1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hai vạn dặm dưới biển - Jules Verne

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Milou, 03/02/2003.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Phần Hai - Chương 20 - Eo biển Tô-rex


    Đêm 27 rạng ngày 28 tháng 12, chúng tôi rời Va-ni-cô-rô. Tàu Nau-ti-lúx mở hết tốc lực chạy về hướng tây nam và trong ba ngày đi được bảy trăm năm mươi dặm, nghĩa là vượt được khoảng cách ngăn giữa nhóm đảo của La Pê-ru-dơ và mỏm đông nam Tân Ghi-nê. Sáng mùng 1 tháng giêng năm 1868, sau khi ngủ dậy, tôi lên boong tàu. Công-xây đón chào tôi:
    -Thưa giáo sư, xin chúc ngài nhiều hạnh phúc trong năm mới.
    -Anh Công-xây, trong hoàn cảnh hiện nay, anh quan niệm thế nào là hạnh phúc? Anh khao khát thoát khỏi cảnh tù đày này, hay mong muốn kéo dài cuộc hành trình ngầm dưới biển của chúng ta?
    -Thưa giáo sư, tôi... tôi chẳng biết nói thế nào! Chúng ta đã thấy nhiều điều kỳ lạ, và thú thực là hai tháng nay chúng ta không có thì giờ để buồn. Người ta thường nói, cái kỳ diệu cuối cùng bao giờ cũng đáng ngạc nhiên nhất, và nếu cứ tiếp tục thế này mãi thì tôi cũng không biết mọi sự sẽ kết thúc thế nào! Tôi nghĩ chúng ta sẽ không bao giờ có dịp đi thế này nữa đâu...
    -Không bao giờ, Công-xây ạ.
    -Thưa giáo sư, tôi nghĩ rằng năm hạnh phúc nhất sẽ là năm chúng ta được thấy tất cả mọi thứ trên trái đất này...
    -Thấy tất cả ư, Công-xây? Có lẽ đó là một câu chuyện rất dài. ý kiến của Nét Len thế nào nhỉ?
    -ý kiến của Nét Len hoàn toàn khác chúng ta. Anh ta có đầu óc thực tế và một cái dạ dày đòi hỏi cao. Anh ta ngán ngẩm khi thấy cá, và phải ăn món cá. Là một người ?ng-glô Xắc-xông chính cống, anh ta quen chén bí-tết. Vì vậy cũng dễ hiểu là thiếu thịt, bánh mì và rượu vang, anh ta rất khó chịu!
    -Về phần tôi, anh Công-xây ạ, tôi rất ít quan tâm đến chuyện ăn uống. Chế độ trên tàu thế này là tốt lắm rồi.
    -Tôi cũng vậy ạ, -Công-xây nói.
    -Vì thế, tôi vui lòng ở lại đây cũng như Nét Len sẵn sàng chạy trốn khỏi nơi này. Nếu năm mới sẽ rủi ro đối với tôi, thì đối với Nét sẽ ngược lại! Như vậy thì một trong ba người chúng ta nhất định sẽ được hài lòng. Cuối cùng, tôi xin chúc giáo sư tất cả những gì giáo sư mong muốn!
    -Cám ơn Công-xây. Quà năm mới tôi xin khất anh đến khi khác và tạm thời thay bằng một cái bắt tay thật chặt. Anh bằng lòng nhé!
    -Giáo sư chưa bao giờ rộng lượng như vậy!
    -Công-xây trả lời rồi đi. Mùng 2 tháng giêng. Chúng tôi đã đi được một vạn một ngàn ba trăm bốn mươi hải lý, hay năm ngàn hai trăm năm mươi dặm, kể từ ngày xuất phát từ biển Nhật Bản. Trước mắt chúng tôi là vùng biển san hô ở bờ biển đông bắc châu Đại Dương. Tàu chạy cách hàng rào san hô mấy hải lý. Nơi đây đoàn tàu của thuyền trưởng Cúc suýt bị đắm ngày 10 tháng 6 năm 1770. Tàu của Cúc húc phải bãi san hô ngầm nhưng không đắm chỉ vì tảng san hô bị vỡ đã bịt kín ngay lỗ thủng ở vỏ tàu. Tôi rất mong được xem bãi san hô chạy dài suốt ba trăm năm mươi dặm ở chân trời. Sóng biển xô vào bức tường đá đó, tung bọt trắng xóa và gây nên những tiếng động ầm ầm. Nhưng lúc đó tàu Nau-ti-lúx lặn xuống sâu nên tôi không được thấy những bức tường san hô ở gần. Tôi đành bằng lòng với việc nghiên cứu các loại cá mắc lưới...
    Hai ngày sau khi vượt qua biển san hô, ngày mùng 4 tháng giêng, chúng tôi nhìn thấy bờ biển Pa-poa. Nhân dịp này, thuyền trưởng Nê-mô báo cáo cho tôi biết ý định cho tàu chạy sang ấn Độ Dương qua eo biển Tô-rex. ông ta chỉ nói có vậy. Nét Len hài lòng khi thấy rằng đi đường ấy thì chúng tôi sẽ tới gần bờ biển châu 'u hơn. Tô-rex là một eo biển nguy hiểm cho tàu bè chẳng phải chỉ vì nhiều đá ngầm, mà còn vì hai bờ hay xuất hiện những thổ dân hung dữ. Eo này tách châu Đại Dương ra khỏi một hòn đảo lớn là Tân Ghi-nê hay Pa-poa. Đảo Pa-poa dài bốn trăm dặm, rộng một trăm ba mươi dặm, diện tích là bốn mươi ngàn dặm địa lý. Đến giữa trưa, khi viên thuyền phó xác định độ cao của mặt trời, tôi không thấy rõ dãy núi ác-phan xếp thành bậc và có nhiều đỉnh nhọn hoắt. Thế là tàu Nau-ti-lúx đã tới cửa một cái eo nguy hiểm nhất trái đất mà những người đi biển gan dạ nhất cũng không dám vào. Eo biển này do Lu-i Tô-rex phát hiện ra trên đường từ những biển miền nam về Ma-la-nê-đi. Cũng ở eo này, năm 1840 mấy chiếc tàu chiến của Đuy-mông Đuyếc-vin bị mắc cạn suýt nữa thì đắm. Ngay tàu Nau-ti-lúx vốn coi thường những hiểm nguy ngoài biển cả, cũng phải thận trọng trước bãi san hô ngầm này. Eo Tô-rex dài khoảng ba mươi tư dặm, nhưng vô số đảo lớn nhỏ và mỏm đá cho tàu thuyền hầu như không qua lại được. Tính trước những khó khăn đó, thuyền trưởng Nê-mô đã đề ra những biện pháp đề phòng rất chu đáo. ông ta cho tàu chạy ngang mặt nước ở tốc độ chậm.
    Lợi dụng thời cơ, tôi, Công-xây và Nét Len trèo lên boong tàu lúc nào cũng vắng ngắt. Chúng tôi đứng sau buồng lái và nếu tôi không lầm thì chính Nê-mô đích thân lái tàu. Trước mắt tôi là tấm bản đồ vịnh Tô-rex vẽ rất tốt. Tôi hết sức chăm chú nghiên cứu bản đồ đó. Xung quanh chúng tôi là biển đang gào thét giận dữ. Luồng nước biển cuồn cuộn từ đông nam sang tây bắc với tốc độ hai hải lý rưỡi xô ầm ầm vào các mỏm san hô nổi lên giữa những đợt sóng tung bọt trắng xóa.
    -Biển tồi tệ nhất!
    -Nét nói.
    -Hết sức tồi tệ!
    -Tôi trả lời.
    -Và hoàn toàn không thích hợp với loại tàu như tàu Nau-ti-lúx. Nét nói tiếp:
    -Chắc cái ông Nê-mô đáng nguyền rủa này thạo đường lắm, nếu không thì tàu của ông ta đã húc vào những mỏm san hô mà tan ra từng mảnh rồi. Tình hình quả là nguy hiểm. Nhưng tàu Nau-ti-lúx tựa như có phép tiên, trườn qua những bãi san hô tệ hại đó một cách dễ dàng. Nê-mô không theo đường đi của tàu A-xtơ-rô-láp và Dê-lê đã làm Đuy-mông Đuyếc-vin thất bại. ông ta cho tàu ngược lên phía bắc, rẽ xuống tây nam rồi lại quay lên tây bắc, lượn quanh vô số đảo lớn nhỏ ít được nghiên cứu. Tôi tự hỏi:
    ?oChẳng lẽ Nê-mô lại liều lĩnh cho tàu vào một cái lạch, mà cả hai chiếc tàu của Đuy-mông Đuyếc-vin đã bị mắc cạn? "
    Nhưng lúc đó, tàu Nau-ti-lúx lại đổi hướng lần nữa và chạy thẳng về hướng tây nhằm phía đảo Ghê-bô-roa. Lúc đó là ba giờ chiều. Nước triều dâng lên tới đỉnh cao nhất. Tàu Nau-ti-lúx chạy dọc bờ biển Ghê-bô-roa, cho đến nay vẫn in bóng cây Pan-đa-núc xanh rờn trong tâm trí tôi. Chúng tôi cách bờ ít nhất hai hải lý. Bỗng tàu bị xô mạnh, hất tôi ngã xuống. Nó đã vấp phải một dải đá ngầm, nghiêng đi và dừng lại. Tôi đứng dậy và thấy thuyền trưởng cùng thuyền phó đứng trên boong. Họ đang nghiên cứu tình hình và trao đổi với nhau những câu nói nhát gừng bằng thứ tiếng không ai hiểu nổi. Tình hình như thế này. Cách tàu hai hải lý là đảo Ghê-bô-roa chạy dài từ bắc sang tây như một cánh tay khổng lồ. ở phía đông nam, nước triều xuống đã làm nhô lên những mỏm san hô. Chúng tôi bị mắc cạn đúng vào chỗ nước triều lên xuống, không đáng kể. Đó là điều rất bất lợi cho tàu Nau-ti-lúx. Tuy vậy, tàu không hư hại gì vì khi bị va chạm vỏ tàu rất vững chắc. Nhưng nếu vỏ tàu không bị rò thủng, thì tàu cũng có nguy cơ bị trói chặt vĩnh viễn vào dải đá ngầm này. Thế là chiếc tàu ngầm của thuyền trưởng Nê-mô hết đời! Nê-mô cắt ngang những suy nghĩ của tôi. ông ta bao giờ cũng bình tĩnh, tự chủ. Trên mặt ông ta chẳng hề có nét gì là hoang mang, giận dữ.
    -Thưa thuyền trưởng, đây là một tai nạn rủi ro?
    -Tôi hỏi.
    -Không, chỉ là một trở ngại ngẫu nhiên thôi. Tôi phản đối:
    -Một trở ngại có thể buộc ngài phải trở về mặt đất, nơi ngài đang trốn tránh! Nê-mô nhìn tôi một cách bí ẩn và lắc đầu. Cử chỉ ấy nói khá rõ là chẳng có cái gì có thể bắt ông ta lại đặt chân lên đất liền được. ông ta nói:
    -Thưa ngài A-rô-nắc, tàu Nau-ti-lúx không chết được đâu. Nó sẽ còn giới thiệu với ngài nhiều kỳ quan của biển cả. Cuộc hành trình của chúng ta chỉ mới bắt đầu và tôi hoàn toàn không muốn chấm dứt quan hệ với ngài sớm như vậy.
    -Nhưng, thưa thuyền trưởng, -tôi tỏ vẻ không hiểu ý của câu nói châm biếm đó, -chúng ta bị mắc cạn khi triều lên. Nói chung, ở Thái Bình Dương triều dâng rất yếu. Nếu ngài không giảm bớt trọng lượng thừa của tàu đi thì tôi không hiểu tàu sẽ ra khỏi nơi này bằng cách nào?
    -Thưa giáo sư, ngài nói đúng. ở Thái Bình Dương nước triều lên không đáng kể, nhưng ở eo Tô-rex này, khoảng chênh lệch của nước triều lên xuống là một mét rưỡi. Hôm nay là mùng 4 tháng giêng. Năm ngày nữa thì trăng tròn. Tôi sẽ hết sức ngạc nhiên nếu mặt trăng, người bạn đường chung thủy của hành tinh chúng ta, không nâng nước biển lên tới mức tôi cần. Chỉ có mặt trăng mới có thể giúp được tôi trong việc này! Nói đoạn, thuyền trưởng Nê-mô và viên thuyền phó đi xuống. Còn con tàu thì đứng tại chỗ không nhúc nhích, dường như đã bị san hô gắn chặt lại.
    -Thế nào, giáo sư?
    -Nét Len hỏi tôi khi Nê-mô vừa đi khỏi.
    -ông bạn Nét ơi, chúng ta sẽ chờ con nước lên vào ngày chín tháng giêng chứ? Mặt trăng sẽ giúp ta thoát khỏi nơi này đây!
    -Chỉ cần thế thôi ư?
    -Chỉ cần thế thôi.
    -ông Nê-mô đành chịu bó tay mà trông chờ vào mặt trăng thôi ư? Sao ông không sử dụng neo và các máy móc?
    -Chỉ cần nước triều lên là đủ!
    -Công-xây chất phác trả lời. Nét nhìn Công-xây và nhún vai. Máu thủy thủ trong người anh ta bốc lên.
    -Thưa giáo sư, -Nét nói tiếp, -xin ngài hãy nhớ lời tôi: không bao giờ chiếc tàu này có thể chạy trên hoặc dưới mặt nước được nữa! Nó chỉ còn giá trị là một đống sắt vụn. Tôi nghĩ đã đến lúc phải cắt đứt quan hệ với ông Nê-mô rồi.
    -ông bạn Nét ơi, -tôi trả lời, -về chuyện tàu Nau-ti-lúx thì ý kiến tôi lại khác. Bốn ngày nữa chúng ta sẽ được dịp thử thách sức mạnh của nước triều Thái Bình Dương. Lời khuyên của ông chỉ hợp thời nếu chúng ta ở đâu đó gần bờ biển Anh hay Prô-văng-xơ, còn ở bờ biển Pa-poa này thì chẳng được đâu! Chỉ có thể nghe theo anh trong trường hợp tàu Nau-ti-lúx không thoát được ra khỏi chỗ cạn này. Tôi vẫn cho hành động như vậy là hết sức liều lĩnh.
    -Có thể ngó lên đảo một chút không nhỉ?
    -Nét nói.
    -Trên đảo có cây cối, dưới bóng cây rất sẵn muông thú mà ta có thể chế biến các món thơm ngon... Chao ôi, bây giờ có miếng thịt mà chén nhỉ.
    -Lần này thì anh Nét đúng, -Công-xây nói, -tôi hoàn toàn tán thành anh Nét. Giáo sư có thể đề nghị thuyền trưởng cho chúng tôi lên đảo một lát được không? Nếu không thì chúng ta sẽ mất hết thói quen đi trên mặt đất. Tôi trả lời:
    -Đề nghị thì tôi làm được, nhưng chắc ông ta sẽ từ chối.
    -Nhưng nếu giáo sư cứ mạnh dạn đề nghị thì ít nhất ta cũng biết được Nê-mô tốt đến mức nào, -Công-xây nói. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy thuyền trưởng Nê-mô đồng ý và tế nhị đến mức không đòi hỏi chúng tôi phải hứa quay về tàu. Vả lại, chạy trốn qua Tân Ghi-nê vô cùng nguy hiểm, tôi chẳng khuyên Nét liều mạng làm gì. Thà làm tù binh trên tàu Nau-ti-lúx còn hơn là rơi vào tay thổ dân Pa-poa hung dữ. Tôi không hỏi Nê-mô có cùng đi với chúng tôi không. Tôi tin chắc rằng không ai trong đội thủy thủ sẽ đi kèm chúng tôi trong chuyến dạo chơi này. Nét sẽ phải đích thân điều khiển xuồng thôi! Tàu cách bờ không quá hai hải lý, Nét có thể lái chiếc xuồng mỏng manh len lỏi giữa bãi đá ngầm đã gây bao tai họa cho những tàu lớn. Hôm sau, mùng năm tháng giêng, chiếc xuồng được đưa thẳng từ boong tàu xuống nước. Hai người có thể làm việc một cách dễ dàng. Chúng tôi mang theo súng và rìu, đến tám giờ thì rời khỏi tàu Nau-ti-lúx. Biển lặng. Gió thổi nhẹ từ bờ ra. Công-xây và tôi ra sức chèo. Nét lái thuyền len lỏi qua những lạch nước hẹp. Nét không giấu được sự phấn khởi. Anh ta cảm thấy mình như một người tù được phóng thích và chẳng hề nghĩ đến chuyện phải quay về "nhà tù". Anh ta nhắc đi nhắc lại:
    -Thịt! Chúng ta sẽ ăn thịt, thịt rất ngon! Thịt ra thịt! Quả là có thiếu bánh mì! Tôi không bảo cá là dở, nhưng ăn cá mãi không chịu nổi! Nếu có miếng thịt tươi đem nướng trên than hồng thì thực đơn hàng ngày của ta cũng phong phú hơn!
    -Sành ăn nhỉ!
    -Công-xây nhận xét.
    -Mới nói thế mà tôi đã nhỏ dãi ra rồi!
    -Cần tìm hiểu xem ở khu rừng này có nhiều muông thú không?
    -Tôi nói.
    -Và chúng có vồ người đi săn không?
    -Vồ cũng được, ngài A-rô-nắc ạ.
    -Nét trả lời và nhe những chiếc răng sắc như lưỡi rìu ra.
    -Tôi sẵn sàng chén hết một con hổ nếu không tìm ra được một loài thú bốn chân nào khác trên đảo này.
    -ông bạn Nét làm chúng ta phát sợ, -Công-xây nói.
    -Bất kỳ một con vật nào xuất hiện: có lông hay không có lông, bốn chân hay hai chân, tôi cũng sẽ "chào mừng" bằng một viên đạn!
    -ông Nét bắt đầu làm loạn rồi đấy!
    -Tôi nói.
    -Đừng sợ, ngài A-rô-nắc ạ, -Nét trả lời, -chèo mạnh lên! Không đầy nửa tiếng nữa tôi sẽ thết các vị các món ăn do chính tay tôi làm. Đến tám giờ rưỡi, sau khi tránh được vòng đai đá ngầm, xuồng vào tới bờ.

