1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hàng Không 100 năm 1 cái nhìn, Part I

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Antey2500, 06/12/2002.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. bulubuloa

    bulubuloa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/06/2003
    Bài viết:
    4.189
    Đã được thích:
    5.423
    er, đề nghị chị quymhle đưa ngay em cái ... YM của chị nhé, he he
  2. Condor

    Condor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/02/2003
    Bài viết:
    2.311
    Đã được thích:
    0
    R-77RVV-AE (AA-12 ADDER)
    Work on the R-77 began in 1982 and was considered quite significant and secret since it represented Russia''''''''s first fully multi-purpose missile for both tactical and strategic aircraft for fire-and-forget employment against everything from hovering helicopters to high speed, low altitude aircraft. Gennadiy Sokolovski, General Designer of the Vympel Design Bureau, said that the R-77 missile can be used also against medium and long range air-to-air missiles such as the AIM-120 AMRAAM and AIM-54 Phoenix as well as SAMs such as the Patriot. It can also be used against cruise missiles and even precision-guided munitions (PGMs).
    First seen in 1992 at the MosAeroshow ''''''''92, the R-77RVV-AE was immediately nick-named Amraamski by Western journalists. The Russian-language version of the acronym for the weapon is RVV-AE and is also known as the Izdieliye-170. The missile can also be used from internal carriages where the control fins and surfaces will fold flat until it is catapulted clear of the aircraft for motor ignition.
    The aerodynamics are novel, combining vestigial cruciform wings with tail control surfaces of a lattice configuration. Each surface consists of a metal frame containing a blade-like grid assembly which combines a greater control area, and thus lifting force, with reduced weight and size. The development for this control concept took three years of theoretical work and testing. Referred to by the Russians as gas dynamic declination devices, these surfaces require less powerful actuators than conventional fins, and have a lower RCS. The flow separation which occurs at high angles of attack enhances the it''''''''s turning ability, giving the R-77 a maximum turn rate of up to 150º per second.
    During the initial flight phase after launch, the R-77 is controlled by an inertial auto pilot with occasional data link updates from the launch aircraft''''''''s radar on changes in spatial position or G of the target. During the terminal phase, the missile shifts to an active-radar mode.
    Over short distances, the missile will launch in an active mode. The host radar system maintains computed target information in case the target breaks the missile''''''''s lock-on. If the seeker is jammed, it switches automatically to a passive mode and homes on the source of jamming. Development trials have been completed, and the missile is now entering production for use on aircraft such as the Mig-29, Su-27 and Mig-31. Fired against high-altitude non-maneuvering targets approaching head-on, the R-77 has a range of 100km, with the seeker locking on at around 20km. At short range, it can engage targets maneuvering at up to 12g.
    There are other variants under development. One has an up-rated motor which is intended to boost range at high altitudes to as much as 160km and is known as the R-77RVV-AE-PD. PD is Povyshenoy Dalnosti, which in Russian means Improved Range. This variant has been test-fired and uses a solid-fuel ramjet engine. Its range puts it in the long-range class and is equivalent to that of the AIM-54 Phoenix.
    In another version of the R-77, a terminal infra-red homing seeker is offered. The use of IR tracking in the terminal mode might be logical because at extended ranges the data link between the launch fighter and the missile might be interrupted, or the host radar may not detect jamming. It has a laser fuze & an exploding rod warhead that can destroy the variable sized targets from missiles & PGMs to bombers.
    --------------------------------------
    Các bác bàn về hỏa tiển không đối không hay quá, nhân đây tớ 1post một bài của BHARAT RAKSHAK về hỏa tiển không đối không R-77 của Nga. Xin các cao thủ cho biết ý kiến về loại hỏa tiển này, so với AIM-120 AMRAAM và AIM-54 Phoenix.
    Được Condor sửa chữa / chuyển vào 12:52 ngày 21/07/2003
  3. Antey2500

    Antey2500 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/07/2002
    Bài viết:
    2.764
    Đã được thích:
    6
    Bài của bạn Quynhle viết quá dài và khi đọc thấy có rất nhiều chổ không ổn nhưng nhiều quá lười đọc lại lần nửa đành theo nhớ đoạn nào không ổn chỉnh đoạn đó :
    Thứ nhất: bạn vẩn chưa hiểu cái xác xuất trúng nghĩa là gì .
    Xác xuất này định nghĩa là khi tôi lần lượt bắn 100 cái hoả tiển vào 100 cái mục tiêu khác nhau .Số mục tiêu bị hạ là số xác xuất trên thực tế người ta thử nghiệm có thể cao hoặc thấp hơn co số 100 rồi chia phần trăm.Con số càng cao thì càng chính xác cái này là môn xác xuất thống kê có được nhắc qua sơ sơ ở lớp 9 môn toán và là 1 môn của đại cương đại học.Vậy xác xuất 70% có nghĩa là 1 quả khi bắn ra có khả năng 70% nó trúng mục tiêu .
