi cây. Ông tức mình chửi thề một câu thật to, có lẽ đó là câu đầu tiên ông nói từ bốn mươi ba năm nay.
    - Đòi hỏi như thế thì hơi quá nhiều đây, - Alan nói khi họ đánh đến quả thứ năm.
    - Điều đó chẳng là gì đâu so với những gì tôi sẽ làm nếu như tôi không tin chắc được ở sự ủng hộ của ông, thưa ông.
    - William, trước đây cha anh không bao giờ tán thành những sự đe dọa như thế, - Alan nói và nhìn quả bóng của William chui xuống lỗ cách đó hơn chục thước.
    - Điều duy nhất mà cha tôi không tán thành có lẽ là Osborne, - William trả lời lại.
    Alan loạc choạc với quả bóng.
    - Dù sao, thưa ông, ông cũng rất biết rằng cha tôi đã có một điều khoản trong di chúc nói rằng tiền đầu tư của quỹ ủy thác sẽ là chuyện nội bộ gia đình mà người được hưởng nó không được quyền biết rằng tiền ấy có dính đến gia đình Kane. Đây cũng là một nguyên tắc mà trong đời làm ngân hàng cha tôi không bao giờ vi phạm. Như vậy, cha tôi có thể luôn luôn yên tâm là không có xung đột giữa một bên là tiền đầu tư của ngân hàng với một bên là tiền ủy thác của gia đình.
    - Có lẽ mẹ anh cho là người trong gia đình thì có thể phá được nguyên tắc ấy chăng.
    - Henry Osborne không phải là người trong gia đình tôi. Đến khi tôi làm chủ cái quỹ này, tôi cũng vẫn giữ nguyên tắc như cha tôi trước kia, không bao giờ phá bỏ.
    - William, rồi anh sẽ phải ân hận về chuyện cứng nhắc ấy.
    - Không đâu, thưa ông.
    - Anh nên suy nghĩ thêm xem, nếu biết về chuyện Milly thì mẹ anh sẽ có thể phản ứng như thế nào, - Alan nói thêm.
    - Mẹ tôi đã mất năm trăm ngàn đôla tiền riêng của bà ấy rồi. Với một anh chồng như thế chưa đủ sao? Chẳng lẽ có để mất thêm năm trăm nghìn của tôi vào đó nữa ư?
    - Chả cả lý nào mất được, William. Đầu tư còn có thể đem lại khá nhiều lợi tức. Mà tôi cũng chưa có dịp nào xem kỹ sổ sách của Henry đấy.
    William hơi khó chịu khi thấy Alan Lloyd nói đến tên của Henry một cách thân mật.
    - Tôi có thể cam đoan với ông rằng hầu như ông ta đã vét sạch đến từng đồng xu của mẹ tôi. Nói đúng ra, ông ta chỉ còn có ba mươi ba ngàn bốn trăm mười hai đôla thôi. Tôi đề nghị ông xem rất kỹ những sổ sách của ông Osborne cũng như thẩm tra một chút về quá khứ cùng những bạn bè và chuyện làm ăn của ông ta trước đây. Đó là chưa kể ông ta cờ bạc ghê gớm nữa.
    Từ quả gôn thứ tám, Alan đánh văng nó xuống hồ trước mặt. Đó là điều không thể có được, vì ngay đến phụ nữ mới tập chơi cũng không đánh như thế.
    Ông lại thua.
    - Anh làm sao có được những thông tin như vậy về Henry? ?" Alan hỏi, và đoán rằng đó hẳn là văn phòng của Thomas Cohen cung cấp.
    - Tôi xin không nói ra, thưa ông.
    Alan nghĩ bụng hãy cứ biết thế đã, ông tính điều này cũng có lợi ở chỗ ông sẽ biết cách sau này làm ăn với William.
    - Nếu tất cả những điều anh nói là chính xác thì cố nhiên tôi sẽ phải khuyên mẹ anh chớ có đầu tư gì vào cho Henry, và riêng tôi cũng phải có bổn phận nói công khai những điều đó ra với Henry chứ.
    - Vâng, xin ông cứ thế cho.
    Alan đánh một nhát nữa khá hơn, nhưng ông cảm thấy mình không thể thắng được.
    William tiếp tục.
    - Chắc ông cũng muốn biết thêm rằng Osborne cần số tiền năm trăm nghìn đôla ở quỹ ủy thác của tôi đó không phải là để ký hợp đồng xây dựng bệnh viện đâu, mà là để thanh toàn món nợ đã mắc từ lâu ở Chicago. Tôi đoán chắc là ông chưa được biết điều này, thưa ông?
    Alan không nói gì. Đúng là ông không biết đến chuyện ấy. Ván này William lại thắng.