  2. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Chương 21 - Mấy ngày trên đảo


    Tôi đặt chân lên đảo mà lòng không khỏi bồi hồi. Nét giẫm thử chân lên mặt đất, hình như còn muốn xem đất có vững chắc không. Đấy là chúng tôi mới làm "hành khách của tàu Nau-ti-lúx" (theo lời thuyền trưởng Nê-mô) đúng hơn là làm tù của Nê-mô có hai tháng! Mấy phút sau, chúng tôi đã đi vào cách bờ biển một quãng bằng tầm súng bắn. Đất ở đây gần như hoàn toàn bằng đá vôi san hô. Một dải rừng tuyệt đẹp che khuất chân trời. Những cây cối khổng lồ cao hơn sáu mươi mét, có dây leo chằng chịt với nhau và đung đưa trước gió, tạo nên những chiếc võng thiên nhiên. Thảo vật ở đây rất phong phú. Nhưng chúng không làm cho Nét mê. Anh ta thích những cái thực tế hơn. Nét chú ý tới cây dừa, chọc mấy quả rụng xuống rồi bổ ra. Chúng tôi uống nước dừa, chén cùi dừa và thấy thú vị hơn các món ăn trên tàu Nau-ti-lúx nhiều.
    -Tuyệt quá!
    -Nét reo lên.
    -Ngon tuyệt!
    -Công-xây tán thành.
    -Tôi nghĩ ông Nê-mô của ngài sẽ không cấm chúng ta mang một ít dừa xuống tàu?-Nét hỏi.
    -Tôi cho rằng Nê-mô sẽ không cấm, -Tôi trả lời.
    -Nhưng bản thân ông ta sẽ không đụng đến.
    -Thế thì ông ta thiệt, -Công-xây nói.
    -Càng tốt cho ta, ta càng được chén nhiều!
    -Nét cãi lại.
    -ông Nét ạ, chỉ xin ông một điều!
    -Tôi bảo Nét khi thấy anh ta định chọc dừa ở cây thứ hai.
    -Dừa là một thứ quả ngon, nhưng trước khi chất xuống thuyền, có lẽ ta nên xem trên đảo có thứ gì ích lợi hơn không? Rau tươi có lẽ cần cho kho thực phẩm trên tàu hơn.
    -Giáo sư nói rất xác đáng.
    -Công-xây tán thành.
    -Tôi đề nghị dành chỗ cho ba loại thực phẩm: một chỗ chứa trái cây, một chỗ chứa rau tươi, còn chỗ thứ ba để chứa các muông thú săn được, mà hình như ở đây không có thì phải.
    -Anh Công-xây ơi chớ nên tuyệt vọng! -Nét trả lời.
    -Tóm lại, ta cần đi tiếp, -tôi nói, -nhưng phải cảnh giác đấy! Đảo này chắc không ai ở, nhưng dù sao vẫn có thể gặp những người đi săn không phải chỉ ham săn thú như chúng ta! Nét bỗng nhe răng và gầm lên.
    -Sao thế anh Nét?
    -Công-xây vội hỏi.
    -Thú thật là tôi bắt đầu hiểu cái thú ăn thịt người.
    -Anh Nét! Anh Nét! Anh nói gì vậy?
    -Công-xây kêu lên.
    -Té ra anh là kẻ ăn thịt người à? Sống trong một phòng với anh thật không an toàn chút nào cả. Có khi ngủ dậy đã thấy mình bị chén nửa người rồi cũng nên.
    -Anh bạn Công-xây ơi, tôi yêu quý bạn, nhưng không cần thiết lắm thì cũng không chén thịt bạn đâu!
    -Tôi nghi ngờ điều đó lắm!
    -Công-xây trả lời.
    -Thôi, chúng ta nên đi săn là hơn! Phải hạ ngay một con thú để thết anh chàng ăn thịt người này, nếu không, một buổi sớm nào đó giáo sư chỉ còn thấy xương của tôi thôi!
    Chúng tôi vừa bông đùa như vậy vừa tiến sâu vào rừng cây rậm rạp, và trong khoảng hai tiếng đồng hồ đã đi từ đầu đến cuối rừng. Chúng tôi gặp may trong việc tìm kiếm thức ăn. Chúng tôi gặp một trong những loại cây có ích nhất của vùng nhiệt đới đã cung cấp cho tàu Nau-ti-lúx một thứ thực phẩm đang thiếu. Đó là cây mì, mọc rất nhiều trên đảo Ghê-bô-roa. Đặc biệt quý là loại quả mì không hạt mà người Ma-lai-xi-a gọi là ri-ma. Cây mì khác các loại cây khác ở chỗ có thân rất thẳng và nhẵn, cao tới mười hai mét. Tán cây tròn vành vạnh, lá to xếp thành nhiều tầng. Giữa đám lá sum sê là những quả tròn nặng trĩu, đường kính tới mười cen-ti-mét, vỏ xù xì. Thiên nhiên đã tặng cho những nước không có lúa mì loại cây có ích này. Nó không cần phải chăm sóc nhiều và ra quả suốt tám tháng trong năm. Nét Len rất quen thuộc loại quả này. Anh đã được ăn nhiều lần trong những chuyến đi biển và biết chế biến thành thức ăn rất ngon bổ. Nhìn thấy trái mì, anh đã ứa nước miếng. Nét nói:
    -Thưa giáo sư, nếu không được nếm thứ quả này thì tôi chết mất!
    -Thì ông cứ nếm đi, ông bạn Nét, cứ nếm thoải mái! Chúng ta lên đảo này là để nếm mỗi thứ một ít mà. ông bắt đầu đi! Nét nhóm bếp, chỉ mấy phút sau cây khô đã nổ lép bép. Trong khi đó, Công-xây và tôi lựa những quả mì chín nhất. Loại quả này không có hạt. Công-xây mang về hơn một chục quả, Nét xắt ra từng khoanh dày rồi đặt lên than hồng. Anh ta nói:
    -Rồi ngài sẽ thấy loại bánh mì này ngon đến mức nào!
    -Nhất là đã lâu không được thấy bánh mì, -Công-xây nói.
    -Đây không phải là bánh mì thường, -Nét nói thêm, -mà là bánh ga-tô, vừa cho vào miệng là tan ra ngay! Thế giáo sư chưa được nếm bao giờ ạ?
    -Chưa, ông Nét ạ.
    -Thế thì xin ngài nếm cho, rất bổ, rất ngon. Nếu ngài không đòi hỏi suất nữa thì tôi không phải là thằng Nét, vua săn cá voi nữa! Mấy phút sau vỏ ngoài đã chín vàng. Bên trong là ruột trắng, giống hệt ruột bánh mì... Tôi ăn hết sức ngon miệng. Tôi nói:
    -Đáng tiếc là khó bảo quản thứ quả này được lâu, nên theo tôi, có mang lên tàu cũng uổng công.
    -Xin ngài!
    -Nét Len phản đối.
    -Ngài lý luận như một nhà sinh vật học, còn tôi thì lại hành động như một anh thợ bánh mì. Này Công-xây anh hãy lấy thật nhiều cho tôi, ta sẽ mang về tàu.
    -Thế ông định bảo quản nó thế nào?
    -Tôi sẽ biến nó thành bột chua. Khi cần tôi sẽ nướng thành bánh ở bếp dưới tàu. Mặc dù bánh sẽ có vị hơi chua, nhưng vẫn rất ngon.
    -ông Nét ạ, nếu thế thì bánh mì của ông ngon quá rồi, chẳng mong gì hơn nữa...
    -Thưa giáo sư, tuy vậy vẫn thiếu rau và quả.
    -Thế thì ta đi tìm xem có không. Hái xong quả mì, chúng tôi tiếp tục đi "bổ sung thực đơn" của bữa trưa. Việc tìm kiếm của chúng tôi không đến nỗi uổng công. Tới gần giữa trưa, chúng tôi đã tìm được một số chuối và dứa rất to. Tuy việc hái quả này làm mất nhiều thì giờ, chúng tôi cũng không tiếc. Công-xây bám sát Nét. Nét đi đầu và lựa chọn rất khéo những trái cây ngon nhất để dự trữ.
    -ông bạn Nét ơi, bây giờ chắc ông thỏa mãn rồi chứ?
    -Công-xây hỏi.
    -Hừm!
    -Nét ầm ừ.
    -Sao? ông vẫn chưa hài lòng à?
    -Tất cả những thứ rau cỏ này không thể thay thế bữa trưa được. Đó chỉ là cái thêm thắt, cái tráng miệng sau bữa ăn thôi. Còn xúp đâu? Thịt rán đâu? Tôi nói:
    -ông Nét hứa thết ta món sườn rán, nhưng rõ ràng đó là chuyện hoang đường trăm phần trăm. Nét trả lời:
    -Thưa giáo sư, cuộc đi săn chưa kết thúc mà còn tiếp tục. Xin ngài ráng chờ chút nữa! Thế nào chúng ta cũng gặp một con chim hay một con thú nào đó, nếu không ở chỗ này thì ở chỗ khác...
    -Nếu không hôm nay thì ngày mai, -Công-xây nói thêm, -nhưng cũng không nên đi quá xa bờ. Tôi đề nghị quay về tàu.
    -Sao? Đã quay về rồi à?
    -Nét la lên.
    -Chúng ta phải có mặt ở tàu trước đêm nay, -tôi nói.
    -Thế mấy giờ rồi?
    -Nét hỏi.
    -ít nhất là hai giờ, -Công-xây trả lời.
    -Thời gian trên mặt đất sao trôi quá nhanh thế!
    -Nét thở dài.
    -Lên đường thôi!
    -Công-xây nói. Chúng tôi quay về bằng đường rừng. Cả ba người đều "thồ" quá nặng. Năm giờ chiều, sau khi chất xuống thuyền tất cả những của quý, chúng tôi rời đảo và nửa tiếng sau thì tới tàu Nau-ti-lúx. Chẳng ai ra đón chúng tôi. Khối thép đồ sộ hình trụ ấy dường như trống rỗng. Tôi trút bỏ gánh nặng rồi về phòng riêng. ở đó đã bày sẵn bữa tối. ?n xong, tôi đi ngủ. Hôm sau, mùng sáu tháng giêng, trên tàu không có gì thay đổi. Chẳng có một tiếng động, một dấu hiệu gì của sự sống. Chiếc xuồng bập bềnh cạnh tàu. Chúng tôi quyết định lại lên đảo Ghê-bô-roa. Nét Len hy vọng lần này đi săn sẽ kết quả hơn lần trước và muốn cầu may ở mé rừng bên kia. Chúng tôi lên đường lúc rạng đông. Gặp nước triều dâng, thuyền chẳng bao lâu đã tới bờ. Chúng tôi lên đảo và nghĩ rằng tốt nhất là nên tin vào bản năng của Nét và theo sát anh ta. Thế mà chúng tôi cũng mấy lần suýt mất hút anh bạn chân dài. Nét dẫn chúng tôi vào tít phía tây hòn đảo. Chúng tôi lội mấy bước rồi lên một khoảng đất bằng, xung quanh là rừng rất đẹp. Dọc những con suối nhỏ, có nhiều chim bói cá, nhưng thấy chúng tôi tới gần, chúng vội bay đi. Chắc những chú chim này đã nhiều lần gặp người nên đã có kinh nghiệm cần thiết. Vì vậy, tôi kết luận rằng nếu đảo này không có người ở thì vẫn có người từ nơi khác lui tới. Sau khi đi qua những đồng cỏ phì nhiêu, chúng tôi tới cửa một khu rừng non, từ đó vang ra tiếng chim hót và tiếng cánh vỗ rào rào.
    -ở đây chỉ có chim thôi, -Công-xây nói.
    -Nhưng có cả chim ăn thịt được!
    -Nét trả lời.
    -Anh bạn Nét ơi, khó lòng lắm, tôi chỉ thấy có giống vẹt thôi.
    -Anh bạn Công-xây ơi, -Nét nghiêm trang trả lời, -một khi không có gì chén thì vẹt cũng có giá trị như gà lôi. Tôi nói:
    -Tôi nghĩ nếu biết nấu nướng khéo thì vẹt cũng chén rất tốt. Thực vậy trong đám lá rậm rì có cả một thế giới vẹt sẵn sàng cất lên tiếng nói của người nếu có ai dạy. Chúng chuyền từ cành này sang cành khác và líu lo với các chú vẹt con đủ màu sắc. Qua một khu rừng thưa, chúng tôi ra một quãng trống, đôi chỗ có bụi rậm. ở đây tôi được thấy những con chim rất đẹp lông dài, có thể bay ngược gió. Chúng bay phóng khoáng, vẽ nên những đường vòng lượn duyên dáng trong không trung, nom thật vui mắt. Tôi nhận ngay ra chúng.
    -Chim thiên đường! -Tôi reo lên.
    -ông Nét, tôi trông mong vào sự khéo léo của ông và hy vọng ông sẽ bắt được ít nhất một con thuộc loại quý nhất của vùng nhiệt đới này.
    -Thưa giáo sư, tôi sẽ cố, mặc dù tôi bắn không giỏi lắm. Người Ma-lai-xi-a thường bán chim thiên đường cho Trung Quốc. Họ bẫy chim bằng nhiều cách mà chúng tôi không áp dụng được. Khi thì họ đặt thòng lọng trên ngọn cây, nơi chim hay làm tổ, khi thì họ phết nhựa dính lên cành. Đôi khi họ rắc thuốc độc xuống các nguồn nước mà chim hay tới uống. Còn chúng tôi thì đành phải bắn khi chúng đang bay, mà bắn kiểu ấy thì rất khó trúng. Quả thực, chúng tôi đã lãng phí một số lớn đạn. Tới gần 11 giờ trưa, chúng tôi đi ngang qua dãy đồi thứ nhất ở trung tâm đảo và không hạ được con chim nào. Chúng tôi đã thấy đói bụng. Cánh đi săn chúng tôi hy vọng sẽ được săn nhiều, nhưng đã tính lầm. Nhưng kìa! Công-xây hạ luôn được hai con chim bằng hai phát súng, điều làm chính Công-xây cũng hết sức ngạc nhiên. Chúng tôi vội vặt lông và chất củi nướng. Trong khi đó Nét nướng quả mì. Thịt chim rất ngon, chúng tôi ăn chỉ còn lại ít xương.
    -Thế nào ông Nét, bây giờ ông còn thèm gì nữa không?
    -Tôi hỏi.
    -Còn thèm thịt thú bốn chân nữa. Giống chim câu này chỉ để ăn qua loa cho nhờn mép tí thôi. Chưa hạ được một con bốn chân để làm món sườn nướng thì tôi chưa yên tâm!
    -Có khó gì đâu! Chúng ta sẽ tiếp tục săn.
    -Công-xây nói.
    -Nhưng nên quay ra phía rừng gần bờ biển thì hơn. Công-xây nói đúng nên chúng tôi nghe theo anh ta. Một giờ sau, chúng tôi tới một rừng cây xa-gô rậm rạp. Những con rắn có lẽ không độc trườn dưới chân chúng tôi. Những con chim thiên đường cứ thấy chúng tôi là bay mất. Tôi đã hy vọng bắt một con mang về thì Công-xây đang đi trước bỗng cúi người xuống rồi phấn khởi reo lên. Anh ta quay lại tay xách một con chim thiên đường.
    -Hoan hô Công-xây!
    -Tôi nói.
    -Giáo sư quá khen!
    -Công-xây trả lời.
    -Anh bạn thật là tài ba! Tay không mà bắt được chim.
    -Nếu giáo sư nhìn kỹ hơn một chút thì sẽ thấy công lao của tôi không lớn lắm.
    -Vì sao, Công-xây?
    -Vì con chim bị say.
    -Bị say à?
    -Thưa giáo sư vâng. Nó ăn quá nhiều quả hồ đào nên say và bị bắt sống. Anh bạn Nét ơi, hãy xem đây! Sự thái quá đưa đến hậu quả tai hại thế này đây! Trong khi đó, tôi nghiên cứu con chim lạ. Công-xây không lầm. Con chim đã say vì ăn quả bồ đào và không bay được nữa. Khó khăn lắm nó mới cử động được đôi chân. Nhưng tôi chẳng lo lắng gì về điều đó để nó tỉnh lại dần. Con chim vừa bắt được thuộc loài đẹp nhất trong số tám loài chim thiên đường sống trên đảo Tân Ghi-nê và các đảo lân cận. Nó dài ba mươi cen-ti-mét, đầu tương đối nhỏ, hai mắt ở gần mỏ. Lông chim rất đẹp và có màu sắc hài hòa, mỏ vàng, chân và móng màu nâu thẫm, cánh màu nâu nhạt, cổ màu ngọc bích, bụng và ngực màu hạt dẻ thẫm... Tóm lại, đó là giống chim thần kỳ mà thổ dân gọi bằng cái tên rất nên thơ:
    ?oChim mặt trời". Tôi mong ước mang về Pa-ri một mẫu chim này để tặng vườn bách thảo.
    -Đây là một con chim hiếm à?
    -Nét hỏi. Là thợ săn anh ta không đánh giá chim muông cao lắm về mặt thẩm mỹ.
    -Hết sức hiếm, ông bạn ạ, và chủ yếu là rất khó bắt sống nó. Ngay đến lông chim đã chết cũng có giá trị cao. Vì vậy, thổ dân thường làm tiêu bản giả, như người ta làm ngọc trai và kim cương giả.
    -Sao?
    -Công-xây ngạc nhiên.
    -Người ta làm giả cả tiêu bản chim thiên đường nữa ư?
    -Đúng.
    -Giáo sư có biết họ làm thế nào không?
    -Có chứ! Khi gió đông thổi thì bộ lông đuôi đẹp của chim rụng đi. Người ta đi nhặt những lông đó rồi gắn hoặc khâu nó vào đuôi một chú vẹt nào đó đã bị vặt trụi lông. Cuối cùng, họ dùng sơn quét kín đường khâu, lau bóng rồi chở những tác phẩm độc đáo của họ sang bán cho các viện bảo tàng châu 'u hay cho những người sưu tầm của lạ. Nét Len nói:
    -Nếu chim có giả thì lông nó cũng thật. Tôi chẳng thấy vấn đề gì lớn lắm, vì người ta có mua chim về để quay đâu! Nhưng nếu mong ước có một con chim thiên đường đã được thực hiện thì nguyện vọng của anh chàng Nét vẫn chưa được thỏa mãn. Tuy vậy, lúc gần hai giờ, Nét gặp may, bắn được chú lợn rừng tuyệt vời. Thế là chúng tôi có thịt thú bốn chân thực sự rồi. Nét rất kiêu hãnh về thành tích này. Con lợn trúng đạn bị gục ngay. Nét làm lông và mổ rồi chặt sườn để nướng ăn bữa tối. Sau đó cuộc đi săn tiếp tục và một lát sau lại ghi "chiến công" của Nét và Công-xây. Hai anh chàng sục sạo các bụi rậm làm một bầy đại thử nhảy vọt ra. Nhưng chúng có chạy nhanh đến đâu cũng bị những viên đạn có điện bắn trúng.
    -Thưa giáo sư!
    -Nét nói oang oang trong cơn hăng.
    -Món này mà ninh nhừ thì ngon tuyệt! Tàu Nau-ti-lúx sẽ có biết bao thực phẩm dự trữ. Hai! Ba! Năm con đã bị hạ! Giáo sư thử nghĩ xem, chỉ có chúng ta được chén số thịt này, còn cái quân ngu đần trên tàu thì đừng hòng động tới một miếng nhỏ! Tôi nghĩ bụng: trong lúc phấn khởi, Nét có thể sẽ diệt cả bầy đại thử nếu không mải tán chuyện! Hơn một chục con đại thử bị hạ thuộc loại nhỏ, thường sống ở hốc cây và lẩn trốn rất nhanh. Tuy nhỏ nhưng thịt chúng rất ngon. Chúng tôi hết sức hài lòng về kết quả cuộc đi săn. Anh chàng Nét đề nghị hôm sau trở lại hòn đảo tuyệt vời này và đi bắn tất cả những thú bốn chân ăn thịt được. Nhưng anh ta thường không tính đến những tình huống bất ngờ. Gần sáu giờ tối chúng tôi về tới gần bờ biển. Chiếc thuyền vẫn ở chỗ cũ. Cách bờ hai hải lý, tàu Nau-ti-lúx vẫn nổi lên như một dải đá ngầm giữa những làn sóng biển. Nét Len tranh thủ thời gian chuẩn bị bữa ăn. Anh ta quả là một tay nấu ăn có tài. Tôi thấy hình như mình cũng lây phải bệnh của Nét. Tôi cũng phấn chấn lên vì một miếng thịt nướng! Xin bạn đọc tha thứ cho tôi, cũng như tôi đã tha thứ cho Nét về cái nhược điểm ấy! Bữa ăn rất thịnh soạn. Món chim bồ câu, bột xa-gô, trái mì, độ sáu quả dứa và nước dừa càng làm chúng tôi sướng mê người.
    -Nếu hôm nay chúng ta không trở về tàu Nau-ti-lúx thì sao nhỉ!
    -Công-xây hỏi.
    -Nếu chúng ta không bao giờ trở về tàu nữa thì sao nhỉ?
    -Nét nói thêm. Lúc đó một hòn đá bỗng rơi ngay gần chỗ chúng tôi ngồi, và câu hỏi của Nét chẳng có ai trả lời.

