1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hai số phận - Jeffrey Archer

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Amar, 08/08/2003.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Anne dừng lại ở chân cầu thang đầy rác rưởi, tay vịn vào lan can. Suýt nữa chị ngất. Đứa bé trong bụng đạp dội lên khiến chị cảm thấy buồn nôn. Chị lê ra đến cuối phố, tìm được chiếc xe taxi rồi ngồi nép vào phía sau, Chị không nín được, khóc sụt sịt. Chị không biết rồi mình sẽ làm gì bây giờ đây. Về đến nhà, chị vào ngay trong phòng ngủ để những người làm trong nhà khỏi trông thấy chị thất vọng. Vừa vào đến bên trong phòng, chuông điện thoại đã reo lên. Chị nhấc máy lên nghe, vì thói quen hơn là vì muốn biết ai ở đầu dây đằng kia.
    - Tôi muốn nói chuyện với bà Kane được không?
    Chị nhận ra ngay cái giọng của Alan, một giọng mỏi mệt, không vui vẻ gì.
    - Chào ông Alan, Anne đây.
    - Chị Anne thân mến, tôi rất tiếc khi được biết về tin sáng nay.
    - Sao ông biết được, Alan? Làm sao anh biết được? Ai bảo cho ông biết?
    - Tòa thị chính gọi điện cho tôi và cho tôi biết tin chi tiết sau lúc mười giờ. Tôi gọi ngay cho chị nhưng cô hầu trả lời chị đã ra phố mua sắm rồi.
    - Ôi, lạy Chúa, - Anne nói. ?" Tôi đã quên khuấy đi mất về chuyện hợp đồng.
    Chị ngồi phịch xuống ghế, cảm thấy khó thở.
    - Anne, chị có sao không thế?
    - Không, tôi không sao, - chị đáp, cố không tỏ ra nghẹn ngào trong điện thoại. ?" Tòa thị chính bảo sao?
    - Hợp đồng xây dựng bệnh viện được giao cho công ty tên là Kirkbride và Carter. Rõ ràng Henry không có trong số ba người đứng đầu danh sách. Cả buổi sáng tôi cố tìm anh ta, nhưng hình như anh ta đã đi đâu ngay từ sau lúc mười giờ, và từ đó chưa trở về. Có lẽ chị cũng không biết anh ta đang ở đâu chứ Anne?
    - Không, tôi cũng không biết nữa.
    - Chị muốn tôi sang bên đó bây giờ không? ?" ông ta nói. ?" Tôi có thể sang với chị mấy phút.
    - Không, cảm ơn ông, Alan. ?" Anne dừng lại lấy hơi thở. ?" Xin ông tha lỗi cho tôi về thái độ đối với ông trong mấy ngày qua. Nếu như Richard còn sống thì anh ấy sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho tôi được.
    - Chị đừng lẩn thẩn, Anne. Chúng ta đã là bạn với nhau từ nhiều năm nay rồi, một chuyện nhỏ như vậy có nghĩa gì đâu.
    Giọng nói thân mật của ông cũng làm chị muốn khóc lên. Chị lảo đảo đứng dậy.
    - Tôi phải ra đây đã, hình như có người gõ cửa ngoài, có thể là Henry về.
    - Chị cẩn thận đấy nhé, Anne. Đừng nghĩ ngợi gì nữa chuyện hôm nay. Chừng nào tôi còn là chủ tịch thì ngân hàng vẫn sẽ ủng hộ chị. Khi nào cần, chị cứ gọi cho tôi ngay nhé, đừng ngại.
    Anne bỏ máy xuống. Trong tai chị vẫn ù ù. Chị cố thở mà không được. Chị gục xuống sàn nhà, cùng lúc đó cảm giác co bóp dội lên trong người chị.
    Lát sau có tiếng gọi cửa nhè nhẹ của cô hầu. Phía sau cô hầu là bóng William. Từ khi chị lấy Henry Osborne, anh không hề bước chân vào phòng ngủ của mẹ nữa. Hai người chạy vội đến chỗ Anne. Chị vẫn đang giẫy giụa, không biết có người vào. Phía trên mép có chút bọt sùi ra. Vài giấyau, chị không co quắp nữa mà nằm yên và khẽ rên.
    - Mẹ, - William lên tiếng. - Mẹ sao thế?
    Anne mở mắt nhìn con như ngây dại.
    - Richard. Lạy Chúa! Anh đã về. Em đang cần đến anh.
    - Con, William đây mà, mẹ.
    Mặt chị vẫn lờ đờ.
    - Em kiệt sức rồi, Richard. Em phải trả giá cho lỗi lầm của mình. Anh tha thứ?
    Giọng chị kéo dài thành một tiếng rên rồi người lại co quắp một lần nữa.
    - Sao thế này? ?" William lúng túng nói.
    - Tôi nghĩ có lẽ bà trở dạ đấy, - cô hầu nói. - Phải mấy tuần nữa mới đến ngày đẻ cơ.
    - Cô ra điện thoại gọi ngay cho bác sĩ MacKenzie, - William bảo cô hầu rồi chạy ra cửa phòng. Anh gọi to. ?" Matthew! Lên đây ngay, mau lên.
    Matthew chạy vội lên cầu thang cùng William vào phòng ngủ.
    - Cậu giúp đưa mẹ tớ xuống xe với.
    Matthew quý xuống. Hai chàng thanh niên bế Anne lên, nhẹ nhàng đưa xuống cầu thang và ra xe. Chị vừa thở dốc vừa rên rỉ tỏ ra đang rất đau đớn. William trở lại trong phòng cầm vội lấy ống nói trong tay cô hầu, trong khi Matthew chờ ở dưới xe.
    - Bác sĩ MacKenzie.
    - Phải, ai đấy?
    - Tên tôi là William Kane, có lẽ ông không biết tôi đâu.
    - Không biết anh ư? Chính tôi đỡ đẻ khi anh sinh ra đấy. Có chuyện gì vậy?
    - Có lẽ mẹ tôi đang trở dạ. Bây giờ tôi đưa bà đến bệnh viện ngay đây. Mấy phút nữa tôi đến đó rồi.
    Giọng bác sĩ MacKenzie đã đổi khác.
    - Thôi được, William, anh đừng lo. Tôi sẽ ở đây chờ anh. Mọi thứ sẽ đâu vào đấy.
    - Xin cảm ơn ông, - William nói. ?" Hình như mẹ tôi bị co giật, như vậy có gì bình thường không ạ?
    Câu nói của William khiến ông bác sĩ rùng mình. CHính ông cũng ngần ngại không biết nói thế nào.
    - Không bình thường lắm đâu. Nhưng nếu đẻ được thì không sao. Anh mau đưa đến đây, càng nhanh càng tốt.
    William bỏ máy xuống, chạy ra ngoài nhà và nhảy ngay vào chiếc Rolls ?" Royce.
    Matthew lái rất cẩn thận, không dám sang số và cũng không dừng lại một chỗ nào, cứ thế từ từ đi đến bệnh viện. Hai người cùng một cô ý tá đặt Anne lên cáng đi vội đến khu hộ sinh. Bác sĩ MacKenzie đã đứng chờ sẵn ở cửa phòng mổ. Ông bảo hai người đứng ngoài.
    William và Matthew yên lặng ngồi trên chiếc ghế dài chờ đợi. Trong phòng đẻ vang ra những tiếng kêu hét ghê rợn họ chưa từng nghe thấy bao giờ. Rồi sau đó là im lặng, và cái im lặng này còn ghê rợn hơn cả tiếng kêu hét. Lần đầu tiên trong đời mình, William thấy hoàn toàn bất lực. Hai chàng thanh niên ngồi trên ghế dài hơn một tiếng đồng hồ. Không một ai nói gì. Lát sau, bác sĩ MacKenzie xuất hiện với dáng mỏi mệt. Hai chàng thanh niên cùng đứng dậy. Bác sĩ nhìn Matthew Lester.
    - Không, thưa ông, tôi là Matthew Lester. Còn đây là William.
    Bác sĩ quay lại đặt một tay lên vai William.
    - William, tôi rất tiếc. Mẹ anh chết cách đây vài phút? còn đứa bé, một cháu gái, cũng chết lúc mới đẻ.
    William ngồi khuỵu xuống ghế.
    - Chúng tôi đã làm mọi cách để cứu sống cả hai mẹ con, nhưng muộn quá rồi. ?" Ông lắc đầu buồn bã. ?" Bà ấy không chịu nghe tôi? mà cứ đòi phải có con. Lẽ ra không có chuyện này.
    William ngồi lặng người, sững sờ về câu nói vừa rồi của bác sĩ. Anh khẽ hỏi:
    - Làm sao mẹ tôi chết được? Sao ông có thể để cho bà ấy chết được?
    Bác sĩ ngồi xuống ghế.
    - Bà ấy không chịu nghe tôi, - ông từ từ nhắc lại. ?" Tôi đã nhiều lần nhắc bà ấy, sau cái vụ sẩy thai lần trước, rằng chứ có đẻ nữa. Nhưng sau khi bà ấy tái gí, bà ấy với ông bố dượng của anh không bao giờ coi trọng lời dặn của tôi hết. Lần này tôi cũng lo ngại nhưng chưa có lúc nào đến mức nguy ngập. Hôm nay, lúc anh đưa bà ấy đến đây, tôi không hiểu được tại sao bỗng có hiện tượng co giật như vậy.
    William nhìn ông không hiểu.
    - Phải, co giật. Đôi khi bệnh nhân có thể chịu đựng được nhiều lần như vậy. Nhưng cũng có trường hợp bệnh nhân tắt thở luôn.
    William gục đầu xuống hai tay. Matthew Lester đỡ anh dậy đi chầm chậm trong hành lang. Bác sĩ đi theo hai người. Ra đến thang máy, ông nhìn William nói:
    - Huyết áp của bà ấy tăng đột ngột. Điều này là rất không bình thường, và hình như bà ấy không gượng lại như mọi khi, gần như bà ấy không cần gượng nữa. Tôi thấy rất lạ. Gần đấy có điều gì khiến bà ấy phiền lòng không?
    William ngước lên nhìn bác sĩ. Nước mắt anh tràn xuống đầy mặt.
    - Không phải là điều gì, - giọng anh đầy căm giận, - mà là người nào.
    Khi hai người về đến nhà thì Alan Lloyd đã ngồi ở một góc phòng khách. Ông đứng dậy.
    - William, - ông lên tiếng ngay. ?" Tôi tự trách mình đã để cho vay như vậy.
    William nhìn ông ta như không nghe thấy ông ta nói gì. Matthew Lester nói thay vào đó.
    - Có lẽ điều đó không còn quan trọng nữa, ông ạ. Mẹ của William vừa mất lúc đau đẻ rồi. ?" Anh nói nhỏ.
    Alan Lloyd tái nhợt người, phải vịn tay vào bệ lò sưởi mới đứng được. Ông quay mặt đi. Lần đầu tiên, cả William và Matthew mới trông thấy người lớn khóc.
    - Đó là lỗi tại tôi, - ông chủ ngân hàng nói. ?" Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho mình được. Tôi đã không nói cho chị ấy biết tất cả những gì tôi biết được. Tôi quý chị ấy quá nên không muốn thấy chị ấy thất vọng bao giờ.
    Nỗi đau của ông giúp William bình tĩnh trở lại.
    - Không phải lỗi của ông đâu, Alan, - anh dằn giọng nói. ?" Ông đã làm đủ mọi cách rồi. Tôi biết thế. Và bây giờ đến lượt tôi phải nhờ ông giúp đỡ đây.
    Alan Lloyd đứng thẳng người dậy.
    - Osborne đã được báo tin về chuyện mẹ anh chết chưa?
    - Tôi không biết mà cũng không cần biết.
    - Suốt ngày hôm nay tôi gọi cho anh về chuyện đầu tư. Nhưng anh ta bỏ đi từ lúc mười giờ sáng nay, và không ai biết anh ta ở đâu.
    - Sớm muộn rồi hắn cũng về đây thôi, - William nghiêm mặt nói.
    Sau khi Alan Lloyd ra về rồi, William và Matthew ngồi lại trong phòng khách đó gần hết đêm, lúc ngủ thiếp đi, lúc tỉnh. Đến bốn giờ sáng, William chợt nghe tiếng chuông đồng hồ vàng lên và cũng nghe thấy cả tiếng gì ở ngoài nhà. Matthew và William nhìn qua cửa sổ xuống đường. Họ thấy Henry Osborne đang lảo đảo đi qua quảng trường Louisburg, trong tay cầm một chai rượu. Anh ta thò tay vào túi tìm chìa khóa một lúc rồi đứng giữa cửa nhìn hai chàng thanh niên, mắt nhấp nháy.
    - Tôi cần Anne chứ không cần anh. Tại sao anh không ở trường? Tôi không cần anh đâu, - anh ta líu lưỡi và giơ tay định gạt William sang một bên. ?" Anne đâu?
    - Mẹ tôi chết rồi, - William khẽ nói.
    Henry Osborne ngơ ngác nhìn anh vài giây. Cái nhìn ngơ ngác ấy khiến William cò có thể tự chủ được. Anh ta bỗng quát lên:
    - Ông đi đâu trong khi bà ấy cần đến chồng?
    Osborne vẫn còn đứng lảo đảo.
    - Đứa bé thế nào?
    - Con gái, nhưng nó cũng chết rồi.
    Henry Osborne thụp ngồi xuống một chiếc ghế. Nước mắt bắt đầu chảy xuống mặt anh ta.
    - Cô ấy làm mất con tôi rồi ư?
    William không biết mình nên điên hay nên buồn.
    - Con ông? Ông đừng có nghĩ về mình nữa được không? ?" anh lại quát lên. ?" Ông biết là bác sĩ MacKenzie đã khuyên bà ấy không nên có mang nữa chứ?
    - Anh lại cũng giỏi cả môn ấy nữa kia à? Nếu anh biết lo chuyện của anh và đừng có can thiệp gì vào đâym thì tôi đã có thể chăm lo đến vợ tôi rồi, phải thế không nào?
    - Và chăm lo cả tiền của bà ấy nữa chứ?
    - Tiền, hừ. Anh chỉ là một thằng keo kiệt. Tôi biết là mất tiền thì anh còn đau hơn mất bất cứ gì khác.
    - Đứng dậy! ?" William rít qua kẽ răng.
    Henry Osborn đứng dậy và đập vỡ chai rượu vào thành ghế. Whisky tung tóe ra thảm. Anh ta lắc lư bước đến chỗ William và giơ chai rượu vỡ lên. William vẫn đứng nguyên đó, trong khi Matthew đứng chen ngay vào giữa và dễ dàng gỡ cái chai ra khỏi tay anh chàng say rượu.
    William gạt bạn sang một bên và tiến đến sát mặt Henry Osborne.
    - Bây giờ, ông hãy nghe đây, và nghe cho kỹ vào. Tôi yêu cầu ông phải ra khỏi nhà này trong vòng một giờ nữa. Tôi mà còn nghe thấy nói đến ông nữa, tôi sẽ lập tức cho điều tra ngay về số tiền nửa triệu đôla của mẹ tôi vào công ty của ông, tôi sẽ cho tiến hành ngay cả việc điều tra về quá khứ của ông ở Chicago và ông thật sự là ai. Còn nếu không nghe nói đến ông nữa, tôi sẽ coi như quên chuyện đó đi. Bây giờ, ông cút ngay đi, không tôi sẽ giết ông đấy.
    Hai chàng thanh niên nhìn Henry Osborne bước ra ngoài, vừa sụt sùi vừa hoang mang giận dữ.
    Sáng hôm sau William đến ngân hàng. Anh được đưa ngay vào phòng làm việc của Chủ tịch. Alan Lloyd đang xếp một số giấy tờ vào cặp. Ông nhìn lên và đưa một mẩu giấy cho William mà không nói gì. Đó là một bức thư ngắn gửi tất cả các thành viên trong ban giám đốc cho ông được từ chức chủ tịch ngân hàng.
    - Ông cho gọi cô thư ký vào đây được không? ?" William bình tĩnh nói.
    - Tùy anh.
    Alan Lloyd bấm vào một nút bên cạnh bàn giấy. Một bước đàn bà cỡ trung niên, ăn mặc kiểu cổ, từ một cữa hàng bên bước vào.
    - Chào ông Kane, - bà ta trông thấy William đã nói ngay. ?" Tôi lấy làm tiếc khi được tin về mẫu thân ông.
    - Cảm ơn bà, - William nói. ?" Đã có ai khác xem bức thư này chưa?
    - Thưa chưa, - bà thư ký nói. ?" Tôi đang sắp đánh ra mười hai bản để ông Lloyd ký.
    - Thưa, bà đừng đánh máy ra nữa, và xin bà cũng quên là có bản thảo này nhé. Bà cũng đừng có cho bất cứ ai biết về chuyện này, bà hiểu chứ?
    Bà ta nhìn vào đôi mắt xanh của anh chàng thanh niên mười sáu tuổi. Sao mà giống bố ngày xưa thế, bà nghĩ bụng.