    Xác xuất hạ mục tiêu trên chiến trường thấp hơn thực tế không phải vì tên lửa ở chiến trường bắn kém hơn mà do phi công trên chiến trường thường bắn kỹ và bắn ẩu .Nghĩa là 1 mục tiêu mà tương nhiều quả và nhiều khi vẩn bấm bắn loạn xạ khi chưa ngắm kỹ.Cái này là chuyện thường vì 1 trái 70% trúng nghĩa là nó vẩn có khả năng trượt mà trượt thì nó bắn lại ta chết nên trên chiến trường người ta thường bắn 2 hay 3 để đề phòng địch thủ tránh hoặc có mục tiêu ẩn hiện gần đó .Và khi bắn 1 lúc 2 hay 3 trái có xác xuất 99% đi nửa thì tính ra chỉ có xác xuất dưới 50% vì khi 1 quả trúng thì mấy quả còn lại trật hết.
    Điều khác biệt này là rất cơ bản nó không nói lên là hoả tiển thử nghiệm bị kém trên chiến trường như bạn nghĩ nên xem lại cách hiểu của mình về con số .Lý luận phải chặt chẻ mới bẻ được lý luận khác và lý luận chặt chẻ cần có nhận thức chính xác từ dử kiện chính xác.
    Còn về R27 hay còn có tên theo Tây là AA9 tôi đã nói quá rỏ vì sao nó tệ và thiên hạ chê nó .Đó là do nó chế tạo đa năng nhưng với 1 hoả tiển đánh gần nó kém tính cơ động còn với 1 hoả tiển đánh xa nó kém tính bí mật nên cả 2 nhiệm vụ cùng làm không tốt .Vì sao như thế tôi cũng nói rồi bạn cố diển giải khác đi nhưng tôi chỉ nói thế này .Hoả tiển có nổ hay không nổ ở khoảng cách nào so với mục tiêu thì đã được lập trình sẳn ở bộ phận kích nổ ,khi đầu dò xác định là đã đến lúc đến nơi rồi thì nó nổ .Khi hiểu rỏ vấn đề này bạn sẻ hiểu rỏ tại sao hoả tiểu bự như SAM thường nổ xa hơn và đầu đạn lớn chụp 1 quả cầu lớn hơn vào mục tiêu còn AA thì nổ gần hơn .Còn các ECM đánh lừa đầu dò để nó tưởng đến nơi rồi ra lệnh nổ là chuyện khác đừng hiểu nhầm nhé.
    Còn về chuyện dẩn đường tên lửa bay bí mật ra sao thì bạn cũng biết được 1 điều thường ở giai đoạn cuối máy bay mới phát hiện ra là có tên lửa nhờ vào các tín hiệu ngắm từ radar đối phương .Tuy nhiên bạn biết kiểu radar thụ động là gì chứ kết hợp dẩn đường nhấp nháy là 1 trong những kiểu giúp tên lửa bí mật tiếp cận mà đối phương không biết .Chỉ đến giai đoạn chỉnh hướng và lao tới nổ thì chỉ còn khoảng 2Km đến mục tiêu.MACH 4 nghĩa là vận tốc vào khoảng 1,5 Km/s chưa đầy 2 giây là xong rồi dù là bắn trực diện hay bắn đuổi .Bắn trực diện thì thời gian phản xạ chưa đầy 1 giây còn bắn đuổi thì thời gian phản xạ có lâu hơn nhưng khả năng phát hiện ra tên lửa lại thấp hơn và khó tránh hơn tuy nhiên có may mắn tránh cũng không có khả năng đánh trả.
    Cho bạn là 1 phi công đang bay đột nhiên có cái đèn đỏ chớp vang bạn chưa hiểu chuyện gì thì đã tiêu rồi 2 giây nhanh lắm nhận ra mình bị bắn còn chưa kịp khỏi nói đến bẻ lái.
    Còn về cái vụ Muti-role Fighter thì bạn nói đúng đấy Nga nghĩ khác phương Tây khi phân công phân cấp kỹ mà không có các đời đa năng chỉ gần đây Su MK hay MKI hoặc Mig31 MB mới có vụ này .Nhưng quan điểm bạn về vụ bắn hạ mục tiêu của hoả tiển vẩn phải xem lại.

    With these advanced weapon the WW3 will be fought ,but in the WW4 they will fight with sticks and stones (Albert Einstein)
  4. ChienV

    ChienV Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/05/2001
    Bài viết:
    597
    Đã được thích:
    0
    Xin phép trao đổi với bác Balô chút
    Bác bảo
    "Bạn lộn rồi, người ta nói là toàn bộ ĐK thân phi cơ được dùng cho antenne, không phải là như antenne - "for the antenna" không phải là "as an antenna". Nghĩa là do phase array radar đổi hướng chùm quét bằng định pha thay cho động tác xoay antenne qua lại, cho phép tiết kiệm không gian phải chừa trống cho sự xoay, thế nên có thể làm điã antenne lớn hơn. Ảnh về đĩa antenne này đã được post nhiều. "
    Tôi có thắc mắc nhỏ này, "cho" và "như" sẽ khác nhau như thế nào? "cho" nghĩa là các sensor block được bố trí dọc thân, còn "như" có nghĩa là dùng ngay thân làm sensor, như vậy thì điều tôi đã phát biểu có vẻ không sai ý bác, đúng không bác?