  3. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Chương 22 - tiếng sét của thuyền trưởng Nê-mô


    Chúng tôi quay đầu nhìn về phía rừng. Tôi sửng sốt. Chẳng kịp đưa thìa lên miệng. Nét Len đang kết thúc công việc.
    -Đá không phải từ trên trời rơi xuống, -Công-xây nói, -trừ thiên thạch. Hòn đá thứ hai tròn trặn làm chiếc thìa trong tay Công-xây rơi xuống, càng thêm trọng lượng cho nhận xét của anh ta. Chúng tôi bật dậy và đưa súng lên vai để chuẩn bị đẩy lùi cuộc tấn công.
    -Có lẽ đá do khỉ ném, -Nét nói.
    -Hình như vậy, -Công-xây trả lời, nhưng ngay sau đó anh ta hét lên:
    -Thổ dân!
    -Về xuồng mau!
    -Tôi hô. Chúng tôi chạy như bay về phía bờ biển. Hành động của chúng tôi thật kịp thời. Phía bên phải, cách chúng tôi chừng một trăm mét, ở cửa khu rừng nhỏ xuất hiện chừng hai chục thổ dân trang bị cung tên. Chúng tôi còn cách bờ độ hai chục mét. Toán thổ dân đi từ từ nhưng rõ ràng có thái độ thù địch. Vì vậy đá và tên tới tấp bay đến! Mặc dù đang bị đe dọa nghiêm trọng, Nét vẫn không quên chỗ thực phẩm vừa kiếm được. Anh ta kẹp thịt lợn vào nách, còn tay thì xách con đại thử. Hai phút sau, chúng tôi tới bờ. Cho thực phẩm và vũ khí xuống thuyền, đẩy thuyền ra khỏi bờ và cầm lấy mũi chèo chỉ mất một phút đồng hồ. Xuồng ra cách bờ chưa tới bốn trăm mét thì có đến hơn một trăm thổ dân lội xuống nước đến ngực, vừa đuổi theo vừa kêu lên một cách man rợ và huơ tay đe dọa. Tôi không rời mắt khỏi tàu Nau-ti-lúx và hy vọng tiếng la hét của thổ dân sẽ khiến thủy thủ trên tàu chú ý. Nhưng không, trên boong chiếc tàu ngầm đồ sộ vẫn vắng lặng như tờ. Độ hai mươi phút sau, chúng tôi bước lên boong tàu. Nắp tàu để ngỏ. Chúng tôi buộc chắc thuyền rồi đi vào trong tàu. Từ phòng khách vọng ra tiếng đại phong cầm. Tôi vào. Thuyền trưởng Nê-mô đang cúi xuống các phím đàn và thả hồn trong thế giới âm thanh.
    -Thuyền trưởng!
    -Tôi gọi. Nê-mô không nghe thấy gì.
    -Thuyền trưởng!
    -Tôi chạm tay vào vai ông ta. Nê-mô giật mình quay lại:
    -Giáo sư đấy ư! Đi săn có được nhiều không?
    -Thưa thuyền trưởng, được rất nhiều. Nhưng chẳng may chúng tôi lại dẫn theo cả một bầy hai chân!
    -Cái gì hai chân?
    -Bọn man rợ!
    -Man rợ à?
    -Nê-mô nhắc lại bằng một giọng hài hước.
    -Giáo sư ngạc nhiên khi đặt chân lên một nơi nào đó trên trái đất, ngài lại gặp những người man rợ à? Người man rợ thì ở đâu chẳng có? Những người ngài gọi là man rợ kém những người khác ở chỗ nào?...
    -Nhưng thưa thuyền trưởng...
    -Riêng tôi, thưa giáo sư, tôi gặp bọn man rợ ở khắp nơi.
    -Nhưng nếu thuyền trưởng không muốn thấy họ trên tàu Nau-ti-lúx này thì có cần áp dụng những biện pháp phòng ngừa không?
    -Giáo sư chớ lo, chẳng có gì phải phòng ngừa họ cả.
    -Nhưng chúng rất đông.
    -Thế ngài đếm được bao nhiêu?
    -ít nhất là một trăm.
    -Thưa ngài A-rô-nắc, -tay Nê-mô vẫn không rời khỏi phím đàn, -cứ cho tất cả dân ở Niu Ghê-nê này tập trung ở bờ, tàu Nau-ti-lúx cũng chẳng sợ gì. Những ngón tay của Nê-mô lướt trên phím đàn. Tôi nhận thấy ông ta chỉ bấm xuống những phím đen. Vì vậy, các giai điệu, có màu sắc hoàn toàn Xcốt-len. Nê-mô quên hẳn sự có mặt của tôi mà thả hồn vào cõi mộng. Tôi chẳng muốn quấy rầy ông ta nữa. Tôi lên boong. Đêm đã đến. ở độ vĩ này mặt trời thường lặn đột ngột và không có hoàng hôn. Đảo Ghê-bô-Roa đã nhòa đi trong sương mù phía xa. Nhưng những đống lửa còn cháy trên bờ chứng tỏ thổ dân chưa muốn giải tán. Tôi đứng một mình trên boong mấy tiếng liền, khi thì nhớ lại chuyện chạm trán với thổ dân nhưng không còn hoảng sợ nữa vì sự vững tin của thuyền trưởng đã truyền sang tôi -khi thì ngắm cảnh huy hoàng của đêm nhiệt đới. Tôi nhớ nước Pháp và dõi theo chòm sao hoàng đạo mấy giờ nữa sẽ lấp lánh trên bầu trời Tổ quốc tôi. Trăng mọc. Tôi nghĩ, vệ tinh trung thành và duyên dáng của hành tinh chúng ta hăm bốn tiếng đồng hồ nữa sẽ quay lại vùng biển này để dâng nước lên và nâng thuyền ra khỏi bãi san hô này. Đến gần nửa đêm, khi đã thấy rõ rằng trên những làn nước đen thẫm này cũng yên tĩnh như trong những khu rừng gần bờ, tôi xuống phòng riêng và ngủ một giấc ngon lành. Đêm trôi qua một cách êm ả. Chắc thổ dân Pa-poa hoảng sợ trước con quái vật đang nằm trên bãi san hô, nếu không, họ có thể dễ dàng lọt vào trong tàu. Chín giờ sáng mùng 8 tháng giêng tôi lên boong. Sương mù tan dần, và một lúc sau đảo hiện ra: thoạt tiên là dải bờ biển, sau đó là những ngọn núi cao. Thổ dân vẫn tụ tập trên bờ. Họ đông hơn hôm trước có tới năm, sáu trăm người. Những người gan dạ hơn lợi dụng lúc triều xuống, tiến cách chỗ tàu đỗ chừng gần bốn trăm mét. Tôi thấy rõ mặt họ. Đó là những người Pa-poa chính cống, thân hình lực lưỡng, trán rộng và thẳng đứng, mũi to nhưng không tẹt, răng trắng. Thật là một bộ lạc đẹp đẽ! Bộ tóc quăn hung đỏ rất trái ngược với nước da đen bóng. Rái tai xẻ đôi đeo những khuyên bằng xương xệ xuống. Nói chung họ không mặc quần áo. Tôi thấy mấy người đàn bà mặc váy đan bằng cỏ, che không kín đầu gối. Một số đàn ông đeo những chuỗi hạt trắng và đỏ ở cổ. Hầu hết đều trang bị cung tên và lá chắn, sau lưng đeo lưới đựng đầy đá tròn mà họ phóng đi rất trúng đích.
    Một thủ lĩnh của họ tiến đến khá gần tàu và chăm chú quan sát. Muốn bắn hắn ta thật chẳng khó gì. Nhưng tôi cho rằng tốt hơn là nên đợi họ tấn công trước. Khi chạm trán với thổ dân thì nên tự vệ hơn là tấn công. Trong thời gian nước triều xuống, thổ dân cứ luẩn quẩn ở quanh tàu nhưng không tỏ vẻ thù địch gì. Họ lặp đi lặp lại từ "át xát" mà theo cử chỉ của họ, tôi hiểu rằng họ muốn mời tôi lên bờ, nhưng tôi từ chối. Đến 11 giờ trưa, khi triều bắt đầu dâng lên làm các mỏm đá san hô chìm xuống thì đám thổ dân quay lên bờ. Chắc họ từ các đảo lân cận, đúng hơn là từ đảo Pa-poa đến. Tuy vậy, chẳng thấy một chiếc thuyền độc mộc nào. Để giết thời gian, tôi nảy ra một ý kiến nạo vét dưới đáy biển một chút, vì ở đây rất nhiều sò ốc và tảo. Qua làn nước trong vắt, có thể nhìn thấu biển sâu. Vả lại, hôm nay là ngày cuối cùng tàu Nau-ti-lúx ở vùng biển này, vì theo lời thuyền trưởng Nê-mô, ngày mai khi triều lên, tàu Nau-ti-lúx sẽ quay ra khơi. Tôi gọi Công-xây mang đến cho tôi một cái gàu.
    -Còn những thổ dân kia thì sao?
    -Công-xây hỏi.
    -Thưa giáo sư, hình như họ cũng không đến nỗi dữ tợn lắm.
    -Nhưng họ ăn thịt người anh bạn ạ!
    -Chắc họ ăn thịt người, nhưng có thể vẫn lương thiện.
    -Thôi được, Công-xây ạ, cứ tạm cho ý kiến anh là đúng. Giả sử họ chén thịt tù binh một cách lương thiện, nhưng tôi vẫn không muốn bị thịt nên phải cảnh giác. Rõ ràng là thuyền trưởng Nê-mô không chuẩn bị những biện pháp đề phòng. Suốt hai tiếng đồng hồ, chúng tôi nạo vét đáy biển nhưng chẳng vớt được cái gì đáng kể... Tuy vậy, cuối cùng tôi bỗng vớ được một vật lạ của thiên nhiên, một vật hết sức hiếm. Đó là một vỏ ốc không xoắn từ phải sang trái như thường thấy, mà xoắn từ trái sang phải. Tôi và Công-xây đang mải ngắm cái vỏ ốc quý giá ấy và tôi đã nghĩ tới việc mang nó về viện bảo tàng Pa-ri thì một hòn đá bỗng rơi trúng con ốc làm nó vỡ nát trong tay Công-xây. Tôi hét lên. Công-xây vớ lấy khẩu súng của tôi, giơ lên ngắm vào người thổ dân đứng cách chỗ tôi chừng mười mét. Tôi lao tới chỗ Công-xây, nhưng anh ta đã bóp cò. Viên đạn có điện làm vỡ tan cái vòng đeo ở cổ tay người đó. Tôi kêu:
    -Công-xây! Công-xây!
    -Thưa giáo sư, ngài không thấy nó tấn công ta trước hay sao?
    -Nhưng một con ốc không đáng để hại một người.
    -Chà, quân ăn hại!
    -Công-xây rít lên.
    -Thà nó làm gãy vai mình đi còn hơn! Công-xây nói thành thực, nhưng tôi vẫn giữ vững ý kiến của mình. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà chúng tôi mải mê với cái vỏ ốc thì tình hình đã biến đổi. Độ hai chục chiếc thuyền độc mộc vây quanh tàu Nau-ti-lúx. Thuyền độc mộc của thổ dân vùng này là những thân cây đẽo, dài và hẹp, đi rất nhanh và vững vàng. Trên thuyền là những người mình trần đóng khố. Tôi không khỏi lo lắng khi thấy họ ngày càng lướt tới gần tàu.
    Chắc dân Pa-poa đã quan hệ với người 'u nên khá quen thuộc tàu thuyền của họ. Nhưng còn "điếu xì gà" bằng thép dài, hơi nhô lên mặt nước, không cột buồm, không ống khói này thì sao? Nó chẳng hứa hẹn điều gì tốt lành cả! Vì vậy một thời gian họ không dám đến gần tàu. Nhưng thấy tàu đứng yên họ mạnh bạo dần và chờ thời cơ để "làm quen" với chúng tôi. Súng của chúng tôi bắn không kêu nên họ không sợ như những loại súng nổ to... Những chiếc thuyền độc mộc đã tới sát tàu và tên bắt đầu rơi như mưa bên boong.
    -Quả là chúng bắn như mưa rào!
    -Công-xây nói.
    -Chẳng biết tên có tẩm thuốc độc không?
    -Phải báo cho thuyền trưởng Nê-mô biết mới được, -tôi vừa nói vừa bước vào trong tàu. Tôi đi thẳng vào phòng khách. ở đó chẳng có ai. Tôi bèn gõ cửa phòng thuyền trưởng.
    -Mời vào, -có tiếng trả lời phía sau cửa. Tôi bước vào. Thuyền trưởng đang bận tính toán, trên giấy toàn những dấu X và những công thức đại số phức tạp.
    -Tôi đã làm phiền thuyền trưởng?
    -Tôi hỏi một cách lịch sự.
    -Thưa ngài, đúng vậy. Nhưng chắc ngài có lý do gì đó quan trọng lắm.
    -Hết sức quan trọng! Thuyền của thổ dân đã bao vây tàu và mấy phút nữa chắc chúng ta sẽ phải chống lại cuộc tấn công của họ.
    -à! Thuyền trưởng bình tĩnh nói.
    -Họ đến bằng thuyền độc mộc à?
    -Vâng.
    -Được! Cần đóng nắp tàu lại.
    -Tất nhiên! Tôi đến để báo ngài biết.
    -Không có gì đơn giản hơn, -Nê-mô nói. Rồi Nê-mô bấm chuông điện ra lệnh cho thủy thủ.
    -Thưa giáo sư, thế là xong. Xuồng đã được đặt vào chỗ cũ, nắp tàu đã đóng. Tôi chắc ngài không sợ các vị đó chọc thủng vỏ tàu mà ngay đạn đại bác trên chiếc tàu chiến của ngài cũng không làm gì nổi.
    -Thưa thuyền trưởng, vấn đề không phải ở chỗ đó! Có một mối nguy khác.
    -Mối nguy gì, thưa ngài?
    -Ngày mai, cũng vào giờ này, ta lại phải mở nắp tàu để bơm không khí vào các bể chứa.
    -Đúng vậy! Tàu chúng ta thở theo kiểu cá voi.
    -Lúc đó bọn Pa-poa sẽ chiếm boong tàu! Ta làm thế nào để trừ được chúng?
    -Giáo sư tin rằng họ sẽ trèo lên tàu?
    -Tôi tin vậy.
    -Được, cứ để họ trèo lên. Tôi thấy không có lý do gì cản trở họ. Dân Pa-poa thật đáng thương! Tôi không muốn việc mình đến thăm đảo Ghê-bô-roa lại làm một người nào của họ bị thiệt mạng! Nói chuyện xong, tôi muốn cáo từ, nhưng Nê-mô giữ tôi lại và mời tôi ngồi xuống bên cạnh. ông ta hỏi han tôi về những chuyến đi săn trên đảo và hình như không thể hiểu nổi sự thèm ăn thịt của Nét. Sau đó câu chuyện chuyển sang đề tài khác. Tuy Nê-mô không cởi mở hơn trước, nhưng tôi thấy ông ta có vẻ đáng yêu hơn. Chúng tôi đề cập tới tình hình tàu Nau-ti-lúx bị mắc cạn ở vùng biển, nơi tàu của Đuy-mông Đuyếc-vin suýt bị đắm. Nê-mô nói:
    -ông Đuyếc-vin là một trong những người đi biển vĩ đại của nước ông và là một trong những nhà hàng hải thông thái nhất. ông ta thật bất hạnh! ông ta đã chế ngự được băng giá Nam cực, những bãi san hô ngầm của châu Đại dương, nhưng lại chết một cách vô nghĩa trong một tai nạn xe lửa! Nếu như con người cương nghị ấy có thời gian suy nghĩ trong những phút cuối cùng của đời mình thì giáo sư thử hình dung xem ông ta sẽ đau đớn đến mức nào? Nói những lời đó, Nê-mô không giấu được xúc động, và sự xúc động đó khiến ông ta đáng tôn kính.
    -Những việc ông Đuyếc-vin làm trên mặt biển, -Nê-mô nói tiếp, -tôi đã làm lại dưới biển sâu, nhưng chính xác hơn và tốn ít công sức hơn. Tàu A-xtơ-rô-láp và Dê-lê trước kia luôn luôn phải chống chọi với bão biển, không thể sánh được với tàu Nau-ti-lúx
    -một tòa nhà ngầm dưới nước, một phòng nghiên cứu thật yên tĩnh!
    -Nhưng thưa thuyền trưởng, -tôi nói, -giữa tàu của Đuyếc-vin và tàu Nau-ti-lúx có một vài chỗ giống nhau.
    -Thưa giáo sư, giống nhau ở chỗ nào?
    -Cả ba tàu đều bị mắc cạn ở chỗ này!
    -Thưa ngài, tàu Nau-ti-lúx không bị mắc cạn đâu, -Nê-mô lạnh lùng trả lời.
    -Cấu tạo của nó cho phép ta có thể nghỉ ngơi thoải mái giữa biển. Và để thoát khỏi chỗ cạn này, tôi không phải quá mệt nhọc như ông Đuyếc-vin đâu. Tàu A-xtơ-rô-láp và Dê-lê suýt nữa thì chết ở eo biển này, còn tàu Nau-ti-lúx của tôi thì chẳng gặp một nguy hiểm gì. Ngày mai vào giờ đã định, nước triều dâng sẽ nhẹ nhàng nâng tàu lên và tàu sẽ chạy ra khơi.
    -Thưa thuyền trưởng, tôi không nghi ngờ.
    -Đêm mai, -Nê-mô kết luận, -đêm mai vào hai giờ bốn mươi phút, tàu Nau-ti-lúx sẽ nổi lên và ra khỏi eo biển này một cách vô sự. Nê-mô nói những lời đó một cách rất gay gắt rồi đứng dậy, gật đầu tỏ ý kết thúc câu chuyện. Tôi trở về phòng riêng của mình. Công-xây đang ở đó. Anh ta muốn biết kết quả cuộc gặp gỡ với Nê-mô thế nào.
    -Bạn ơi, -tôi nói, -Nê-mô đã cười tôi khi tôi vừa đề cập tới chuyện thổ dân Pa-poa đe dọa tàu Nau-ti-lúx. Thôi được, chúng ta cứ trông cậy ở thuyền trưởng và chúc nhau ngủ ngon. Tôi nằm xuống nhưng ngủ không yên giấc. Vọng đến tai tôi những tiếng kêu điên dại của thổ dân đã ùa lên boong tàu. Thủy thủ vẫn im lìm như cũ. Họ chẳng hề lo lắng gì về sự có mặt của đám thổ dân trên tàu. Tôi thức dậy lúc sáu giờ sáng. Nắp tàu còn đóng kín. Đúng là dưỡng khí không được dự trữ thêm từ hôm qua. Tuy vậy, những bình dưỡng khí dự trữ được sử dụng kịp thời đã cung cấp mấy mét khối, làm không khí dễ thở hơn. Tôi làm việc trong phòng đến giữa trưa mà chẳng thấy bóng Nê-mô đâu. Cũng chẳng thấy một sự chuẩn bị nào cho tàu chạy. Đợi thêm một lát, tôi ra phòng khách. Đồng hồ chỉ hai giờ rưỡi. Mười phút nữa, nước triều sẽ lên tới mức cao nhất, và nếu thuyền trưởng Nê-mô tính toán không lầm thì tàu sẽ thoát khỏi chỗ cạn. Nếu không, nó sẽ phải nằm hàng tháng trên bãi san hô này. Kìa thân tàu đã bắt đầu rung chuyển, báo hiệu trước một sự giải phóng! Hai giờ ba mươi phút, thuyền trưởng bước vào phòng khách và nói:
    -Chúng ta bắt đầu đi.
    -Vâng!
    -Tôi trả lời.
    -Tôi đã ra lệnh mở nắp tàu.
    -Thế còn bọn Pa-poa?
    -Bọn Pa-poa à?
    -Nê-mô hơi nhún vai.
    -Nhỡ chúng lọt được vào trong tàu thì sao?
    -Lọt vào bằng cách nào?
    -Qua nắp tàu.
    -Thưa ngài A-rô-nắc, -Nê-mô điềm tĩnh trả lời, -không phải bao giờ cũng vào được qua nắp tàu Nau-ti-lúx ngay khi nó mở. Tôi nhìn Nê-mô.
    -Giáo sư không hiểu à?
    -ông ta hỏi.
    -Hoàn toàn không.
    -Mời giáo sư theo tôi, rồi ngài sẽ hiểu hết. Chúng tôi tới cầu thang giữa. Nét Len và Công-xây đã có mặt ở đó và đang tò mò xem mấy thủy thủ mở nắp tàu. Những tiếng la hét từ boong tàu vọng xuống. Nắp tàu được lật ra phía ngoài... khoảng hai chục bộ mặt đáng sợ nhòm xuống. Nhưng người thổ dân thứ nhất chưa kịp nắm tay vào tay vịn cầu thang thì đã bị một sức mạnh vô hình hất ngửa ra phía sau. Người đó rú lên một cách man rợ và cắm đầu chạy. Khoảng một chục người khác định lao xuống cầu thang nhưng cũng chịu chung số phận đó. Công-xây khoái trá. Nét Len bị bản năng kích thích cũng lao tới cầu thang. Nhưng vừa chạm vào tay vịn, anh ta cũng bị hất ngửa ra phía sau.
    -Đồ quỷ!
    -Nét gầm lên.
    -Tôi như bị sét đánh. Đến đây thì tôi đã hiểu hết. Những tay vịn ở cầu thang chính là những dây cáp có điện mạnh. Ai đụng vào đó cũng bị giật. Điện giật có thể chết người nếu Nê-mô cho chạy vào đó tất cả các ắc quy trên tàu! Tóm lại, giữa những kẻ đang tấn công và chúng tôi tựa như có một bức màn điện mà chẳng ai lọt qua được một cách an toàn. Những người Pa-poa hoảng sợ xô nhau chạy. Còn chúng tôi thì phải nín cười mà an ủi và xoa bóp cho Nét Len lúc đó đang chửi bới ầm ĩ. Một đợt sóng lớn bỗng nâng tàu Nau-ti-lúx lên khỏi bãi san hô! Lúc đó là hai giờ bốn mươi phút, đúng thời gian Nê-mô đã nói. Chân vịt bắt đầu quay với tốc độ ngày càng tăng. Chiếc tàu ngầm nổi lên mặt đại dương và ra khỏi eo biển Tô-rex nguy hiểm một cách bình yên vô sự.