    - Vâng, thưa ông Kane. ?" Bà lặng lẽ ra ngoài và đóng cửa lại. Alan Lloyd nhìn lên.
    - Lúc này, Kane và Cabot không cần đến một ông chủ tịch mới, ông Alan ạ, - William nói. ?" Trong trường hợp này, ông không hề làm cái gì mà bố tôi trước kia đã không làm.
    - Đâu có dễ dàng thế, - Alan nói.
    - Dễ chứ, - William nói, - Chúng ta sẽ lại bàn việc này khi nào tôi hai mươi mốt tuổi. Còn trước đó thì chưa bàn. Từ nay đến đó, tôi rất mong ông vừa quản lý ngân hàng của tôi theo cái cách vừa rất ngoại giao vừa rất bảo thủ như từ trước đến nay. Tôi không muốn người ta bàn tán gì đến những chuyện vừa xảy ra ở ngoài văn phòng này. Xin ông cho hủy tất cả những tài liệu gì ông có về Henry Osbornem và coi như vấn đề này đã kết thúc.
    William xé vụn bức thư xin từ chức và vứt từng mảnh vào lửa. Anh quàng tay vào vai Alan.
    - Bây giờ tôi không còn gia đình nữa, Alan, chỉ còn có ông thôi. Lạy Chúa, ông đừng có bỏ tôi.
    William trở về ngôi nhà trên đồi Beacon. Bà nội Kane và bà ngoại Cabot ngồi yên lặng trong phòng khách. Thấy anh bước vào, hai cụ đứng dậy. Lần đầu tiên William nghĩ ra bây giờ anh đã chủ của gia đình Kane.
    Hai ngày sau, tang lễ được tiến hành một cách lặng lẽ ở nhà thờ St. Paul. Chỉ có những người trong gia đình và bạn thân được mời đến. Riêng Henry Osborne vắng mặt. Những người đến dự tang lễ chia buồn với William. Hai cụ bà đứng phía sau anh như hai người hộ vệ, cảm thấy anh tỏ ra bình tĩnh, tỉnh táo. Sau khi mọi người ra về rồi, Willam tiễn Alan Lloyd ra xe.
    - Như ông biết đấy, Alan, mẹ tôi vẫn muốn xây cho bệnh viện một khu nhi để tưởng nhớ đến bố tôi. Vậy tôi muốn nhờ ông giúp cho nguyện vọng của bà được thực hiện.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  2. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    11​
    Wladek ở lại tòa lãnh sự Ba Lan tại Constantinople đến một năm chứ không chỉ ít ngày như lúc đầu anh đã tưởng. Suốt ngày đêm, anh làm việc cho Pawel Zaleski, trở thành người trợ lực không thể thiếu và là bạn gần gũi của ông ta nữa. Đối với anh, hình như không có việc gì là khó khăn lắm. Zaleski nghĩ bụng không biết trước đây không có Wladek thì ông ta đã xoay xở như thế nào. Một tuần Wladek đến thăm sứ quan Anh một lần, vào trong bếp ngồi ăn với bà Henderson, người Scotland. Có một lần anh ngồi ăn với cả ông phó lãnh sự Prendergast nữa.
    Lúc này ở Thổ Nhĩ Kỳ, lối sống cũ của Hồi giáo đang mất dần và đế chế Ottonman đã bắt đầu rệu rã. Cái tên Mustafa Kemal (tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ từ 1923 đến 1938 ?" nhà cải cách đã làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt đất nước) được nhắc đến ở cửa miệng mỗi người. Không khí sắp diễn ra những thay đổi khiến Wladek sốt ruột. Anh luôn nghĩ đến Nam tước và tất cả những ai anh yêu quý ở lâu đài. Hồi còn ở Nga, do phải làm sao để sống được từ ngày này sang ngày khác nên anh không có lúc nào nghĩ đến họ, nhưng sang đến đây rồi họ lại hiện lên trước mắt anh, lặng lẽ, châm chạp. Đôi khi anh hình dung những con người đó khỏe mạnh vui tươi, anh thấy Leon bơi lội trên sông, thấy Florentyna chơi trò lộn dây trong phòng ngủ, thấy khuôn mặt bệ vệ của Nam tước trong ánh đèn nến buổi tối. Nhưng bao giờ cũng vậy, những khuôn mặt thân yêu mà anh rất nhớ ấy sẽ rung rinh trước mắt anh rồi biến thành những hình ảnh khủng khiếp, Leon nằm chết trên người anh, Florentyna trong cơn hấp hối người đầy máu me và Nam tước gần như mù và kiệt quệ.
    Wladek dần dần hiểu ra rằng anh sẽ chẳng bao giờ trở về được quê hương với những hồn ma như thế, mà anh phải làm một cái gì thật xứng đáng được. Nghĩ thế, anh lại nhớ đến nhân vật Tadeusz Kosciusko, mà trước đây Nam tước đã nhiều lần kể cho anh nghe, và anh nghĩ đến chuyện đi sang Mỹ. Pawel Zaleski cũng đã mô tả cho anh nghe nơi đó được gọi là Thế giới mới. Wladek càng hy vọng tương lai anh sẽ có cơ hội được trở về Ba Lan một cách vẻ vang.
    Chính Pawel Zaleski đã góp tiền để mua một tấm giấy nhập cư cho Wladek đi sang Mỹ. Kiếm được giấy đó không dễ, vì bao giờ cũng phải đặt cọc trước một năm. Wladek tưởng như khắp cả các nước Đông Âu ai ai cũng tìm cách trốn đi để làm lại cuộc sống ở Thế giới mới vậy.
    Mùa xuân năm 1921, Wladek Koskiewicz rời Constantinople bước xuống con tàu Mũi tên đen đi đến đảo Ellis thuộc New York. Anh có chiếc va li đựng tất cả những đồ đạc của mình trong đó với một mớ giấy tờ do Pawel Zaleski cấp.
    Ông lãnh sự Ba Lan đưa anh ra bến tài và ôm anh thân mật.
    - Cậu đi theo Chúa nhé.
    Wladek tự nhiên đáp lại bằng câu nói truyền thống của Ba Lan anh đã thuộc từ bé:
    - Xin ông ở lại với Chúa.
    Bước chân lên cầu tàu, Wladek chợt nhớ lại chuyến đi khủng khiếp của anh từ Odessa đến Constantinople. Lần này trên tàu không thấy có than, chỉ có người, đủ các thứ người, Ba Lan, Litunia, Estonia, Ucraina và rất nhiều những người khác mà Wladek không hiểu là thuộc dân tộc nào. Anh ôm chặt lấy chiếc va li nhỏ và đứng vào hàng để chờ. Trước khi vào được đất Mỹ, anh còn phải trải qua nhiều lần chờ lâu như thế nữa.
    Một sĩ quan trên tàu xem giấy tờ của anh rất cẩn thận, vì ngờ rằng Wladek trốn nghĩ vụ quân sự ở Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng Pawel Zaleski đã chuẩn bị rất đầy đủ. Lọt qua được cửa đó rồi, anh thầm cảm ơn người đồng bào của anh đã chu đáo được như vậy. Nhiều người khác không có giấy tờ hợp lệ đã bị trả lại.
    Sau đó là tiêm chủng và khám bệnh. Giá như không có một năm trời ăn uống tử tế và lấy lại sức khỏe ở Constantinople thì có lẽ Wladek đã không qua được chỗ này. Cuối cùng, mọi thứ kiểm tra đã làm xong, anh được phép xuống khoang dưới, vào chỗ ăn ở rẻ tiền nhất của khách hàng. Dưới đó có những ngăn riêng cho nam nữ và các đôi vợ chồng. Wladek nhanh chóng tìm đến khu nam giới và thấy nhóm người Ba Lan đã chiếm một khu giường sắt hai tầng khá lớn. Trên mỗi chiếc giường có một đệm rơm mỏng, một chiếc chăn mỏng và không có gối. Wladek không lo chuyện không có gối, vì từ khi rời nước Nga đến nay anh chưa bao giờ ngủ có gối.
    Wladek chọn một giường nằm phía dưới một anh chàng khác suýt soát tuổi anh, và tự giới thiệu.
    - Tôi là Wladek Koskiewicz.
    - Tôi là Jerzy Nowak ở Warsaw, - anh kia đáp lại bằng tiếng Ba Lan và đưa tay ra bắt. ?" Tôi đi làm giàu ở Mỹ đây.
    Khi con tàu khởi hành, Wladek và Jerzy ngồi nói chuyện với nhau về mình, cả hai đều lấy làm mừng có bạn để đỡ cô đơn trên tàu. Cả hai đều không muốn nói là mình hoàn toàn không biết gì về nước Mỹ. Hóa ra Jerzy đã mất cả bố mẹ trong chiến tranh và không còn trông cậy vào ai khác. Còn Wladek thì kể cho anh ta nghe về mình: con của một Nam tước, lớn lên trong một căn lều của người thợ săn, bị người Đức và người Nga bỏ tù, trốn khỏi Siberia, thoát khỏi tay một đao phủ Thổ Nhĩ Kỳ nhờ có chiếc vòng bạc đeo trên tay. Jerzy nhìn vào chiếc vòng rất chăm chú. Wladek kể lại tóm tắt mười lăm năm của mình mà Jerzy tưởng như phải cả một đời người mới trải qua hết được những thứ đó. Suốt đêm, Wladek chỉ nói về quá khứ. Jerzy nghe mà không muốn ngủ, cũng không dám nói ra là mình đang lo ngại về tương lai như thế nào.
    Sáng hôm sau, con tàu Mũi tên đen rời bến. Wladek và Jerzy đứng trên boong tàu nhìn Constantinople lùi xa dần trong khoảng trời xanh. Sau biển Marmara phẳng lặng đến vùng có sóng của biển Aegean. Phần lớn các hành khách trong khoang rẻ tiền đều bị say sóng. Trong khu này chỉ có mấy phòng vệ sinh và vòi nước lạnh, không đủ cho họ rửa ráy. Chỉ qua vài ngày là mùi hôi thối đã sực lên không chịu được.
    Bữa ăn của họ được để trên những chiếc bàn dài trong một phòng ăn rộng nhưng bẩn thỉu nhếch nhác. Có súp nóng, khoai tây, cá, thịt bò hầm và bắp cải, bánh mì nâu hoặc đen. Trước khi rời nước Nga, Wladek đã được biết những thức ăn khổ hơn thế này nhiều, nhưng ngoài những thứ ở trên tàu này, anh còn có cả những cái bà Henderson đã gói cho anh như xúc xích, lạc và cả một ít rượu brandy nữa. Anh rủ Jerzy đem vào góc giường cùng ăn. Hai người thầm hiểu với nhau mọi thứ mà không cần nói ra lời. Họ cùng ăn, cùng đi xem các nơi trên tàu, và đêm đến lại trèo lên giường cùng ngủ.
    Sang ngày thứ bà trên biển, Jerzy rủ một cô gái Ba Lan cùng đến bàn ăn. Anh ta giới thiệu với Wladek đó là Zaphia. Lần đầu tiên trên đời, Wladek nhìn kỹ một cô gái. Anh không rời mắt khỏi Zaphia. Cô ta làm anh nhớ đến Florentyna. Cũng đôi mắt xanh đậm đà, mớ tóc vàng trễ xuống hai vai và giọng nói ấm áp. Wladek cảm thấy như muốn sờ vào người cô ta. Thỉnh thoảng cô gái nhìn Wladek cười. Anh đau khổ thầm nghĩ rằng Jerzy còn đẹp trai hơn mình rất nhiều, Anh đi theo Jerzy đưa cô gái trở về khu phụ nữ.
    Sau đó Jerzy quay lại nhìn anh với vẻ hơi khó chịu.
    - Cậu tìm một cô gái khác cho cậu chứ? Cô này là của tớ.
    Wladek không sẵn sàng thừa nhận là anh chẳng hiểu kiếm riêng cho mình một cô gái bằng cách nào. Anh tỏ ra coi khinh.
    - Ối chao, sang đến Mỹ thì còn ối thì giờ đi tìm gái.
    - Tại sao phải chờ sang đến Mỹ? Ngay trên tàu này muốn bao nhiêu mà chả được?
    - Cậu làm thế nào? ?" Wladek hỏi, muốn biết những không dám nhận là mình dốt về môn này.
    - Chúng ta còn hơn mười hai ngày nữa trong cái hầm này, và mười hai ngày đó tớ sẽ có mười hai người đàn bà cho mà xem, - Jerzy khoe khoang.
    - Cậu có thể làm gì với mười hai người đàn bà? ?" Wladek hỏi.
    - Ngủ với họ, chứ còn làm gì nữa?
    Wladek ngỡ ngàng không hiểu.
    - Ôi, lạy Chúa, - Jerzy kêu lên. - Chẳng lẽ một người như cậu đã sống được với bọn Đức, thoát khỏi tay bọn Nga, đã giết một người khi mình mới mười ba tuổi và suýt nữa bị bọn Thổ Nhĩ Kỳ dã man đem chặt tay, thế mà lại chưa biết đàn bà là gì ư?
    Anh ta cười to đến nỗi những người khác ở các giường chung quanh phải lên tiếng bảo im đi.
    Jerzy tiếp tục nói thầm với Wladek.
    - Đã đến lúc cậu phải học thêm cho biết. Ít nhất tớ cũng có được một cái để dạy cho cậu. ?" Anh ta thò đầu xuống giường dưới nói, mặc dầu không nhìn thấy rõ mặt Wladek trong bóng tối ?" Zaphia là một cô gái dễ thông cảm đấy. Tớ có thể nói là sẽ thuyết phục cô ta mở rộng kiến thức thêm cho cậu. Để rồi tớ thu xếp.
    Wladek không nói gì.
    Cũng không ai nhắc đến chuyện ấy nữa, nhưng hôm sau thì Zaphia tỏ ra chú ý đến Wladek. Lúc ăn, cô ta đến ngồi bên cạnh Wladek và họ nói chuyện với nhau hàng giờ về cuộc sống và những hy vọng của mình. Cô ta là một cô gái mồ côi ở Poznan, bây giờ đi sang với bà con họ hàng ở Chicago. Wladek thì bảo Zaphia là anh sang New York và có lẽ sẽ cùng ở với Jerzy.
    - Tôi mong là New York rất gần Chicago, - Zaphia nói.
    - Thế thì sẽ có thể đến thăm tôi khi nào tôi làm thị trưởng, - Jerzy huyênh hoang nói.
    Cô ta cười khẩy.
    - Anh còn Ba Lan lắm, Jerzy ạ. Anh cũng không nói được tiếng Anh tử tế như Wladek.
    - Tôi sẽ học, - Jerzy nói với vẻ tin tưởng, - và tôi sẽ bắt đầu bằng cách đặt tên Mỹ cho mình. Từ hôm nay trở đi tôi sẽ là George Novak. Thế là không có khó khăn gì nữa. Mọi người ở Hoa Kỳ sẽ nghĩ tôi là người Mỹ. Còn cậu, Wladek Koskiewicz, cậu thế nào? Cậu giữ cái tên đó thì chả làm gì được mấy đâu, phải không?
    Wladek nhìn anh chàng mới có cái tên là George kia và thầm bực mình với tên của chính mình. Không thể lấy ngay được cái tên mà anh có quyền hưởng gia tài kia, anh nghĩ bụng cái tên Koskiewicz thật là rắc rối mà còn bất hợp pháp nữa.
    - Tớ sẽ tìm cách sau, - anh đáp. - Nếu cậu muốn, tớ có thể giúp cậu học tiếng Anh được.
    - Còn tớ sẽ giúp cậu tìm gái.
    Zaphia cười khúc khích.
    - Anh chả cần đâu, anh ấy đã tìm được một cô rồi.
    Jerzy bây giờ đổi tên là George và anh ta đòi họ phải gọi bằng tên đó, cứ mỗi tối sau khi ăn xong lại chui vào một chiếc xuồng phao có bạt che ở trên để hú hí với một côgái. Wladek rất muốn biết anh ta làm gì trên đó, vì những người đàn bà mà George chọn và rue lên đó không những bẩn thỉu mà còn xấu xí nữa.
    Một tối sau bữa ăn, khi George đã biến đi rồi, Wladek với Zaphia ngồi trên boong tàu nói chuyện. Cô ta quàng tay ôm lấy anh bảo anh hôn. Anh kề miệng vào môi cô ta, nhưng người anh cứng quèo, lúng túng không biết làm thế nào. Anh ngạc nhiên thấy cô ta lùa đầu lưỡi vào miệng mình. Lát sau hết sửng sốt rồi, anh thấy miệng cô ta há ra một cách rất khiêu gợi và người anh rạo rực hẳn lên. Anh ngượng, muốn ngồi lùi lại nhưng cô ta không hề chú ý, trái lại cứ áp người vào sát anh đưa đẩy và cầm tay anh kéo xuống dưới. Cơ thể anh giần giật rất khó chịu. Cô ta ngừng hôn và thủ thỉ vào tai anh.
    - Anh muốn em cởi quần áo không, Wladek?
    Anh không biết thế nào trả lời.
    - Thôi có lẽ để đến mai. ?" Cô ta nói và đứng dậy bỏ đi.