    Đĩa anten phía trước máy bay chiến đấu nào cũng có và cũng bố trí như vậy, kể từ F đến Su, Mig. Thông thường đĩa anten này cho thị trường hình côn mà bác thường nhắc. Còn ở đây tôi muốn bàn đến là thân Mig31 được dùng CHO (hay NHƯ) anten như thế nào thôi.
    "Nếu hoả tiễn AA có bộ xử lý tính dùm thì máy tính trên phi cơ hiện đại cũng đang làm điều đó cho ECM của mình, thậm chí còn nhận biết được kiểu vũ khí của đối phương nhờ so sánh dạng tín hiệu radar với những gì được lưu trong bộ nhớ, nhờ đó có thể chọn thời điểm và biện pháp xử lý thích hợp. Đạn ECM thế hệ mới (như ở 2 pod ECM đầu cánh Eurofighter Typhoon) có thể được bắn tuy không hoàn toàn trực diện nhưng hưóng xiên về phiá trước để bảo vệ phi cơ trong head on engagement. Mà thông thường người ta bung nhiễu trước khi chuyển hướng. Nếu dùng radar phi cơ để dẫn hỏa tiễn, khi track đối phương thì hệ thống cảnh báo của phi cơ địch biết liền, nếu dùng IRST, bạn đã vào khá gần và sắp phải dogfight đến nơi, không còn là thế mạnh của MIG-31. Hiển nhiên là để bị track bằng IRST thì khó sống rồi."
    Đồng ý là ECM luôn có điều khiển bằng máy tính, nhưng vị trí lúc bung nhiễu luôn là yếu tố quyết định. Chúng ta đều biết ECM mục đích là bung ra một tín hiệu giả gần giống với đặc trưng của máy bay để đánh lừa tên lửa đối phương lao vào đó. Do vậy nhiễu bung ra phải có đặc trưng vận động gần giống máy bay để đánh lừa bộ điều khiển của tên lửa (việc này chưa ECM nào làm được) hoặc phải làm thành một tín hiệu giả xuất hiện ở giữa tên lửa tấn công và máy bay. Để đạt được cách 2, máy bay phải chuyển hướng sao cho đối với sensor của tên lửa, từ 1 tín hiệu tách thành nhiều tín hiệu gần giống nhau một cách hợp lý, và tên lửa phải phát nổ ở vị trí đảm bảo không gây hại cho máy bay.
    Thường máy bay phải chuyển hướng trước để chuyển động của nó đảm bảo tốc độ thóat ly tương đối của máy bay - tên lửa phải nhanh hơn là tốc độ máy bay - nhiễu, sau khi bung nhiễu nó vẫn phải chuyển hướng tiếp nhằm đưa tín hiệu của máy bay và nhiễu tách ra xa trong sensor của tên lửa, như vậy mới đảm bảo được an tòan cho máy bay. Nếu tín hiệu nhiễu như bác nói, phóng về phía trước và sang 2 phía trong thế head-on, sẽ có 2 trường hợp: 1/ tín hiệu nhiễu tách ra quá nhanh (góc phóng nhiễu gần 90 độ) đảm bảo khỏang cách gây nổ xa máy bay, thì dễ bị bộ xử lý của tên lửa lọc, do tín hiệu nhiễu không phù hợp đặc trưng cơ động của máy bay. 2/ tín hiệu nhiễu phóng với góc hẹp, tốc độ tách tín hiệu chậm, như thế nguy cơ cho máy bay vẫn rất lớn, do các lý do: nhiễu bay chậm hơn máy bay, tín hiệu máy bay trong sensor rõ lên nhanh hơn, khả năng nhầm của tên lửa khó xảy ra do vị trí tương đối của nhiễu lại không nằm chắn giữa máy bay và tên lửa tấn công, hơn nữa khi tín hiệu được phóng ở góc hẹp, khỏang cách giữa máy bay và nhiễu không đủ đảm bảo an tòan cho máy bay khi tên lửa đánh nhầm vào nhiễu.
    Gây nhiễu bằng chaft còn khó hơn một chút, do đám nhiễu chỉ bung ra đạt đủ tiết diện phản xạ radar khi phóng ra cách máy bay hàng chục tới hàng trăm mét. Khi đó nếu phóng chaft trong thế head on, tín hiệu giả không tách từ từ khỏi tín hiệu máy bay mà xuất hiện một cách đột ngột bên cạnh tín hiệu máy bay, và chẳng có tên lửa hiện đại nào khù khờ lao vào nhiễu từ ECM trong trường hợp này.
    Về điều khiển tên lửa, như tôi đã trình bày, là bộ ECM và cả phi công chỉ có thể phát hiện và đối phó được tên lửa tấn công khi nhận được tín hiệu lock và tín hiệu điều khiển bắn (tín hiệu đặc trưng). Tín hiệu lock có thể phát hiện qua cường độ tín hiệu rọi, nhưng không phải cứ phát hiện ra lock mà đã cơ động tránh tên lửa ngay. Việc sử dụng ECM đa số phụ thuộc vào phát hiện được thời điểm phóng tên lửa/cự ly phóng/dạng tên lửa. 2 điều kiện sau thì dễ, nhưng điều kiện đầu khá khó khăn. Như thế không chỉ riêng với Mig31 mà các lọai khác cũng vậy, chỉ cần đặc trưng tín hiệu radar khi lock và điều khiển tên lửa chưa bị lộ thì khả năng đối phó của các máy bay đối phương gần như bằng 0. Với Mig31, với dạng tín hiệu xung doppler và phát tín hiệu bằng phương pháp định pha, việc phát hiện tín hiệu phóng tên lửa là rất khó khăn, chưa kể tới các cải tiến trong mã hóa tín hiệu điều khiển.