  4. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Chương 23 - Cơn ngủ không thể giải thích được


    Hôm sau, mùng 10 tháng giêng, tàu Nau-ti-lúx ra khơi. Nó chạy với tốc độ ba mươi nhăm hải lý một giờ. Chân vịt quay nhanh đến nỗi tôi không thể tính được bao nhiêu vòng trong một phút. Nhưng khi tôi nhớ tới sức điện, cái sức mạnh thần kỳ chẳng những đẩy tàu chạy, sưởi ấm và chiếu sáng tàu mà còn bảo vệ tàu chống lại sự tấn công từ bên ngoài, biến tàu thành một vật bất khả xâm phạm. Và những ý nghĩ của tôi bất giác lại hướng về người đã tạo ra sức mạnh thần kỳ đó! Chúng tôi đi thẳng về hướng tây và ngày 11 tháng giêng vòng qua mũi Oét-xen. Đảo này rộng một ngàn sáu trăm hăm nhăm dặm vuông, do những tù trưởng Rát-giơ cai trị. Những tù trưởng này tự nhận là con trai của cá sấu, nói khác đi là xem mình thuộc loài thượng đẳng. Tổ tiên của họ -cá sấu -rất nhiều ở các con sông vùng này và được tôn sùng đặc biệt. Chúng được bảo vệ, chiều chuộng, cho ăn và được hiến dâng cả những cô gái đẹp. Rủi ro cho những thổ dân nào dám động tới con vật linh thiêng này! Nhưng tàu Nau-ti-lúx không chạm trán với chúng. Tàu chạy ngang qua đảo Ti-mo lúc giữa trưa, khi viên thuyền phó lên quan sát như thường lệ...
    Đến đây, tàu Nau-ti-lúx hướng về phía tây nam và tiến vào ấn Độ Dương. Thuyền trưởng Nê-mô định đưa chúng tôi đến phương trời nào đây? ông ta có quay lại bờ biển châu á không? Hay ông ta đến bờ biển châu 'u? Chắc không! Kẻ đang trốn tránh những lục địa đông người đi về phía đó làm gì? Hay Nê-mô sẽ vòng qua mũi Hảo Vọng và mũi Hoóc? Liệu ông ta có dám cho tàu đi Nam Cực không? Hay ông ta lại quay về Thái Bình Dương mênh mông, nơi tàu Nau-ti-lúx có thể tha hồ vùng vẫy? Tương lai sẽ giải đáp những câu hỏi này! Ngày 14 tháng giêng, tàu đã ra tới giữa biển khơi. Nó chuyển sang tốc độ trung bình và theo lệnh thuyền trưởng, lúc thì lặn xuống sâu, lúc thì nổi lên mặt nước. Trong khi tàu chạy, Nê-mô tiến hành những cuộc đo nhiệt độ đại dương ở những độ sâu khác nhau. Tôi theo dõi việc nghiên cứu đó một cách hết sức thú vị. Nê-mô rất say 81 82 sưa với những thí nghiệm của mình. Tôi thường tự hỏi: ông ta nghiên cứu khoa học để làm gì? Để phục vụ loài người ư? Chắc không phải, vì sớm muộn những công trình nghiên cứu của ông ta cũng sẽ chết theo ông ta ở một vùng biển nào đó không được ghi trên bản đồ!... Tuy vậy, thuyền trưởng Nê-mô vẫn giới thiệu với tôi những số liệu thu được về kết quả nghiên cứu độ đậm đặc của nước ở những vùng biển chủ yếu nhất trên trái đất. Qua câu chuyện, tôi được biết Nê-mô không lảng tránh những vùng biển nhộn nhịp của châu 'u. Từ đó, tôi kết luận rằng sẽ có lúc
    -chẳng biết sớm hay muộn
    -chúng tôi sẽ tới gần bờ những lục địa văn minh hơn. Tôi nghĩ Nét Len chắc sẽ mừng lắm trước khả năng này. Tôi và thuyền trưởng Nê-mô có khi bỏ ra mấy ngày liền để nghiên cứu khoa học: xác định các độ sâu khác nhau của nước biển, xác định độ sâu của ánh sáng xuyên qua nước biển. Trong mọi trường hợp, Nê-mô đều tỏ ra có đầu óc sáng tạo lạ thường. Sau đó, ông ta lại biến mất và tôi lại trở về tình trạng cô đơn trên chiếc tàu ngầm của ông ta. Ngày 16 tháng giêng, tàu Nau-ti-lúx dường như chìm trong giấc ngủ say dưới mặt biển mấy mét. Các máy điện ngừng chạy, chân vịt ngừng quay, để mặc con tàu trôi theo dòng nước. Tôi đinh ninh rằng các thủy thủ đang bận chữa máy vì vừa qua tàu đã chạy quá nhanh. Cũng hôm đó, tôi và các bạn tôi được chứng kiến một hiện tượng kỳ lạ. Cánh cửa sắt ở phòng khách mở ra. Chiếc đèn pha không bật sáng. Bầu trời bị mây dông bao phủ đang chiếu ánh sáng yếu ớt xuống lớp nước trên cửa đại dương. Tôi đang ngắm nhìn vùng nước xung quanh và những con cá lớn bơi ngang qua tàu thì bỗng rơi vào một dải ánh sáng chói lòa. Thoại tiên tôi tưởng rằng đèn pha vừa bật lên, nhưng khi nhìn kỹ hơn, tôi hiểu là mình đã lầm. Tàu Nau-ti-lúx bị dòng nước cuốn vào vùng nước sáng. ánh sáng đó do hằng hà sa số những cơ thể li ti dưới biển phát ra và càng được tăng lên khi gặp vỏ tàu bằng kim loại phản chiếu. Suốt mấy giờ liền, tàu chạy trong vùng nước đó. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy những con cá lớn vùng vẫy trong đó! Trong ánh sáng sinh động ấy tung tăng những chú cá heo, những anh "hề" không biết mệt mỏi của biển cả, và loài cá kiếm -báo bão -dài tới ba mét, nhiều khi chạm kiếm vào ô cửa kính của tàu. Sau đó xuất hiện hàng trăm loài cá nhỏ. Có lẽ phía trên đại dương đang có dông, nhưng ở dưới sâu mấy mét này thì không cảm thấy gì. Tàu vẫn bệp bềnh giữa những làn sóng biển. Những cảnh kỳ diệu nối tiếp nhau hiện ra trước những con mắt kinh ngạc của chúng tôi. Cuộc sống trong chiếc tàu ngầm đối với chúng tôi hình như có vẻ tự nhiên và dễ chịu hơn trước nhiều. Chúng tôi bắt đầu quên rằng có một cuộc sống khác trên trái đất này. Nhưng một chuyện bất ngờ đã xảy ra kéo chúng tôi trở lại thực tế. Ngày 18 tháng giêng, tàu Nau-ti-lúx chạy ngang qua 105 độ kinh và 15 độ vĩ. Mây đen kéo đến, biển động.
    Phong vũ biểu mấy ngày qua xuống dần, báo trước một cơn bão. Tôi lên boong đúng lúc viên thuyền phó đang quan sát chân trời. Tôi chờ ông ta nói lên câu nói thường lệ. Nhưng lần này ông ta lại nói một câu khác mà tôi cũng chẳng hiểu gì. Thuyền trưởng Nê-mô lập tức xuất hiện trên boong. ông ta đưa kính lên quan sát chân trời. Mấy phút liền ông ta chăm chú theo dõi một chấm đen ở phía xa. Sau đó, ông ta quay lại trao đổi mấy câu với thuyền phó. Thuyền phó tỏ vẻ rất xúc động tuy đã cố giữ bình tĩnh. Nê-mô tự chủ hơn. Chắc ông ta vừa phát biểu một ý kiến gì mà viên thuyền phó không tán thành. Tôi đoán như vậy là căn cứ vào giọng nói và cử chỉ của hai người. Tôi căng mắt nhìn về phía xa mù sương nhưng chẳng thấy gì. Chân trời vẫn hoang vắng. Thuyền trưởng Nê-mô đi đi lại lại trên boong và không nhìn về phía tôi. Bước chân Nê-mô vẫn chắc nịch nhưng có vẻ không đều đặn như lúc thường. Đôi khi ông ta dừng lại và khoanh tay trước ngực nhìn ra biển. ông ta tìm gì trong đại dương mênh mông này? Tàu Nau-ti-lúx còn cách bờ hàng trăm hải lý. Đến lượt viên thuyền phó đưa ống kính lên quan sát. ông ta bồn chồn, nôn nóng ra mặt, khác hẳn với thuyền trưởng. Câu chuyện khó hiểu này cũng sắp được sáng tỏ vì theo lệnh Nê-mô, máy móc trên tàu bắt đầu hoạt động khẩn trương. Viên thuyền phó lại lưu ý Nê-mô về một chấm đen phía chân trời. Nê-mô dừng lại rồi đưa ống kính về phía đó. ông ta quan sát rất lâu. Còn tôi vì bị kích thích ghê gớm bởi chuyện đó nên xuống phòng khách lấy một ống kính rất tốt mà tôi vẫn dùng rồi mang lên boong. Nhưng tôi chưa kịp đưa ống kính lên mắt thì nó đã bị giật ra khỏi tay tôi. Tôi quay lại. Trước mặt tôi là thuyền trưởng Nê-mô. Tôi không nhận ra ông ta nữa. Mặt ông ta biến dạng đi: hai mắt đỏ ngầu, lông mày nhíu lại, hai bàn tay nắm chặt, đầu rụt lại
    -tất cả đều toát lên sự căm giận cao độ. Nê-mô không nhúc nhích! ống kính nằm lăn dưới sàn. Vì sao Nê-mô nổi giận? Hay ông ta cho rằng tôi đã khám phá ra điều bí mật mà với tư cách là tù nhân của tàu Nau-ti-lúx tôi không được đụng chạm tới? Không! Nê-mô không nổi giận vì tôi! Thậm chí ông ta chẳng nhìn tôi nữa. ông ta đăm đăm nhìn chân trời. Cuối cùng Nê-mô đã tự chủ được. Mặt ông ta trở lại lạnh lùng như lúc thường. ông ta trao đổi vài lời với viên thuyền phó. Rồi ông ta nói với tôi như ra lệnh:
    -Ngài A-rô-nắc, ngài cần tuân theo điều kiện đã ràng buộc ngài với tôi.
    -Thưa thuyền trưởng, điều kiện gì vậy?
    -Ngài và hai người cùng đi phải ở trong phòng kín cho tới khi tôi thấy có thể phóng thích được các ngài. Tôi trả lời, mắt nhìn đăm đăm vào Nê-mô:
    -ở đây ngài là chủ. Nhưng xin phép ngài cho hỏi một câu.
    -Không hỏi gì hết, thưa ngài! Tranh cãi lúc này là vô ích. Tôi đành phục tùng. Tôi vào phòng của Nét Len và Công-xây báo cho họ biết ý định của thuyền trưởng. Các bạn thử hình dung xem mệnh lệnh đó đã gây ấn tượng thế nào đối với Nét! Nhưng còn đâu thì giờ để lý sự nữa! Bốn thủy thủ đã chờ chúng tôi ở cửa. Chúng tôi được đưa sang đúng cái phòng mà họ đã giam giữ chúng tôi ngày đầu tiên trên tàu Nau-ti-lúx. Nét Len định phản đối, nhưng cánh cửa đã sập lại.
    -Thưa giáo sư, ngài có hiểu vì sao lại xảy ra chuyện này không?
    -Công-xây hỏi. Tôi kể lại tất cả những điều đã thấy. Nét và Công-xây cũng ngạc nhiên như tôi và cũng chẳng đoán ra chuyện gì. Vẻ mặt giận dữ của thuyền trưởng vẫn ám ảnh đầu óc tôi. Tôi suy nghĩ mung lung và đề ra những giả thiết vớ vẩn. Tiếng reo của Nét kéo tôi ra khỏi sự suy nghĩ:
    -Kìa, trên bàn có thức ăn sáng! Mệnh lệnh này chắc đã được thi hành lúc thuyền trưởng ra lệnh cho tàu phóng nhanh. Công-xây bảo tôi:
    -Xin giáo sư cho phép tôi khuyên một điều.
    -Anh bạn cứ nói.
    -Giáo sư nên ăn sáng cho chắc dạ. Vì chưa biết sẽ xảy ra chuyện gì.
    -Anh nói đúng.
    -Chao ôi, người ta lại cho ăn món cá!
    -Nét Len phàn nàn.
    -Anh bạn Nét ơi, nếu không được ăn sáng thì sao hả anh? ý kiến của Công-xây làm Nét hết kêu ca. Chúng tôi ngồi vào bàn và ăn một cách lặng lẽ. Tôi ăn ít. Công-xây thì tự ép mình ăn đề phòng bất trắc. Còn Nét thì chẳng bỏ phí một chút nào! ?n xong, chúng tôi tựa vào các góc phòng mà thiu thiu ngủ. Bóng đèn bán cầu tắt đi khiến chúng tôi chìm trong bóng tối. Nét thiếp đi ngay. Tôi ngạc nhiên vì Công-xây cũng vậy! Cái gì đã gây cho anh ta cơn ngủ bất ngờ ấy? Cả tôi nữa cũng bắt đầu buồn ngủ díp mắt. Tôi chống lại. Nhưng hai mí cứ trĩu xuống và khép lại. Tôi bắt đầu thấy ảo ảnh. Đúng là thức ăn vừa rồi có trộn lẫn thuốc ngủ! Chẳng lẽ Nê-mô đã nhốt chúng tôi vào phòng kín lại còn bắt chúng tôi dùng thuốc ngủ nữa sao? Tôi thu hết sức lực còn lại để chống chọi với cơn ngủ. Nhưng không nổi nữa rồi! Ngày càng khó thở hơn. Chân tay tôi bị lạnh cứng ra như bị liệt. Mi mắt nặng như chì khép chặt lại không sao mở ra được. Tôi thấy ác mộng. Nhưng mộng mị bỗng chấm dứt. Tôi ngất đi.

  5. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Chương 24 - Vương quốc san hô


    Đến sáng tôi tỉnh dậy, đầu óc tỉnh táo. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy mình nằm trên giường trong phòng riêng. Chắc Nét và Công-xây cũng được khiêng về phòng riêng của họ. Họ cũng không thể biết chuyện gì xảy ra đêm qua hơn tôi. Chỉ còn hy vọng một sự tình cờ nào đó trong tương lai sẽ làm sáng tỏ câu chuyện bí ẩn này. Tôi muốn thở hít không khí trong lành. Nhưng không biết có ra ngoài được không, cửa phòng có bị khóa không? Tôi đẩy cửa. Cửa không bị khóa. Tôi theo hành lang hẹp đi về phía thang. Nắp tàu hôm trước đóng kín, nay đã mở. Tôi lên boong. Nét Len và Công-xây đã đợi tôi ở đó. Tôi hỏi họ đêm qua thế nào, nhưng họ chẳng nhớ gì. Hôm qua họ bị thiếp đi đến sáng nay mới tỉnh dậy, và rất ngạc nhiên thấy mình nằm trong phòng riêng! Tàu Nau-ti-lúx vẫn im lìm và bí ẩn như trước. Nó đang chạy giữa biển khơi với tốc độ vừa phải. Trên tàu chẳng thấy một sự thay đổi nào. Nét Len uổng công quan sát chân trời. Đại dương vắng lặng. Nét chẳng thấy một cánh buồm nào, một dải đất nào. Gió tây thổi mạnh. Con tàu bập bềnh trên sóng. Sau khi dự trữ không khí, tàu lại lặn xuống sâu độ mười lăm mét. Khi cần tàu có thể dễ dàng nổi lên mặt nước. Hôm đó, 19 tháng giêng, khác với lệ thường, tàu nhiều lần nổi lên lặn xuống.
    Và cứ mỗi lần nổi lên, viên thuyền phó lại lên boong và nói câu nói quen thuộc. Thuyền trưởng Nê-mô không xuất hiện. Trong số thủy thủ, hôm đó tôi chỉ thấy người phục vụ vẫn lặng lẽ cho chúng tôi ăn uống một cách chu đáo. Khoảng hai giờ chiều, tôi đang ngồi chỉnh lý lại những ghi chép của mình thì thuyền trưởng Nê-mô vào. Tôi chào ông ta. Nê-mô gật đầu chào lại. Tôi tiếp tục công việc và thầm hy vọng rằng Nê-mô sẽ nói tới những việc xảy ra đêm qua. Nhưng ông ta chẳng nói gì. Tôi nhìn Nê-mô. ông ta có vẻ mệt mỏi, hai mắt đỏ ngầu chứng tỏ đã thức trắng đêm. Một nỗi buồn sâu sắc và sự đau khổ thực sự đã in dấu trên khuôn mặt cương nghị của Nê-mô. ông ta đi đi lại lại trong phòng, ngồi xuống đi-văng rồi lại đứng dậy cầm lấy một cuốn sách nào đó rồi lại ném xuống, đến xem các máy móc nhưng không ghi chép gì như mọi khi. Hình như Nê-mô đang xúc động lắm. Cuối cùng Nê-mô hỏi tôi:
    -Ngài A-rô-nắc, ngài là bác sĩ phải không? Tôi bị hỏi bất ngờ nên lúng túng và im lặng nhìn Nê-mô.
    -Ngài là bác sĩ phải không?
    -Nê-mô nhắc lại.
    -Nhiều người đồng sự với ngài như Gra-xi-ô-lê, Mô-canh, Tăng-đông vân vân đều có học y.
    -Vâng, tôi đã từng làm bác sĩ. Trước khi làm việc ở Viện bảo tàng, tôi đã nhiều năm làm bác sĩ điều trị ở bệnh viện.
    -Thế thì tốt lắm!
    Câu trả lời của tôi làm Nê-mô rất hài lòng. Nhưng tôi không biết ông ta định nói gì thêm nên chờ hỏi tiếp, định bụng sẽ tùy theo tình hình cụ thể mà trả lời. Nê-mô nói:
    -Ngài A-rô-nắc, một thủy thủ của tôi đang cần được chữa chạy. Ngài có thể khám cho anh ta được không!
    -Trên tàu có người ốm ạ?
    -Vâng.
    -Tôi sẵn sàng phục vụ ngài. Thú thật là tim tôi đập thình thịch. Tự nhiên tôi liên hệ việc người thủy thủ bị ốm với sự việc đêm qua. Nê-mô dẫn tôi về phía lái rồi mở cửa một căn phòng cạnh phòng thủy thủ. Một người đàn ông trạc bốn mươi tuổi có khuôn mặt cương nghị của người Anh, nằm trên giường. Tôi tới gần giường. Đó là một người bị thương chứ không phải là người ốm. Đầu anh ta quấn băng bê bết máu, đặt trên gối. Anh ta nhìn tôi trừng trừng. Khi tôi tháo băng ra, anh ta không hề nói một lời. Vết thương thật khủng khiếp. Sọ bị một vật nhọn đâm thủng một lỗ sâu hoắm, phòi cả óc ra. Nạn nhân thở rất khó khăn. Đôi lúc mặt bị méo hẳn đi. Tôi bắt mạch. Tim đập không đều, mạch thỉnh thoảng bị mất. Chân tay bắt đầu lạnh dần. Nạn nhân đang hấp hối, không có gì cứu vãn nổi! Tôi lấy bông băng mới băng lại vết thương rồi sửa lại gối cho ngay ngắn. Tôi quay lại hỏi Nê-mô:
    -Vết thương này do vật gì gây ra.
    -Vật gì gây ra mà chẳng vậy, thưa ngài!
    -Nê-mô tránh không trả lời thẳng.
    -Vì rung chuyển quá mạnh nên tay đòn của máy bị gãy và văng vào đầu người này. Ngài thấy nạn nhân thế nào? Tôi lưỡng lự.
    -Ngài có thể nói được vì người này không biết tiếng Pháp. Tôi nhìn nạn nhân một lần nữa rồi nói:
    -Độ hai tiếng nữa người này sẽ chết.
    -Không gì có thể cứu sống anh ta nữa ư?
    -Không! Bàn tay Nê-mô nắm chặt lại, nước mắt trào ra. Tôi không tưởng tượng được rằng Nê-mô có thể khóc. Tôi đứng bên cạnh nạn nhân mấy phút. ánh điện lạnh lùng càng tăng thêm sắc mặt nhợt nhạt và sớm nhăn nheo của anh ta. Chắc anh ta đã chịu gian khổ, thiếu thốn nhiều . Tôi chờ xem điều bí mật của cuộc đời anh ta có được mở ra qua những lời trăng trối cuối cùng không.
    -Ngài A-rô-nắc, ngài có thể về, -Nê-mô nói. Tôi để Nê-mô ở lại một mình bên giường của người hấp hối.
    Tôi trở về phòng mà lòng hết sức xúc động trước cảnh tượng vừa qua. Linh cảm u buồn làm tôi bồn chồn suốt ngày. Đêm tôi cũng không yên giấc. Tôi nghe thấy mãi tiếng thở dài não ruột, tiếng cầu kinh. Rạng sáng hôm sau tôi lên boong. Thuyền trưởng đã ở đó. Thấy tôi, ông ta bước tới:
    -Thưa giáo sư, hôm nay ngài có muốn tham gia một chuyến đi chơi ngầm dưới biển không?
    -Đi cùng với Nét và Công-xây ạ?
    -Nếu họ muốn.
    -Thưa thuyền trưởng, chúng tôi sẵn sàng.
    -Nếu vậy, mời ngài mặc đồ lặn vào. Nê-mô chẳng hề nói một lời về nạn nhân đang hấp hối hoặc đã chết! Tôi tìm Nét và Công-xây báo cho họ biết lời mời của thuyền trưởng. Công-xây rất mừng và Nét lần này cũng vui vẻ nhận lời cùng đi. Chúng tôi mặc đồ lặn, đeo bình dưỡng khí và đèn điện, và đúng tám giờ rưỡi sáng thì lên đường. Cánh cửa được mở rộng. Chúng tôi, đứng đầu là thuyền trưởng Nê-mô có mười hai thủy thủ hộ tống, bước xuống đáy biển rải đá ở độ sâu mười mét. Đáy biển ấn Độ Dương khác xa đáy biển Thái Bình Dương mà tôi đã được thấy trong chuyến dạo chơi dưới đáy biển lần đầu. ở đây không có cát và những bãi bằng, cũng chẳng có tảo. Tôi nhận ra ngay một thế giới thần kỳ. Đó là "vương quốc" san hô! Cảnh vật đẹp mắt không bút nào tả xiết! Vì sao chúng tôi không thể trao đổi được cảm tưởng với nhau nhỉ? Vì sao chúng tôi lại bị gò bó trong cái vỏ bằng sắt và bằng kính kín mít như thế này? Vì sao tiếng nói không thoát ra ngoài được? Vì sao chúng tôi không thể sống trong khoảng nước mênh mông này như cá, hay hơn nữa như loài lưỡng thể sống thoải mái cả trên cạn cả dưới nước? Thuyền trưởng Nê-mô dừng lại. Chúng tôi cũng dừng lại. Nhìn về phía sau chúng tôi thấy các thủy thủ đứng thành hình vòng cung sau thuyền trưởng. Tôi nhận ra một vật dài dài mà bốn người đang vác trên vai. Chúng tôi đứng giữa một bãi rộng có rừng cây bao quanh. Dưới ánh đèn điện, trên nền đất in những bóng khổng lồ. Xung quanh tối đen như mực. Nét Len và Công-xây đứng cạnh tôi.
    Chúng tôi chờ xem sao. Tôi bỗng thoáng có ý nghĩ là sẽ được chứng kiến một cảnh tượng đặc biệt. Đưa mắt nhìn quanh, tôi thấy đây đó có những gò nhỏ phủ một lớp đá vôi và được bàn tay con người sắp đặt theo một trật tự rõ ràng. Giữa bãi trống, trên một chỗ cao, có một chữ thập bằng san hô đỏ. Theo hiệu của thuyền trưởng, một thủy thủ tiến lên phía trước, rút chiếc cuốc chim cài ở thắt lưng ra và bắt đầu đào một cái hố cách chữ thập khoảng một mét. Tôi hiểu cả rồi! Đây là nghĩa trang, cái hố đang đào đó là huyệt, còn vật dài dài kia là xác người vừa chết đêm qua! Thuyền trưởng Nê-mô và các thủy thủ đang chôn bạn mình ở nghĩa trang dưới đáy đại dương này! Tôi chưa từng bị xúc động như vậy bao giờ! Tôi chưa thấy tình cảm mình bị bối rối như vậy bao giờ! Tôi không muốn tin vào mắt mình nữa! Huyệt đào khá chậm. Bầy cá hoảng sợ chạy ra bốn phía. Tôi thấy tiếng sắt chạm xuống nền đá vôi và lửa toé ra ở đầu cuốc chim. Cái huyệt ngày càng dài và rộng hơn, chẳng bao lâu đã đủ để đặt người xuống. Cái xác liệm vải trắng được khiêng tới và hạ xuống huyệt đầy nước. Thuyền trưởng Nê-mô và các thủy thủ, tay khoanh trước ngực, quỳ xuống. Còn ba chúng tôi thì chỉ đứng cúi đầu. Huyệt được lấp đầy đất đá và đắp lên không cao lắm. Đắp xong mộ, Nê-mô và những người cùng đi quỳ một chân xuống và giơ tay lên để vĩnh biệt lần cuối cùng... Sau đó đám tang quay trở về... Phía xa thấp thoáng ánh đèn. Chúng tôi hướng theo ngọn lửa soi đường đó và một giờ sau thì bước lên tàu Nau-ti-lúx. Thay quần áo xong, tôi lên boong và ngồi xuống cạnh chiếc đèn pha. Tôi đắm mình trong những ý nghĩ u buồn. Một lát sau thuyền trưởng Nê-mô tới. Tôi đứng dậy hỏi:
    -Như tôi đã nói, người đó tắt thở lúc nửa đêm, phải không ạ?
    -Thưa ngài vâng.
    -Và bây giờ thì người đó đang yên nghỉ trong nghĩa trang san hô bên cạnh những người bạn mình phải không ạ?
    -Vâng, và bị mọi người lãng quên, trừ chúng tôi! Thuyền trưởng Nê-mô lấy tay che mặt, cố ghìm lại tiếng nức nở, nhưng vô hiệu. Sau đó, ông ta trấn tĩnh và nói:
    -ở dưới đó, ở độ sâu mấy chục mét dưới đáy biển là nghĩa trang của chúng tôi!
    -Thưa thuyền trưởng, những người chết của ngài ở dưới đó được yên nghỉ mãi mãi. Cá mập chẳng làm gì được họ!
    -Vâng, thưa ngài, cả cá mập, cả con người cũng chẳng làm gì được họ!