    Anh lật đật đi về giường mình, trong bụng nghĩ đến hôm sau sẽ quyết tâm hoàn thành cái việc mà Zaphia đã bắt đầu. Anh vừa đặt lưng xuống và nghĩ xem sẽ thực hiện việc đó như thế nào thì bỗng có một bàn tay to túm lấy tóc anh kéo từ trên giường xuống sàn tàu. Trong khoảnh khắc, sự kích thích ******** trong anh tan biến mất. Hai người đàn ông anh chưa thấy bao giờ đứng lù lù ở đó. Họ kéo anh vào một góc xa và bắt đứng dựa vào tường. Một bàn tay to bịt chặt lấy miệng anh trong khi một lưỡi dao kề vào cổ họng.
    - Cấm được kêu, - tên cầm dao ấn lưỡi dao vào da thịt anh, nói khẽ. ?" Chúng tao chỉ cần cái vòng bạc ở cổ tay mày thôi.
    Mất chiếc vòng bạc này sẽ chẳng khác gì như bị chặt bàn tay, Wladek nghĩ thế mà khiếp sợ. Anh chưa biết làm thế nào thì một trong hai tên đó đã kéo tuột được chiếc vòng ra khỏi cổ tay. Anh không rõ mặt chúng vì ở chỗ này tối quá. Anh đang lo như thế là vĩnh viễn mất chiếc vòng thì bỗng có một người nào đó nhảy lên lưng tên cầm dao. Wladek lợi dụng cơ hội đấm một nhát vào mặt tên đang ghì anh vào tường. Những người ngủ quanh đó thức dậy xôn xao. Hai tên kia vội bỏ trốn nhưng George đã kịp đâm một nhát dao vào cạnh sườn một tên.
    - Cho chúng mày chết nhé, - Wladek hét lên và đứng lại.
    - Tớ đến vừa kịp, - George nói. ?" Chúng nó chưa quay lại đâu.
    Anh ta nhìn chiếc vòng bạc nằm lăn lóc trên sàn đầy mùn cưa.
    - Hay thật, - anh ta trịnh trọng nói. - Sẽ còn có nhiều người muốn cướp cái của quý ấy của cậu đấy.
    Wladek nhặt chiếc vòng lên đeo vào tay.
    - Suýt nữa thì cậu mất hẳn chiếc vòng này đấy nhé. ?" George nói. ?" May cho cậu là tối nay tới về hơi muộn.
    - Tại sao cậu về hơi muộn? ?" Wladek hỏi.
    George khoe khoang:
    - Tớ nổi tiếng rồi. Thực tình là tối nay tớ vớ được một thằng ngốc mò đến chiếc xuồng của tớ. Hắn tụt quần rồi. Tớ trông thấy thế bèn bảo hắn đừng có nằm với cô gái mà tuần trước tớ định nằm nhưng không dám vì cô ta có bệnh giang mai. Thế là hắn vội vã mặc quần vào bỏ đi ngay.
    - Cậu làm gì trong xuồng ấy? ?" Wladek hỏi.
    - Thì ngủ với họ chứ làm gì nữa, sao cậu hỏi ngốc thế?
    Nói rồi George lăn ra ngủ.
    Wladek nằm nhìn lên trần, tay mân mê chiếc vòng bạc. Anh suy nghĩ về câu George vừa nói, và tự hỏi không biết mình sẽ ngủ với Zaphia như thế nào đây.
    Sáng hôm sau tàu gặp một cơn bão. Tất cả các hành khách đều bị cấm không được lên boong. Mùi hôi thối cộng thêm với hệ thống sưởi trong tàu càng nồng nặc lên như sói vào tận trong óc Wladek.
    - Thế là hỏng cả việc của tớ, không thực hiện đủ một tá. ?" George phàn nàn.
    Cơn bão tan đi, hầu hết các hành khách kéo lên khoang trên. Wladek và George vội chen trong đám đông chui lên hít thở ít không khí trong lành. Nhiều cô gái nhìn George mỉm cười, nhưng Wladek thấy họ không để ý gì đến anh. Một cô gái tóc đen, má đỏ hồng lên vì gió biển, qua mặt George cười với anh ta. Anh ta quay sang Wladek.
    Wladek nhìn cô ta xem cô ta chú ý đến George như thế nào.
    - Tối nay nhé, - George chờ cô ta bước đến gần mới nói cho cô ta đủ nghe. Cô ta làm như không nghe thấy gì, vẫn bước đi nhanh hơn trước một chút.
    - Wladek, cậu ngoái lại xem cô ta có quay nhìn tớ không.
    Wladek ngoái lại, và ngạc nhiên đáp.
    - Có, cô ta có nhìn.
    - Thế là tối nay cô ta thuộc về tớ, - George nói. - Cậu đã có được Zaphia chưa?
    - Chưa, - Wladek đáp. - Tối nay.
    - Đã đến lúc rồi hả? Đến New York thì cậu sẽ không bao giờ còn được gặp lại cô ta nữa.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  3. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Đúng như George nói, bữa tối hôm đó anh ta đã kéo theo được cô gái tóc đen đó. Wladek và Zaphia không nói gì, quàng tay vào người nhau và đi lên boong trên dạo bước quanh tàu. Wladek liếc nhìn sang thấy nét nghiêng của Zaphia rất xinh. Anh nghĩ bụng, và quyết định phải làm ngay chứ không để lúc khác nữa. Anh dẫn cô ta đến một góc tối và bắt đầu hôn cô ta như hôm qua cô ta đã hôn mình. Cô ta lui lại một chú và tựa vai vào lan can. Wladek tiến theo. Cô ta cầm tay anh kéo xuống ngực. Anh sờ vào đó và không ngờ nó êm ái như vậy. Cô ta cởi vài khuy áo và đưa tay anh luồn vào bên trong. Anh thấy cảm giác đầu tiên sờ vào da thịt thật là ngon lành khó tả.
    - Lạy Chúa! Tay anh lạnh thế! ?" Zaphia nói.
    Wladek ghì chặt cô ta vào người, thở dốc. Cô ta cùng đưa đẩy với anh một lúc rồi lùi ra nói: - Ở đây không được, chúng mình phải đi tìm một cái xuồng.
    Họ ngó nhìn vào ba chiếc xuồng đầu đều có người bên trong. Cuối cùng thấy một chiếc xuồng không bèn chui ngay vào dưới mái vải bạt. Trong bóng tối của chiếc xuồng Zaphia làm gì đó một lát với đám quần áo của cô ta rồi kéo Wladek nằm đè lên người mình. Wladek loay hoay không biết làm thế nào thì cô ta bỗng ngừng hôn và khẽ bảo anh.
    - Cởi quần ra chứ.
    Anh cảm thấy mình như một thằng ngốc, vội làm theo, nhưng rồi chưa kịp hành động gì thì đã rùng mình rồi người anh nhủn ra. Anh chợt hiểu là khuỷu tay và đầu gối của mình đang tì vào những đầu mẩu gỗ trong xuồng đau điếng.
    - Đây là lần đầu tiên anh ******** với một cô gái phải không? ?" Zaphia hỏi và muốn anh lại nằm lên người cô ta nữa.
    - Không, tất nhiên không phải, - Wladek nói.
    - Anh có yêu em không, Wladek.
    - Có, anh yêu em, - Wladek nói. ?" Và khi có nơi ăn chốn ở tại New York rồi, anh sẽ đến tìm em ở Chicago.
    - Em muốn thế lắm, Wladek, - cô ta nói và cài lại khuy áo.
    - Và em cũng yêu anh nữa.
    Wladek vừa về thì George đã hỏi ngay.
    - Cậu có ngủ với cô ta không?
    - Có.
    - Thích không?
    - Thích, - Wladek đáp bâng quơ rồi ngủ ngay.
    Đến sang hôm sau, họ bỗng thức dậy nghe tiếng xôn xao trong hành khách. Ai cũng mừng đây là ngày cuối cùng trên con tàu Mũi tên đen. Một số người đã lên boong tàu từ trước mặt trời mọc, hy vọng được nhìn thấy đất liền trước những người khác. Wladek gói ghém đồ đạc cho vào chiếc va li mới, mặc bộ đồ duy nhất vào người, đội mũ vào, rồi lên đứng trên boong cùng với George và Zaphia. Ba người dõi nhìn vào đám sương mù trên mặt biển, im lặng chờ để được trông thấy đất Hoa Kỳ.
    - Kia kìa! - Một hành khách reo lên, tiếp theo đó là cả đám người trên boong vui mừng trông thấy dải dất màu xám của đảo Long Island từ từ hiện ra trong buổi sáng mùa xuân
    Những chiếc tàu con tiến đến bên tàu Mũi tên đen dẫn nó đi vào giữa Brooklyn và đảo Staten để vào bến New York. Pho tượng Nữ Thần Tự Do đứng sừng sững trên nền trời trước khu Manhattan và giơ ngọn đuốc lên cao khiến mọi người trên tàu nhìn bằng con mắt kinh ngạc.
    Cuối cùng, tàu bỏ neo gần những ngôi nhà có tháp cao xây gạch đỏ trên đảo Ellis. Những hành khách có phòng riêng trên tàu xuống trước. Mãi đến hôm nay Wladek mới trông thấy những người đó. Anh đoán có lẽ họ ở một tầng riêng trên tàu và có những phòng ăn riêng. Hành lý của họ đã có người đến mang vác. Họ được những người đứng sẵn dưới bến đón mừng. Wladek biết là mình sẽ chẳng có được cái cảnh ấy.
    Sau khi một số người có đặc quyền ấy đã xuống tàu rồi, thuyền trưởng nói trên loa rằng mọi hành khách khác chưa được rời tàu và phải chờ nhiều giờ nữa. Tiếng phàn nàn thất vọng vang lên và Zaphia ngồi bệt xuống boong tàu khóc. Wladek đến khuyên nhủ cô ta. Lát sau những biển số đến đeo vào cổ mỗi hành khách. Wladek mang số B127. Anh nhớ trước đây có một lần phải đeo số rồi. Sao bây giờ cũng lại thế nữa? Mỹ cũng như các trại giam ở Nga chăng?
    Cho đến tận giữa buổi chiều họ cũng chẳng được cho ăn uống gì, và cũng không ai nói cho biết là thế nào nữa. Họ được đưa xuống bến bên phía đảo Ellis. Rồi đàn ông tách riêng khỏi phụ nữ, được đưa vào những căn phòng khác nhau. Wladek hôn Zaphia và cứ giữ cô ta đứng lại trong hàng. Một viên chức trách đi qua đó thấy thế tách họ ra.
    - Cứ đi đã, - ông ta nói. - Rồi sẽ cho hai người lấy nhau, chẳng bao lâu nữa đâu.
    William thấy Zaphia đi mất hút, còn anh và George bị đẩy lên phía trước. Đêm đó họ ngồi trong một căn nhà cũ, ẩm ướt, không sao ngủ được trong khi những người phiên dịch đi đi lại lại giúp cho một số người nhập cư còn lớ ngớ chưa biết gì. Họ giúp qua loa thôi nhưng thái độ cũng nhã nhặn.
    Đến sáng, họ chưa đưa đi khám sức khỏe. Chặng đầu là khó thật. Người ta bắt Wladek phải lên lên một cầu thang gác thật dốc. Ông bác sĩ mặc bộ đồng phục màu xanh bảo Wladek lên xuống hai lần và nhìn kỹ cách đi đứng của anh. Wladek cố hết sức không tỏ ra mình hơi bị thọt. Cuối cùng ông bác sĩ hài lòng. Sau đó người ta bảo anh cởi bỏ mũ, và cổ áo cứng, để xem kỹ mặt mũi, tóc tai, tay và cổ. Người đến sau Wladek có môi trên bị sứt, thế là bị ông bác sĩ ách lại, đánh dấu phấn lên vai phải anh ta và chi ra đứng ở đầu nhà. Khám thân thể xong, Wladek cùng với George lại nối vào một đoàn người xếp hàng dài bên ngoài phòng gọi là kiểm tra công cộng. Mỗi người vào trong phòng đó chừng năm phút để họ phỏng vấn. Ba giờ đồng hồ sau đến lượt George được gọi vào. Wladek nghĩ bụng không biết người ta sẽ hỏi gì mình.
    Lúc George bước ra, anh ta nhìn Wladek mỉm cười.
    - Dễ thôi, cậu cứ đi thẳng vào đó, - anh ta nói. Wladek cảm thấy hai bàn tay mình ướt mồ hôi khi anh bước vào phòng.
    Anh bước theo viên chức trách vào một phòng nhỏ chung quanh không có gì trang trí. Có hai người xét hỏi ngồi đó và hí hoáy viết gì lên những tờ giấy có vẻ là giấy khai đặc biệt.
    - Anh nói được tiếng Anh không? - người thứ nhất hỏi.
    - Thưa ông có, tôi nói được, - Wladek trả lời, nghĩ bụng dọc đường giá tập nói nhiều thì hơn.
    - Tên anh là gì?
    - Wladek Koskiewicz, thưa ông.
    - Họ đưa cho anh một cuốn sách to màu đen.
    - Anh có biết cái này là gì không.
    - Thưa có, đây là Kinh Thánh.
    - Anh có tin ở Chúa không?
    - Thưa có, tôi tin.
    - Anh hãy để tay lên Kinh Thánh và thề sẽ trả lời thành thật những câu hỏi của chúng tôi.
    Wladek đưa tay trái cầm cuốn Kinh Thánh, đặt bàn tay phải lên đó và nói:
    - Tôi hứa sẽ nói sự thật.
    - Quốc tịch anh là gì?
    - Ba Lan.
    - Ai trả tiền cho anh đi qua đây?
    - Tôi tự trả bằng tiền tôi kiếm được trong Lãnh sự quán Ba Lan ở Constantinople.
    Một trong hai người nhìn vào giấy tờ của Wladek, gật đầu rồi hỏi tiếp.
    - Anh có đến một nhà nào không?
    - Thưa có. Tôi sẽ đến ở nhà ông Peter Novak. Ông ấy là chú của bạn tôi. Ông ấy ở New York.
    - Tốt. Anh có việc gì làm không?
    - Thưa có. Tôi về làm trong lò bánh mì của Novak.
    - Anh đã bị bắt bao giờ chưa?
    Wladek chợt nghĩ đến hồi ở Nga. Điều đó không tính. Thổ Nhĩ Kỳ? Không, anh sẽ không nhắc đến làm gì.
    - Không, thưa ông, chưa bao giờ.
    - Anh có phải là người vô chính phủ không?
    - Không, thưa ông. Tôi ghét họ lắm.
    - Anh có tuân theo luật pháp của Hoa Kỳ không?
    - Có, thưa ông.
    - Ạnh có tiền gì không?
    - Có thưa ông.
    - Cho chúng tôi xem nào?
    - Vâng, thưa ông, - Wladek để lên bàn mấy tờ giấy bạc và một ít tiền lẻ.
    - Cám ơn, - người xét hỏi nói. ?" Anh có thể cất tiền vào túi đi.
    Người thứ hai nhìn Wladek.
    - Hai mươi mốt cộng với hai mươi bốn là bao nhiêu?
    - Bốn mươi lăm, - Wladek không ngập ngừng nói ngay.
    - Con bò cái có mấy chân?
    Wladek không tin ở tai mình.
    - Bốn thưa ông, - anh đáp và không biết có phải câu hỏi đó là cái bẫy không?
    - Con ngựa có mấy chân?
    - Bốn thưa ông, - Wladewk đáp, trong bụng vẫn ngờ ngợ.
    - Đang đi trên một chiếc thuyền con ngoài biển, nếu phải vứt đi cho nhẹ thì anh sẽ vứt gì, bánh mì hay tiền bạc.
    - Vứt tiền, thưa ông, - Wladek đáp.
    - Tốt, - Người xét hỏi cầm lên một tấm thẻ có đề chữ ?oChấp nhận? và đưa cho Wladek. ?" Sau khi anh đổi tiền rồi thì đưa tấm thẻ này trình cho viên sĩ quan Nhập cư. Anh nói đầy đủ tên cho ông ta biết, và ông ta sẽ đưa cho anh thẻ đăng ký. Rồi họ sẽ cho anh giấy nhập cảnh. Nêu trong năm năm anh không phạm tội gì và qua được buổi kiểm tra đọc và viết tiếng Anh, tán thành ủng hộ Hiến pháp, thì anh sẽ được phép xin nhập quốc tịch Hoa Kỳ. Chúc anh may mắn, Wladek.
    - Xin cám ơn ông.
    Ra quầy đổi tiền, Wladek đưa cả số tiền mười tám tháng dành dụm ở Thổ Nhĩ Kỳ cùng với ba tờ bạc 50 rúp còn lại cho họ. Họ trao lại cho anh 47,20 đôla đổi tiền Thổ Nhĩ Kỳ sang, còn những tờ rúp thì họ bảo anh là không có giá trị. Anh nghĩ đến bác sĩ Dubien với mười lăm năm dành dụm của ông.