    Hơn nữa, khả năng phóng trước của một số tên lửa trên Mig31 (tôi không nhớ rõ lọai nào) là rất nguy hiểm. Tên lửa được phóng ra khi phát hiện mục tiêu, thời gian đầu bay theo quán tính, sau đó mới nhận chỉ thị mục tiêu từ máy bay và tấn công. Đối với máy bay bị tấn công, thời điểm phát hiện bị lock là sau thời điểm tên lửa được phóng. Với hình thức tấn công này, chỉ có điều kiện 3 là ECM biết, còn 2 điều kiện đầu là không xác định. Như thế khả năng "miễn nhiễm" với ECM của tên lửa phóng từ Mig31 là hiện thực.
    Vậy thì, ở tầm xa hơn 100km, phi công Mig31 có thể phóng trước, lock và chỉ định mục tiêu cho tên lửa, rồi chuyển hướng bay vuông góc hoặc thậm chí bay với góc lớn hơn 90 độ để thóat ly mà vẫn theo dõi được máy bay địch thủ (vì ở thế này Mig31 vẫn track được mục tiêu). Như vậy kể cả tín hiệu của Mig31 có hiện rõ trên màn chỉ thị, các máy bay của đối phương vẫn khó có thể tấn công được Mig31, còn quả tên lửa đang bay tới kia thì lại rất khó tránh.
    Xin lỗi là tôi đã đưa IRST vào làm lệch hướng chút, nhưng đúng như bác nói, cận chiến không phải là thế mạnh của Mig31, và do vậy IRST chỉ phải bàn khi ta nói đến F16, Rafale, Su27, Mig29... chứ không phải cho ông bạn Mig31 này.
    Còn về xác suất trúng đích của tên lửa, tôi cho rằng xác suất thống kê thực tế và xác suất trúng đích của nhà sản xuất xây dựng trên 2 tiêu chí khác nhau, do vậy không thể đưa ra để so sánh. Với nhà sản xuất, giả thiết đầu tiên là tên lửa được bắn đúng yếu lĩnh và trên một hệ thống điều khiển đầy đủ, và sau đó mới là xác suất trúng đích trong các điều kiện thời tiết, nhiễu.. khác nhau. Còn trong thực tế, việc bắn đúng yếu lĩnh lại là yếu tố khó thực hiện nhất, và do vậy xét đến góc độ xác suất trúng đích trong thực chiến phải kể đến cả trình độ phi công và cấu hình máy bay phóng. Ví dụ trong các trận chiến giữa Su27 và Mig29 ở châu Phi, liệu các máy bay phóng tên lửa có được trang bị đúng như các máy bay phóng thử nghiệm của không quân Nga không??? Tôi tin chắc là không. Vì vậy tranh cãi về vấn đề này có thể là không xác đáng.
    Về trình độ sử dụng cũng phải bàn. Ví dụ lấy xác suất trúng tổng thể của V75 tại Việt Nam thì rất thấp, nhưng chỉ xét tới các tên lửa được phóng sau khi đã có Sách đỏ thì hiệu suất lại cao hơn rất nhiều. Như vậy ta chẳng thể kết luận được là V75 có xác suất trúng đích như thế nào trong thực tế, vì tùy theo quan điểm và thời điểm tính. Hay là như không quân của Iraq trong Vùng Vịnh 1, các tên lửa phóng từ Mig của họ có thể có xác suất trúng đích cao hơn của Nam Tư không??? chắc chắn là không. Ngay trong nhận xét của phi công Mỹ về Mig29 cũng phải công nhận rằng với các phi công cao cấp, Mig29 cung cấp cho họ nhiều tính năng độc lập hơn, và sẽ trở thành một vũ khí rất nguy hiểm.
    Và lại vẫn câu cũ rích: Vũ khí do con người sử dụng, và con người vẫn là yếu tố cực kỳ quan trọng để làm nên chiến thắng.
  5. Quynhle84

    Quynhle84 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/03/2003
    Bài viết:
    621
    Đã được thích:
    0
    Bác Antey lạ heh, chúng ta đang tranh luận về chuyện thực tế chuyện bắn tên lửa ra sao. Bây giờ bác lại nói do trong chiến tranh phi công hay bắn ẩu, em chẳng đã nói trong chiến tranh có nhiều tình huống khiến phi công phản ứng chủ quan hơn là trong thử nghiệm à. Con số quan trọng là Kill ratio của mỗi loại tên lửa rút ra từ một cuộc chiến chứ không phải là con số thử nghiệm khi đánh giá về mỗi loại tên lửa. Trừu tượng hóa là nếu như người ta có thể đánh một cuộc chiến, không thiệt hại gì để thử nghiệm vũ khí thì đó chắc chắn đã là một lựa chọn tốt hơn là chuyện thử nghiệm vũ khí rồi. Thử nghiệm vũ khí chỉ là cách người ta ước lượng về tính hiệu quả của vũ khí.