    Đánh đến ván cuối, Alan hỏi:
    - Anh không để cho tôi được quả nào nữa hay sao? ?" Ông cười rồi tì tay lên cây gậy.
    - Osborne sẽ không có được hợp đồng xây dựng bệnh viện đâu, thưa ông. Nghe nói ông ta hối lộ những quan chức cấp dưới trong tòa thị chính. Người ta sẽ không công khai đưa chuyện này ra, nhưng để trách những phức tạp về sau, người ta đã xóa bỏ công ty của ông ta trong danh sách cuối cùng rồi. Hợp đồng ấy sẽ cho công ty Kirkbride và Carter nhận. Tin này, thưa ông, là rất mật đấy. Ngay cả đến công ty Kirkbride và Carter cũng chưa được biết tin này mà phải một tuần sau thứ năm tới cơ, vì vậy mong ông giữ kín cho chuyện đó.
    Alan lại đánh chệch. William đưa quả bóng của mình vào lỗ rồi bước đến bắt tay ông chủ tịch một cách nồng nhiệt.
    - Xin cám ơn ông đã cùng chơi. Như vậy là ông mất chín chục đôla rồi đấy.
    Alan rút ví ra tờ bạc một trăm đôla.
    - William tôi nghĩ có lẽ đã đến lúc anh đừng ?othưa ông? với tôi nữa. Tên tôi là Alan, anh cứ thế mà gọi.
    - Cảm ơn Alan. ?" William đưa lại cho ông ta mười đôla.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  9. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Sáng hôm thứ hai, Alan Lloyd đến ngân hàng và thấy mình có nhiều việc phải làm hơn là trước khi gặp William. Ông lập tức cho năm bộ phận của ngân hàng tiến hành ngay những cuộc điều tra xem những lời William nói chính xác đến mức nào. Ông sợ rằng những cuộc điều tra kia sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến nội bộ nên dặn mỗi bộ phận chỉ được biết đến phần mình thôi, và bắt họ phải báo cáo trực tiếp cho chủ tịch, ngoài ra không ai được biết đến.
    Đến sáng thứ tư, trên bàn giấy của ông đã có năm bản báo cáo sơ bộ. Hình như tất cả đều khớp với những điều William nói, mặc dầu mỗi người đều xin có thời gian thêm để kiểm tra lại chi tiết. Alan quyết định nếu chưa có thêm chứng cớ cụ thể thì chưa nói gì cho Anne biết. Trong khi chờ đợi, ông tính chỉ nên tranh thủ đến dự bữa tiệc đứng do vợ chồng Osborne mời và ông sẽ khuyên Anne nên từ từ, chưa quyết định ngay về chuyện cho vay kia.
    Lúc đến dự bữa tối hôm đó, Alan lấy làm lo ngại thấy Anne rất bải hoải mệt mỏi, vả lại phân vân, không biết sẽ nói thế nào. Ông chờ mãi mới có một vài phút đứng riêng với chị. Ông nghĩ bụng giá bây giờ Anne không có mang thì tốt bao nhiêu.
    Anne quay lại nhìn ông mỉm cười.
    - Alan, ông bận việc ở ngân hàng thế mà cũng cố đến được, thật là quý hóa quá.
    - Tôi không thể vắng mặt ở bất cứ cuộc chiêu đãi nào của chị. Nó vẫn còn những hương vị Boston.
    - Ông nói quá đấy. - Chị cười.
    - Anne này, nhân đây tôi hỏi chị đã có lúc này nghĩ thêm về chuyện cho vay tiền kia chưa?
    - Không, tôi chưa nghĩ gì được. Tôi còn đang bù đầu về những chuyện khác. À thế ông xem sổ sách của Henry thế nào?
    - Chỉ có số liệu của một năm thôi, vì vậy tôi phải cho kế toán kiểm tra thêm. Theo lệ thường thì phải xem các hoạt động trong ba năm liền mới được. Tôi chắc Henry cũng hiểu và đồng ý với chúng tôi như vậy.
    - Anne, bữa ăn thật tuyệt, - một giọng nói khá to bỗng vàng lên phía sau Alan. Ông không nhận ra đó là ai, có lẽ là một bạn chính khách nào đó của Henry.
    - Thế nào, bà mẹ tương lai nhỏ bé có khỏe không? - giọng nói hỏi tiếp.
    Alan lách ra chỗ khác. Nhưthế là ông cũng tranh thủ nói được một đôi câu cho ngân hàng rồi. Ở cuộc chiêu đãi này có khá nhiều chính khách, cả của tòa thị chính cũng như có một đôi vợ chồng đại biểu Quốc hội. Alan chợt nghĩ có lẽ William nói sai về chuyện hợp đồng kia chăng. Nhưng ngân hàng chả phải điều tra về chuyện này làm gì nữa, vì tuần sau Tòa thị chính sẽ chính thức công bố. Ông từ biệt vợ chồng nhà chủ và ra về.