    Bước cuối cùng là ra gặp sĩ quan Nhập cư. Ông ta ngồi sau một chiếc bàn ngay bên cửa ra vào có thang chắn, dưới bức chân dung Tổng thống Harding. Wladek và George cùng bước đến.
    - Tên họ? ?" Ông sĩ quan hỏi George.
    - George Novak, - anh ta trả lời gọn. Ông sĩ quan viết lên một tấm thẻ.
    - Địa chỉ? ?" ông ta hỏi.
    - 286. phố Broome, New York.
    Viên sĩ quan đưa tấm thẻ cho George.
    Đây là giấy chứng nhận nhập cư của anh, 21871, George Novak- Hoan nghênh anh đến Hoa Kỳ. Tôi cũng là người Ba Lan. Rồi anh ở đây sẽ thích. Chúc mừng anh và chúc anh may mắn.
    George mỉm cười và bắt tay viên sĩ quan, rồi đứng sang một bên chờ Wladek. Viên sĩ quan nhìn Wladek. Wladek đưa cho ông ta tấm thẻ có chữ ?oChấp nhận?.
    - Tên họ? ?" viên sĩ quan hỏi.
    Wladek ngập ngừng.
    - Tên anh là gì? ?" ông ta nhắc lại to hơn, có vẻ hơi sốt ruột.
    Wladek không sao nói ra được. Anh ghét cái tên nông dân kia hết sức.
    - Tôi hỏi lần nữa, tên anh là gì?
    George nhìn Wladek. Những người khác xếp hàng phía sau cùng nhìn anh. Wladek vẫn chưa nói. Viên sĩ quan bỗng nắm lấy cổ tay anh, nhìn kỹ vào dòng chữ trên chiếc vòng bạc, viết vào tấm thẻ rồi đưa lại cho Wladek.
    - 21872, Nam tước Abel Rosnovski. Hoan nghênh đến Hoa Kỳ. Chúc mừng và chúc anh may mắn, Abel.
    (Hết phần một)
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  4. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    PHẦN HAI
    1923 ?" 1928​
    12
    Tháng chín 1923, William trở lại học năm cuối cùng ở trường St. Paul và được bầu làm chủ tịch lớp lớn, đúng ba mươi năm sau khi bố anh cũng đã giữ chức đó. Nhưng William không phải được bầu lên theo cách thông thường hoặc do được coi là học sinh nổi tiếng nhất trong trường. Nếu theo những tiêu chuẩn ấy thì Matthew Lester, bạn thân nhất của anh, sẽ đánh bại anh bất cứ cuộc thi nào. Nhưng William lại là một anh chàng gây nhiều ấn tượng nhất trong trường và về mặt này thì Matthew Lester không thể đua với anh được. William đại diện cho trường St. Paul để thi lấy học bổng Haminton về môn toán ở trường đại học Harvard, và trong học kỳ cuối này anh quyết tâm đạt mục tiêu ấy.
    Thời gian về nhà nghỉ nhân dịp lễ Giáng sinh, anh dành hết tâm trí vào việc nắm vững những nguyên lý về toán. Tuy nhiên điều đó cũng khó thực hiện vì người ta mời anh đến dự đủ thứ chiêu đãi và vũ hội. Anh khéo léo từ chối được một số cuộc, nhưng riêng có một cuộc anh không trốn nổi, đó là vũ hội do các cụ bà chủ trương làm ở ngôi nhà đỏ trên quảng trường Louisburg. William nghĩ không biết đến tuổi nào anh mới có quyền quyết định được, không để cho các cụ dùng ngôi nhà này vào việc như thế. Anh biết là bây giờ chưa đến lúc, vả lại có như vậy thì những người làm trong nhà mới có việc làm. Anh chỉ có rất ít bạn thân Boston, và điều đó không ngăn nổi các cụ bầy ra một danh sách dài dằng dặc những khách mời.
    Để kỷ niệm dịp này, các cụ tặng William một bộ áo lễ phục kiểu mới có hai lần ngực. Anh nhận tặng phẩm ấy với một vẻ không nồng nhiệt lắm, nhưng rồi cũng về phòng ngủ đóng bộ lên người và đi lại nhìn ngắm trong gương.
    Hôm sau anh gọi điện thoại đường dài đi New York mời Matthew Lester về dự. Cô em Matthew cũng muốn đi theo nhưng mẹ cô bảo là không tiện, nên lại thôi.
    William ra ga đón bạn.
    - Nào, cậu thử nghĩ xem, - Matthew ngồi trên xe về đồi Beacon nói với William, - chẳng phải là đã đến lúc cậu phải có quan hệ trai gái rồi hay sao? Có lẽ ở Boston không có cô nào ra hồn ư?
    - Sao cậu đã có cô nào rồi đấy, Matthew?
    - Rồi chứ, từ mùa đông năm ngoái ở New York cơ.
    - Lúc đó mình làm gì nhỉ?
    - Có lẽ cậu đang mơ làm Bertrand Russell (nhà triết học, toán học kiêm nhà văn Anh 1872-1970, tác giả của cuốn Nguyên lý Toán học, giải thưởng Nobel văn học 1950)
    - Thế mà cậu chả bảo gì cho mình biết.
    - Có gì đâu mà nói. Thực ra, mình như cậu nghĩ nhiều đến ngân hàng của ông bố mình hơn là chuyện tình của mình. Chuyện xảy ra tại một cuộc chiêu đãi của bố mình kỷ niệm ngày sinh Washington. Hôm đó có thể nói mình bị một trong những thư ký giám đốc đè ra hiếp. Đó là một bà rất to lớn có tên là Cynthia, có bộ ngực đồ sộ núng nính đến mức?
    - Cậu có thích không chứ?
    - Có, nhưng mình không tin rằng bà ta cũng thích. Bà ta quá say rượu nên không biết có mình ở đó. Vả lại, mình nghĩ rồi cũng phải bắt đầu ở chỗ nào đó, trong khi ấy thì bà ta tự nguyện giúp cho con ông chủ được biết mùi đời kia mà.
    Trong óc William chợt hiện lên hình ảnh bà thư ký trung niên đứng đắn của Alan Lloyd anh gặp hôm trước.
    - Mình không nghĩ là sẽ có cái may mắn được bà thư ký của Chủ tịch dạy cho những bài học đầu tiên ấy, - anh nói.
    Matthew ra điều hiểu biết:
    - Rồi cậu sẽ ngạc nhiên thấy rằng chính những người đàn bà có vẻ đứng đắn nghiêm túc lại là những người dễ dàng lăn vào vòng tay mình hơn cả. Bây giờ thì mình sẵn sàng nhận mọi lời mời, dù là chính thức hay không chính thức, mà cũng chả cần phải ăn mặc chỉnh tề nữa.
    Cất xe vào rồi, hai người bước lên ngôi nhà bây giờ là của William.
    - Cậu đã thay đổi nhiều rồi đấy nhỉ, - Matthew nhìn bộ bàn ghế mới bằng song mây và giấy hoa mới dán trên tường. Chỉ có chiếc da màu đỏ sẫm vẫn đâu ở nguyên đấy.
    - Chỗ này cũng cần sáng sủa lên một chút, - William nói. - Trước đây cứ như sống trong thời kỳ đồ đá. Vả lại, mình không muốn để gợi lại những? Nhưng thôi, bây giờ không phải lúc nói về trang trí nội thất.
    - Bao giờ thì mọi người sẽ đến dự cuộc chiêu đãi này?
    - Vũ hội đấy, Matthew. Các cụ cứ nhất định phải gọi đây là vũ hội.
    - Trong những dịp này chỉ có một thứ có thể gọi là vũ hội được thôi.
    - Matthew, cậu chỉ mới biết đến một thư ký của giám đốc thôi mà đã tưởng mình có quyền lên lớp thiên hạ về ******** sao?
    - Ôi, cậu ghen tỵ đấy à? Thôi đi anh bạn ơi, - Matthew thở dài chế nhạo.
    William cười và nhìn đồng hồ tay.
    - Trong vài giờ nữa, người khách đầu tiên sẽ tới. Bây giờ cậu hãy đi tắm rửa thay quần áo đã. Cậu có nhớ mang theo lễ phục đấy không?
    - Có, nhưng nếu không thì mình mặc bộ quần áo ngủ cũng được chứ sao. Mình thường hay quên thứ này hoặc thứ kia, nhưng cả hai thứ thì không bao giờ, dù muốn quên cũng không được. Thực ra, nếu mình mặc quần áo ngủ ra dự vũ hội thì có thể sẽ làm mọi người buồn cười lắm nhỉ.
    - Các cụ nhà mình chả thích đùa thế đâu, - William nói.
    Sáu giờ, những người phục vụ chiêu đãi lục tục đến. Họ có tất cả hai mươi ba người. Bây giờ, các cụ đến, trịnh trọng trong bộ đồ bằng ren đen kéo dài chấm đất. Vài phút trước tám giờ, William và Matthew đến với các cụ ở phòng tiền sảnh.
    William định nhặt một quả anh đào trên chiếc bánh gatô rất đẹp ở giữa bàn thì có tiếng bà nội Kane ở sau lưng.
    - Cháu đừng đụng vào đấy, William, không phải dành cho cháu đâu.
    Anh quay ngoắt người lại.
    - Vậy thì dành cho ai? ?" Anh hỏi và hôn lên má bà nội.
    - Đừng lôi thôi William. Đừng tưởng lớn thế rồi mà bà không cho mấy cái phát vào đít được đâu.
    - Bà nội ơi, cháu xin được giới thiệu đây là Matthew Lester, bạn thân nhất của cháu.
    Bà nội Kane giương mục kỉnh lên ngắm nhìn anh ta một lát rồi nói:
    - Chào cháu.
    - Cháu vinh dự được gặp bà, bà Kane. Cháu tin là bà có biết ông cháu.
    - Biết ông cháu ư? Caleb Longworth Lester ư? Trước đây hơn năm mươi năm, ông ấy đã từng hỏi lấy bà nhưng bà từ chối. Bà bảo là ông ấy uống rượu quá nhiều, và như thế thì sẽ chết sớm đấy. Quả đúng như bà nói. Vậy hai cháu đừng có uống rượu nhé. Nhớ đấy, rượu làm cho người ta ngu muội đi.
    - Chúng cháu chẳng dám phạm luật đâu (từ năm 1920 đến 1933, ở Mỹ có luật cấm sản xuất và mua bán rượu) ?" Matthew ra vẻ ngây thơ nói.
    - Nhưng rồi chẳng bao lâu nữa luật sẽ mất giá trị, - bà Kane nói. - Tổng thống Coolidge đã quên mất những ngày thơ ấu của ông ta rồi. Nếu như cái ông ngốc Harding ấy không chết một cách dại dột thì ông Coolidge này cũng chẳng bao giờ làm Tổng thống được.
    William cười.
    - Ôi, bà nhớ giỏi thật đấy. Trong cả thời gian cảnh sát đình công, có ai nói gì đến ông ta đâu.
    Bà Kane không bắt chuyện nữa.
    Khách mời đã đến dần. Rất nhiều trong số họ hoàn toàn xa lạ với chủ nhà.
    Mấy bà cháu vui mừng thấy Alan Lloyd đến sớm.
    - Trông anh khá lắm William, - Alan lần đầu tiên ngắm kỹ anh và nói.
    - Ông cũng thế. Ông đến thật là quý hóa.
    - Quý hóa ư? Anh quên rằng giấy mời là của cả hai cụ à? Nếu là một cụ thôi thì tôi có thể lấy hết can đảm từ chối, nhưng cả hai cụ thì?
    - Ông cũng thế à? ?" William cười. ?" Tôi muốn nói riêng với ông một câu được không? ?" Anh kéo ông Alan ra một góc. ?" Tôi muốn có chút thay đổi trong kế hoạch đầu tư, bắt đầu mua chứng khoán của ngân hàng Lester khi nào nó được tung ra thị trường. Tôi muốn là đến khi nào đủ hai mươi mốt tuổi thì đã có 5 phần trăm cổ phiếu trong ngân hàng của họ rồi.
    - Không dễ thế đâu, - Alan nói. - Chứng khoán Lester không thấy mấy khi xuất hiện trên thị trường, vì nó đều nằm trong tay tư nhân cả. Nhưng để tôi xem có thể làm gì được không. Tại sao anh lại nghĩ thế, William?
    - Mục đích thật sự của tôi là?
    - William, - bà ngoại Cabot bỗng đến bên cạnh. ?" Cháu âm mưu cái gì với Lloyd ở đây thế? Bà chưa thấy cháu ra nhảy với một cô nào cả. Vậy cháu tưởng bà tổ chức ra cái vũ hội này để làm gì?
    - Bà nói đúng đấy, - Alan Lloyd nói và đứng dậy. - Mời bà ngồi xuống đây với tôi, bà Cabot, để tôi tống cái cậu này ra ngoài kia. Chúng ta ngồi đây nhỉ, xem cậu ta nhảy, và nghe nhạc vậy.
    - Nhạc? Đây không phải là nhạc, Alan. Chỉ toàn những tiếng loảng xoảng inh tai mà không có chút giai điệu nào hết.
    - Ôi, bà ngoại yêu quý ơi, - William nói, - đây là bài hát nổi tiếng mới nhất, bài ?oChúng ta không có chuối? đấy.
    Bà ngoại Cabot nhăn nhó:
    - Nếu vậy thì đã đến lúc bà từ giã cõi đời này rồi.
    - Không bao giờ đâu thưa bà, - Alan Lloyd đỡ lời.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  5. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    William ra nhảy với vài cô gái mà anh nhớ mang máng là đã gặp ở đâu và không nhớ tên. Trông thấy Matthew ngồi ở góc phòng, anh tìm cớ thoát khỏi sàn nhảu và ra đó. Đến tận nơi anh mới để ý thấy bên cạnh Matthew có một cô gái. Thấy cô ta ngẩng lên nhìn mình, William tưởng như mình đến rủn cả người.
    - Cậu biết Abby Blount chứ? ?" Matthew chợt hỏi.
    - Không, - William đáp, tay chỉnh lại chiếc ca vát cho ngay ngắn.
    - Đây là chủ nhà của em, ông William Lowell Kane.
    William ngồi xuống ghế bên cạnh cô gái. Cô ta nhìn theo anh ngồi xuống, vẻ mặt nghiêm nghị. Matthew đã chú ý đến cái nhìn của William đối với Abby. Anh ta bỏ ra chỗ khác tìm nước quả uống.
    - Suốt đời tôi ở Boston mà sao chưa gặp cô bao giờ nhỉ?
    - Chúng đã gặp nhau một lần rồi. Cái hồi anh đẩy tôi xuống ao ở gần Nhà thị chính ấy. Lúc đó chúng tôi có ba đứa mà. Phải mất mười bốn năm tôi mới hoàn hồn đấy.
    - Tôi xin lỗi, - William lặng người đi một lúc rồi mới nói lên được. Anh không nghĩ ra câu gì để đáp lại cô ta.
    - Anh có ngôi nhà đẹp lắm, William.
    - Cám ơn.
    Anh lại ngồi im rồi khẽ đáp. Anh liếc nhìn sang Abby, làm ra vẻ như mình không để ý lắm. Cô ta mảnh dẻ, có đôi mắt nâu và to, lông mi dài cong, có nét nhìn nghiêng rất hấp dẫn đối với William. Abby buông thõng mớ tóc hung xuống theo một kiểu mà xưa nay William vốn không thích.
    - Matthew bảo em là sang năm tới anh vào Harvard, - cô ta gợi chuyện.
    - Đúng đấy. Cô muốn nhảy không?
    - Cám ơn, - cô ta nói.
    Những bước chân của anh lúc nãy thoải mái mà bây giờ sao ngượng ngùng thế nào ấy. Anh giẫm cả lên chân cô ta và đưa cô ta đụng vào những người khác. Anh xin lỗi. Cô ta mỉm cười. Anh ôm cô ta lại sát người, rồi cả hai người lại tiếp tục nhảy.
    - Bà có biết cái cô ta kia suốt từ nãy chỉ có nhảy với William không? ?" bà ngoại Cabot nghi ngờ hỏi.
    Bà nội Kane gương mục kỉnh lên nhìn cô gái đang nhảy cùng với William lúc này đi ra ngoài bãi cỏ.
    - Abby Blount, - bà Kane nói.
    - Tức là cô cháu gái của Đô Đốc Blount ấy ư? ?" bà ngoại Cabot hỏi.
    - Đúng thế.
    Bà ngoại Cabot gật đầu có vẻ hài lòng.
    William đưa Abby Blount ra tận góc vườn, đứng lại dưới gốc một cây hạt dẻ to ngày xưa anh hay trèo lên đó.
    - Lần đầu gặp một cô gái nào anh cũng định hôn cô ta hay sao? ?" Abby hỏi.
    - Nói thật tình là anh chưa bao giờ hôn một cô gái nào, - William đáp.
    - Thế thì em hân hạnh quá. ?" Abby cười.
    Cô ta giơ một bên má hồng cho anh hôn, rồi đến đôi môi mọng đỏ. Liền sau đó đòi anh quay trở vào trong nhà. Hai cụ bà theo dõi thấy họ quay vào sớm yên tâm.