  6. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Chương 25 - ấn Độ Dương


    Đến đây bắt đầu phần thứ hai của cuộc hành trình ngầm dưới biển của chúng tôi. Phần thứ nhất kết thúc bằng cảnh tượng xúc động dưới nghĩa trang san hô, để lại cho tôi một ấn tượng sâu sắc. Như vậy, chẳng phải chỉ cuộc sống của thuyền trưởng Nê-mô trôi qua giữa lòng đại dương mênh mông, mà cả cái chết, ông ta cũng chuẩn bị ở dưới đáy biển sâu! ở đó không một quái vật nào có thể quấy rối giấc ngủ cuối cùng của những người chủ tàu Nau-ti-lúx, những người gắn bó với nhau lúc sống cũng như lúc chết, những người "không ai có thể động tới được", như Nê-mô đã nói. Giả thiết Công-xây đề ra không làm tôi thỏa mãn. Anh ta cho Nê-mô là một trong số những nhà bác học vì bị hắt hủi nên tỏ vẻ khinh bạc đối với mọi người, hoặc là một thiên tài bất đắc chí nên từ bỏ những cám dỗ trần tục mà lui về ẩn náu trong biển cả, môi trường gần gũi với tâm hồn phóng khoáng của ông ta. Theo tôi, cách giải thích như vậy chỉ đúng một mặt của bản chất Nê-mô. Bí mật của đêm nọ là chuyện gì vậy? Vì sao họ phải giam giữ chúng tôi? Vì sao họ cho chúng tôi uống thuốc ngủ? Vì sao Nê-mô lại giật phắt chiếc ống nhòm, khi tôi chưa kịp đưa lên nhìn chân trời? Và người thủy thủ bị tử thương trong trường hợp hết sức bí hiểm kia? Tất cả những câu hỏi đó khiến tôi phải suy nghĩ. Không! Thuyền trưởng Nê-mô không phải chỉ trốn tránh mọi người! Chiếc tàu đáng sợ của ông ta có lẽ không chỉ là nơi ẩn náu của một người yêu tự do, mà còn là một vũ khí phục thù khủng khiếp! Đó chỉ là những phỏng đoán, chỉ là ánh sáng le lói trong đêm tối dày đặc. Tôi buộc phải ghi chép các sự kiện theo thứ tự của chúng. Chẳng có gì ràng buộc chúng tôi với thuyền trưởng Nê-mô cả. ông ta biết rằng chạy trốn khỏi tàu Nau-ti-lúx là một điều không tưởng. Nê-mô chẳng cần chúng tôi phải thề bồi cam đoan gì. Chúng tôi là người bị giam, là tù nhân mà người ta gọi lịch sự là khách. Tuy vậy, Nét vẫn không mất hy vọng giành lại tự do. Có thời cơ thuận lợi là anh ta chuồn ngay. Tất nhiên tôi cũng theo gương anh ta. Nhưng dù sao tôi cũng ân hận sẽ phải mang theo cả những bí mật mà thuyền trưởng Nê-mô đã tin mà cho tôi biết. Cuối cùng con người ấy đáng căm ghét hay đáng khâm phục? Con người ấy là nạn nhân hay đao phủ? Thực lòng tôi cũng muốn, trước khi vĩnh biệt Nê-mô, làm một chuyến du lịch vòng quanh thế giới mà phần đầu đã hoàn thành một cách tuyệt mỹ! Tôi muốn được thấy hết những kỳ quan đang ẩn mình dưới các đại dương. Tôi muốn đi sâu vào những điều bí ẩn nhất, thậm chí dám hy sinh tính mạng để thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu những cái chưa biết! Cho tới nay tôi đã khám phá ra điều gì? Chưa được hoặc gần như chưa được điều gì, vì chúng tôi mới đi được sáu ngàn dặm dưới Thái Bình Dương...
    Trưa ngày 21 tháng giêng năm 1868, viên thuyền phó lại lên boong xác định độ nghiêng của mặt trời như thường lệ. Tôi cũng lên boong châm lửa hút xì gà và theo dõi việc làm của ông ta. Rõ ràng ông ta không biết tí tiếng Pháp nào. Tôi cố ý nói lên mấy nhận xét để ông ta phản ứng lại nếu ông ta nghe, hiểu. Nhưng ông ta vẫn bình thản và lặng thinh. Trong khi viên thuyền phó đang quan sát thì có một thủy thủ lên boong. Đó chính là anh chàng lực lưỡng đã theo chúng tôi trong chuyến đi chơi ngầm ở đảo Crét-xpô. Anh ta lau kính đèn pha... Tàu Nau-ti-lúx chuẩn bị lặn. Tôi vội chui xuống phòng khách. Nắp tàu đóng lại và tàu bắt đầu chạy về hướng tây. Chúng tôi đi trong ấn Độ Dương mênh mông, năm trăm năm mươi triệu héc-ta, nước trong vắt, đến nỗi nếu nhìn từ trên xuống thì có thể bị chóng mặt. Tàu phần lớn lặn sâu từ một trăm đến hai trăm mét trong mấy ngày liền. ở địa vị tôi có lẽ ai cũng cho cuộc hành trình này là mệt mỏi và đơn điệu. Nhưng vì tôi say mê biển nên không còn thì giờ để mệt mỏi và để buồn. Mỗi ngày dạo chơi trên boong tàu lộng gió biển khơi và ngắm nhìn những của báu dưới đáy biển, qua ô cửa phòng khách, đọc sách trong thư viện của thuyền trưởng và ghi nhật ký đi đường -tất cả những việc đó đã choán hết thời gian của tôi. Tình hình sức khỏe của chúng tôi rất tốt, khẩu phần thức ăn trên tàu khá đầy đủ. Tôi có thể chẳng cần món "cải thiện" gì của Nét Len. Ngoài ra, nhiệt độ trên tàu rất dễ chịu, nên đến sổ mũi cũng chẳng có. Đã mấy hôm nay chúng tôi gặp vô số chim biển, trong số đó có những con to có thể bay xa và dọc đường hạ cánh xuống nghỉ trên ngọn sóng, như chim báo bão. Loài chim này rất đẹp, tuy tiếng nó kêu giống tiếng lừa. Còn về cá thì chúng tôi luôn luôn phải trằm trồ ngạc nhiên khi đi sâu vào những bí mật của chúng dưới đáy nước. Tôi phát hiện ra nhiều loài cá mà tôi chưa từng gặp trong môi trường tự nhiên. Từ 21 đến 23 tháng giêng, tàu Nau-ti-lúx chạy với tốc độ hai trăm năm mươi dặm một ngày. Nói khác đi, nó chạy năm trăm bốn mươi hải lý trong hăm bốn tiếng đồng hồ nghĩa là hăm hai hải lý một giờ. Chúng tôi chỉ quan sát được những con cá bơi theo tàu và lọt vào vệt sáng của đèn pha trên tàu. Nhưng vì tàu chạy nhanh nên đàn cá bơi theo cứ thưa dần và chỉ một số ít mới chạy đua thêm được với tàu một thời gian ngắn nữa. Sau khi chạy ngang qua đảo Ki-linh, một hòn đảo san hô không người ở, tàu hướng về phía tây-bắc tới mỏm cực nam của bán đảo ấn Độ. Hôm ấy Nét Len bảo tôi:
    -Đó là những nước văn minh! Thưa giáo sư, ở ấn Độ có đường cái rải nhựa và đường sắt, có những thành phố đẹp đẽ. Đi đâu cũng gặp người đồng hương! Thế nào đã đến lúc chúng ta chia tay với thuyền trưởng Nê-mô chưa, thưa giáo sư?
    -Không, không, ông Nét ạ!
    -Tôi trả lời rất cương quyết.
    -Thôi cứ để mặc trời đất, như cánh thủy thủ các ông thường nói. Tàu Nau-ti-lúx đang hướng về các lục địa, đang tiến gần bờ biển châu 'u. Cứ để nó đưa ta tới đó, rồi ta sẽ tùy tình hình cụ thể mà định liệu. Nhưng tôi nghĩ thuyền trưởng Nê-mô sẽ không cho ta lên bờ săn bắn như ở rừng Niu Ghi-nê đâu!
    -Nhưng thưa ngài, cần gì đợi ông ta cho phép? Tôi không trả lời Nét và chẳng muốn tranh luận làm gì. Trong thâm tâm, tôi muốn trải qua mọi thử thánh của số phận đã đẩy tôi lên tàu Nau-ti-lúx. Tàu chạy chậm lại nhưng luôn luôn đổi hướng đi và lặn xuống rất sâu. Nhiệt độ những lớp nước dưới cố định là +4o. Tôi thấy ở những lớp nước trên, gần bờ, bao giờ nhiệt độ cũng thấp hơn ngoài biển khơi. Ngày 25 tháng giêng, đại dương hoàn toàn vắng lặng. Tàu Nau-ti-lúx suốt ngày chạy trên mặt nước, cánh quạt làm nước bắn lên trắng xóa. Thật dễ lầm với một con cá voi khổng lồ! Tôi ở trên boong ba phần tư thời gian trong ngày. Tôi nhìn biển. Chân trời hoang vắng. Nhưng khoảng bốn giờ chiều thì xuất hiện một chiếc tàu ở phía tây. Chúng tôi nhìn thấy nó, nhưng nó không thể nhìn thấy chúng tôi, vì tàu Nau-ti-lúx chỉ hơi nhô khỏi mặt nước. Tôi nghĩ tàu này thuộc công ty tàu biển chạy đường Xây-lan
    -Xít-ni có ghé qua Men-buốc... Hôm sau, 26 tháng giêng, chúng tôi vượt qua xích đạo và vào vùng biển Bắc bán cầu. Một đàn cá mập đáng sợ đi "hộ tống" tàu. Nhưng một lát sau tàu tăng tốc độ, bỏ rơi những con cá mập hung hăng nhất. Khoảng bảy giờ tối, tàu nổi lên mặt nước và chạy trên biển sữa. Biển xanh mênh mông biến thành màu trắng đục. Có phải vì ánh trăng không? Không! Trăng non mới được hai ngày và lúc đó chưa nhô khỏi chân trời. So với màu sữa của biển cả thì bầu trời sao hình như đen thẫm lại. Công-xây không tin ở mắt mình và yêu cầu giải thích nguyên nhân của hiện tượng kỳ lạ đó. Cũng may mà tôi có thể làm được việc này. Tôi nói:
    -Đó gọi là biển sữa. Những vùng biển rộng lớn trắng như sữa là hiện tượng thường gặp ở độ vĩ này.
    -Nhưng giáo sư có giải thích được nguyên nhân của hiện tượng đó không ạ? Nước biển thực ra đâu có biến thành sữa?
    -Tất nhiên là không, anh bạn ạ! Màu sữa của nước làm anh ngạc nhiên chính là do hàng tỉ tỉ sinh vật hết sức nhỏ, không màu phát ra ánh sáng, dày bằng bề dày sợi tóc và dài bằng một phần năm milimét. Các sinh vật này kết vào nhau và tạo thành từng mảng rộng vài dặm.
    -Vài dặm cơ ạ!
    -Công-xây sửng sốt.
    -Đúng, anh bạn ạ! Và anh chớ uổng công tính đếm chúng làm gì cho mệt! Nếu tôi không lầm, một số người đi biển đã gặp những biển sữa rộng hơn bốn mươi dặm. Tôi chẳng biết Công-xây có nghe lời tôi khuyên không, nhưng anh ta lặng im suy nghĩ. Chắc Công-xây đang tính toán xem có bao nhiêu con trong diện tích bốn mươi dặm vuông nếu mỗi con chỉ dài một phần năm milimét. Còn tôi thì tiếp tục quan sát hiện tượng kỳ lạ ấy. Tới gần nửa đêm, biển trở lại màu xanh bình thường. Nhưng ở phía sau tàu, bầu trời phản ánh sáng màu trắng của nước tựa như hắt lại ánh sáng của bắc cực quang.

  7. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Chương 26 - đề nghị mới của thuyền trưởng Nê-mô