    - Ngày này tuần sau nhé, - ông nói to, rồi đi bộ dọc phố Chesnut về nhà.
    Trong buổi chiêu đãi, Anne để ý nhìn Henry mỗi khi anh ta gần Milly Preston. Chị thấy rõ ràng là giữa hai người không có dấu hiệu gì cả. Thật ra, phần lớn thời gin chỉ thấy Henry đứng với John Preston thôi. Anne bắt đầu tự hỏi hay là mình đã nghĩ sai về chồng mình. Chị tính có lẽ phải hủy bỏ cuộc hẹn với Glen Ricardo vào hôm sau. Buổi chiêu đãi kéo dài đến hơn hai tiếng ngoài dự tính. Chị đoán tất cả các khách mời đều hài lòng với bữa tiệc chiều nay.
    - Chiêu đãi tốt lắm, Anne. Cảm ơn chị đã mời chúng tôi. ?" Cái giọng to lúc nãy lại lên tiếng, và là người cuối cùng ra về. Anne không nhớ được tên ông ta, chỉ biết là người của Tòa thị chính. Ông ta đi khuất sau đường xe.
    Anne loạng choạng đi lên gác. Chị cởi áo trước khi về đến phòng, trong bụng nghĩ từ nay đến ngày đẻ còn mười tuần nữa thôi và sẽ không tổ chức chiêu đãi gì nữa hết.
    Henry cũng đã cởi quần áo rồi.
    - Em có nói được gì với Alan không, em yêu quý?
    - Có, có nói, - Anne đáp, - Ông ta bảo sổ sách không có vấn đề gì, nhưng vì chỉ có số liệu một năm thôi nên ông ta phải cho kế toán đi kiểm tra lại một lần nữa. Đó là chính sách bình thường của ngân hàng thôi.
    - Chính sách bình thường chết tiệt gì đâu. Em không thấy là đằn sau chuyện đó có William ư? Nó đang tìm cách chặn đứng vụ cho vay này đấy, Anne.
    - Sao anh lại nói thế. Alan có nhắc gì đến William đâu.
    - Ông ta không nói ư? ?" Henry cao giọng. ?" Ông ta cũng không thèm nhắc đến chuyện William cùng ăn trưa với ông ta hôm chủ nhật ở câu lạc bộ đánh gôn, còn chúng ta thì ngồi không ở nhà này.
    - Sao? ?" Anne nói. ?" Không thể có chuyện ấy. William không bao giờ về Boston mà lại không về nhà gặp em. Chắc anh lầm thế nào đó, Henry.
    - Em ơi, có đến nửa thành phố này đến đó, và anh cũng không thể tưởng tượng William có thể đi năm chục dặm chỉ để đến đánh gôn với Alan Lloyd mà thôi. Anne, em nghe đây, anh cần có món tiền vay ấy, nếu không anh không thể giành được hợp đồng ký với thành phố. Đến một lúc nào đó, thậm chí ngay bây giờ, em phải quyết định xem em tin ở William hay ở anh. Tính từ ngày mai thì một tuần nữa là anh phải có món tiền ấy. Chỉ còn tám ngày nữa thôi, nếu anh không chứng minh cho Tòa thị chính thấy là anh có khoản tiền ấy thì họ không coi là anh có giá trị gì nữa. Mà như vậy chỉ vì William không tán thành việc em muốn lấy anh. Anne, ngày mai em gọi cho Alan bảo ông ta chuyển tiền cho anh được không?
    Giọng hằn học của anh ta như đập vào đầu Anne khiến chị cảm thấy choáng váng.
    - Không, Henry ngày mai chưa được đâu. Để đến thứ sáu được không? Ngày mai em còn bận.
    Henry bình tĩnh lại rồi bước đến bên chị lúc đó đã cởi quần áo và đang đứng trước gương. Anh ta đưa tay xoa bụng vợ và nói.
    - Anh muốn cho đứa con này cũng có được cái may mắn như William vậy.
    Hôm sau Anne tự nhủ đến hàng trăm lần là sẽ không đi gặp Glen Ricardo nữa, nhưng đến gần mười hai giờ chị lại nhảy lên một chiếc taxi để đi đến đó. Chị bước lên cầu thang gỗ cọt kẹt, trong bụng ngần ngại không muốn biết đến gì mình sắp được nghe. Bây giờ quay ra cũng còn kịp. Chị ngập ngừng, rồi đưa tay lên gõ cửa.