    Kill ratio = (Number of Kills)/(Total number of missiles fired)
    Thường bọn Mỹ còn kể thêm cả số tên lửa hư trong lô giao hàng đến căn cứ vào mẫu số trên chứ không chỉ là riêng số tên lửa bắn ra. Theo Kill ratio thì nếu như bắn hai quả tên lửa vào một mục tiêu nếu cả hai cùng trúng thì Kill ratio vẫn chỉ là 50%. Nhưng không phải vô cớ hay chỉ đơn thuần vì bắn ẩu mà người ta bắn hai quả tên lửa một lúc. Khi bắn ra hai quả cùng một lúc người ta làm tăng xác suất trúng trong một lần bắn, vì họ đoán rằng nếu mục tiêu tránh được tên lửa thứ nhất thì lại rơi vào bẫy của tên lửa thứ hai và không phản ứng kịp. Thành ra cái quả bắn trật đó cũng góp một phần không nhỏ so với cái quả trúng sau đó. Điều này đặc biệt trúng với những loại tên lửa không đối không sau này, vốn có guidance toàn là dựa trên việc đoán đường bay của mục tiêu ví dụ radar/IR lead collision cho R-27 hay proportional navigation của R-73, nhưng nó không đúng cho những loại tên lửa IR xa xưa vốn chỉ nhắm thẳng vào mục tiêu (pure pursuit) mà không đoán đường bay mục tiêu nên xác suất trúng của quả trước hay quả sau cũng gần như nhau.
    Một điều nữa về Kill ratio, nó thường được dùng bởi các nhà lãnh đạo quân sự vì họ sẽ quyết định chuyện tiếp tục sản suất loại tên lửa nào để đạt được hiệu quả chiến trường cao nhất (nghĩa là số máy bay địch bắn hạ). Nên con số thử nghiệm mà bác nói chỉ là để giới thiệu một tên lửa vào chiến trường nhưng việc tiếp tục sản xuất và dùng loại tên lửa đó phải phụ thuộc vào Kill ratio. Cả chuyện tranh luận của chúng ta xoay quanh thực tế chiến trường ra sao cho MiG-31 thì bác nên suy nghĩ lại con số nào là đúng đắn hơn. Còn bác thấy hiển nhiên là con số thử nghiệm của R-27 nó (40%) khác như thế nào với con số trong thực tế chiến trường đấy (4%). Thực tế số liệu đấy nhé bác, chẳng bắt bẻ gì. Còn bác nào ở đây đổ cho đồ Nga dùng trong xung đột Ethiopia là đồ dở, chênh lệch đến 1:10 thì phải xem lại thực tế ra sao.
    Sửa bác một chút R-27 là AA-10 Alamo theo codename của NATO. AA-9 là codename cho R-33. Chẳng phải do R-27 không bắn xa lắm để áp dụng phương pháp dẫn đường bí mật hay không bắn gần để linh động gì nên đâm ra nó dở. Bác không thấy AIM-7 của Mỹ có thể nói là so sánh tương đương với R-27 nhưng hiệu quả chiến trường nó cao hơn đấy à. Và trong khi AMRAAM khá thành công người ta vẫn tiếp tục phát triển AIM-7, đơn giản vì hai loại này cơ bản phương pháp dẫn đường là khác nhau AMRAAM là active-radar trong khi AIM-7 là semi-active radar, như R-77 với R-27. Semi-active radar (AIM-7, R-27, R-33) đặc biệt hiệu quả khi đuổi đánh máy bay ở tầm xa, khi có thể tập trung radar máy vào mục tiêu mà không sợ bị bắn lại, trong khi active radar (AMRAAM hay R-77) lại khá hiệu quả khi đối đầu, bắn xong quên quả tên lửa đi để còn cơ động tránh những quả tên lửa đang bắn vào mình. Nên em đã nói lỗi đó - kích ngòi nổ sớm của R-27 chỉ có thể do đầu dò hoặc guidance.