    Giữa trưa ngày 28 tháng giêng, tàu Nau-ti-lúx nổi lên mặt nước và trông thấy đất liền cách tàu tám hải lý về phía tây. Ngay sau khi xác định được tọa độ, tôi xuống phòng khách tìm địa điểm đó trên bản đồ và thấy rằng mình đang ở gần bờ biển Xây-lan, hòn đảo nằm ở gần cực nam bán đảo ấn Độ. Tôi vào thư viện tìm xem có cuốn sách nào nói cặn kẽ về đảo Xây-lan, hòn đảo được coi như phì nhiêu nhất của trái đất này không. Tôi tìm thấy tác phẩm của Xi-rơ nhan đề "Xây-lan và người Xin-ga-le". Quay về phòng khách, trước hết tôi làm quen với những số liệu thống kê nói về Xây-lan. Đảo này nằm giữa 5055?T và 9049?T độ vĩ bắc và 79042?T và 8204?T độ kinh đông. Từ bắc xuống nam, đảo dài hai trăm bảy nhăm hải lý, từ đông sang tây rộng một trăm năm mươi hải lý; diện tích đảo là hai vạn bốn ngàn bốn trăm bốn tám hải lý vuông, nói cách khác đi là gần bằng diện tích Iếc-lan. Lúc đó thuyền trưởng Nê-mô và thuyền phó vào phòng khách. Nê-mô nhìn bản đồ rồi quay lại bảo tôi:
    -Đảo Xây-lan nổi tiếng về nghề mò ngọc trai. Ngài A-rô-nắc, ngài có đến xem nơi mò ngọc không?
    -Thưa thuyền trưởng, xin sẵn sàng.
    -Được cũng dễ thu xếp thôi. Thế này nhé: chúng ta sẽ tới chỗ đó nhưng không thấy thợ mò ngọc đâu. Mùa ngọc chưa bắt đầu. Nhưng không sao. Tôi sẽ ra lệnh cho tàu hướng về vịnh Ma-na và ta sẽ tới đó đêm nay. Nê-mô nói mấy lời với thuyền phó. ông này ra khỏi phòng khách. Một lát sau, tàu Nau-ti-lúx bắt đầu lặn xuống. Kim đồng hồ chỉ độ sâu mười mét. Tôi cúi xuống bản đồ để tìm vịnh Ma-na. Tôi thấy nó ở vĩ tuyến 9, gần bờ biển tây bắc Xây-lan. Muốn tới đó, phải đi vòng hết bờ biển phía tây Xây-lan. Thuyền trưởng Nê-mô nói:
    -Thưa giáo sư người ta mò ngọc trai ở vịnh Ben-gan, ở biển ấn Độ, biển Trung Quốc và Nhật Bản, ở biển Nam Mỹ, ở vịnh Pa-na-ma, vịnh Ca-li-pho-ni-a, nhưng những vùng mò ngọc trai chủ yếu tập trung ở Xây-lan. Đúng là chúng ta tới đó quá sớm! Thợ mò ngọc xuất hiện ở vịnh Ma-na sớm nhất là vào tháng ba. Lúc đó ở đây tập trung tới ba trăm thuyền làm cái nghề có lãi nhất này trong ba mươi ngày. Trên mỗi thuyền có mười người chèo và mười thợ lặn. Thợ lặn làm việc theo hai kíp. Khi lặn xuống sâu mười hai mét, họ kẹp vào giữa hai chân một hòn đá nặng. Tới độ 103 104 sâu cần thiết, họ buông hòn đá ra để người trên thuyền kéo đá lên.
    -Thế nghĩa là người ta vẫn dùng cách mò ngọc cổ xưa nhất?
    -Đáng tiếc là vẫn dùng, -Nê-mô trả lời, -mặc dù những nơi có ngọc đó thuộc một nước có nền công nghiệp lớn nhất là nước Anh.
    -Tôi vẫn cảm thấy rằng bộ đồ lặn đã được cải tiến của ngài có thể giúp ích nhiều cho họ trong việc này.
    -Vâng! Những người mò ngọc khốn khổ không thể ở lâu dưới nước được. Tôi biết một số thợ mò ngọc đã ở dưới nước 57 giây, những người dai sức nhất có thể lặn lâu tới 87 giây. Nhưng những người đó rất hiếm, và cứ mỗi lần lặn xong thì nước ở tai và mũi trào ra có hòa lẫn máu. Trong thời gian ngắn ngủi đó họ phải kịp cho vào rọ những con trai có ngọc vừa mò được! Thợ lặn thường không thọ. Họ rất sớm suy sụp, mắt kém đi, thân thể bị lở loét và thường hay chết dưới nước vì chảy máu não.
    -Vâng, -tôi nói, -đó là một nghề buồn thảm. Và tất cả cũng chỉ nhằm thỏa mãn tính cầu kỳ của phụ nữ. Nhưng xin thuyền trưởng cho biết, một thuyền như vậy có thể mò được bao nhiêu trai một ngày?
    -Khoảng từ bốn vạn đến năm vạn con. Người ta còn nói năm 1814 chính phủ Anh đã đứng ra tổ chức mò ngọc, chỉ trong hai mươi ngày thợ lặn đã mò được bảy mươi sáu triệu con trai.
    -ít nhất thì lao động của người thợ lặn cũng được trả giá cao chứ ạ?
    -Tôi hỏi.
    -Thưa giáo sư, rất thấp. ở Pa-na-ma mỗi tuần họ kiếm được không quá một đô-la. Thường họ chỉ được trả một xu mỗi con trai có ngọc. Mà còn biết bao nhiêu con không có ngọc!
    -Một xu thôi ư? Thật là bất công! Thật là ghê tởm!
    -Giáo sư và hai người cùng đi sẽ thăm vịnh Ma-na. Và nếu may mắn gặp một người thợ lặn nào đó đến mò trai sớm thì ngài sẽ được làm quen với kỹ thuật của họ.
    -Thưa thuyền trưởng, vâng.
    -Thế giáo sư có sợ cá mập không?
    -Cá mập ạ? Câu hỏi đó đối với tôi có vẻ thừa.
    -Thế giáo sư có ý kiến gì về cá mập?
    -Nê-mô hỏi gặng.
    -Thưa thuyền trưởng, xin thú thực rằng tôi chưa thật quen với loài cá này.
    -Thế mà chúng tôi đã quen với chúng. Rồi ngài cũng sẽ quen thôi. Chúng ta sẽ trang bị vũ khí và nếu có thể, sẽ đi săn cá mập một chuyến. Săn cá mập hết sức thú vị. Xin hẹn giáo sư đến mai. Giáo sư hãy chuẩn bị lên đường thật sớm. Nê-mô nói những lời đó bằng một giọng bình thản rồi ra khỏi phòng khách. Nếu người ta mời bạn đi săn gấu ở vùng núi Thụy-sĩ, bạn có thể nói:
    ?oTuyệt lắm! Mai sẽ đi!" Nếu bạn được mời đi săn sư tử ở thung lũng át-lax và săn hổ ở rừng rậm ấn Độ, bạn có thể nói:
    ?oA! Ta sẽ đi ngay!"
    Nhưng nếu bạn được mời đi săn cá mập dưới biển sâu thì chắc bạn phải suy nghĩ nhiều trước khi nhận lời. Còn tôi, tôi đã lấy tay lau trán lấm tấm mấy giọt mồ hôi lạnh. Tôi nghĩ bụng:
    ?oPhải nghĩ cho kỹ. Chớ vội. Đi săn ở khu rừng ngầm gần đảo Crét-xpô là một chuyện, còn dò dẫm dưới đáy biển mà không biết lúc nào chạm trán với cá mập lại là chuyện khác hẳn! Tôi được biết ở đôi nơi, đặc biệt là ở vùng đảo An-đa-man, những người da đen thường xông thẳng vào cá mập, một tay cầm dao găm, còn tay kia cầm thòng lọng. Nhưng tôi cũng được biết là trong cuộc chiến đấu tay đôi với cá mập, nhiều người gan góc đó đã về chầu tổ tiên! Tôi hình dung ra cá mập, cái mồm to tướng với nhiều dãy răng có thể cắn đứt đôi người. Tôi đã cảm thấy đau ở thắt lưng. Tôi không chịu nổi cái giọng bình thản của Nê-mô đã dùng để mời tôi đi săn! Vấn đề đâu có phải là lảng tránh một con cầy, con cáo nào đó trong rừng. Tôi nghĩ:
    ?oĐược! Tất nhiên Công-xây sẽ từ chối không tham gia cuộc đi săn này!" Thế là tôi sẽ có cớ không đi cùng Nê-mô. Còn về Nét thì thú thực là tôi không tin ở sự chín chắn của anh ta. Sự nguy hiểm, dù lớn đến đâu, bao giờ cũng hấp dẫn cái bản chất hay gây gổ của Nét. Tôi cầm lấy cuốn sách của Xi-rơ, nhưng chỉ lật từng tờ như một cái máy. Giữa những dòng chữ hiện lên những cái mồm cá mập ngoác rộng. Nhưng lúc đó Công-xây và Nét vào. Hai người đều tươi tỉnh. Họ chẳng biết chuyện gì đang chờ đợi họ. Nét nói:
    -Thưa giáo sư, thực thà mà nói, thuyền trưởng Nê-mô của ngài đã đề nghị chúng ta một việc rất đáng hoan nghênh.
    -à, thế ra các bạn đã biết...
    -Thưa giáo sư, -Công-xây trả lời, -thuyền trưởng Nê-mô mời chúng tôi cùng giáo sư đi thăm những nơi mò ngọc trai nổi tiếng của Xây-lan. ông ta hết sức lịch thiệp và tỏ ra là một người quân tử.
    -Nê-mô không nói gì nữa à?
    -Thưa giáo sư, không, -Nét trả lời, -ông ta chỉ nói là đã mời ngài tham gia cuộc dạo chơi dưới biển này.
    -Đúng vậy. Nhưng ông ta không đả động đến một chuyện...
    -Thưa giáo sư, chẳng có chuyện gì cả. Ngài có đi với chúng tôi không ạ?
    -Tôi... tất nhiên rồi! Tôi thấy ông Nét đã mê cái món dạo chơi dưới đáy biển rồi đấy!
    -Vâng! Rất thú vị, rất thú vị ạ!
    -Và nguy hiểm nữa!
    -Tôi thêm.
    -Nguy hiểm gì?
    -Nét trả lời.
    -Đó chỉ là một cuộc dạo chơi đơn giản thôi! Rõ ràng thuyền trưởng Nê-mô thấy không cần phải gợi cho các bạn tôi nghĩ tới cá mập. Tôi hoảng hốt nhìn hai người, tựa như họ đã bị cụt mất chân, hoặc tay rồi. Tôi có nên báo cho họ biết trước nỗi hiểm nguy sắp tới không? Tất nhiên là nên. Nhưng tôi chẳng biết thế nào.
    -Giáo sư có thể kể cho chúng tôi nghe chi tiết hơn về cách mò ngọc trai không ạ? Tôi hỏi:
    -Về cách mò trai hay về những chuyện ngẫu nhiên liên quan tới việc mò trai?
    -Tất nhiên là về cách mò trai!
    -Nét nói.
    -Trước khi lên đường, cần biết sẽ theo hướng nào chứ...
    -Thế thì mời các bạn ngồi xuống, tôi sẽ kể các bạn nghe tất cả những điều tôi biết về nghề mò trai có ngọc qua cuốn sách của Xi-rơ. Nét và Công-xây ngồi xuống đi-văng. Nét hỏi ngay:
    -Thưa giáo sư, thế ngọc trai là gì?
    -Đối với nhà thơ, ngọc trai là hạt lệ của biển cả. Đối với các dân tộc phương đông, đó là hạt sương sớm đã hóa đá. Đối với phụ nữ, đó là viên đá quý hình bồ dục màu xanh óng ánh mà họ đeo ở cổ, ở tay, ở tai như một thứ trang sức. Đối với nhà hóa học, đó là kết hợp của muối fotfat và canxi cácbonat. Cuối cùng, đối với nhà tự nhiên học, nó chỉ là một cái u hình cầu màu xanh nằm trong mô ác mềm của một số nhuyễn thể...
    -Thế có trường hợp nào một con trai chứa nhiều ngọc không ạ?
    -Công-xây hỏi.
    -Có chứ, anh bạn. Người ta kể là đã thấy một trăm năm mươi con cá mập trong một viên ngọc, tuy tôi không tin lắm.
    -Một trăm rưởi con cá mập à?
    -Nét sửng sốt.
    -Tôi nói là "cá mập" ư?
    -Tôi lúng túng.
    -Tôi muốn nói là một trăm rưởi hạt ngọc ấy. Cá mập dính dáng gì đến chuyện này!
    -Giá trị của viên ngọc tùy thuộc ở độ to nhỏ của nó phải không ạ?
    -Công-xây hỏi.
    -Chẳng những tùy thuộc vào độ to nhỏ mà còn tùy thuộc ở hình dáng, màu sắc, ở độ sáng của ngọc...
    -Phân loại ngọc chắc là một việc khó khăn và mất thì giờ.
    -Nét nói.
    -Chẳng khó lắm đâu, ông bạn ạ! Người ta dùng sàng để phân loại. Có cả thảy mười một loại sàng. Đầu tiên người ta dùng sàng thưa có từ hai mươi đến tám mươi lỗ. Những viên ngọc còn lại trên sàng được xếp loại một. Loại sàng có từ một trăm đến tám trăm lỗ cho ta ngọc loại hai. Loại sàng có từ chín trăm đến một nghìn lỗ cho ta ngọc loại ba.
    -Họ khôn thật!
    -Công-xây nói.
    -Tôi thấy họ đã phân loại ngọc một cách máy móc. Thưa giáo sư, ngài có biết việc khai thác các vùng biển có ngọc đem lại lợi nhuận bao nhiêu không ạ?
    -Theo sách của Xi-rơ, những vùng biển có ngọc của Xây-lan hằng năm đem lại ba triệu con cá mập.
    -Ba triệu quan chứ ạ!
    -Công-xây nói.
    -ừ, ừ, ba triệu quan!
    -Tôi chữa lại.
    -Tôi nghe nói có mấy viên ngọc quý đắt tiền lắm phải không ạ?
    -Đúng vậy. Người ta kể lại rằng, Xê-da đã biếu Xéc-vi-li-a viên ngọc giá một trăm hai mươi ngàn phrăng! Nhưng tôi nghĩ chẳng ông vua nào có viên ngọc lớn bằng viên ngọc của thuyền trưởng Nê-mô.
    -Viên này ạ?
    -Công-xây chỉ vào viên ngọc đặt trong hộp kính.
    -Tôi đánh giá nó hai triệu phrăng đấy! Thế mà Nê-mô chỉ cần cúi xuống một chút là nhặt được.
    -Biết đâu ngày mai đi chơi ta chẳng nhặt được một viên như thế.
    -Hy vọng gì!
    -Công-xây nghi ngờ.
    -Sao lại không?
    -Trên tàu Nau-ti-lúx này thì có tiền triệu để làm gì?
    -Đúng là trên tàu thì chẳng cần, nhưng... ở chỗ khác...
    -ở chỗ khác à?
    -Công-xây lắc đầu.
    -ông Nét nói đúng.
    -Tôi nhận xét.
    -Nếu sau này ta mang về châu 'u hay châu Mỹ một viên ngọc giá mấy triệu thì những chuyện ta kể càng có trọng lượng hơn và dễ tin hơn. Công-xây hỏi thêm:
    -Nghề mò ngọc có nguy hiểm không ạ?
    -Không!
    -Tôi trả lời ngay.
    -Đặc biệt là nếu áp dụng một số biện pháp đề phòng.
    -Nghề đó thì có gì là nguy hiểm? Chỉ uống mấy hụm nước mặn là cùng chứ gì!
    -Nét nói.
    -ông nói rất đúng!
    -Tôi cố nói bằng cái giọng bình thản của Nê-mô.
    -à ông Nét này, ông có sợ cá mập không?
    -Tôi ấy à? Tôi là thợ săn cá nhà nghề! Tôi coi khinh chúng!
    -Vấn đề không phải là đứng trên tàu câu cá mập, kéo nó lên boong, lấy rìu chặt đứt đuôi, mổ bụng moi tim rồi lại quẳng xác xuống biển đâu!
    -Nghĩa là phải xuống nước chứ gì?
    -Đúng đấy!
    -Sợ quái gì! Thế súng săn của tôi để làm chi? Thưa giáo sư, cá mập là giống cá vụng về. Muốn đớp ngài, nó phải ngửa bụng lên. Lúc đó... Nét nói chữ "đớp" bằng một giọng khiến tôi lạnh ớn xương sống.
    -Thế còn anh, anh nghĩ thế nào về cá mập, Công-xây?
    -Tôi xin nói thành thực với giáo sư thế này: nếu giáo sư quyết định đi săn cá mập thì tôi, người đầy tớ trung thành của giáo sư, sao có thể không đi theo được?

  8. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Chương 27 - viên ngọc giá mười triệu