    - Mời vào.
    Chị mở cửa.
    - A, bà Osborne, rất mừng gặp lại bà. Mời bà ngồi.
    Anne ngồi xuống và hai người nhìn nhau.
    - Có lẽ tin tức cho bà không hay lắm, - Glen Ricardo nói, đưa ngón tay lên vuốt mớ tóc đen dài.
    Anne sững người. Chị cảm thấy như muốn ốm.
    - Trong bảy ngày qua không thấy ông Osborne đi đâu với bà Preston hay bất cứ người đàn bà nào khác.
    - Nhưng ông báo tin tức không hay kia mà, - Anne nói.
    - Tất nhiên, thưa bà Osborne, tôi cứ nghĩ rằng bà tìm cớ để ly dị. Những bà vợ giận chồng thì đâu có tìm đến tôi để tôi chứng minh cho họ thấy là chồng họ vô tội.
    - Ồ, không, không, - Anne nói, cảm thấy nhẹ người. ?" Đã nhiều tuần nay bây giờ mới lại có tin hay thế.
    - À thế thì tôi, - ông Ricardo hơi lấy làm ngạc nhiên. - Vậy ta hy vọng tuần thứ hai cũng không thấy được gì hơn.
    - Ồ, ông có thể chấm dứt cuộc điều tra đi được rồi, ông Ricardo. Tôi chắc là tuần sau nữa ông cũng chẳng tìm thấy gì khác.
    - Như vậy không phải là khôn ngoan lắm, thưa bà Osborne. Chỉ một tuần sau nữa ông cũng sẽ không tim ra được gì hơn đâu.
    - Dù sao thì bà cũng đã trả tiền cho hai tuần rồi, - Glen Ricardo nói tiếp và lại rút điếu xì gà của anh ta, trông có vẻ to hơn và dễ ngửi hơn thứ xì gà anh ta hút tuần trước.
    - Còn về những bức thư thì thế nào? ?" Anne chợt nhớ ra và hỏi. ?" Tôi đoán là của một người nào ghen ghét gì với những thành tích của ông chồng tôi chăng.
    - Như tôi đã nói với bà tuần trước, thưa bà Osborne, tìm ra tác giả những bức thư nặc danh thì không phải là chuyện dễ. Tuy nhiên, chúng tôi cũng đã biết được cửa hàng họ mua thứ giấy viết và phong bì này. Loại giấy này đặc biệt, không như mọi thứ thường dùng, tuy vậy bao giờ tôi chưa thể nói gì thêm về chuyện đó. Có thể ngày này tuần sau tôi sẽ biết được rõ hơn. Mấy ngày vừa qua bà có nhận được thêm lá thư nào nữa không?
    - Không, tôi không nhận được.
    - Tốt. Thế thì mọi thứ có vẻ đã sắp rõ ràng rồi. Chúng ta hy vọng vào thứ năm tuần sau gặp lại sẽ là lần cuối.
    - Vâng, - Anne vui vẻ đáp. ?" Tôi cũng hy vọng thế. Để tuần sau tôi thanh toán nốt cho ông các khoản chi khác, được không?
    - Tất nhiên, tất nhiên.
    Anne gần như đã quên đi cái câu đó, nhưng lần này chị chỉ cười. Trên đường ngồi xe về nhà, chị quyết định là Henry phải có số tiền 500 ngàn đôla ấy, và phải cho William cũng như Alan thấy là họ nhầm. Chị vẫn còn đang băn khoăn với việc William về qua Boston mà không báo cho chị biết. Có lẽ điều Henry nói William đang ngấm ngầm hoạt động đó là đúng chăng.
    Henry rất sung sướng thấy Anne đêm đó nói là chị đã quyết định về chuyện cho anh ta vay số tiền kia, và bảo anh ta chuẩn bị giấy tờ để sáng hôm sau chị ký vào đó. Lúc ký vào giấy tờ, chị không thể không nghĩ ngợi vì thấy nó đã được chuẩn bị từ lâu và đã có sẵn chữ ký của Milly Preston trên đó rồi. Nhưng chị lại tự nhiên tự hỏi có lẽ mình quá nghi ngờ chăng? Chị vội xua đuổi ý nghĩ ấy đi và hạ bút ký.
    Sáng hôm sau đó, khi Alan Lloyd gọi điện thoại đến thì chị đã chuẩn bị tư tưởng đầy đủ rồi.
    - Anne, chị hãy khoan cho đến thứ năm đã. Đến hôm đó chúng ta sẽ biết ai là người được ký hợp đồng xây bệnh viện.