    Chứ nói như bác "Hoả tiển có nổ hay không nổ ở khoảng cách nào so với mục tiêu thì đã được lập trình sẳn ở bộ phận kích nổ ,khi đầu dò xác định là đã đến lúc đến nơi rồi thì nó nổ ." Bác nói thế thì bác cũng phải chê một trong hai cái đầu dò hoặc guidance, vậy mà bác lại đổ cho chuyện đẩu đâu là do R-27 không gần không xa, nên yếu. Chuyện lập trình của guidance section thì nó chỉ có công thức tính toán đường bay của tên lửa, các cách homing luôn cần có thông tin parameter về mục tiêu để tính lại đường bay cho tên lửa khi mục tiêu đổi hướng. Mà thông tin parameter về mục tiêu thu từ đâu bác - đầu dò, hoặc data link truyền tin từ máy bay bắn ra quả tên lửa (nếu điều kiện cho phép); kết hợp với history data về mục tiêu. Khi bị jamming đầu dò lẫn data link thì vẫn còn history data để đoán ... mò khi nào nổ - lúc đó thì nó sẽ giống như bác nói là đã lập trình sẵn. Nói như bác thì chỉ là preset guidance, nhập một lần trước lúc bắn sau thôi. Em thì thích chê cái đầu dò hơn là chê cái bộ phận guidance, chê guidance thì có nước nói là người Nga lập trình dở à, và đó là để cho bọn Mỹ có cái cơ hội tổng quát hóa lên là BVR missiles Nga dở cả, đơn giản vì guidance dở à. Cách nói về lập trình của bác chỉ khiến người ta nghĩ đến guidance. Cũng xin nhắc luôn bộ phận guidance nối giữa fuse nổ với seeker section (chứ không kèm luôn trong fuse nổ ). Fuse nổ kèm theo đầu đạn ở phần thân tên lửa. Có những cách kích hoạt fuse nổ khác nhau, time delay, command (radio-guided), hay homing các loại (passive, semi-active, active). Chẳng ai diễn giải gì, trích bác coi sách viết nè: "Fuzes are activated by (radio) command from the guidance platform when the tracking system indicates that the missile has reached its closest point to the target." Cái này là khái niệm chuẩn đấy bác, nếu mà đi vào từng loại fuse khác nhau hay đầu dò khác nhau thì còn phải viết khối .
    Còn đến chuyện đường dẫn bí mật. Bác nói cái gì passive radar, cái đó chỉ là laser ranging với cái tầm illumination là 30km, bắn R-73 hay R-27 all IR aspects. Mà mấy quả này đâu cần cái gì mà bật radar lên trong giai đoạn cuối hả bác, đầu dò nó tự tìm. Còn những quả tầm trung hay xa semi-active radar như R-27R, E hay R-33 đâu thể điều khiển bằng passive radar được bác, phải bật active radar máy bay lên illuminate cái mục tiêu, active radar beam dội ngược lại từ mục tiêu và tên lửa dựa vào đó mà tự dẫn đường. Mà cả những loại semi-active này cũng chẳng có chuyện nó chỉ cần có 1 hay 2 km như bác nói để illuminate mục tiêu trong giai đoạn cuối, chuẩn là 15km cho đến 20km. Em chẳng đã nói là họa hằng lắm không thấy tên lửa bay thì phi công máy bay mục tiêu vẫn phát hiện là bị locked à. Em chẳng đã nói là nó mà biết bị locked thôi thì nó sẽ nhào lộn như thế nào à. Mà radar của MiG-31 thì bác biết, mạnh cỡ đó, máy bay nào không thấy ra. Mà tình huống bác so sánh chỉ là khi máy bay mục tiêu không có sự hỗ trợ của AWACS, chứ có AWACS thì cái dẫn đường gọi là bí mật phá sản ngay từ lúc bắn ra rồi. Bác nói quá chung chung, phương pháp dẫn đường gì thì gì, MiG-31 cũng chỉ bắn hai loại tên lửa radar bán chủ động để do radar máy bay dẫn đường: R-27 (AA-10) và R-33 (AA-9). Cả hai loại này đều có thể nói là xì trum với mục tiêu (multirole) fighter trong thực tế. R-33 thì vẫn hiệu quả với bomber cỡ bự, em chẳng phủ nhận điều đó, nhưng miễn figher các loại giùm. Cái này bác voi đã nói nhiều rồi, cần thì vào fas.org mà đọc.
    Còn để em khè MiG-31 nghe nè. Trong giai đoạn cuối 1979 cho đến giữa thập niên 80 có thể nói MiG-31 là một interceptor vô địch. Với tầm radar bao quát đến trên 200km, MiG-31 có thể phát hiện ra địch trước và engage địch trước. Thường MiG-31 sẽ tăng tốc độ bay về phía mục tiêu khi bắn tên lửa nhằm làm tăng tốc độ tên lửa lên khỏi tốc độ chuẩn của nó. Nên nhớ tốc độ MiG-31 chỉ sau MiG-25 trong hệ fighters. Nếu địch là máy bay tiêm kích thì MiG-31 có thể bắn tên lửa radar bán chủ động AA-10, nếu địch bắn lại bằng AIM-7, xác suất địch trúng trước là cao hơn. Và khi địch trúng AA-10 , thì AIM-7 sẽ rơi tự do vì chẳng còn ai điều khiển nó nữa. Cách đánh này đảm bảo địch sẽ phải nhào lộn tránh AA-10 thay vì bắn lại AIM-7 vì thế MiG-31 luôn giành thế chủ động. Nhắc lại là khi bắn tên lửa semi-active radar như AIM-7 hay AA-10 thì máy bay bắn ra tên lửa này phải tránh nhào lộn, nhằm dùng radar máy bay illuminate mục tiêu để điều khiển tên lửa bắn ra, địch mà bắn lại AIM-7 thì chỉ có nước thành sitting duck cho quả AA-10 bay nhanh hơn từ MiG-31 nhanh hơn ủi cho.