    Tối hôm đó về phòng ngủ của William, hai anh chàng thanh niên ngồi bàn tán về chuyện vừa qua.
    - Cuộc chiêu đãi không đến nỗi nào. ?" Matthew nói. ?" Cũng bõ công mình đi từ New York về cái tỉnh lẻ này, và mặc dầu cậu đã hớt tay trên cô gái của mình.
    - Thế cậu tưởng cô ta giúp cho mình mất trinh hay sao? ?" William hỏi lại, không để ý đến lời trách đùa của Matthew.
    - Dù sao cậu cũng có ba tuần lễ để tìm hiểu, nhưng mình e rằng cậu sẽ phát hiện ra cô ta cũng chưa mất trinh, - Matthew nói. ?" Theo hiểu biết chuyên môn của mình là như thế. Mình đánh cuộc năm đôla với cậu là cô ta không đổ trước những lời tán tỉnh của William Lowell Kane.
    William tính một kế hoạch cẩn thận. Anh nghĩ mất trinh là một chuyện, còn mất năm đôla với Matthew lại là chuyện khác. Sau vũ hội, hầu như ngày nào anh cũng gặp Abby Blount, nhân tiện có ngôi nhà riêng của mình và có xe. Anh bắt đầu cảm thấy giá như không có bố mẹ Abby theo dõi và kín đáo kiểm soát cô con gái thì họat động của anh đã khá hơn rồi. Cho đến ngày cuối cùng hết hạn nghỉ hè, anh cũng thấy mình chẳng đến gần được mục tiêu hơn chút nào.
    Quyết tâm thắng cuộc và lấy năm đôla, hôm đó William gửi đến cho Abby một bó hoa hồng từ sáng sớm, rồi đến tối rủ cô ta đi ăn ở nhà hàng Joseph và cuối cùng kéo được cô ta về phòng mình.
    - Anh làm sao lại có được chai whisky như thế này? Cấm rượu kia mà? ?" Abby hỏi.
    - Ô, có khó gì lắm đâu, - William khoe.
    Thực ra đó là anh đã giấu được một chai rượu buốc bông của Henry Osborne ngay sau khi anh ta rời ngôi nhà này ra đi, và William lấy làm may mà còn giữ đến hôm nay chứ không uống hết.
    William rót rượu ra uống. Rượu làm anh suýt sặc và làm Abby chảy cả nước mắt.
    Anh ngồi xuống bên cạnh cô ta, quàng tay qua vai. Cô ngả người theo.
    Cô ta nhìn anh tha thiết, đôi mắt nâu mở to.
    - Ôi William, em nghĩ anh cũng hay lắm, - cô ta vưa thở vừa nói.
    Khuôn mặt như búp bê của cô khiến anh không cưỡng nổi. Cô ta để cho anh hôn. Rồi mạnh bạo hơn, William đưa bàn tay lần theo cổ tay của cô lên ngực và dừng lại ở đó như cảnh sát giao thông dừng một đoàn xe vẫy. Bỗng cô ta đỏ mặt không bằng lòng và đẩy tay anh xuống, để cho giao thông tiếp tục bình thường.
    - William, anh không nên làm thế.
    - Tại sao không? ?" William nói, vẫn cứ cố ôm chặt lấy cô.
    - Vì anh không thể biết được nó sẽ kết thúc như thế nào.
    - Anh có một ý kiến này hay lắm.
    Nhưng trước khi anh nói được câu gì thì Abby đã đẩy lùi anh ra và vội đứng dậy vuốt lại áo.
    - Thôi, có lẽ em về nhà đây, William.
    - Em vừa mới đến mà.
    - Mẹ sẽ hỏi em làm gì ở đây.
    - Thì em bảo là không làm gì cả.
    - Đúng thế, tốt hơn là không làm gì cả, - cô ta tiếp lời.
    - Nhưng ngày mai anh về rồi, - Anh tránh không nói là về trường.
    - Vậy anh có thể viết thư cho em, William.
    Không giống như Valentino, William biết là khi nào mình thất bại. Anh đứng dậy, chỉnh lại ca vát, cầm tay Abby rồi lái xe đưa cô về nhà.
    Hôm sau, trở lại trường, Matthew Lester nhận của William tờ bạc năm đôla và ngạc nhiên nghe anh nói:
    - Cậu mà nói thêm câu gì nữa Matthew, là mình sẽ dùng cây gậy dã cầu đánh đuổi cậu chạy quanh trường cho mà coi.
    - Mình chả nghĩ ra câu gì mà nói được, trừ mỗi điều là tỏ ra thông cảm với cậu thôi.
    - Matthew, cậu chết với mình nhé.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  6. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Trong học kỳ cuối năm ở St. Paul, William bắt đầu để ý đến bà vợ ông chủ nhà chỗ anh ở. Bà ta trông khá đẹp, chỉ có bụng và mông hơi xệ, nhưng bà ta giữ được bộ ngực tuyệt vời và bộ tóc đen sum suê trên đầu chỉ mới có vài sợi bạc. Một hôm vào thứ bảy, nhân William bị trẹo tay ở sau trận khúc côn cầu về, bà Raglan lấy băng mát ra bó tay cho anh. Bà ta đứng gần hơn mức cần thiết, để tay William cọ vào ngực. Anh thấy cảm giác dễ chịu lắm. Rồi một dịp khác anh bị sốt phải nằm trong trạm xá mấy ngày, bà ta đích thân đem thức ăn đến cho anh. Bà ta ngồi ngay trên giường của anh, người bà cọ vào chân anh qua lần vải mỏng. Anh cũng lấy thế làm thích.
    Người ta đồn bà ta là vợ thứ hai của ông Raglan. Trong cả ngôi nhà ấy, không ai cho là ông Raglan có thể chịu nổi một vợ chứ đừng nói đến hai. Thỉnh thoảng bà Raglan bằng những cái thở dài và bằng im lặng của mình, cho thấy là số phận của bà chẳng sung sướng gì.
    Với nhiệm vụ trưởng nhà, mỗi tối vào lúc mười rưỡi là Willam phải đến báo cáo cho ông Raglan biết là anh đã tắt hết đèn và chuẩn bị đi ngủ. Tối hôm thứ hai lúc gõ cửa buồng ông Raglan như mọi lần, anh ngạc nhiên nghe thấy chỉ có tiếng gõ cửa và tiếng bà Raglan gọi anh vào. Bà ta đang nằm trên chiếc ghế dài và mặc chiếc áo khoác ngoài bằng lụa giống như kiểu áo Nhật.
    William nắm tay núm cửa nói:
    - Đèn tắt hết rồi, và tôi cũng đã khóa cửa ngoài. Bà Raglan, chúc bà ngủ ngon.
    Bà ta thả hai chân xuống đất, thoáng để lộ đùi trần dưới làn áo lụa.
    - Sao anh vội thế, Willam. Lúc nào cũng vội vã khổ sở. ?" Bà bước ra gần bàn nói. ?" Sao anh không nán lại một lúc, uống sôcôla nóng với tôi đi. Tôi thật dở quá, lại đi làm hai cốc, mà quên mất là ông Raglan phải đến thứ bảy mới về.
    Bà ta nhấn mạnh vào chữ thứ bảy. Bà đem một cốc còn đang nóng bốc hơi đến và ngước nhìn lên xem câu nói của mình có tác động gì đến anh không. Bà ta đưa cốc cho anh với vẻ thỏa mãn, để tay mình chạm vào tay anh. Anh lấy thìa ngoáy cốc sôcôla nóng.
    - Ông Gerald nhà tôi đi họp hội nghị - bà ta giải thích. Lần đầu tiên anh nghe nói đến tên tục của ông Raglan. ?" Anh ra đóng cửa đi, William, rồi vào đây ngồi với tôi.
    William ngập ngừng. Anh ra đóng cửa, nhưng không dám ngồi xuống chiếc ghế của ông Raglan, cũng không dám ngồi xuống bên bà ta. Sau anh quyết định dù sao ngồi ghế của ông Raglan cũng đỡ hơn. Anh bước ra phía đó. ?" Không, không, - bà ta vừa nói vừa vỗ vào chỗ bên cạnh mình.
    William quay lại từ từ ngồi xuống đó, mắt nhìn vào cốc nước để xem đối phó thế nào. Anh uống ực một hơi, bỏng cả lưỡi. Thấy bà Raglan đứng dậy, anh nhẹ người. Bà ta lại rót thêm vào cốc anh, mặc cho anh từ chối, rồi nhẹ nhàng ra góc phòng, lên dây cót chiếc máy hát và cho chạy đĩa hát. Lúc bà ta quay lại anh vẫn còn đang nhìn xuống đất.
    - Chẳng lẽ anh để cho phụ nữ nhảy một mình sao William?
    Anh nhìn lên. Bà Raglan lắc lư theo điệu nhạc. William đứng dậy giơ tay ôm lấy bà nhưng để khoảng cách thật xa. Giá có ông Raglan ở đây mà đứng chen vào giữa cũng còn đủ chỗ. Sau vài nhịp thì bà ta nhích lại gần William hơn. Tay bà từ từ để tuột từ vai xuống lưng anh. Đĩa hát dừng lại, William nghĩ bụng thế là mình thoát và quay lại với cốc sôcôla nóng. Nhưng bà ta đã lộn mặt đĩa hát và trở về ngay trong vòng tay của anh.
    - Bà Raglan ạ, tôi nghĩ có lẽ là?
    - Yên trí đi, William.
    Anh mạnh bạo nhìn thẳng vào mắt bà ta. Anh định nói với bà nữa nhưng không biết nói gì. Lúc này bà ta đã sờ lần khắp nơi trên lưng anh và anh cảm thấy đùi bà ta đã nhẹ nhàng cọ vào người mình. Anh chợt quàng tay ôm chặt lấy bà.
    - Đấy, như thế tốt lắm, - bà ta nói.
    Họ từ từ đi những bước vòng quanh căn phòng, mỗi lúc ghì chặt lấy nhau hơn. Cứ như thế từng bước một, từng bước một cho đến cuối đĩa hát. Lúc bà ta lui người để đi ra tắt đèn thì anh muốn bà ta quay lại ngay chỗ mình. Anh đứng trong chỗ tối, không cử động, lắng nghe tiếng lụa sột soạt và trông rõ thấy cả bóng người đang trút bỏ quần áo.
    Đến lúc bà ta đến giúp William cởi quần áo của anh và đưa anh trở lại chiếc ghế dài thì bài hát cũng vừa hết, chỉ còn tiếng kim máy hát gại vào đĩa. Trong bóng tối, anh vụng về đưa tay sờ vào mấy chỗ trên cơ thể bà ta. Anh cảm thấy nó không đúng như anh đã tưởng tượng. Vừa sờ lên ngực bà ta, anh đã rụt tay lại. Anh bắt đầu có những cảm giác tưởng như trước đây nằm mơ cũng không có. Anh muốn rên lên thật to nhưng cố nhịn, không dám thốt ra một lời nào, sợ tỏ ra ngớ ngẩn quá chăng. Hai tay bà ta vẫn vòng lấy lưng anh và nhẹ nhàng kéo anh nằm đè lên mình.
    William loay hoay không biết làm thế nào vừa để thực hiện được điều mong muốn vừa không tỏ ra mình thiếu kinh nghiệm. Anh thấy nó không dễ dàng như anh nghĩ, và càng loay hoay càng như vụng thêm. Một lát nữa, bà ta lại đưa tay luốn xuống dưới bụng anh, hướng dẫn anh hành động một cách thông thạo. Nhưng anh cũng lập tức rung mình rồi rủn cả người.
    - Tôi xin lỗi, - William nói. Anh không biết làm gì tiếp theo, nhưng vẫn nằm yên trên bụng bà ta một lúc.
    - Mai sẽ khá hơn, - bà ta nói.
    Anh lại nghe thấy tiếng kim máy hát gại vào đĩa.
    Suốt cả ngày hôm sau, lúc nào bà Raglan cũng hiện lên trong óc anh. Kết quả là đêm hôm đó bà ta đã thở dài khoan khoái. Sang đêm thứ tư, bà ta hổn hển. Đêm thứ năm, bà ta rên rỉ. Đêm thứ sáu, bà ta hét lên sung sướng.
    Đến thứ bảy, ông Raglan đi hội họp về, thì lúc đó coi như William đã hoàn toàn những bài học của anh về môn ấy.
    Đến cuối kỳ nghỉ lễ Phục sinh, thì Abby Blount coi như đã bị William chinh phục. Thế là Matthew mất năm đôla, còn Abby thì mất trinh. Theo bà Raglan nói thì đó chẳng qua là một hiện tượng không tránh khỏi. Trong suốt kỳ nghỉ chỉ có mỗi chuyện đó xảy ra thôi, vì Abby đã đi theo bố mẹ về nghỉ ở Palm Beach, còn William thì đóng cửa chúi đầu vào sách vở, chỉ thỉnh thoảng mới gặp hai cụ bà và Alan Lloyd. Còn ít tuần nữa là đã thi tốt nghiệp. Ông Raglan không đi họp hội nghị ở đâu nữa và William cũng không có họat động nào khác được.
    Trong những ngày cuối học kỳ, anh với Matthew ngồi yên trong phòng học hàng giờ, không ai nói với nhau trừ phi Matthew có vài vấn đề về toán không giải được. Cuối cùng, kỳ thi mong đợi từ lâu đã đến. Tất cả chỉ có một tuần lễ mà họ gọi là ?otàn bạo?. Thi xong rồi, cả hai anh chàng sôt ruột chỉ muốn biết ngay kết quả. Nhưng rồi họ chờ hết ngày này sang ngày khác, mãi chẳng thấy gì, đâm ra không còn tin ở chính mình nữa. Học bổng Hamilton về toán để vào trường Harvard được cấp trên một cơ sở rất chặt chẽ, mà học sinh ở toàn nước Mỹ đều có quyền được nhận học bổng ấy. William không biết thế nào mà xét đoán được xem địch thủ của mình tài giỏi đến đâu. Thời gian tiếp tục trôi qua mà không thấy nói gì, William bắt đầu nghĩ có lẽ mình thất bại.
    Hôm đó William đang ở ngoài bãi chơi đá cầu với những học sinh lớp dưới, coi như giết nốt thì giờ của những ngày cuối cùng trước khi rời trường, thì có một bức điện gửi đến. Những ngày cuối cùng ở trường này thường có rất nhiều học sinh bị đuổi học hoặc vì say rượu, hoặc vì đập vỡ cửa kính, thậm chí vì tìm cách ngủ với con gái hay vợ của các thầy giáo.
    William đang khoe là anh sẽ thắng trong trận dã cầu này với mức chưa từng có từ trước đến nay và mọi người đang cười đùa trước lời tuyên bố quá đáng của anh thì người ta đưa vào tay cho anh bức điện. Anh quên hết ngay mọi thứ, vứt bỏ cây gậy dã cầu xuống, và đưa tay xé chiếc phong bì nhỏ màu vàng. Mọi người chung quanh hồi hộp chờ anh đọc bức điện.
    Matthew bước đến nhìn nét mặt William xem đó là tin mừng hay tin buồn. Nét mặt vẫn bình thường, William đưa bức điện cho Matthew xem. Vừa đọc xong, Matthew đã nhảy cẫng lên, quẳng bức điện xuống đất rồi ôm lấy William chạy vòng quanh sân. Một người khác bước đến nhặt bức điện lên xem rồi chuyền tay nhau cho đến người cuối cùng xem bức điện lại chính là người đã đêm nó đến lúc nãy. Anh ta đã không được cảm ơn thì chớ, mà còn là người cuối cùng được biết nội dung bức điện.
    Đó là bức điện gửi cho William Lowell Kane. Trong đó viết:
    Chúc mừng anh được hưởng học bổng Hamilton về toán vào trường đại học Harvard. Chi tiết sẽ gửi sau. Tu viện trưởng Lawrence Lowell, chủ tịch.
    Matthew sung sướng nhìn người bạn thân nhất của mình nay đã thành công, nhưng anh cũng hơi buồn nghĩ đến bây giờ lại phải xa nhau. William cũng cảm thấy nhưng không nói gì. Hai người lại phải chờ chín ngày nữa mới biết được là Matthew cũng trúng tuyển vào trường Harvard.
    Liền đó có một bức điện khác gửi đến, lần này là của ông Charles Lester chúc mừng con trai và mời cả hai chàng về dự tiệc trà tại Khách sạn Plaza ở New York. Cả hai cụ bà cũng có điện chúc mừng William, tuy nhiên bà nội Kane cũng nói với Alan Lloyd rằng thằng bé đã làm được không ít hơn cái người ta mong muốn ở nó và không nhiều hơn cái mà bố nó đã làm được trước kia.
    Vào ngày hẹn, hai chàng thanh niên tung tăng đi trên đại lộ Năm, trong lòng hết sức tự hào. Các cô gái đi qua đường nhìn vào họ nhưng họ làm như không để ý. Bước vào cửa khách sạn Plaza, họ đàng hoàng đi đến phòng lớn bên trong có mọi người trong gia đình đang chờ đón. Hai cụ nội ngoại Kane và Cabot ngồi ở mấy chiếc ghế bành giữa phòng, Bên cạnh đó có một bà già nữa William cho đó là bà nội của Matthew, giống như bà nội Kane của mình. Rồi có ông bà Charles Lester, có cô con gái Susan (cô ta chẳng lúc nào rời mắt khỏi William) và có Alan Lloyd. Còn hai ghế trống để đó chờ William và Matthew.