    - Không, Alan, tôi đã quyết định rồi. Henry cần có tiền ngay bây giờ. Anh ấy phải chứng mình cho Tòa thị chính là tài chính anh ấy đủ điều kiện để thực hiện hợp đồng, vả lại bây giờ đã có hai chữ ký của những người được ủy thác nên ông không còn phải lo trách nhiệm nữa.
    - Ngân hàng vẫn có thể đảm bảo cho Henry được mà không cần phải chuyển tiền. Tôi chắc Tòa thị chính sẽ có thể chấp nhận điều đó. Dù sao thì tôi cũng chưa có thì giờ kiểm tra lại tài khoản công ty của anh ấy.
    - Nhưng ông lại có thì giờ đi ăn trưa với William hôm chủ nhật trước đây một tuần mà cũng không báo cho tôi biết nữa.
    Đầu dây đằng kia im lặng một lát.
    - Anne tôi?
    - Ông đừng bảo là không có dịp báo. Ông đến dự chiêu đãi tối hôm thứ tư và đáng lẽ là ông đã phải báo cho biết rồi. Nhưng ông cố tình không nhắc đến, và bây giờ ông lại có thì giờ khuyên tôi nên hoãn quyết định cho Henry vay tiền.
    - Alan, tôi rất tiếc. Tôi hiểu được là chuyện đó có thể rắc rối như thế nào và tại sao chị thất vọng, nhưng nó thực sự có một lý do đấy, chị hãy tin như vậy. Tôi đến gặp chị và giải thích tất cả cho chị nghe được không?
    - Không, Alan, không được đâu. Các người xúm lại chống chồng tôi. Không ai trong các người cho anh ấy được có cơ hội chứng minh bản thân mình. Vậy thì để tôi cho anh ấy có cơ hội chứ.
    Anne bỏ máy xuống, trong bụng hài lòng với mình, cảm thấy như thế là mình đã trung thành với Henry, và chuộc cái lỗi trước đây đã nghi ngờ chồng.
    Alan Lloyd gọi lại, nhưng Anne dặn cô hầu trả lời là chị đi vắng suốt ngày. Đêm đó Henry về nhà rất phấn khởi được nghe Anne kể lại đã nói với Alan như thế nào.
    - Như thế là mọi thứ sẽ cực kỳ hay, em yêu ạ. Rồi em xem. Sáng thứ năm anh sẽ được người ta cho ký hợp đồng. Lúc đó em có thể hòa giải với Alan. Nhưng từ nay đến hôm đó thì em hãy cứ trách đừng gặp. Thực ra, nếu em muốn thì hôm thứ năm chúng ta có thể liên hoan bữa ăn trưa ở nhà hàng Ritz và mời ông ta đến cùng ăn được chứ?
    Anne cười đồng ý. Chị cũng không quên rằng chị sẽ còn phải gặp Ricardo một lần cuối nữa vào trưa hôm đó. Gặp xong rồi, quay về nhà hàng Ritz cũng hãy còn sớm chưa đến một giờ. Như vậy là chị sẽ được dịp ăn mừng cả hai thắng lợi một lúc.
    Alan cố gọi điện nhiều lần để gặp Anne nhưng đều nghe cô hầu trả lời và đi vắng. Vì giấy tờ đã được hai người ủy thác vào đó rồi, ông không có quyền ách lại việc chi tiền quá hai mươi tiếng. Các từ ngữ dùng trong giấy tờ đó là do Richard Kane đã thảo ra trước đây, điển hình về mặt pháp lý chặt chẽ, không có chỗ nào sơ hở mà lách qua được nữa. Sau khi tờ séc 500000 đôla được trao đi chiều ngay thứ ba, Alan viết một bức thư dài gửi cho William, kể lại đầu đuôi các sự kiện đã dẫn đến việc chuyển tiền, chỉ không nói gì đến những sự việc do ngân hàng của ông điều tra được. Ông cũng gửi cho mỗi giám đốc trong ngân hàng một bản sao bức thư đó, tin rằng mặc dầu ông đã làm rất cẩn thận như thế nhưng người ta vẫn có người buộc tội cho ông là che giấu.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  10. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Sáng hôm thứ năm, trong khi đang ăn sáng với Matthew thì William nhận được thư của Alan Lloyd gửi đến St. Paul.
    Còn ở đồi Beacon thì bữa ăn sáng bình thường như mọi ngày, trứng, thịt rán, bánh mì nướng, cháo ngô và cà phê nóng. Henry tỏ ra lúc buồn lúc vui, anh ta làm duyên với cô hầu, nói đùa với một nhân viên Tòa thị chính gọi đến báo cho biết tên công ty được ký hợp đồng xây bệnh viện sẽ được dán lên bảng yết thị trước cửa Tòa thị chính vào lúc mười giờ. Anne thì chờ đến lúc gặp Glen Ricardo một lần nữa. Chị ngồi giở mấy trang tạp chí Vogue, cố không để ý đến bàn tay Henry đang run run cầm tờ báo Toàn cầu của Boston.