    Nhưng từ giữa thập niên 80s, sự ra đời của AMRAAM (và R-77 sau này) làm thay đổi nguyên lý intercept đó của MiG-31. Máy bay bị bắn có thể fire and forget quả AMRAAM, sau khi bắn trả thì bắt đầu nhào lộn. MiG-31 nếu tiếp tục illuminate mục tiêu để điều khiển quả AA-10 bắn trước thì dù cho địch có trúng AA-10, khả năng rất lớn là sau đó MiG-31 cũng tan xác vì tiếp tục illuminate thì chẳng nhào lộn gì mấy, chưa kể khả năng nhào lộn của MiG-31 thì không ấn tượng mấy. AMRAAM hay R-77 đều có thể tự mình bay về mục tiêu, đặc biệt trở nên khá hiệu quả khi antenna đầu dò của nó được kích hoạt trong giai đoạn cuối cùng. Bác nào trong này đề xướng MiG-31 bay lệch đi 90 độ so với địch để tránh tầm radar của địch, bác không biết khi bị locked thì máy bay mục tiêu sẽ đổi hướng tìm cái gì đang lock mình à.
    Chỉnh bác Antey lần nữa MiG-31BM, không phải MiG-31MB, ... chọc chơi , xem lại gì bác ...
    Everything will pass. Time lost can never be regained.
  6. ChienV

    ChienV Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/05/2001
    Bài viết:
    597
    Đã được thích:
    0
    chà, Quynhle84 viết ác quá. Mình là dân amatơ, không lại được.
    Chỉ hỏi bạn chút, nếu với rada của Mig 31 có thể bao gần hết vòm cầu, track và lock mục tiêu ở các hướng off boresight, thì có thể nó vẫn illumination mục tiêu, và vấn chuyển hướng thoát ly được chứ nhỉ? Vấn đề chính ở đây mình muốn hỏi, là thị trường của Mig31 không phải hình nón như máy bay khác, thì có nhất thiết nó phải head on mới illumination được không???
    Hơn nữa mình cho rằng máy bay không phải cứ phát hiện bị lock là đã nhào lộn ngay, vì như thế mệt và tốn nhiên liệu quá, nhất là ECM không thể cứ thấy bị lock là bấm nút vãi lung tung được, vì mỗi ống chỉ chứa vài chục quả chứ mấy. Vậy thì vấn đề để tránh được phải là vấn đề thời điểm như mình đã viết. Đánh tầm xa (bvr) thì quan trọng là khả năng phát hiện được thời điểm bấm nút của địch thủ. Giả sử cách 150km, Mig31 đã phóng tên lửa, nhưng tới tầm khoảng 100km nó mới lock và chỉ định, lúc này tên lửa chỉ cách địch thủ vài chục km, trong khi đó phi công địch thủ đang lo lock và bắn trả Mig31. Vậy khả năng tránh tên lửa trong trường hợp này là rất khó đúng không, vì chắc chắn ECM không thể cướp điều khiển của phi công để lái máy bay lệch đi như trong "Ngày Độc lập" được. Bạn có thấy gì sai trong điểm này không?
    Về vấn đề xác suất như mình đã nói, các con số xây dựng trên cơ sở khác nhau không thể đưa ra so sánh. Ví dụ thô một chút : đưa ra so sánh tần suất trúng đích của M16 và AK47 trong CTVN chẳng hạn, chắc chắn M16 có xác suất trúng gần 0%, vì lính tráng có biết tiếc đạn đâu. Nhưng về mặt thiết kế, chẳng ai dám nói hiệu quả chiến đấu của M16 kém AK47, chưa nói là hơn.
    Bạn trêu mình ở điểm mấy cái máy bay ở châu Phi, nhưng hình như Su hào bên đấy là máy bay huấn luyện hay đại khái như vậy, không phải được config đúng cho không chiến, do vậy ẹ là phải!!!
  7. BALOO2000

    BALOO2000 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    491
    Đã được thích:
    0
    Gởi Chien V :
    Về "CHO" và "NHƯ", tôi muốn nói đường kính thân máy bay được dùng cho antenne có nghĩa là do radar không xoay nên không cần dàng khỏang trống cho sự xoay, nói khác đi, có thể làm antenne lớn bằng đường kính trong của thân máy bay.
    Dưới đây là 1 radar với hệ thống quét cơ khí, antenne nhỏ vì còn phải xoay trở.
    Raytheon APG-65 - trang bị cho Harrier
    Thân máy bay không được dùng làm antenne đâu, dĩ nhiên về lý thuyết thì đúng là nếu đưa được các sensor ra xa hết mức có thể thì đường kính biểu kiến của antenne to bằng sải cánh máy bay. Nhưng có lẽ do kỹ thuật phức tạp nên đền nay chưa thấy kiểu thiết trí này cho máy bay chiến đấu. Đến như AWACS người ta cũng đưa antenne ra ngòai để có được đường kính đủ lớn (ngòai ra còn vì những lý do thị trường - khả năng look down, ...). Những sensor bạn thấy trên thân MIG-31 chỉ là các radar warning receiver (đầu thu cảnh báo tín hiệu radar) mà thôi. mà máy bay chiến đấu đời mới nào cũng có, không chỉ MIG-31. Tôi khằng định là không có chuyện sensor radar trên thân máy bay đâu.