    Bà nội Kane vẫy gọi một người hầu đừng gần đó nói:
    - Một ấm trà mới và đem thêm bánh đến nữa nhé.
    Người hầu chạy vội vào bếp đem trà và bánh ra ngay.
    - Cha cháu còn sống thì hôm nay sẽ rất tự hào về cháu đó, William, - một người lớn tuổi nói.
    Người hầu đứng đó không hiểu anh thanh niên kia đã làm được cái gì mà người ta phải khen như vậy.
    William thì không để ý gì lắm đến người hầu, trừ có chiếc vòng bạc anh ta đeo ở cổ tay. Anh đoán có lẽ chiếc vòng bạc ấy là từ nhà hàng Tiffany mà ra, nhưng anh lấy làm lạ tại sao người hầu kia lại có được một thứ đồ trang sức giá trị như thế.
    - William, - bà nội Kane nói. ?" Ăn hai bánh là đủ rồi. Đây không phải là bữa ăn cuối cùng trước khi vào trường Harvard đâu.
    Anh quay nhìn bà nội một cách âu yếm, và rồi chợt quên đi chiếc vòng bạc kia.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  7. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    13
    Đêm đó Abel nằm trong căn phòng nhỏ của anh ở khách sạn Plaza mà không sao ngủ được. Anh nghĩ đến người con trai có tên là William mà người ta bảo là nếu cha anh còn sống thì sẽ tự hào về anh ta. Tự nhiên anh cũng thấy đó chính là điều anh muốn thực hiện. Anh muốn được người ta coi mình là ngang hàng với những người như William trên đời này.
    Từ khi đến New York, Abel đã phải trải qua một cuộc vật lộn gay go. Anh về ở một căn phòng chỉ có hai giường, thế nhưng anh lại phải ở chúng với George và hai người an hem họ khác của George. Kết quả là Abel chỉ có thể được ngủ khi nào một trong hai chiếc giường ấy không có người. Ông chú của George không sao có việc làm cho Abel được. Sau mấy tuần lễ rất lo lắng vì tiêu gần hết số tiền tiết kiệm mà chưa tìm được việc gì mặc dầu phải chạy đi chạy lại từ Brooklyn sang vùng Queens, cuối cùng anh xin được một chỗ ở cửa hàng thịtò. Họ trả cho anh chín đôla một tuần làm việc sáu ngày rưỡi và chỉ cho anh được nằm ngoài hiên. Cửa hàng đó nằm giữa một khu cộng đồng người Ba Lan nhỏ bé và nghèo ở phía Đông thành phố. Abel bắt đầu lấy làm sốt ruột với tính cách sống biệt lập của đồng bào anh ở đây, trong số đó còn có rất nhiều người không chịu học tiếng Anh.
    Abel vẫn thường thấy George cứ mỗi ngày cuối tuần lại đi với các bạn gái, hết cô này đến cô khác. Riêng anh, hầu hết các tối trong tuần đều đi học trường đêm để nâng cao khả năng viết và đọc tiếng Anh. Anh không lấy làm xấu hổ về chuyện mình học chậm, vì từ hồi tám tuổi đến giờ anh có dịp nào được học nữa đâu. Trong hai năm, anh đã trở nên thông thạo với ngôn ngữ mới này, hầu như khi nói ra không còn ngượng ngịu mấy nữa. Anh cảm thấy mình đã sẵn sàng đi khỏi cửa hàng thịt này rồi. Nhưng đi đâu? Và đi bằng cách nào? Bỗng một hôm trong khi đang chuẩn bị một cái chân cừu cho khách, anh thoáng nghe thấy một trong những khách hàng quen là người chuyên cung cấp lương thực cho khách sạn Plaza phàn nàn với chủ hàng là ông ta sẽ phải đuổi một người phục vụ trẻ tuổi vì anh ta ăn cắp vặt. Ông ta nói: ?oGấp quá, tôi biết tìm đâu ra người thay thế bây giờ được?? Chủ hàng không biết giúp ông ta giải quyết thế nào. Nhưng Abel thì biết ngay. Anh khoác bộ quần áo duy nhất của mình vào, đi bộ suốt bốn mươi bảy khu phố và qua năm quãng đường nữa vào thành phố nhận công việc nói trên.
    Một khi yên thân ở Plaza rồi, anh ghi tên vào một lớp học đêm Anh ngữ cấp cao ở trường Đại học Columbia. Đêm nào anh cũng học rất đều, một tay mở từ điển, một tay viết lia lịa. Mỗi buổi sang, giữa giờ phục vụ ăn sáng và bày bàn cho bữa trưa, anh tranh thủ chép những bài xã luận của Thời báo New York, mỗi khi gặp từ nào không chắc chắn thì lại giở cuốn từ điển Webster cũ ra xem.
    Ba năm sau đó, Abel leo dần lên các cấp phục vụ trong khách sạn Plaza cho đến lúc anh được cử vào phục vụ trong phòng Gỗ Sồi, hưởng lương mỗi tuần hai mươi lăm đôla với những khoản khách cho thêm. Trong cuộc sống riêng của mình, Abel không còn thiếu gì nữa.
    Ông thầy dạy Abel có ấn tượng tốt với những tiến bộ của anh, đã khuyên Abel xin học thêm lớp ban đêm nữa để chuẩn bị thi lấy bằng Tú tài văn chương. Lúc rỗi rãi anh chuyển từ chỗ đọc những bài báo về ngôn ngữ sang đọc những bài về kinh tế, rồi bắt đầu chép riêng những bài trong Nhật báo phố Wall chứ không chép những bài trong Thời báo nữa. Cái thế giới mới này đối với anh hết sức hấp dẫn. Anh bị cuốn hút vào đó đến mức, ngoại trừ George, còn những bạn Ba Lan cũ trước đây anh không gặp họ được vào lúc nào nữa.
    Trong khi phục vụ ở khách sạn Plaza, anh vẫn luôn luôn nghiên cứu tìm hiểu về những người nổi tiếng của các gia đình Baker, Loeb, Whitney, Morgan và Phelp (những nhà tài chính ngân hàng nổi tiếng trong lịch sử hình thành CNTB Mỹ) và cố hình dung được tại sao người giàu lại khác với mọi người như vậy. Anh đọc Henry Louis Mencken (1880-1956 nhà văn kiêm nhà báo Mỹ), đọc báo Mercury Mỹ, đọc Scott Fitzgerald (1896-1940 tiểu thuyết gia, nổi tiếng về viết truyện ngắn), Sinclair Lewis (1885-1951 nhà văn soạn kịch kiêm nhà báo Mỹ), và Theodore Dreiser (1871-1945 tiểu thuyết gia) để có thêm kiến thức càng nhiều càng tốt. Anh đọc kỹ từ Thời báo New York trong khi những người phục vụ khác chỉ liếc qua tờ Tấm gương. Anh đọc tờ Nhật báo phố Wall vào giờ nghỉ trong khi những người khác ngủ gà ngủ gật. Anh không biết là những kiến thức mới này sẽ đưa anh đến đâu, nhưng anh không một lúc nào nghi ngờ câu châm ngôn của Nam tước đã nói với anh rằng không gì có thể thay thế được cho việc học hành tử tế.
    Vào một ngày thứ năm của tháng Tám năm 1926 ?" anh nhớ rất kỹ ngày này vì hôm đó Rudolph Valentino qua đời và rất nhiều bà đi mua sắm trên đại lộ Năm đều mặc đồ đen để tang anh ta ?" Abel đang phục vụ như mọi ngày thường ở một chiếc bàn góc phòng, Những bàn ở góc phòng bao giờ cũg dành cho các nhà kinh doanh lớn, họ thường ngồi ăn một cách kín đáo và nói chuyện riêng không ai nghe thấy được. Anh thích được phục vụ ở các bàn đặc biệt này, vì đây là khu vực người ta bàn chuyện mở rộng kinh doanh và qua những mẩu chuyện anh thoáng nghe được của họ thường có những thông tin rất quý. Sau khi họ ăn xong, nếu khách là người của một ngân hàng hay một công ty cổ phiếu lớn, Abel sẽ tìm cách kiểm tra giá cổ phiếu của những công ty ấy. Nếu giọng điệu của những ông khách này trong khi nói chuyện có vẻ lạc quan, thì anh sẽ đầu tư một trăm đôla vào công ty nhỏ với hy vọng sẽ được công ty mẹ vực lên. Nếu vào cuối bữa ăn mà ông khách gọi mang xì gà lên, Abel sẽ tăng tiền đầu tư lên hai trăm đôla. Cứ mười lần như vậy thì giá cổ phiếu anh chọn theo kiểu đó chỉ trong sáu tháng đã tăng lên gấp đôi, cũng tức là thời gian Abel bám lấy chứng khoán. Trong bốn năm làm việc ở khách sạn Plaza và làm theo cách đó, anh chỉ mất tiền có ba lần thôi.
    Trong việc phục vụ hôm nay, anh thấy có một điều rất không bình thường ở cái bàn góc phòng này là khách đã gọi ngay xì gà ngay từ trước bữa ăn. Abel nhìn vào sổ ghi khách đặt bàn trước thấy có tên là Woolworth. Abel đã gần đây có nói đến tên ông ta nhưng anh không xác định ngay được. Còn ông khách cũng ngồi kia là Charles Lester, khách thường xuyên của Plaza và là một nhà ngân hàng có cỡ ở New York. Trong khi phục vụ bữa ăn, anh cố nghe xem họ nói chuyện gì. Khách thì hoàn toàn không quan tâm gì đến người phục vụ mặc dầu anh tỏ ra chú ý nghe họ bàn bạc. Abel không thể phát hiện được chi tiết gì quan trọng, nhưng anh biết được loáng thoáng là sáng hôm đó kết thúc một vụ làm ăn và đến cuối ngày người ta sẽ công bố. Anh chợt nhớ ra. Anh đã đọc thấy tên ông này trên tờ báo Nhật ký phố Wall. Woolworth chính là người có ông bố đã từng lập ra cửa hàng đầu tiên nổi tiếng là chỉ bán những thứ từ năm đến mười xu. Ra bây giờ người con định đi quyên vốn để mở rộng hệ thống cửa hàng ấy. Khi khách hang ăn tráng miệng - phần lớn khách đều chọn thứ bánh dâu pho-mát (do Abel gợi ý) ?" anh tranh thủ ra ngoài phòng ăn một lúc cho đại diện của anh trên phố Wall.
    - Ông Woolworth đang buôn bán gì ấy nhỉ? ?" anh hỏi.
    Đầu dây kia im lặng một chút rồi nói:
    - Cổ phiếu thôi. Gần đây hoạt động lắm, không rõ tại sao.
    - Vào cuối ngày hôm nay nếu nghe thấy công ty thông báo thì anh lấy tài khoản của tôi ra mua nhé.
    - Họ sẽ thông báo gì? ?" Người đại diện không hiểu hỏi lại.
    - Lúc này chưa tiết lộ được, - Abel đáp.
    Người đại diện chột dạ. Xưa nay anh ta vẫn biết là chớ hỏi kỹ về những nguồn thông tin của khách hang. Abel vội trở lại phòng Gỗ Sồi, vừa kịp để đem cà phê lên cho khách. Họ còn ngồi nán lại một lúc và chỉ đến lúc họ chuẩn bị ra về thì Abel mới quay lại bàn đó. Ông cầm biên lai cảm ơn Abel về việc anh phục vụ chu đáo. Ông ta quay sang ông bạn rồi hỏi anh:
    - Này, cậu em có muốn tiền thưởng không nào?
    - Dạ, cám ơn ông, - Abel nói.
    - Vậy thì cậu em nên mua cổ phiếu Woolworth.
    Hai người khách phá lên cười. Abel cũng cười, cầm lấy 5 đôla ông khách chìa ra cho và cảm ơn ông ta. Trong sáu tuần sau đó, anh kiếm được 2412 đôla lợi nhuận từ cổ phiếu Woolworth mà ra.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  8. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Mấy ngày sau, sinh nhật thứ hai mươi mốt của mình, Abel được chấp nhận vào quốc tịch Mỹ và anh quyết định nhân dịp này phải tổ chức lien hoan chiêu đãi. Anh mời George với Monika đến dự. Monika là người tình mới nhất của George. Ngoài ra còn có một cô gái tên là Clara, người tình cũ của George. Anh rủ họ đi xem John Barrymore trong phim Don Juan, sau đó đến nhà hàng Bingo ăn bữa tối. Hồi này, George vẫn chỉ là thợ tập việc trong lò bánh của ông chú anh tavới lương tám đôla một tuần. Mặc dầu vẫn coi George là bạn thân nhất, nhưng Abel hiểu là giữa hai người đã có sự khác biệt vì George là một anh rỗng túi còn Abel thì đã có trên tám nghìn đôla gửi ngân hàng và bây giờ đang là học sinh năm cuối của trường Đại học Columbia chuẩn bị thi tú tài về kinh tế. Abel biết là mình đang đi đến đâu, còn George thì bây giờ không dám mở miệng nói với ai rằng mình sẽ là thị trưởng New York nữa.
    Bốn người có một tối liên hoan rất vui, nhất là do Abel biết ăn ở chỗ nào ngon. Ba người bạn kia được một phen chén thỏa thích. Khi nhà hàng đưa biên lai ra, George hoảng sợ thấy số tiền của bữa ăn đó nhiều hơn lương tháng của anh ta. Abel trả tiền một cách thản nhiên coi như số tiền đó chả nghĩa lý gì. Vả lại, nếu đã không chịu được thế thì vào nhà hàng làm gì. Coi như không, đừng nói gì hoặc đừng tỏ ra ngạc nhiên, đó là điều những người giàu có đã dạy cho anh biết như thế.
    Đến tận hai giờ sáng cuộc liên hoan mới kết thúc. George và Monika trở về phía Đông cuối thành phố, còn Abel thì thấy mình được hưởng Clara. Anh đưa cô ta vào phía cửa sau khách sạn Plaza qua thang máy chuyên chở đồ giặt rồi đưa về phòng anh trong đó. Cô ta không chờ phải giục giã mới trèo lên giường và Abel cũng vội vã vào nằm ngay với cô ta để còn ngủ một chút sáng mai dậy sớm làm việc. Anh lấy làm hài lòng đã hoàn thành nhiệm vụ với cô ta vào lúc hai giờ rưỡi sang. Anh nằm lăn ra ngủ một mạch cho đến sáu giờ thì chuông đồng hồ gọi dậy. Lúc đó anh vẫn còn đủ thì giờ hành động với Clara một lần nữa trước khi đứng dậy mặc quần áo.
    Clara ngồi trên giường phụng phịu nhìn Abel thắt ca vát rồi hôn cô ta một cái tạm biệt.
    - Em nhớ lúc ra về cũng bằng lối cửa lúc đêm qua nhé, kẻo lôi thôi cho anh lắm đấy, - Abel nói. ?" Bao giờ thì gặp lại em?
    - Anh không gặp lại đâu, - Clara lạnh lùng đáp.
    - Tại sao thế? ?" Abel ngạc nhiên hỏi. ?" Anh làm gì đâu?
    - Không, chính là cái anh không làm ấy chứ. ?" Cô ta nhảy xuống giường và vội vã mặc áo vào.
    - Cái gì anh không làm? ?" Abel hỏi. ?" Em muốn đi ngủ với anh kia mà, không phải thế à?
    Cô ta quay lại nhìn thẳng vào anh.
    - Đúng là em muốn thế, nhưng về sau mới biết là anh với Valentino cũng chả khác gì nhau, nghĩa là cả hai cùng chết rồi. Anh có thể là của quý khách sạn Plaza vào những lúc người ta đói ăn, nhưng ở trên giường thì anh chẳng là cái gì hết. - Mặc xong quần áo, cô ra cửa còn nắm lấy tay vịn và ngoái lại nói. ?" Có lẽ anh chưa thuyết phục được cô nào đi nằm với anh phải không?, - rồi đóng sầm cửa lại.
    Abel đứng ngớ người. Suốt ngày hôm đó, anh băn khoăn về câu nói của Clara. Anh không thể tìm được một ai để bàn về vấn đề này. Có nói với George chỉ tổ cho anh ta cười thêm. Còn nhân viên khách sạn Plaza thì ai cũng tưởng anh biết đủ mọi thứ. Anh hiểu rằng vấn đề này, cũng như các vấn đề khác anh đã gặp trên đường đời, đều có thể vượt qua được miễn là mình hiểu biết và có kinh nghiệm.
    Sau bữa trưa được nghỉ nửa ngày, anh tìm đến hiệu sách Scribner ở đại lộ Năm. Trước đây cửa hàng này đã giúp anh giải quyết được nhiều vấn đề về kinh tế và ngôn ngữ, nhưng anh không tìm ra được cái gì có vẻ như giúp anh giải quyết được những vấn đề về ********. Các nhãn sách đều chẳng nói được gì, và cuốn gọi là Khó xử về tinh thần thì hoàn toàn không thích hợp.