    - Sáng nay em định làm gì? ?" Henry hỏi, như muốn nói chuyện bình thường.
    - Ồ, không có gì nhiều lắm trước khi chúng ta ăn mừng trưa nay. Anh có định đặt tên Richard cho khoa nhi trong bệnh viện để tưởng nhớ đến anh ấy không?
    - Không phải tưởng nhớ đến Richard đâu, em yêu quý ơi. Đây là thành tích của anh, vì vậy phải giành vinh dự đó cho em. Sẽ gọi đó là khoa nhi do bà Henry Osborne tặng, - anh ta huênh hoang nói.
    - Ý kiến đó hay lắm, - Anne bỏ tờ báo xuống và nhìn anh ta cười. ?" Anh không được để em uống quá nhiều sâm banh vào bữa trưa nay nhé, vì chiều em còn phải đến cho bác MacKenzie khám, nếu ông ta biết em say rượu vào quãng này, tức chỉ chín tuần trước khi đẻ, thì ông ta sẽ không bằng lòng đâu. Đến bao giờ thì anh biết chắc là hợp đồng sẽ giao cho anh.
    - Anh biết rồi, - Henry nói. ?" Nhân viên Tòa thị chính vừa nói chuyện với anh trên điện thoại bảo là chắc chắn trăm phần trăm rồi, nhưng đến mười giờ họ mới chính thức công bố.
    - Vậy thì việc đầu tiên là anh phải gọi cho Alan và bảo với ông ta cái tin vui đó. Em bắt đầu thấy hơi hối hận về chuyện đã đối xử không hay với ông ấy tuần trước.
    - Em chả cần phải hối hận làm gì. Chính ông ta cũng không thèm báo cho em biết về những hành động của William kia mà.
    - Không, nhưng ông ấy vẫn cố tìm cách giải thích thêm, thế mà em thì lại không để cho ông ấy được nói.
    - Thôi được, thôi được, tùy em. Vậy để cho em vui lòng, anh sẽ gọi điện thoại vào mười giờ năm phút báo cho ông ấy biết, còn em thì gọi cho William bảo nó rằnganh đã kiếm thêm cho nó một triệu đôla nữa. ?" Anh ta nhìn đồng hồ. ?" Thôi bây giờ anh đi đây. Em chúc anh may mắn đi.
    - Em tưởng anh không cần may mắn gì kia mà. ?" Anne nói.
    - Anh không cần thật. Quen miệng nói thế thôi. Hẹn gặp em vào một giờ ở nhà hàng Ritz nhé. ?" Anh ta hôn lên trán vợ. ?" Đêm nay em sẽ tha hồ mà cười về Alan, về Willam, về những chuyện hợp đồng, và coi tất cả những cái đó là quá khứ. Em cứ tin là như vậy. Anh đi nhé, em yêu.
    - Em cũng hy vọng thế, Henry.
    Bữa ăn sáng để trước mặt Alan Lloyd nhưng ông chưa đụng gì đến. Ông đang đọc mấy trang tài chính của tờ báo Toàn cầu Boston, chú ý đến một đoạn nhỏ ở cột bên phải đưa tin mười giờ sáng hôm đó của Tòa thị chính sẽ công bố ai được hưởng hợp đồng xây dựng bệnh viện trị giá 5 triệu đôla.
    Alan Lloyd đã tính nếu như Henry không được hợp đồng ấy và tất cả những gì William nói đều là chính xác thì ông sẽ làm thế nào. Ông sẽ làm như Richard trước kia trong trường hợp tương tự, tức là hành động như thế nào cho ngân hàng có lợi nhất. Nhưng những báo cáo mới nhất ông nhận được về tình hình tài chính của Henry khiến ông rất lo ngại. Osborne đúng là một tên bịp, và số tiền 500000 đôla của quỹ ủy thác kia hoàn toàn không được chuyển đến công ty của anh ta. Alan Lloyd chỉ nhấp một ít nước cam, còn không đụng gì đến bữa ăn sáng. Ông xin lỗi người quản gia, rồi bước xuống đi bộ đến ngân hàng. Thời tiết hôm đó dễ chịu.
    - William, chiều nay có đánh quần vợt không?
    Hai người đang ăn sáng, Matthew Lester đứng nhìn William đang đọc đi đọc lại bức thư của Alan Lloyd.
    - Cậu bảo gì?
    - Cậu điếc hay bắt đầu lẩm cẩm rồi đấy? Cậu muốn chiều nay mình cho cậu thất điên bát đảo trong trận quần vợt không?