    Đêm đã tới. Tôi đi ngủ nhưng cứ chập chờn mãi vì bị hình ảnh cá mập ám ảnh. Bốn giờ sáng hôm sau, người thủy thủ do thuyền trưởng Nê-mô cử đến phục vụ tôi, đánh thức tôi dậy. Tôi vội mặc quần áo rồi ra phòng khách. Thuyền trưởng Nê-mô đang chờ tôi ở đó. ông ta hỏi:
    -Ngài A-rô-nắc, ngài đã sẵn sàng rồi chứ?
    -Vâng, tôi đã sẵn sàng.
    -Xin ngài theo tôi.
    -Còn những người cùng đi với tôi?
    -Họ đã được báo trước và đang chờ ngài.
    -Chúng ta mặc đồ lặn chứ ạ?
    -Chưa mặc bây giờ. Tôi không muốn cho tàu Nau-ti-lúx vào gần bờ quá, nên đã ra lệnh chuẩn bị xuồng để tới chỗ bãi cát nông của vịnh Ma-na còn cách đây khá xa.
    Như thế chúng ta sẽ rút ngắn được quãng đường phải lội khá nhiều. Đồ lặn đã được đưa xuống xuồng, chúng ta chỉ mặc vào trước khi lặn xuống nước. Nê-mô dẫn tôi đến cầu thang trung tâm. Nét và Công-xây đã chờ tôi ở đó. Cả hai người đều hân hoan về cuộc "du ngoạn vui vẻ" sắp tới. Năm thủy thủ ngồi trong xuồng sẵn sàng chèo lái. Trời chưa sáng. Những vì sao thưa thớt lấp lánh giữa những đám mây bao phủ bầu trời. Tôi đưa mắt tìm đất liền nhưng chỉ thấy một dải sương mờ chạy dài ba phần tư chân trời, từ tây-nam đến tây-bắc. Tàu Nau-ti-lúx đêm qua chạy dọc bờ biển phía tây Xây-lan, giờ đây đang ở gần cửa vịnh giữa bờ biển Xây-lan và đảo Ma-na. Nơi đó, dưới những lớp nước sâu là những mỏm đá ngầm, những kho trai có ngọc vô tận rộng gần hai mươi dặm. Thuyền trưởng Nê-mô, Công-xây, Nét Len và tôi ngồi ở phía sau. Một thủy thủ cầm lái, còn bốn người kia chèo. Xuồng từ từ đi về hướng nam. Tôi thấy mỗi động tác chèo cách nhau mười giây, như cách chèo xuồng của hải quân...
    Chúng tôi im lặng. Đến năm giờ rưỡi, khi bắt đầu bình minh thì chân trời hiện lên rõ hơn hình một dải núi. Chúng tôi chỉ còn cách đảo năm hải lý. Biển vắng, không một bóng thuyền. Thuyền trưởng Nê-mô nói đúng: chúng tôi tới đây trước mùa mò ngọc. Đến sáu giờ sáng, trời đột ngột sáng rõ. Đó là đặc điểm của những nước nhiệt đới, nơi rạng đông và hoàng hôn đều rất ngắn ngủi. Giờ đây tôi đã nhìn thấy rõ đảo, thậm chí cả những bóng cây thưa thớt trên bờ. Chiếc xuồng đang tiến gần đảo Ma-na. Thuyền trưởng Nê-mô đứng dậy và bắt đầu chăm chú quan sát phía xa. Theo hiệu của Nê-mô, chiếc xuồng thả neo nhưng chỉ mất không hơn một mét dây, vì nước ở đây cạn. Nê-mô bảo tôi:
    -Ngài A-rô-nắc, chúng ta đến nơi rồi. Ngài có thấy cái vịnh kín này không? Một tháng nữa ở đây sẽ tập trung rất nhiều tàu thuyền, và hàng ngàn thợ lặn gan dạ sẽ lặn xuống đáy biển! Vịnh này thật là lý tưởng đối với nghề mò ngọc. Vịnh được núi chắn những cơn gió mạnh và biển ở đây không nổi sóng: đó là điều kiện hết sức thuận lợi cho thợ lặn. Thôi bây giờ chúng ta mặc đồ lặn vào và bắt đầu cuộc tham quan!
    Tôi không trả lời. Một thủy thủ giúp tôi mặc bộ đồ lặn nặng nề vào người. Thuyền trưởng Nê-mô, Nét và Công-xây cũng làm như tôi. Không một thủy thủ nào đi theo chúng tôi trong chuyến tham quan đặc biệt này. Người ta đeo vào lưng chúng tôi những bình chứa khí nén nhưng không nói gì tới máy Rum-coóc-phơ. Trước khi đội mũ lặn vào đầu, tôi nhắc thuyền trưởng về điều này. Nê-mô trả lời:
    -Không cần tới máy đó. Chúng ta không lặn xuống sâu, mà ở chỗ nông thì chỉ cần ánh sáng mặt trời là đủ. Hơn nữa, bật đèn điện ở vùng này là rất nguy hiểm. ánh sáng điện có thể làm cho loài cá dữ kéo tới. Trong khi Nê-mô nói, tôi quay về phía Công-xây và Nét Len. Nhưng họ đã đội mũ vào và không nghe thấy gì nữa. Tôi hỏi Nê-mô câu cuối cùng:
    -Thế vũ khí của chúng ta đâu? Súng của chúng ta đâu?
    -Súng à? Cần gì súng? Người miền núi đi săn gấu chỉ cần một con dao găm thôi mà! Lưỡi dao thép đâu có kém đạn chì? Đây là một con dao rất tốt, ngài hãy dắt vào thắt lưng rồi chúng ta lên đường.
    Tôi nhìn Nét và Công-xây. Họ cũng được vũ trang như tôi và Nê-mô. Nét còn đeo thêm một cái mũi lao nhọn mà anh ta mang theo khi rời tàu Nau-ti-lúx. Một phút sau, các thủy thủ lần lượt thả chúng tôi xuống nước. ở độ sâu không quá một mét rưỡi, chân chúng tôi đã chạm cát. Thuyền trưởng Nê-mô lấy tay ra hiệu. Chúng tôi theo ông ta xuống một sườn dốc thoai thoải. Một lát sau, chúng tôi xuống tới một hố sâu khá rộng. Những ý nghĩ đang đè nặng lên tôi bỗng tan mất. Tôi thấy trong lòng bình tĩnh lạ thường. Tôi yên tâm vì thấy vận động được thoải mái và sững sờ trước cảnh tượng diệu kỳ. Những tia sáng mặt trời rọi qua làn nước trong vắt, chiếu sáng cả đáy biển. Những con trai nhỏ nhất cũng nhìn thấy rõ. Mười phút sau, chúng tôi tới độ sâu năm mét. Đáy biển ngày càng bằng phẳng hơn... Độ bảy giờ sáng chúng tôi tới bãi cát nông, nơi có hàng triệu con trai đang sinh sản. Thuyền trưởng Nê-mô cho tôi xem nơi tập trung trai có ngọc ấy. Tôi hiểu rằng kho trai đó là vô tận vì sức sáng tạo của thiên nhiên vẫn lớn hơn bản năng phá hoại của con người. Nét Len vốn có bản năng phá hoại ấy nên vội lựa chọn những con trai đẹp nhất và nhét đầy túi lưới đeo ở thắt lưng. Nhưng chúng tôi không dừng lại lâu ở đây vì phải đi theo Nê-mô là người có vẻ thông thạo con đường này. Đáy vịnh dâng cao rõ rệt, và đôi khi bàn tay tôi giơ lên thò ra khỏi mặt nước. Trước mắt chúng tôi bỗng hiện ra một cái hang rộng được tạo nên trong một mỏm đá rất đẹp mắt có nhiều loài cây cỏ dưới biển phủ ngoài... Thuyền trưởng Nê-mô vào hang. Chúng tôi vào theo. Tôi thích ứng rất nhanh với bóng tối trong hang. Nê-mô dẫn chúng tôi vào sâu thế này làm gì nhỉ?
    Sau khi lần xuống một bờ khá dốc, chúng tôi tới một chỗ trông tựa cái giếng. Tới đây Nê-mô dừng lại và chỉ cho chúng tôi xem một vật mà tôi chưa nhận ra ngay là cái gì. Đó là một con trai to lạ thường, đường kính khoảng hai mét, lớn hơn con trai ở phòng khách tàu Nau-ti-lúx. Tôi tới gần con vật kỳ lạ ấy. Theo tôi, nó phải nặng tới ba trăm ki-lô-gam, trong đó ít nhất có mười lăm ki-lô-gam thịt. Thuyền trưởng Nê-mô chắc hẳn đã biết rõ con trai này và không phải lần đầu tiên vào hang này! Tôi nghĩ rằng ông ta dẫn chúng tôi đến đây chỉ là để cho xem cái vật lạ đó của thiên nhiên. Nhưng tôi đã lầm. Nê-mô có lý do riêng của mình: ông ta muốn biết tình trạng của con trai đó ra sao. Vỏ trai đang hé mở. Nê-mô tới gần rồi nhét con dao găm vào giữa hai vỏ để nó không ngậm lại được. Sau đó, ông ta lấy tay nâng mép ngoài có tua viền của áo trai lên. Giữa những nếp gấp hình lá có một viên ngọc to bằng quả dừa. Một viên ngọc rất tròn và trong sáng tuyệt vời! Một vật vô giá! Trong lúc quá tò mò tôi đưa tay ra để chộp lấy hòn ngọc và xem nó nặng bao nhiêu! Nhưng Nê-mô ra hiệu cho tôi ngừng lại rồi rút ngay con dao ra khỏi vỏ trai. Thế là con trai ngậm ngay vỏ lại. Tôi hiểu ý định của Nê-mô rồi. ông ta để viên ngọc lại dưới áo của con trai là để tạo cho khả năng lớn dần lên. Mỗi năm những chất tiết ra lại bồi thêm những lớp đồng tâm cho viên ngọc. Chỉ có Nê-mô mới biết cái hang có viên ngọc kỳ diệu này. Chỉ có ông ta biết nuôi dưỡng nó để sau này mang nó về phòng bảo tàng tuyệt vời của mình. Cũng có thể Nê-mô bắt chước người Trung Quốc hay người ấn Độ, tự tạo nên sự phát triển của viên ngọc bằng cách đặt vào áo con trai một vật rắn, bằng kim loại hình cầu chẳng hạn, để trai tiết ra chất ngọc phủ ngoài. So sánh viên ngọc này với những viên tôi đã thấy và những viên đã có trong bộ sưu tập của Nê-mô, tôi đánh giá nó ít nhất mười triệu phrăng. Đó là viên ngọc do thiên nhiên sáng tạo ra chứ không phải là một vật xa xỉ! Vả lại, có cái tai phụ nữ nào chịu nổi sức nặng của viên ngọc này? Sau khi xem viên ngọc quý, thuyền trưởng Nê-mô ra khỏi hang. Đoàn tham quan chúng tôi ở vùng nước chưa bị dân mò ngọc làm vẩn đục này, lại tiếp tục đi. Mười phút sau, Nê-mô bỗng dừng lại. Tôi tưởng ông ta muốn quay về. Nhưng không! Nê-mô lấy tay ra hiệu cho chúng tôi nấp vào khe đá rồi chỉ cho xem một chấm đen dưới nước. Tôi chăm chú nhìn. Cách tôi năm mét, có một bóng đen thấp thoáng và đang chìm xuống đáy. ý nghĩ hốt hoảng về cá mập thoáng hiện trong óc tôi. Nhưng tôi đã lầm: lần này không phải là loài cá dữ. Đó là một người, một người còn sống, một người ấn Độ nghèo khổ đến mò ngọc sớm hơn lệ thường.
    Anh ta liên tục lặn xuống rồi lại ngoi lên. Khi lặn, anh ta kẹp một viên đá giữa hai chân, viên đá này có dây buộc phía sau thuyền. Đó là tất cả đồ lặn của anh ta. Xuống sâu khoảng năm mét, anh ta buông hòn đá ra, quỳ xuống rồi nhặt vội những con trai quanh đó nhét vào túi lưới buộc ở thắt lưng. Sau đó, anh ta ngoi lên mặt nước, đổ trai vào thuyền rồi lại bắt đầu những động tác nói trên trong khoảng ba mươi giây. Anh ta không thấy chúng tôi đang nấp sau mỏm đá. Vả lại, anh ta sao có thể tưởng tượng được rằng có những con người, những sinh vật giống hệt anh ta đang ở cạnh và quan sát từng hành động nhỏ của anh ta, không bỏ sót một chi tiết nào? Anh ta ngoi lên lặn xuống nhiều lần, mỗi lần chỉ mang lên được không quá một con trai vì trai bám vào đất rất chặt. Và trong số trai mà anh ta phải liều thân để lấy, biết bao con trong ruột chẳng có gì! Tôi chăm chú theo dõi anh ta. Anh ta lặn xuống ngoi lên trong từng khoảng thời gian đều đặn, và suốt nửa tiếng đồng hồ không gặp một nguy hiểm gì. Tôi đã bắt đầu chán cái việc quan sát ấy thì người thợ lặn đang ở tư thế quỳ bỗng né sang một bên, bật dậy và tìm cách ngoi lên mặt nước. Tôi đã hiểu vì sao anh ta hoảng sợ. Một bóng đen khổng lồ lướt qua đầu người thợ lặn bất hạnh ấy. Đó là một con cá mập hết sức lớn đang lao tới anh ta, hai mắt đỏ ngầu, miệng há hốc. Tôi hoảng quá, đờ cả người ra. Con cá háu ăn quẫy mạnh và lao thẳng tới người thợ lặn. Anh ta nhảy sang một bên và tránh được hàm răng nhọn của con cá, nhưng bị đuôi cá mập đập mạnh vào ngực ngã lăn ra. Tất cả những việc đó diễn ra trong nháy mắt. Con cá mập thoạt tiên hơi ngập ngừng một chút, nhưng sau đó lật ngửa ra để lao tới cắn đứt đôi người. Đến đây, thuyền trưởng Nê-mô đứng cạnh tôi rút dao găm ra rồi tiến lên chiến đấu tay đôi với con cá dữ. Con cá đang ở tư thế sẵn sàng sát hại người ấn Độ bất hạnh thì chợt chú ý tới đối thủ mới. Nó lật sấp lại rồi xông tới chỗ thuyền trưởng Nê-mô. Nê-mô hơi ngửa mình về phía sau rồi hết sức bình tĩnh chờ con cá đến gần. Khi nó đã tới sát, Nê-mô vô cùng khéo léo nhảy sang một bên tránh đòn, rồi cắm phập con dao găm vào bụng cá, ngập tới chuôi. Cuộc chiến đấu quyết liệt bắt đầu.
    Con cá nổi khùng. Máu từ vết thương vọt ra như suối. Nước biển nhuộm màu đỏ thẫm khiến tôi chẳng còn nhìn thấy gì. Một lát sau, khi chỗ nước nhuốm máu bị cuốn trôi đi, tôi mới thấy thuyền trưởng Nê-mô dũng cảm đang bám chặt vào vây con cá mà đâm liên tiếp vào bụng nó. Nhưng ông ta không có khả năng đánh một đòn quyết định, nghĩa là đâm trúng tim kẻ thù! Con cá mập bị tử thương oằn mình lại và quẫy đuôi rất mạnh khiến tôi đứng không vững nữa. Tôi muốn xông tới giúp thuyền trưởng. Nhưng vì quá khiếp sợ, nên tôi đờ người ra không bước lên được bước nào. Tôi thấy tình hình hai bên tham chiến đã thay đổi, Nê-mô bị thân hình to lớn của con cá xô ngã lộn nhào. Tính mạng Nê-mô đang như treo trên sợi tóc thì Nét Len nhanh như cắt xông tới và phóng lao nhọn vào con cá.
    Nước biển lại nhuốm đỏ màu máu. Con cá điên cuồng ***g lộn làm cuộn lên từng đợt sóng lớn. Nét Len đã giáng một đòn trí mạng. Con cá hấp hối, quằn quại. Công-xây thì bị sóng xô ngã. Nét Len giúp thuyền trưởng thoát khỏi thân con cá đang đè lên người. Nê-mô không bị thương. ông đứng dậy, chạy về phía người ấn Độ, cắt dây thừng buộc người đó với hòn đá rồi ôm người đó bơi lên mặt biển. Chúng tôi cũng bơi lên theo Nê-mô và mấy giây sau đã tới chiếc thuyền của người bị nạn. Trước hết, Nê-mô tìm cách làm cho người này hồi tỉnh. Tôi không tin Nê-mô sẽ cứu được anh ta sống. Anh ta chỉ ở dưới nước một thời gian ngắn, nhưng đuôi cá đập mạnh có thể giết chết anh ta! May thay, nhờ những biện pháp kiên quyết của Nê-mô và Công-xây, người bị nạn dần dần tỉnh lại. Anh ta mở mắt. Các bạn có thể hình dung được là anh ta đã ngạc nhiên, thậm chí hoảng sợ thế nào khi thấy bốn cái đầu bằng đồng đang cúi xuống anh ta! Nhưng anh ta không thể tưởng tượng được rằng Nê-mô rút ra một túi ngọc trai rồi giúi vào tay mình! Anh thợ lặn nghèo khổ đưa bàn tay run rẩy ra nhận tặng phẩm dịêu kỳ của người chủ biển cả. Cái nhìn hoảng sợ chứng tỏ anh ta không biết những sinh vật kỳ lạ đã cứu sinh mạng và cho mình châu báu kia là ai. Theo hiệu thuyền trưởng, chúng tôi trở lại bãi ngọc và sau nửa tiếng đồng hồ đi trên con đường quen thuộc thì về tới chiếc xuồng đang nhả neo chờ. Chúng tôi lên xuồng và được các thủy thủ giúp tháo bỏ những cái mũ đồng nặng nề ra. Câu nói đầu tiên của thuyền trưởng Nê-mô là dành cho Nét Len:
    -ông Nét, xin cảm ơn ông!
    -Thưa thuyền trưởng, có gì mà cảm ơn! Tôi đã chịu ơn ngài nhiều. Nê-mô hơi mỉm cười và chẳng ai nói gì thêm nữa.
    -Quay xuồng về tàu!
    -Nê-mô ra lệnh. Chiếc xuồng lướt trên sóng. Mấy phút sau, chúng tôi gặp xác con cá mập nổi lên mặt biển. Nhìn viền đen ở vây cá, tôi nhận ra đó là loại cá mập ăn thịt người rất đáng sợ ở ấn Độ Dương. Nó dài gần tám mét. Cái mồm rộng hoác chiếm một phần ba thân. Đó là con cá đã trưởng thành vì có sáu hàng răng ở hàm trên. Khi tôi đang xem xác con cá thì có khoảng hơn mười con cá mập khác nổi lên quanh xuồng. Chúng chẳng chú ý gì tới chúng tôi mà lăn xả vào xâu xé con cá bị chết. Đến tám giờ rưỡi, chúng tôi bước lên tàu Nau-ti-lúx. Những ý nghĩ của tôi dần dần quay lại chuyến thăm quan vừa rồi ở vịnh Ma-na. Tôi thán phục lòng quả cảm tuyệt vời của thuyền trưởng Nê-mô mà chính tôi đã chứng kiến! Tôi hiểu rằng Nê-mô có thể hy sinh thân mình để cứu một người của cái xã hội mà ông ta đã từ bỏ! Dù con người bí hiểm đó có nói gì về mình thì ông ta cũng không thể hủy diệt được lòng thương người trong tim mình được.
    Tôi nói với Nê-mô ý nghĩ đó. ông ta trả lời tôi, giọng xúc động:
    -Thưa giáo sư, đó là một người ấn Độ, một đại diện của quần chúng bị áp bức; mà tôi thì sẽ là người bảo vệ cho họ đến hơi thở cuối cùng!

  9. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Chương 28 - Biển đỏ


    Trưa ngày 29 tháng giêng, đảo Xây-lan khuất sau chân trời, tàu Nau-ti-lúx chạy với tốc độ hai mươi hải lý một giờ. Thế là từ khi rời biển Nhật Bản tới nay, chúng tôi đã vượt một vạn sáu ngàn hai trăm hai mươi hải lý hay bảy ngàn năm trăm dặm. Hôm sau, 30 tháng giêng, khi tàu nổi lên thì chẳng còn thấy một hòn đảo nào. Tàu hướng về phía tây-bắc, về phía vịnh ạ-man nằm giữa bán đảo A-ra-bi-a và bán đảo ấn Độ: và là cửa vào vịnh Ba Tư. Đây thật là một vịnh kín, không có lối ra biển. Thuyền trưởng Nê-mô định đưa chúng tôi đi đâu? Tôi không thể biết được. Trả lời như vậy không làm Nét thoả mãn.
    -ông Nét ạ, đường chúng ta đi tùy thuộc ý muốn của thuyền trưởng.
    -ý muốn của thuyền trưởng không đưa chúng ta đi xa được đâu. Vịnh Ba Tư không có lối ra nào khác. Nếu ta vào thì phải đi ra bằng đường cũ.
    -Thì sao! Sau khi vào vịnh Ba Tư, nếu tàu Nau-ti-lúx muốn đến thăm biển Đỏ thì có thể sử dụng vịnh Báp-en Man-đép bất kỳ lúc nào.
    -Thưa giáo sư, nhưng biển Đỏ, cũng như vịnh Ba Tư, chẳng có lối ra nào khác! Kênh Xuy-ê chưa đào xong. Vả lại, nếu có đào xong thì một chiếc tàu cần giữ bí mật như tàu của ta liệu có dám đi vào kênh đào có nhiều đập nước như vậy không? Tóm lại, biển Đỏ không phải là con đường đưa chúng ta về châu Âu.
    -Nhưng tôi có nói là chúng ta đang về châu Âu đâu.
    -Thế giáo sư dự kiến thế nào?
    -Tôi cho rằng, sau khi thăm vùng biển A-ra-bi-a và Ai Cập, tàu Nau-ti-lúx sẽ trở lại ấn Độ Dương, hoặc qua eo Mô-dăm-bích, hoặc qua quần đảo Ma-xca-ren và sẽ tới mũi Hảo Vọng.
    -Vâng, tới mũi Hảo Vọng rồi sao nữa!
    -Nét kiên trì hỏi.
    -Vòng qua mũi Hảo Vọng, chúng ta sẽ ra Đại Tây Dương. Chúng ta chưa đến vùng biển đó bao giờ. Này ông Nét, chẳng lẽ ông đã ngán cái kiểu đi ngầm dưới biển này rồi à? Còn tôi, nếu chuyến du lịch thú vị này đột nhiên chấm dứt thì tôi sẽ rất buồn. Chẳng phải ai cũng được may mắn như chúng ta đâu!
    -Nhưng xin giáo sư chớ quên rằng chúng ta bị cầm tù trên tàu Nau-ti-lúx đã được ba tháng.
    -ông Nét à, tôi chẳng muốn nhớ chuyện đó làm gì! Trên tàu này tôi chẳng tính ngày tính giờ làm gì!
    -Nhưng rồi sẽ kết thúc ra sao?
    -Sẽ có lúc phải kết thúc thôi! Nhưng chúng ta bất lực trong việc làm cho nó kết thúc nhanh, và mọi cuộc tranh cãi về vấn đề này đều vô ích. Nếu ông bảo tôi:
    ?oĐã có thời cơ chạy trốn rồi đấy!" thì tôi sẽ thảo luận ngay với ông về chuyện ấy. Nhưng thời cơ chưa tới và tôi thành thật nghĩ rằng thuyền trưởng Nê-mô không dám vào vùng biển châu Âu đâu. Nét Len kết thúc câu chuyện bằng một câu độc thoại:
    ?oCái gì cũng đẹp vô cùng. Nhưng tôi nghĩ, trong cảnh tù đày này thì chẳng có gì đáng vui cả!" Suốt bốn ngày, tới mùng 3 tháng 2, tàu Nau-ti-lúx chạy trong vịnh ạ-man ở các tốc độ và độ sâu khác nhau. Hình như nó đang phân vân trong việc chọn đường đi. Tàu ra khỏi vịnh ạ-man và tới ngày mùng 5 tháng 2 thì vào vịnh A-đen, nơi đây nước của ấn Độ Dương hòa với nước biển Đỏ. Ngày mùng 6 tháng 2, tàu Nau-ti-lúx nhìn thấy thành phố A-đen xây dựng trên những mỏm đá nhô ra biển. Tôi tưởng Nê-mô cho tàu chạy tới đây thì quay lại. Nhưng tôi đã lầm. Hôm sau, mùng 7 tháng 2, tàu tiến vào eo biển Báp-en Man-đép, tiếng A-rập có nghĩa là "Cửa nước mắt". Eo này rộng hai mươi hải lý và chỉ dài năm mươi hai ki-lô-mét. Tàu Nau-ti-lúx chạy thật nhanh chỉ mất một tiếng đồng hồ là vượt qua. Đến trưa tàu vào tới biển Đỏ. Biển Đỏ! Chưa bao giờ có mưa rào trên biển này. Không một con sông lớn nào đổ vào biển này! Hằng năm nước bốc hơi làm mực nước ở đây tụt xuống một mét rưỡi! Biển Đỏ dài hai ngàn sáu trăm ki-lô-mét và rộng trung bình hai trăm bốn mươi ki-lô-mét. Thời cổ đại đây là một đường mậu dịch quốc tế chủ yếu.
    Tôi không muốn tìm nguyên nhân đã thúc đẩy thuyền trưởng Nê-mô nhưng tôi chẳng thắc mắc gì khi được đến đây. Tàu chạy ở tốc độ trung bình, khi thì nổi, khi thì lặn xuống sâu để tránh gặp các tàu thuyền khác. Thế là tôi được quan sát biển này cả trên mặt nước, cả dưới sâu. Tàu Nau-ti-lúx tiến gần bờ biển châu Phi, nơi có nhiều vực thẳm. ở đó dưới các lớp nước trong như pha lê, qua ô cửa kính, chúng tôi ngắm nhìn những đám san hô ngầm được những tấm thảm bằng tảo phủ ngoài. Cảnh tượng đó thật khó phai mờ trong trí nhớ! Ngày 9 tháng 2, tàu Nau-ti-lúx tới quãng rộng nhất của biển Đỏ. Trưa hôm đó, sau khi xác định tọa độ, thuyền trưởng lên boong, nơi tôi đang đứng. Tôi định lợi dụng cơ hội này để thăm dò ý đồ sắp tới của Nê-mô. Thấy tôi, Nê-mô bước đến ngay, mời tôi hút xì gà rồi hỏi:
    -Thế nào, giáo sư có thích biển Đỏ không? Ngài có quan sát được những kỳ quan ẩn náu dưới sâu không?
    -Thưa thuyền trưởng, tất nhiên là có! Tàu Nau-ti-lúx quả là hết sức thích hợp với việc quan sát những kỳ quan đó. Thật là một chiếc tàu thông minh!
    -Vâng, thưa ngài, con tàu rất thông minh, dũng cảm và an toàn! Nó chẳng sợ gì bão táp thường hoành hành ở biển Đỏ, cùng những luồng nước mạnh và những dải đá ngầm ở đây.
    -Biển Đỏ được xem là một trong những vùng biển nguy hiểm nhất, và nếu tôi không lầm, thì từ thời cổ đại nó đã nổi tiếng chẳng lành.
    -Thưa ngài, đúng vậy! Những nhà sử học Hy Lạp và La Mã nhận xét về nó rất tiêu cực. Theo họ, vô số tàu thuyền đã bị đắm vì vấp phải những dải cát nổi và chẳng một thuyền trưởng nào dám cho tàu chạy ban đêm ở biển này. ..
    -Rõ ràng là các nhà sử học đó không được đi tàu Nau-ti-lúx.
    -Tôi nói.
    -Tất nhiên!
    -Thuyền trưởng mỉm cười.
    -Song trong lĩnh vực đóng tàu, những người đương thời với chúng ta cũng chẳng tiến xa hơn người cổ đại bao nhiêu. Phải mất mấy thế kỷ con người mới phát minh ra máy hơi nước! Chẳng biết một trăm năm sau có xuất hiện được một chiếc Nau-ti-lúx thứ hai không?
    -Thuyền trưởng nói rất đúng. Chiếc tàu của ngài tiến trước thời cổ đại cả một thế kỷ, nếu không nói là hàng thế kỷ! Thật đáng tiếc, phát minh này sẽ mất đi cùng với người sáng tạo ra nó. Nê-mô im lặng không trả lời. Tôi nói tiếp:
    -Thưa thuyền trưởng, chắc ngài đã nghiên cứu rất kỹ biển này. Xin ngài cho biết vì sao lại gọi là biển Đỏ?
    -Về vấn đề này có nhiều cách giải thích khác nhau. Nhưng theo tôi, tên biển Đỏ là từ chữ Do Thái "Edom" mà ra. Người xưa căn cứ vào màu nước mà đặt tên cho biển này.
    -Nhưng tôi chẳng thấy nó có màu sắc gì đặc biệt cả. Nước ở đây cũng như nước những biển khác trong xanh mà chẳng đỏ chút nào.
    -Đúng vậy! Nhưng vào sâu trong vịnh, ngài sẽ thấy một hiện tượng lạ. Một lần ở vũng To-rơ, tôi được thấy nước biển tựa như trước mắt tôi là một hồ máu.
    -Vì sao lại có hiện tượng ấy? Có phải vì những loài tảo đỏ li ti không?
    -Đúng vậy! Đó là kết quả bài tiết của một loài tảo rất nhỏ. Muốn phủ kín một milimét vuông, cần có bốn vạn đơn vị. Có thể ngài sẽ được quan sát hiện tượng đó khi tàu vào vũng To-rơ.
    -Thưa thuyền trưởng, chắc không phải lần đầu ngài cho tàu Nau-ti-lúx vào biển Đỏ?
    -Vâng, không phải lần đầu!... Tiếc rằng tôi không thể cho ngài xem kênh đào Xuy-ê, nhưng ngày kia, khi tàu vào Địa Trung Hải, ngài sẽ được thấy con đê dài ở Po Xa-ít.
    -Vào Địa Trung Hải ạ?
    -Tôi sửng sốt.
    -Vâng! Giáo sư ngạc nhiên ạ?
    -Vâng, tôi ngạc nhiên vì ngày kia chúng ta đã tới Địa Trung Hải rồi!
    -Đúng vậy!
    -Thưa thuyền trưởng, tôi ngạc nhiên thật, mặc dù đi trên tàu Nau-ti-lúx thì chẳng nên ngạc nhiên về điều gì nữa.
    -Nhưng giáo sư ngạc nhiên về điều gì vậy?
    -Tàu Nau-ti-lúx phải chạy với tốc độ thế nào để có thể trong một ngày đưa chúng tôi vòng theo lục địa châu Phi qua mũi Hảo Vọng rồi vào Địa Trung Hải?
    -Ai bảo ngài là chúng ta sẽ đi vòng châu Phi qua mũi Hảo Vọng?
    -Nếu tàu Nau-ti-lúx không chạy trên cạn, hay bay qua eo đất Xuy-ê.
    -... Hay là chạy ngầm dưới eo đất đó!
    -Dưới eo đất đó, thưa ngài?
    -Tất nhiên, -Nê-mô bình thản trả lời
    -Thiên nhiên từ lâu đã tạo nên dưới eo ấy cái mà con người đang làm trên mặt đất.
    -Sao? Chẳng lẽ lại có một lối đi ngầm?
    -Vâng, có một lối đi ngầm mà tôi gọi là đường ngầm A-ra-bi-a.
    -Nhưng eo Xuy-ê là do cát phù sa bồi lên.
    -ở trên là cát, nhưng ở dưới sâu 5
    -10 mét bắt đầu có lớp đá hoa cương rất rắn chắc.
    -Ngài phát hiện ra con đường ngầm đó một cách ngẫu nhiên ạ?
    -Tôi ngày càng sửng sốt.
    -Thưa giáo sư, vừa ngẫu nhiên, vừa có tính toán.
    -Thưa thuyền trưởng, tôi nghe ngài nói mà không tin ở tai mình nữa.
    -Đó là chuyện thường tình thôi! Đường ngầm đó chẳng những có thật mà còn dùng làm đường giao thông được. Tôi đã cho tàu chạy qua đó nhiều lần. Nếu không thì tôi chẳng dám vào cái biển kín này làm gì.
    -Thưa thuyền trưởng, có lẽ tôi hơi đường đột, nhưng xin hỏi ngài làm sao phát hiện ra con đường ngầm đó?
    -Thưa giáo sư, giữa những người gắn bó với nhau mãi mãi thì có điều gì phải giữ kín nữa! Tôi làm ra vẻ không hiểu câu nói bóng gió ấy và chờ Nê-mô trả lời.
    -Thưa giáo sư, -Nê-mô giải thích, -tính tò mò của nhà tự nhiên học gợi ý cho tôi rằng ở dưới eo đất Xuy-ê hẳn có một đường ngầm chưa ai biết. Tôi thấy biển Đỏ và Địa Trung Hải đều có những loài cá giống hệt nhau. Xác định được điều đó, tôi tự hỏi liệu có một lối thông nhau giữa hai biển không? Nếu có, thì vì mực nước ở biển Đỏ cao hơn nên luồng nước sẽ bắt nguồn từ đó chứ không phải từ Địa Trung Hải. Để kiểm tra xem có đúng không, tôi bắt nhiều loài cá khác nhau ở vùng biển gần Xuy-ê, đeo vào đuôi mỗi con một chiếc vòng bằng đồng rồi thả xuống nước. Mấy tháng sau, ở bờ biển Xi-ri, một số cá đeo vòng đó bị sa lưới. Lối đi ngầm giữa hai biển đã được chứng minh. Tôi lao vào tìm lối đi đó rồi liều cho tàu chạy vào. Giáo sư sắp được đi qua đường ngầm A-ra-bi-a của tôi đó.