    Abel bỏ hiệu sách đi ra, không mua gì, và cả buổi chiều la cà trong một nhà hát bẩn thỉu ở đường Broadway, không xem chiếu bóng mà chỉ luẩn quẩn suy nghĩ về điều Clara nói lúc sáng. Cuốn phim đang chiếu là một chuyện tình có Greta Garbo đóng, mãi đến cuối phim mới có cảnh hôn hít, thành ra cũng chẳng giúp đỡ gì hơn được cho anh so với hiệu sách Scribner.
    Ở rạp chiếu bóng ra thì trời đã tối. Ngoài đường đang có gió lạnh. Abel lấy làm lạ thấy về đêm đường phố cũng ồn ào và nhiều đèn sáng như ban ngày vậy. Anh bắt đầu đi bộ lên đường 59, hy vọng gió mát sẽ làm cho đầu óc mình tỉnh táo hơn chút ít. Anh dừng lại ở góc đường 52 để mua tờ báo buổi chiều.
    - Tìm gái hả? - một giọng nói ở góc đường bên quầy bán báo lên tiếng.
    Abel ngẩng đầu lên nhìn. Bà ta chừng ba mươi lăm tuổi, mặt bự phấn sáp, môi bôi một thứ son kiểu mới. Chiếc áo lụa trắng có một khuy đã cởi sẵn. Bà ta mặc váy lên đến tận bẹn.
    - Chỉ năm đôla thôi, mất xu nào đáng xu ấy, bà ta nói và vẹo mông sang một bên để hở một đường bên váy lên đến tận bẹn.
    - Ở đâu? ?" Abel hỏi.
    - Có nhà riêng ở gần đây.
    Bà ta hất đầu chỉ cho Abel biết là hướng nào. Lần đầu tiên, Abel trông thấy rõ mặt bà ta dưới ánh đèn đường. Bà ta cũng không phải không hấp dẫn. Abel gật đầu đồng ý. Bà ta cầm lấy tay anh ta rồi hai người cùng đi.
    - Nếu bị cảnh sát giữ thì anh bảo là bạn cũ và tên tôi là Joyce nhé, - bà ta nói.
    Họ đi đến đầu phố rồi vào một ngôi nhà nhỏ bẩn thỉu có nhiều buồng cho thuê. Abel kinh sợ thấy phòng bà ta nhếch nhác quá. Tất cả bên trong chỉ có một bóng đèn trần, một chiếc ghế, một chậu rửa mặt với một chiếc giường đôi ọp ẹp mà hình như trong ngày hôm đó đã được dùng đến nhiều lần.
    - Chị ở đây à? ?" anh ngần ngại hỏi.
    - Trời ơi, không đâu. Chỗ này chỉ để làm ăn thôi.
    - Tại sao chị làm chuyện này? ?" Abel hỏi, trong bụng nghĩ không biết mình có nên tiếp tục kế hoạch này không.
    - Tôi phải nuôi hai đứa con, mà chồng thì không có. Anh bảo còn cách nào khác nữa? Nào, anh có muốn hay không đây?
    - Có nhưng không phải như chị nghĩ, - Abel nói.
    Bà ta nhìn anh chột dạ.
    - Anh không phải là cái đám chuyên hành hạ người ta như Hầu tước de Sade (nhân vật Pháp 1740-1814 nổi tiếng trác táng) đấy chứ?
    - Chắc chắn là không rồi, - Abel hỏi.
    - Anh không châm thuốc lá vào người tôi chứ?
    - Không, không có chuyện đó đâu, - Abel giật mình đáp. ?" Tôi muốn được chỉ bảo tử tế. Tôi muốn học.
    - Học? Anh nói đùa đấy à? Anh bạn thân mến, dễ anh tưởng đây là trường đêm chuyên dạy về ngủ với gái sao?
    - Đại khái là như vậy, - Abel nói và ngồi xuống góc giường, nói lại cho bà ta nghe đêm trước Clara đã phản ứng với anh thế nào. - Chị xem có thể giúp tôi được không?
    - Người đàn bà kia nhìn Abel một lúc lâu, tự hỏi không biết anh chàng này có định bịp mình không.
    - Được thôi, - bà ta nói. ?" Nhưng cứ mỗi buổi ba mươi phút là anh sẽ mất năm đôla đấy.
    - Đắt hơn bằng tú tài Columbia, - Abel nói. ?" Tôi cần học mấy bài tất cả.
    - Còn tùy ở chỗ anh học nhanh hay chậm chứ, - bà ta nói.
    - Được, ta bắt đầu luôn đi, - Abel nói và rút trong túi ra năm đôla. Anh đưa tiền cho bà ta. Bà ta nhét tiền vào trong bít tất. Như vậy rõ ràng là bà ta sẽ không cởi tất cả ra nữa.
    - Cởi quần áo ra, anh bạn, - bà ta nói. ?" Mặc quần áo thế này thì chẳng học được gì đâu.
    Anh cởi ra rồi, bà ta nhìn ngắm anh bằng con mắt thông thạo.
    - Anh không phải như Douglas Fairbanks (nhân vật nổi tiếng đẹp trai hấp dẫn của điện ảnh Mỹ), phải không nào? Nhưng thôi, anh đừng lo. Tắt đèn đi rồi thì người anh thế nào cũng không quan trọng nữa. Cái quan trọng là anh có thể làm được gì cơ.
    Abel ngồi xuống cạnh giường. Bà ta bắt đầu giảng giải cho anh biết là phải làm những gì đối với người đàn bà. Bà ta lấy làm lạ không những Abel không tỏ ra thèm muốn gì mình, mà lại còn ngạc nhiên thấy hai tuần sau đó ngày nào anh cũng đến rất đều.
    - Bao giờ thì tôi biết là mình học xong? ?" Abel hỏi.
    - Rồi anh sẽ biết, - Joyce đáp. - Nếu anh làm cho tôi sướng được thì đến một cái xác ướp Ai Cập anh cũng làm cho sướng được.
    Bà ta dạy cho anh biết đâu là những chỗ nhạy cảm trên cơ thể bà ta, và bảo anh phải biết kiên nhẫn trong khi ********. Những dấu hiệu như thế nào khiến anh có thể biết được là anh làm cho người ta thỏa mãn. Abel nghe rất kỹ và làm theo từng cái bà ta dặn. Lúc đầu anh có hơi máy móc, nhưng bà ta đảm bảo rồi anh sẽ thành công không thể tưởng tượng được. Quả nhiên, đến tuần thứ ba và sau khi đã có thể làm cho người đàn bà Joyce này trở nên sống động và háo hức trong vòng tay của mình. Lần đầu anh nghe thấy tiếng rên rỉ của Joyce và cảm thấy sung sướng một cách lạ kỳ. Bà ta cứ bấu chặt lấy anh rên rỉ hoài, lúc to, lúc nhỏ, cho đến lúc bà ta phải hét lên rồi buông tay ra, rã rời.
    - Anh bạn ơi, thế là anh đỗ thủ khoa rồi đấy nhé. - Thở được rồi, bà ta nói. Nhưng Abel thì chưa thấy gì.
    Abel tốt nghiệp cả hai bằng. Anh tự thưởng cho mình bằng cách rủ cả mấy người, George, Monika và Clara nữa, đi xem trận đấu quyền Anh vô địch thế giới giữa Gene Tunney với Jack Dempsey và mua vé hạng nhất. Đêm đó, sau khi xem trận đấu rồi, Clara miễn cưỡng làm cái bổn phận đi nằm với Abel vì anh ta chi cho cô khá nhiều tiền. Nhưng đến sáng hôm sau thì chính Clara lại cầu khẩn Abel là đừng có bỏ rơi cô ta.
    Mặc dầu vậy, Abel không bao giờ rủ cô ta đi nữa.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  9. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Tốt nghiệp Đại học Columbia rồi, Abel cảm thấy không hài lòng với cuộc sống ở khách sạn Plaza. Tuy nhiên, anh chưa hình dung được mình sẽ tiến lên nữa như thế nào. Mặc dầu anh đã phục vụ một số trong những người giàu nhất và thành công nhất ở Mỹ, nhưng anh chưa hề bao giờ dám nói chuyện trực tiếp với những người đó, vì anh sợ làm như thế có thể mất việc như chơi. Dù sao, anh nghĩ các vị khách đến ăn ở đây sẽ chẳng ai thực sự quan tâm đến nguyện vọng của một người hầu bàn. Abel quyết chí mình sẽ trở thành một người đứng đầu những tay phục vụ bàn.
    Một hôm có ông bà Ellsworth Statler đến ăn trưa ở phòng Gỗ Sồi trong khách sạn Plza là nơi Abel đang làm thay người khác một tuần. Anh nghĩ bụng vận may của mình đã đến. Anh làm mọi cách để có thể gây ấn tượng cho nhà chủ và bữa ăn hôm đó thật là tuyệt. Lúc ra về, ông Slatler cảm ơn Abel một cách nồng nhiệt và cho anh mười đôla. Nhưng rồi chỉ thế là hết, Abel nhìn theo khách đi ra phía cửa ngoài khách sạn, không biết làm thế nào nữa.
    Sammy, người đứng đầu những tay hầu bàn, vỗ vào vai anh hỏi:
    - Ông Statler cho cậu gì đấy?
    - Ông ấy không cho tiền thưởng ư? ?" Sammy nghi ngờ hỏi.
    - Ồ, có chứ, - Abel nói. - Mười đôla. ?" Anh đưa tiền cho Sammy.
    - Khá đấy nhỉ, - Sammy nói. - Tớ đã tưởng cậu định lòe tớ, Abel. Mười đôla, với ông Statler như thế cũng là tốt lắm đấy. Có lẽ cậu đã làm cho ông ta phải cảm động.
    - Không tôi có làm gì đâu.
    - Cậu nói thế là sao? ?" Sammy hỏi.
    - Nhưng thôi, không quan trọng. ?" Abel đáp và định bỏ đi.
    - Khoan đã, Abel, có mẩu giấy này cho cậu đây. Ông khách ở bàn mười bảy, ông Leroy muốn nói chuyện riêng với cậu đấy.
    - Về cái gì thế, Sammy?
    - Ai mà biết? Có lẽ ông ta thích đôi mắt xanh của cậu chăng.
    Abel liếc nhìn ra bàn 17. Bàn đó chỉ dành cho những khách hiền lành không đòi hỏi gì và là khách vô danh nữa. Vị trí của chiếc bàn gần ngay cửa ra vào bếp. Abel thường tránh không phục vụ bất cứ bàn nào cuối phòng.
    - Ông ta là ai thế? ?" Abel hỏi. ?" Ông ta muốn gì.
    - Tớ không biết, - Sammy nói và cũng không buồn ngẩng lên. -Tớ không quen tìm hiểu về lịch sử đời sống của khách như cậu. Cho họ ăn tử tế, yên trí có tiền thưởng càng nhiều càng tốt rồi mong họ trở lại nữa, thế thôi. Cậu có thể cho đó là triết lý đơn giản, nhưng với tớ thế là tốt lắm rồi. Có lẽ ở Columbia họ quên không dạy cho cậu những cái cơ bản. Thôi, cậu ra đó đi, Abel, và nếu được tiền thưởng thì mang ngay về đây.
    Abel nhìn vào cái đầu hói của Sammy, cười rồi bước đến bàn 17. Có hai người đang ngồi ở đó. Một người mặc chiếc áo ngoài sặc sỡ mà Abel không thích lắm, người kia là một cô gái khá xinh đẹp có mớ tóc vàng xoăn mà anh đoán là bồ của ông khách và trong bụng nghĩ thế nào cũng được nghe khách phàn nàn về chuyện cái cửa ra vào gần bếp, đòi phải đưa bàn đi chỗ khác để làm oai với cô gái tóc vàng kia. Không ai thích ngửi cái mùi trong bếp xông ra và những người phục vụ đi ra đi vào khiến cánh cửa bật thình lình liên tiếp. Nhưng cũng không thể không dùng đến chiếc bàn đó, vì khách sạn thì rất đông người ở, mà người New York vốn đã quen hễ thấy người lạ là không bằng lòng. Tại sao Sammy lại để anh phải đối phó với những khách có vẻ khó chơi như thế này? Abel từ từ bước đến bên người khách mặc áo sặc sỡ.
    - Thưa, ông muốn nói với tôi ạ?
    - Đúng thế, - ông ta đáp bằng một giọng miền Nam. ?" Tên tôi là Davis Leroy, còn đây là con gái tôi, Melanie.
    Abel quay sang nhìn đôi mắt xanh của cô ta, một đôi mắt anh chưa từng thấy bao giờ.
    - Trong năm ngày qua, Abel, tôi đã quan sát anh rất kỹ, - ông Leroy nói tiếp với giọng Nam lê thê ấy.
    Nếu ai hỏi vặn lại thì Abel sẽ phải thừa nhận rằng anh chưa bao giờ để ý đến ông Leroy mà chỉ cách đây năm phút mới biết.
    - Tôi rất có ấn tượng về những gì đã trông thấy, Abel, vì xem ra anh là người có hạng, có hạng thật sự, mà tôi thì vẫn chú ý đến những người như vậy. Ellsworth Statler không chọn những người như anh thì thật là ngốc.
    Abel bắt đầu nhìn anh Leroy kỹ hơn. Đôi má đỏ hồng và chiếc cằm bạnh của ông ta khiến Abel nghĩ ông ta không biết cấm rượu là gì. Những đĩa thức ăn trước mặt đã ăn sạch chứng tỏ ông ta ăn cũng rất khỏe. Nhưng cái tên đó của ông ta, bộ mặt của ông ta, như không có nghĩa gì với anh cả. Nếu là bữa ăn trưa bình thường, thì Abel đã có thể rất biết kỹ về lý lịch của bất cứ ai ngồi ở ba mươi bảy trong số ba mươi chín chiếc bàn trong phòng Gỗ Sồi rồi. Nhưng hôm đó bàn ông Leroy ngồi lại là một trong hai bàn mà anh không biết.
    Vẫn cái giọng miền Nam cất lên.
    - Tôi không phải là một trong những nhà đại triệu phú thường ngồi ở mấy chiếc bàn trong góc của anh mỗi khi họ đến Plaza đâu nhé.
    Abel ngạc nhiên. Nếu là khách bình thường thì không ai có thể biết giá trị của những bàn khác nhau trong phòng ăn này.
    - Nhưng tôi làm ăn cũng không đến nỗi tồi đâu. Thực ra, một ngày kia khách sạn của tôi cũng sẽ có thể gây ấn tượng tốt được như khách sạn này, Abel.
    - Tôi tin chắc như vậy, thưa ông. ?" Abel đáp.
    Leroy? Cái tên này sao không nói lên điều gì nhỉ.
    - Để tôi nói thẳng cho anh biết nhé. Khách sạn đầu đàn trong số những khách sạn của tôi cần có một người phó quản lý mới phụ trách nhà ăn. Nếu anh quan tâm đến điều đó thì khi nào xong việc anh lên phòng gặp tôi.
    Ông ta đưa cho anh một tấm thiếp.
    - Xin cảm ơn ông, - Abel nói và nhìn vào thiếp: Davis Leroy. Công ty khách sạn Richmond, Dallas. Ở dưới có khẩu hiệu: Mỗi ngày kia mỗi bang có một khách sạn. Abel vẫn chưa thấy cái tên này của ông ta có nghĩa gì đối với mình.
    - Tôi chờ gặp anh nhé, - ông khách miền Texas có chiếc áo sặc sỡ thân mật nói.
    - Xin cảm ơn ông, - Abel nói. Anh mỉm cười với Melanie. Mắt cô ta vẫn xanh và lạnh lung như từ nãy đến giờ. Anh quay trở lại chỗ Sammy, trong đầu nghĩ ngợi.
    - Anh có nghe thấy nói Công ty Khách sạn Richmond bao giờ không, Sammy?
    - Có chứ. Cậu em tớ đã hầu bàn ở đó một lần. Hình như họ có tám chin khách sạn gì đó ở khắp miền Nam, do một anh chàng điên rồ người Texas quản lý nhưng mình không nhớ rõ tên. Sao cậu hỏi thế? ?" Sammy ngửng lên với vẻ ngờ vực.
    - Chả có lý do gì đặc biệt cả, - Abel nói.
    - Với cậu thì bao giờ cũng có lý do tất. Thế bàn 17 muốn gì? ?" Sammy hỏi.
    - Họ phàn nàn về tiếng ồn trong nhà bếp. Chả trách họ được.
    - Vậy ông ta muốn thế nào? Cho ra ngồi ngoài hiên ư? Ông ta tưởng mình là gì chứ, John D. Rockefeller chăng?