    - Không chiều nay mình không có đây đâu, Matthew. Mình đang có nhiều chuyện quan trọng khác cần phải làm.
    - Cố nhiên rồi, anh bạn ơi. Mình quên rằng cậu đang chuẩn bị cho một trong những chuyến đi bí mật vào Nhà trắng. Mình biết là Tổng thống Harding đang tìm một người làm cố vấn về tài chính cho ông ta, mà cậu đúng là người có thể ngồi vào chỗ của cái ông Charles G. Dawes dở hơi ấy. Cậu cứ bảo với ông Tổng thống là cậu nhận lời đi, với điều kiện ông ấy cũng mời Matthew Lester làm Bộ trưởng Tư pháp trong chính quyền tới.
    William không trả lời.
    - Mình biết nói đùa như thế là hơi vô duyên, nhưng cậu cũng phải bình luận xem sao chứ, - Matthew nói và ngồi xuống bên William nhìn kỹ anh bạn. - Tại món trứng phải không? Y như trứng vừa mới đem từ một trại tù binh ra chứ gì?
    - Matthew, mình cần cậu giúp một tay, - William nói và bỏ bức thư của Alan vào phong bì.
    - Cậu vừa có thư của em gái mình rồi đó, nó nghĩ là cậu có thể thay thế cho Rudolph Valentino (diễn viên điện ảnh nổi tiếng đẹp trai trong những năm 20) được đấy.
    William đứng dậy.
    - Thôi, đừng đùa nữa, Matthew. Nếu ngân hàng của bố cậu bị cướp, thì liệu cậu có ngồi đó mà nói đùa về chuyện ấy được không?
    Mặt William rất nghiêm nghị, khiến Matthew phải dịu giọng xuống.
    - Không, ai mà đùa được.
    - Rồi, vậy cậu ra ngoài này, mình sẽ nói tất cả cho mà nghe.
    Sau mười giờ một lúc Anne rời đồi Beacon đi mua sắm vài thứ lặt vặt trước khi đến gặp Glen Ricardo một lần nữa. Chị vừa đi khuất ra đến phố Chestut thì có chuông điện thoại. Cô hầu ra nghe máy. Cô ta nhìn ra cửa sổ thấy bà chủ đã đi quá xe rồi không gọi được nữa. Giá như Anne quay trở lại nghe điện thoại được, thì chị đã biết về quyết định của thành phố đối với hợp đồng xây dựng bệnh viện, nhưng chị lại đi mua thêm mấy đôi tất lụa và vài thứ nước hoa mới. Chị đến văn phòng Glen Ricardo khoảng sau mười hai giờ, trong bụng nghĩ thứ hoa mình mới mua sẽ có thể đánh bạt được mùi khói xì gà của ông ta.
    - Chắc tôi không đến muộn chứ, ông Ricardo, - chị nói gọn.
    - Xin mời bà ngồi, bà Osborne.
    Trông Ricardo có vẻ không vui lắm, nhưng Anne nghĩ ông ta có bao giờ vui đâu. Rồi chị lại để ý thấy ông ta không hút loại xì gà như mọi khi nữa.
    Ricardo mở một hồ sơ màu nâu khá lịch sự, một thứ đồ mới duy nhất mà Anne có thể trông thấy ở văn phòng này, rồi lấy ra vài tờ giấy.
    - Chúng ta hãy bắt đầu bằng những bức thư nặc danh đã nhé, thưa bà Osborne?
    Anne không thích cái giọng nói ấy.
    - Được thôi, - chị đáp.
    - Những thư này do một bà tên là Ruby Flowers gửi đến.
    - Ai? Tại sao vậy? ?" Anne nói, vừa muốn vừa không muốn có câu trả lời.
    - Tôi ngờ rằng một trong những lý do là hiện nay bà Flowers đang kiện chồng bà.
    - À, thế rõ cả rồi, - Anne nói. ?" Bà ta muốn trả thù. Bà ta đòi Henry phải trả bao nhiêu?
    - Bà ta không nói đến nợ, thưa bà Osborne.
    - Vậy bà ta muốn gì?
    Glen Ricardo tỳ tay vào ghế đứng dậy bằng một dáng mệt mỏi. Anh ta đi ra cửa sổ nhìn xuống bến Boston lúc đó đang đông người.
    - Bà ta kiện về chuyện không giữ lời hứa, thưa bà Osborne.
    - Ôi, không thể thế được, - Anne nói.
    - Hình như hai người đã đính hôn với nhau vào cái lúc ông Osborne gặp bà, nhưng rồi vụ đính hôn bị hủy bỏ không biết vì lý do gì.