  10. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Chương 29 - Đường ngầm A-ra-bi-a


    Ngay hôm đó tôi kể lại cho Công-xây và Nét Len về cuộc nói chuyện giữa tôi và thuyền trưởng Nê-mô mà tôi chắc họ sẽ thích thú. Khi tôi nói hai ngày nữa tàu sẽ tới Địa Trung Hải thì Công-xây vỗ tay, còn Nét nhún vai nói:
    -Đường ngầm à? Đường nối liền hai biển à? Chưa nghe ai nói bao giờ!
    -Anh bạn Nét ơi, -Công-xây trả lời, -thế trước kia anh bạn có được nghe nói về tàu Nau-ti-lúx không? Không! Thế mà nó vẫn tồn tại. Vậy anh đừng nhún vai làm chi vô ích và đừng viện cớ chưa nghe thấy ai nói mà phủ nhận tồn tại của sự vật.
    -Được, rồi xem!
    -Nét lắc đầu phản đối.
    -Mà nếu con đường ngầm mà Nê-mô nói là có thật thì còn gì bằng nữa. Cầu trời phù hộ cho Nê-mô đưa được chúng ta sang Địa Trung Hải! Chiều tối hôm đó, tàu Nau-ti-lúx nổi lên mặt nước gần bờ biển A-ra-bi-a. Phía xa là thành phố Gít-đa, một trung tâm buôn bán quan trọng của nhiều nước như Ai Cập, Xi-ri, Thổ Nhĩ Kỳ và ấn Độ. Một lát sau, bóng tối trùm lên thành phố và tàu Nau-ti-lúx vội lặn xuống làn nước lấp lánh như lân tinh. Hôm sau, mùng mười tháng hai, xuất hiện những chiếc tàu chạy ngược chiều. Tàu Nau-ti-lúx lại lặn xuống. Nhưng đến giữa trưa, lúc cần xác định tọa độ, biển vắng lặng, tàu lại nổi lên mặt nước. Tôi cùng Nét và Công-xây lên boong. Dải bờ biển ẩn hiện trong sương mù phía đông. Chúng tôi đang tựa vào đáy xuồng và nói chuyện phiếm thì Nét bỗng chỉ vào một chấm đen trên mặt biển rồi hỏi:
    -Giáo sư có nhìn thấy gì không?
    -Chẳng thấy gì cả! ông cũng biết mắt tôi chẳng lấy gì làm tinh lắm.
    -Giáo sư hãy nhìn kỹ xem. Phía trước mặt chúng ta đấy. Tôi chăm chú nhìn rồi nói:
    -Đúng là trên mặt biển có một vật gì đen và dài đang chuyển động.
    -Lại một tàu Nau-ti-lúx nữa!
    -Công-xây nói.
    -Đâu phải!
    -Nét phản đối.
    -Nếu tôi không lầm thì đó là một động vật. Chẳng lẽ ở biển Đỏ lại có cá voi?
    -Công-xây hỏi.
    -Có, anh bạn ạ, -Tôi trả lời.
    -Thỉnh thoảng người ta cũng gặp cá voi ở vùng biển này.
    -Nhưng đây không phải là cá voi, -Nét vẫn không rời mắt khỏi chấm đen.
    -Cá voi thì tôi quen thuộc lắm. Tôi nhận ra chúng từ xa.
    -Chúng ta hãy kiên nhẫn.
    -Công-xây nói.
    -Tàu đang chạy về phía đó. Chỉ một lát nữa ta sẽ biết nó là cái gì. Tàu còn cách vật đen đen đó một hải lý. Vật đó giống phần trên của một dải đá ngầm. Nhưng nó là cái gì thì tôi chưa thể xác định được. Công-xây bỗng reo lên:
    -A! Bò nước! Một chú bò nước thực sự! Bò nước! Đúng là chúng ta đã gặp một con thuộc họ bò nước mà truyền thuyết đã biến thành một động vật biển hoang đường nửa cá nửa phụ nữ.
    -Không phải bò nước đâu mà là một động vật khác thỉnh thoảng còn thấy ở biển Đỏ. Đó là con đuy-gông, thuộc họ bò nước. Nét Len sẵn sàng chiến đấu. Mắt anh ta rực lửa. Anh thợ săn cá voi này đang đợi thời cơ để nhảy xuống biển quyết chiến với con vật! Anh ta nói giọng run run vì xúc động:
    -ại, tôi chưa từng được "đánh" những con như thế này bao giờ! Cả con người Nét thể hiện trong câu nói đó. Vừa lúc ấy, thuyền trưởng Nê-mô lên boong. ông ta nhìn thấy ngay con đuy-gông, thông cảm với sự xúc động của Nét và hỏi anh ta:
    -Nếu trong tay ông có súng thì có lẽ ông chẳng chịu để yên đâu nhỉ?
    -Thưa thuyền trưởng đúng vậy.
    -Và có lẽ ông không từ chối nếu được trở lại làm thợ săn cá voi trong một ngày đâu nhỉ?
    -Vâng, sao lại từ chối ạ!
    -Thế thì được, ông hãy cố gắng nhé!
    -Xin cảm ơn thuyền trưởng!
    -Mắt Nét Len sáng ngời.
    -Nhưng ông chớ bắn trượt nhé! Nếu trượt thì thiệt cho ông đó!
    -Chẳng lẽ đuy-gông lại nguy hiểm đến thế cơ ạ?
    -Tôi hỏi Nê-mô mà chẳng chú ý tới Nét đang nhún vai.
    -Trong vài trường hợp, nó khá nguy hiểm.
    -Nê-mô trả lời.
    -Đôi khi nó xông thẳng tới kẻ thù rồi lật úp thuyền. Nhưng ông Nét thì chẳng có gì phải sợ nó vì có đôi mắt rất tinh và hai cánh tay vững chắc. Tôi chỉ mong ông đừng để nó thoát vì thịt nó rất ngon. Nê-mô vừa dứt lời thì bảy thủy thủ đã lặng lẽ lên boong. Một người mang chiếc lao buộc vào sợi dây, giống như loại lao vẫn dùng bắn cá voi. Họ tháo xuống rồi hạ xuống nước. Sáu người chèo, một người cầm lái. Nét, Công-xây và tôi ngồi ở phía sau.
    -Thuyền trưởng có cùng đi không ạ?
    -Tôi hỏi.
    -Thưa ngài, không. Xin chúc các ngài thành công!
    Xuồng bơi về phía con đuy-gông đang ở cách chúng tôi hai hải lý. Khi còn cách mấy trăm mét thì xuồng đi chậm lại. Nét Len cầm lao đứng ở mũi. Như ta đã biết, lao săn cá voi thường được buộc dây rất dài và dễ tháo ra khi con cá lặn xuống sâu. Nhưng ở đây sợi dây chỉ dài không quá hai chục mét, đầu kia buộc vào một chiếc thùng rỗng để báo hiệu con cá bị thương đang nằm ở chỗ nào dưới biển. Tôi nhỏm dậy và chăm chú nhìn đối thủ của Nét. Con đuy-gông này thật đồ sộ: nó dài ít nhất bảy mét và nằm im không nhúc nhích. Hình như nó đang ngủ. Chiếc xuồng lặng lẽ tới cách con cá chừng sáu mét. Tôi bật dậy. Nét Len hơi ngả người ra phía sau rồi phóng lao. Lao bay vút đi. Con đuy-gông biến mất. Mũi lao này phóng đi rất mạnh nhưng rơi xuống nước.
    -Khổ quá! Trượt rồi!
    -Nét phát điên.
    -Trượt đâu?
    -Tôi nói.
    -Nó bị thương rồi, có vệt máu trên mặt nước kia.
    Con đuy-gông thỉnh thoảng lại nổi lên để thở. Rõ ràng vết thương chưa làm nó kiệt sức, vì nó còn bơi rất nhanh. Chiếc xuồng lướt theo vết con cá. Đôi lúc chúng tôi đuổi gần kịp và Nét đã chuẩn bị phóng lao nhưng nó lại lặn xuống ngay. Các bạn có thể hình dung được rằng Nét đã cáu kỉnh, giận dữ đến mức nào! Còn tôi thì thất vọng vì con đuy-gông đã phá vỡ mưu kế của chúng tôi. Chúng tôi rượt theo nó suốt một tiếng đồng hồ. Bỗng nó có ý định trả thù những người đuổi bắt, nó quay lại và xông thẳng tới chiếc xuồng. Hành động của con đuy-gông không lọt qua mắt Nét Len. Anh ta hô lên:
    -Coi chừng! Người cầm lái nói mấy lời bằng thổ ngữ khó hiểu chắc là ra lệnh cho các thủy thủ khác cảnh giác. Tới cách xuồng chừng hơn mười mét, con cá hít không khí vào qua hai lỗ mũi rất rộng rồi lại tiếp tục lao tới. Chúng tôi không kịp tránh đòn. Chiếc xuồng tròng trành. Nước ùa vào, chúng tôi phải tát ngay ra, nhưng nhờ sự khéo léo của người lái mà xuồng không bị lật úp. Nét Len phóng lao liên tiếp vào con vật khổng lồ. Nó bèn đội thuyền lên khỏi mặt biển tựa như con sư tử tung con dê lên trời. Chúng tôi xô vào nhau. Tôi không biết sự thể sẽ diễn ra thế nào nếu như Nét không phóng lao trúng tim con cá. Con đuy-gông lặn xuống nhưng chỉ một lát sau xác nó bị lật ngửa, nổi bềnh lên mặt biển. Chúng tôi liền lôi nó về tàu Nau-ti-lúx. Con đuy-gông nặng năm tấn. Việc mổ cá được tiến hành dưới sự hướng dẫn của Nét. Hôm ấy, người phục vụ dọn cho chúng tôi món cá đuy-gông được đầu bếp trên tàu nấu rất khéo. Theo tôi, cá này ăn ngon hơn thịt bò. Hôm sau, 11 tháng 2, tàu từ từ chạy vào vùng Xuy-ê. Tôi thấy càng gần Xuy-ê nước biển Đỏ càng bớt mặn.
    Tàu vượt qua eo Gu-ban rồi vào vịnh Xuy-ê. Đến sáu giờ, tàu chạy ngang qua thành phố To-rơ nằm sâu trong vũng biển có sắc nước đo đỏ như thuyền trưởng Nê-mô đã quan sát. Đêm đã tới. Cảnh tịch mịch chỉ thỉnh thoảng bị phá vỡ bởi tiếng kêu của bồ nông hay một loài chim đêm nào khác, bởi tiếng sóng vỗ bờ hay tiếng còi tàu phía xa. Từ tám đến chín giờ, tàu chạy dưới mặt biển chừng vài mét. Theo sự tính toán của tôi, tàu đang ở gần eo đất Xuy-ê. Qua ô cửa phòng khách, tôi nhìn thấy chân các mỏm đá gần bờ được đèn pha trên tàu rọi sáng. Tôi cảm thấy eo biển hẹp dần lại. Chín giờ mười lăm phút, tàu nổi lên mặt nước. Tôi vội chạy lên boong vì nóng lòng muốn được vào ngay con đường ngầm của thuyền trưởng Nê-mô. Tôi tranh thủ hít thở không khí trong lành ban đêm. Một lúc sau, cách chúng tôi một hải lý, có ánh lửa thấp thoáng sau làn sương đêm.
    -Đó là hải đăng nổi, -có tiếng người nói sau lưng tôi. Tôi quay lại thì thấy thuyền trưởng. Nê-mô nói tiếp:
    -Đó là hải đăng nổi Xuy-ê. Chúng ta sắp tới cửa đường ngầm.
    -Thưa thuyền trưởng, có lẽ vào đường ngầm cũng không dễ?
    -Tôi hỏi.
    -Vâng, tất nhiên không dễ. Vì vậy tôi phải lên phòng hoa tiêu để tự tay lái tàu. Và bây giờ xin mời giáo sư xuống phòng vì tàu sắp lặn và sẽ chỉ nổi lên khi vượt qua hết đường ngầm. Tôi đi theo thuyền trưởng. Các ô cửa đóng lại. Các bể chứa được bơm đầy nước. Tàu lặn xuống sâu mười mét. Tôi định về phòng riêng thì Nê-mô ngăn lại:
    -Giáo sư có muốn lên phòng hoa tiêu với tôi không?
    -Thế thì còn gì bằng nữa ạ!
    -Ta đi thôi! ở đó ngài sẽ được thấy tất cả những gì có thể thấy được trong chặng đường ngầm dưới biển và dưới mặt đất này. Phòng hoa tiêu của tàu Nau-ti-lúx hình vuông mỗi bề gần hai mét. ở chính giữa là tay lái, xung quanh lắp kính cho phép người lái nhìn được cả bốn phía. Trong phòng tối om, nhưng một phút sau tôi nhận ra bóng người hoa tiêu hai tay đang cầm lái. Biển được chiếu đèn pha ở phía sau rọi sáng trưng.
    -Nào, bây giờ ta hãy tìm cửa vào đường ngầm. Phòng hoa tiêu được nối với buồng lái bằng dây điện, giúp thuyền trưởng có thể vừa trực tiếp lái tàu, vừa điều khiển tốc độ của tàu. Nê-mô ấn nút, chân vịt liền quay chậm lại. Tôi lặng nhìn bức tường đá hoa cương dựng đứng. Tàu chạy dọc bức tường đó suốt một tiếng đồng hồ. Thuyền trưởng Nê-mô không rời mắt khỏi chiếc địa bàn. Theo hiệu của thuyền trưởng, người lái tàu thay đổi hướng tàu chạy từng phút. Đúng mười giờ mười lăm phút, thuyền trưởng bắt đầu đích thân cầm lái. Một hành lang rộng, sâu thẳm và ngoằn ngoèo đang hiện ra trước mắt chúng tôi. Tàu Nau-ti-lúx dũng cảm đi vào dưới vòm cuốn tối đen của hành lang đó. ở mạn tàu bên kia, có tiếng ào ào khác thường. Đó là nước biển Đỏ đang theo đường ngầm đổ vào Địa Trung Hải. Con tàu theo dòng nước lao đi như mũi tên, mặc dù máy móc trên tàu đã làm việc hết sức để giảm tốc độ bằng cách cho chân vịt quay ngược lại. Tim tôi đập thình thịch. Bất giác tôi đưa tay lên ngực. Đến mười giờ ba mươi lăm phút, thuyền trưởng Nê-mô trao tay lái cho hoa tiêu rồi bảo tôi:
    -Địa Trung Hải rồi đó! Tàu Nau-ti-lúx bị nước cuốn qua eo Xuy-ê mất không đầy hai mươi phút.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này