    Abel để mặc cho Sammy đứng đó tính toán và càu nhàu, còn anh đi dọn mấy chiếc bàn của mình cho nhanh. Rồi anh trở về phòng bắt đầu tìm hiểu về Công ty Richmond. Chỉ gọi điện thoại đi vài nơi là anh đủ biết được hết. Đây là một công ty tư nhân, có tất cả mười một khách sạn, cái lớn nhất là một tòa nhà có 342 phòng sang trọng ở Chicago, gọi là Richmond Continental. Abel quyết định đến thăm ông Leroy và Melanie mà sẽ chẳng mất gì. Anh hỏi số phòng của ông Leroy. Đó là phòng 85, nhỏ nhưng thuộc loại sang. Anh đến trước bốn giờ, hơi thất vọng vì cô Melanie không có đó.
    - Hoan nghênh anh đến, Abel. Mời anh ngồi.
    Lần đầu tiên kể từ hơn bốn năm làm việc trong Plaza, bây giờ Abel mới được ngồi như một người khách.
    - Anh được trả lương bao nhiêu? ?" Ông Leroy nói.
    Câu hỏi bất ngờ làm Abel sửng sốt.
    - Tôi được khoảng hai mươi lăm đôla mỗi tuần kể cả tiền thưởng.
    - Tôi sẽ bắt đầu trả bằng trả anh ba mươi lăm mỗi tuần.
    - Ông muốn nói khách sạn nào kia ạ? ?" Abel hỏi.
    - Nếu tôi đoán đúng, Abel, thì anh xong việc lúc ba rưỡi, và trong khoảng nửa giờ sau đó là anh tìm hiểu về khách sạn, tôi nói vậy có đúng không?
    Abel đã bắt đầu ưa ngay ông khách này. Anh bạo dạn đoán ngay.
    - Khách sạn Richmond Continental ở Chicago, phải không ạ?
    - Tôi đoán đúng, và cả về anh. ?" Davis Leroy cười.
    - Trên người phó quản lý thì có bao nhiêu người nữa. ?" Abel nghĩ thật nhanh.
    - Chỉ có người quản lý và tôi. Người quản lý là một người chậm chạp, dễ thương và cũng gần về hưu. Tôi còn đến mười khách sạn nữa phải lo. Anh sẽ chẳng gặp khó khăn gì lắm đâu. Tuy nhiên tôi cũng phải thú thật Chicago là chỗ tôi thích nhất. Đó là khách sạn đầu tiên của tôi ở miền Bắc, Melanie đi học ở đó nên tôi cũng mất nhiều thời gian ở thành phố này. Anh đừng có mắc sai lầm của nhiều người ở New York là đánh giá thấp Chicago. Họ thường nghĩ Chicago chỉ là một chiếc phong bì.
    Abel mỉm cười.
    - Lúc này khách sạn hơi xuống cấp một chút, - ông Loroy nói tiếp, - Tự nhiên anh chàng phó quản lý của tôi bỏ đi, tôi cần có một người thay thế và hiểu biết công việc. Anh nghe đây, Abel, trong năm ngày qua tôi đã theo dõi anh cẩn thận, và tôi biết là anh có thể ngay thế người đó. Anh có muốn đi Chicago không nào?
    - Bốn mươi đôla cộng với mười phần trăm lợi nhuận. tôi sẽ nhận việc ngay.
    - Sao? ?" Davis Leroy rất ngạc nhiên hỏi. ?" Không có một người quản lý nào của tôi ăn lương trên cơ sở lợi nhuận như thế cả. Những người khác mà biết được như thế thì lôi thôi ngay.
    - Tôi sẽ không nói cho ai biết nếu ông không nói, - Abel nói.
    - Bây giờ thì tôi biết là mình đã chọn được đúng người, dù cho anh ta mặc cả còn giỏi hơn cả một người Bắc Mỹ có sáu cô con gái, - ông ta vỗ tay vào thành ghế. ?" Tôi đồng ý với điều kiện của anh, Abel.
    - Ông có cần tham khảo gì thêm nữa không, ông Leroy?
    - Tham khảo? Tôi biết rõ về lý lịch của anh từ khi anh rời châu Âu sang đây, cho đến lúc anh đỗ bằng kinh tế ở Columbia. Thế anh tưởng mấy ngày vừa qua ở đây tôi làm gì? Nếu phải cần tham khảo nữa thì tôi đã không để anh làm người đứng thứ hai trong khách sạn tốt nhất của tôi như vậy. Bao giờ anh bắt đầu làm việc được?
    - Một tháng nữa tính từ hôm nay.
    - Tốt. Tôi chờ đến lúc đó sẽ gặp anh, Abel.
    Abel đứng dậy. Anh thấy mình đứng thế này dễ chịu hơn là ngồi ghế khách sạn. Anh bắt tay ông Davis Leroy, người khách ngồi ở bàn 17, chiếc bàn chỉ để cho những người không ai biết đến.
    Rời thành phố New York và khách sạn Plaza, ngôi nhà thật sự của anh kể từ sau khi anh rời lâu đài ở Slonim, Abel cảm thấy bứt rứt trong lòng. Anh không ngờ có lúc phải chia tay như thế. Từ biết George, Monika và các bạn ở Columbia, anh thấy bịn rịn vô cùng. Sammy và những người hầu bàn khác tổ chức chiêu đãi tiễn anh đi.
    - Rồi cậu còn lên nữa chứ không phải chỉ có thế đâu, Abel Rosnovski, - Sammy nói và mọi người cũng đồng ý như vậy.
    Khách sạn Richmond Continental ở Chicago nằm giữa Đại lộ Michigan, trung tâm của một trong những thành phố phát triển nhanh nhất ở Mỹ. Điều đó khiến Abel rất hài long. Anh rất nhớ câu châm ngôn của Ellsworth Statler nói rằng, có ba điều cực kỳ quan trọng đối với một khách sạn, đó là: địa điểm, địa điểm và địa điểm. Nhưng Abel cũng phát hiện ra ngay rằng khách sạn Richmond này chỉ được có mỗi cái là địa điểm thôi. Davis Leroy có nói rằng khách sạn hơi bị xuống cấp, nhưng như vậy là ông ta chưa nói đúng lắm. Desmond Pacey, người quản lý, không phải một người chậm chạp hiền lành như Davis Leroy nói, mà ông ta còn là một anh chúa lười nữa. Ông ta còn tỏ ra không ưa Abel lắm. Ông ta để cho anh phó quản lý mới của mình ở trong một căn phòng nhỏ tí dành cho nhân viên dành cho nhân viên khách sạn ở bên kia đường, chứ không cho ở ngay trong khách sạn. Mới xem qua những sổ sách của Richmond, anh đã biết ngay rằng số khách hàng ngày chỉ dưới 40 phần trăm phòng, còn nhà ăn thì không bao giờ có đến nửa số khách, mà nguyên nhân chính là thức ăn không ra gì. Nhân viên phục vụ thì nói đến ba bốn thứ tiếng gì với nhau nhưng hình như chẳng có ai trong số họ thông thạo tiếng Anh. Họ rõ rang không tỏ ra có chút gì hoan nghênh anh chàng Ba Lan ở New York này lên đây.
    Anh không lấy làm lạ tại sao người phó quản lý trước đây đã vội vã bỏ đi như vậy. Nếu như đây là khách sạn mà Davis Leroy cho rằng ông ta ưa thích nhất, thì Abel cũng lấy làm lo ngại cả mười khách sạn còn lại kia lắm, dù cho ông chủ mới của anh có vẻ là người lắm tiền nhiều của ở Texas.
    Nhưng trong những ngày đầu ở Chicago, cái tin hay nhất mà Abel biết được là: Melanie Leroy là đứa con duy nhất của ông chủ.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
  10. Amar

    Amar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    14​
    William và Matthew học năm đầu ở Harvard mùa thu năm 1924. Mặc dầu không được các cụ đồng ý, William vẫn nhận học bổng Hamilton về toán là 290 đôla, dùng số tiền đó sắm chiếc Daisy, kiểu xe mới nhất của hãng Ford và cũng là điều đầu tiên William yêu quý nhất đời mình. Anh đem xe đi sơn màu vàng nhạt. Tiền sơn bằng nửa tiền xe, hưng số bạn gái của anh lại tăng gấp đôi. Lúc đó Calvin Coolidge (Tổng thống thứ 30 của Mỹ) thắng lớn trong bầu cử để trở lại Nhà trắng, và thị trường chứng khoán New York đạt kỷ lục đầu tiên từ năm năm là có đến 2336160 cổ phiếu.
    Cả hai chàng trẻ tuổi đều mong cho chóng đến ngày vào đại học. Sau một mùa hè hoạt động sôi nổi với quần vợt và đánh gôn, họ sẵn sang đi vào những thứ người lớn hơn nữa. William bắt đầu ngay từ hôm về đến căn phòng mới của mình trên ?oBờ biển Vàng?, so với căn phòng nhỏ hồi còn ở trường St. Paul thì khá hơn nhiều lắm. Còn Matthew thì đi tham gia vào câu lạc bộ bơi thuyền của trường. Matthew được bầu làm đội trưởng của đội năm thứ nhất. Mỗi chiều chủ nhật, William lại bỏ sách vở để ra xem bạn chèo thuyền trên sông Charles. Anh mừng với mỗi thành công của Matthew, nhưng cũng tỏ ra nghiêm khắc với bạn.
    - Cuộc đời không phải chỉ có tám người cắm đầu cắm cổ khua mái chèo dưới nước và nghe một anh chàng nhỏ bé hơn mình ngồi đầu thuyền mà hét đâu nhé, - William nói.
    - Cậu đi mà nói cái đó cho bọn Yale (một trường Đại học ở bang Connecticut) đó nghe, - Matthew đáp.
    Trong khi đó William nhanh chóng chứng minh cho các giáo sư về toán thấy rằng anh không khác gì Matthew trước đây, tức là bỏ xa các bài đang được học rất nhiều. William cũng được bầu làm Chủ tịch Hội tranh luận của năm thứ nhất trong trường. Anh thuyết phục ông ngoại của mình là chủ tịch Lowell thực hiện kế hoạch bảo hiểm đầu tiên của trường bằng cách bảo đảm cho mỗi sinh viên tốt nghiệp Harvard được bảo hiểm sinh mạng suốt đời mà mỗi người chỉ phải đóng có 1000 đôla, do nhà trường thu dần. William tính rằng như vậy mỗi sinh viên tham gia bảo hiểm chỉ phải đóng mỗi tuần không đến một đôla và nếu cả 40 phần trăm từ năm 1950 trở đi, trường Harvard đã có thể có được thu nhập mỗi năm chừng 3 triệu đôla. Ông chủ tịch nghe anh trình bày kế hoạch đó liền ủng hộ ngay và một năm sau mời William tham gia vào bộ phận lãnh đạo của ủy ban quyên góp trong trường. William rất tự hào nhận chức vụ đó mà không biết là anh sẽ phải làm chuyện ấy suốt đời. Chủ tịch Lowell báo cho là bà nội Kane của anh biết là ông đã có được một trong những bộ óc tài chính giỏi nhất của thế hệ này mà chẳng mất đồng nào. Bà nội Kane trả lời ông em họ của bà rằng: mọi thứ đều có mục đích của nó cả, và như vậy William càng có thêm nhiều kinh nghiệm xử thế sau này.
    Năm thứ hai vừa bắt đầu là đã đến lúc phải chọn dần một trong số những Câu lạc b Chung kết, tức là những tổ chức của trường có liên quan đến những cở xã hội của từng người, nhất là những con nhà giàu. William được đưa vào câu lạc bộ Porcell là một hội lâu đời nhất, giàu nhất, độc đáo nhất nhưng cũng kín đáo nhất. Trong hội quán của nó ở đại lộ Massachusetts đặt trong một tiệm cà phê rẻ tiền có tên là Hayes-Bickford, anh có thể ngồi đàng hoàng trong một chiếc ghế bành, suy nghĩ về những chuyện đang xảy ra ngoài đời, ngắm nhìn quanh cảnh ngoài đường phố qua tấm gương đặt ở góc phòng và nghe chiếc đài lớn mới lắp.
    Đến kỳ nghỉ Giáng sinh, William bị thuyết phục đi trượt tuyết với Matthew ở Vermont và anh phải mất một tuần vất vả trèo núi để theo kịp người bạn của mình.
    - Này Matthew này, tại sao lại phải mất một giờ trèo lên núi cao để rồi chỉ trượt xuống trong có mấy giây đồng hồ mà lại nguy hiểm đến tính mạng hoặc bị ngã gãy chân như vậy?
    Matthew càu nhàu.
    - Như thế chả hơn là ngồi với những lý thuyết về đồ thị hay sao? Này William, sao cậu không thừa nhận là leo lên hay trượt xuống cậu đều tồi cả?
    Trong năm thứ hai, họ bận nhiều việc khác nên bỏ qua một số môn học, tuy với mỗi người khái niệm về ?obỏ qua? cũng rất khác nhau. Hai tháng đầu nghỉ hè, họ làm việc với tư cách trợ lý tập sự cho ngân hang Charles Lester ở New York. Ông bố của Matthew bây giờ đã thôi không giữ một khoảng cách với William nữa. Vào những ngày nóng ẩm của tháng tám, William và Matthew nhảy lên chiếc Daisy về vùng nông thôn New York hoặc di chuyển trên sông Charles với các cô gái, và hễ cứ đâu có chiêu đãi là họ tranh thủ để được mời và đến dự. Họ lúc nào chả phải đóng vai những nhân vật quan trọng của trường. Ai cũng có thể biết rằng hễ cô gái nào lấy William Kane hoặc Matthew Lester thì đều không có gì phải lo cho tương lai của mình nữa.
    Ngày 18 tháng tư 1927, William mừng ngày sinh nhật thứ hai mươi mốt của mình bằng một cuộc gặp cuối cùng với những người được ủy thác trông coi tài sản của anh, Alan Lloyd và Tony Simmons đã chuẩn bị các thứ giấy tờ cho anh ký.
    - Thôi nhé, William thân mến, - bà Milly Preston nói với một giọng như vừa được trút khỏi gánh nặng, - Tôi tin rằng anh sẽ có thể làm được từng việc cụ thể như chúng tôi đã làm.
    - Tôi hy vọng như vậy, thưa bà Preston, nhưng nếu như khi nào tôi cần mất nửa triệu đôla trong một đêm, thì tôi sẽ biết phỉa gọi cho ai.
    Milly Preston đỏ bừng mặt nhưng không dám trả lời.
    Quỹ ủy thác bây giờ đã được trên 32 triệu đôla. William đã có kế hoạch trong đầu để nuôi số tiền ấy, nhưng anh cũng tự đặt cho mình nhiệm vụ là kiếm thêm một triệu đôla nữa trước khi rời trường Harvard. So với tiền ủy thác thì nó không là bao nhiêu, nhưng tài sản thừa kế đối với anh không thể nào có ý nghĩa bằng tài khoản tự anh làm ra được và gửi ở ngân hàng Lester.
    Mùa hè năm đó, các cụ bà nội ngoại rất lo sợ có các cô gái nhòm ngó tiền của các cháu mình, đã cho William và Matthew đi chơi một tua ở châu Âu. Chuyến đi này lại hóa ra thành công lớn cho cả hai người. Matthew vượt qua mọi trở ngại về ngôn ngữ, hễ cứ đến một thủ đô nào của châu Âu là lại kiếm được một cô gái đẹp. Anh ta bảo với William rằng tình yêu là một thứ hàng tiêu dung có tính quốc tế. Còn William thì tự giới thiệu mình với mỗi giám đốc của các ngân hàng châu Âu. Anh bảo Matthew rằng tiền cũng là một thứ hang tiêu dung có tính quốc tế. Từ London đến Berlin và Rome, hai anh chàng để lại sau lưng một loạt những trái tim tan vỡ và những nhà ngân hàng với khá nhiều ấn tượng. Về đến Harvard vào tháng chin, cả hai người đã sẵn sang lao vào sách vở để chuẩn bị cho năm cuối cùng ở trường.
    Vào mùa đông năm 1927 khá rét mướt, bà nội Kane qua đời, hưởng thọ 85 tuổi. Đã lâu lắm rồi kể từ sau khi mẹ chết, bây giờ William mới lại khóc.
    Ít ngày sau khi cùng chia buồn với William về cái chết của bà cụ. Matthew nói:
    - Thôi cậu, bà cụ đã sống một cuộc sống cuộc sống sung sướng và cụ cũng đã chờ khá lâu để tìm hiểu xem Chúa là người thuộc họ Cabot hay Lowell rồi.
    William nhớ đến những lời bà nội trước đây thường nói, mặc dầu anh không thích lắm. Nhưng anh tổ chức một đám tang rất linh đình cho bà. Anh cho chở bà trên chiếc xe tang Packard đen đến nghĩa trang một cách sang trọng, trang nghiêm mà nếu bà còn sống chắc sẽ không bằng lòng. Cái chết của bà khiến cho William càng tập trung vào việc học hơn trong năm cuối ở Harvard. Anh quyết tâm giành giải thưởng hàng đầu về toán của trường để kỷ niệm bà nội. Sáu tháng sau bà ngoại Cabot cũng mất nốt. William nghĩ có lẽ vì bà buồn không còn ai để trò chuyện nữa.
    Uno per tutti se e se tutti per uno
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này