    - Bà ta đào mỏ đấy thôi. Chắc bà ta muốn tiền của Henry.
    - Không, có lẽ không phải thế. Bà biết không, bà Flowers đã vào loại khá giả. Tuy không phải như bà đâu, tuy nhiên, nhưng cũng là khá. Chồng cũ của bà ta là chủ một công ty nước quả đóng chai và để lại cho bà ta khá nhiều tiền.
    - Chồng cũ ư? Thế bà ta bao nhiêu tuổi?
    Nhà thám tử quay lại bên bàn giờ vài trang hồ sơ. Móng tay cáu đen của ông ta dừng lại một chỗ.
    - Sinh nhật tới của bà ta là thứ năm mươi ba.
    - Ôi, lạy Chúa! ?" Anne nói. - Tội nghiệp bà ta. Chắc bà ta phải căm ghét tôi lắm.
    - Có thể như vậy, thưa bà Osborne, nhưng điều đó chẳng giúp gì cho chúng ta cả. Bây giờ tôi xin chẳng sang những hoạt động khác của chồng bà.
    Ngón tay vàng khè những khói thuốc của anh ta giở thêm mấy trang nữa.
    Anne cảm thấy nôn nao trong người. Tại sao chị đến đây làm gì? Tại sao không cắt đi từ tuần trước có đươc không? Chị làm gì phải biết? Chị không muốn biết kia mà? Tại sao chị không đứng dậy mà bỏ đi luôn? Ôi, chị mong có Richard bên mình biết bao. Còn anh thì anh sẽ biết phải đối phó với tình hình này như thế nào. Chị tưởng như mình không thể cựa quậy được nữa. Glen Ricardo và những điều trong hồ sơ mới của anh ta làm chị ngây đơ cả người.
    - Tuần vừa qua, ông Osborne đã có hai lần ngồi riêng với bà Preston, trên ba tiếng đồng hồ.
    - Nhưng điều đó chẳng chứng mình gì hết, - Anne chậm rãi nói. ?" Tôi biết là họ đang phải thảo luận với nhau một tài liệu rất quan trọng liên quan đến tiền nong.
    - Nhưng là ở một khách sạn nhỏ trên phố La Salle, thưa bà.
    Anne không ngắt lời nhà thám tử nữa.
    - Cả hai lần họ đều bước vào khách sạn, cầm tay nhau, thì thầm cười đùa với nhau. Tất nhiên chưa thể kết luận được là họ làm gì, nhưng chúng tôi có ảnh họ cùng bước vào khách sạn và cùng ở khách sạn ra.
    - Ông hủy những ảnh đó đi, - Anne khẽ nói.
    Glen Ricardo chớp mắt.
    - Tùy bà, thưa bà Osborne. Nhưng còn những điều khác nữa. Những cuộc điểuta thêm cho thấy ông Osborne chưa bao giờ học ở Harvard, cũng chưa bao giờ là sĩ quan trong quân đội Mỹ. Trường Harvard cũng có một Henry Osborne nhưng nhỏ người hơn, tóc hung hung và quê ở Alabama. Ông này bị chết trận ở Maine năm 1917. Chúng tôi cũng biết là chồng bà còn ít tuổi hơn nhiều so với lời ông ta khai, và tên thật của ông ta là Vittorio Togna. Ông ta đã phục vụ?
    - Tôi không muốn nghe nữa, - Anne nói, nước mắt chảy tràn xuống hai bên má. ?" Tôi không muốn nghe nữa.
    Anne cố nén để giữ bình tĩnh.
    - Cảm ơn ông Ricardo, tôi hoan nghênh tất cả những gì ông đã làm. Tôi còn thiếu ông bao nhiêu?
    - Bà đã trả trước hai tuần rồi. Chúng tôi làm thêm hai người, cộng với những khoản chi khác là bảy mươi ba đôla.
    Anne đưa cho anh ta tờ một trăm đôla rồi đứng dậy.
    - Bà còn tiền thừa, thưa bà Osborne.
    Chị lắc đầu và xua tay.
    - Bà không hề gì chứ, bà Osborne? Tôi thấy bà hơi tái đi đấy. Tôi lấy cho bà cốc nước hoặc cái gì đó được không?
    - Tôi không sao, - Anne nói dối.
    - Có lẽ bà cho phép tôi đưa bà về nhà?
    - Không, cảm ơn ông Ricardo. Tôi tự về nhà được. - Chị quay nhìn anh ta mỉm cười. ?" Cám ơn ông đã quan tâm.
    Glen Ricardo nhẹ nhàng đóng cửa lại, từ từ bước ra cửa sổ, cắn đứt mẩu xì gà, nhổ toẹt một cái rồi rủa thầm cái nghề của anh.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này