    Về vị trí bung ECM, những tình huống bạn ví dụ là trường hợp thất lợi nhất cho ECM. Nếu bị nhắm vào vùng klhông thể bảo vệ thì máy bay nào cũng chịu. Nhưng từ các thế hệ F-16 block 50, Rafale, Typhoon, ECM được điều khiển tự động bởi máy tính trên phi cơ - 1 công cụ rất mạnh, phi công không nhất thiết phải phản ứng.
    Về khả năng phát hiện đối phương thì nói chung đã mở radar là bị đối phương phát hiện. Tín hiệu radar là bức xạ điện từ không khó nhận ra. Xung doppler và định pha là chuyện cũ rồi - đơn giản là chúng ta còn biết thì tại sao không phát hiện được. Xung doppler cho phép lọc tín hiệu dội về từ các vật thể không chuyển động giúp tăng khả năng nhận biết của radar, không giúp giảm khả năng bị phát hiện của radar đâu. Phase array cũng vậy. Để tránh bị phát hiện, cách tốt nhất là không mở radar, thay vào đó là nhận thông tin từ 1 phương tiện khác AWACS, ground control, ... Lọai tên lửa bạn nói là R-33 (AA-9 Amos) có tầm xa trên 100Km nhưng về chiến tuật khi biết có MIG-31, phi công bên địch lập tức đế phòng R-33 - tuy nhiên đây là lọai SARH - semi active radar homing - dẫn đường bán chủ động, lọai này có những khuyết điểm của nó. Thời gian đầu hỏa tiễn bay theo bộ dẫn đường quán tính đến mục tiêu và được máy bay mẹ cập nhật thông tin để điều chỉnh đường bay tùy theo sự phản ứng của đối phương, khi AA-9 vào tầm - radar trên máy bay mẹ chuyển sang chế độ lock, tín hiệu được phát tập trung và liên tục hướng vào đối phương, bộ cảm thụ sóng radar trên AA-9 dựa vào tín hiệu phản hồi từ máy bay đối phương để tìm đến, Như vậy, MIG-31 phải theo dõi mục tiêu thường xuyên, không được để nó ra khỏi hình cone thị trường, nều không radar mất mục tiêu (khi đó phi công phải chỉ thị lại mục tiêu - hoặc nếu máy tinh trên phi cơ đủ thông minh thì automatic). Khi lock, máy bay mẹ phát tín hiệu "chiếu sáng" liên tục mục tiêu bằng radar của mình - như vậy làm sao người ta không biết. Nếu MIG-31 chuyển hướng 90° như bạn nói thì AA-9 mất sự hướng dẫn còn gì. Trong chiến tranh VN, AIM-7 Sparrow luôn bị khuyết điểm này, khi anh đang tập trung dẫn hỏa tiễn củaa mình tới mục tiêu thì thằng khác bắn anh từ sau lưng.
    Nhận xét của bạn : "...chẳng có tên lửa hiện đại nào khù khờ lao vào nhiễu từ ECM trong trường hợp này..." là quá chủ quan - nói vậy khi thiết trí hệ thống ECM thì ai khù khờ. Đành rằng là chắn không phải là thanh kiếm nhưng khẳng định 1 món đồ cũ như AA-9 có thể qua mặt tất cà ECM là không chấp nhận được. Anh có biện pháp, tôi có phản biện pháp, tiếc là mình chưa tìm được tài liệu về ECM thế hệ mới cho các bạn. Nguyên lý tấn công của nbạn tôi đã biết, chắc chắn phải gây khó dễ được cho bạn, chống hết 100% như "Air Force One" chỉ có trong phim, nhưng khẳng định AA-9 như các bạn là quá mê tín.
  8. BALOO2000

    BALOO2000 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    491
    Đã được thích:
    0
    Gởi Antey :
    Như đã nói, các hỏa tiễn long range như AIM-54 Phoenix và R-33 Amos đốt hết nhiên liệu trong pha đầu để tăng tốc đến cực đại, sau đó bay theo quán tính. AIM-54 còn bay theo 1 quỹ đạo parabol lên đến độ cao 80.000 feet để tránh cản đường sóng radar của phe mình, và để tích lũy thế năng khi lao vào mục tiêu. Sau đây là vài dẫn chứng.
    Tài liệu online hiếm quá về AIM-54 chỉ có cái này : http://www.jolly-rogers.com/airpower/aim-54/avionics.html
    "... Multiple Guidance Modes
    During flight, the Phoenix utilizes three different types of guidance in order to complete its task. Upon launch, the missile activates an onboard autopilot mode in order to fly a pre-determined flightpath.
    At mid-range, the radar antenna of the missile is able to detect the F-14''''''''s radar energy, which is reflecting off of the target aircraft. This semi-active radar homing (SARH) mode provides the missile with mid-course corrections as it nears the target so that when the missile''''''''s own onboard radar takes over in the terminal stage, the target will be within the radar''''''''s constraints. This active radar homing mode takes place when the target is within range of the AIM-54''''''''s radar. At this point the Phoenix becomes a truly autonomous "fire-and-forget" weapon, following its own radar beam to the target. It requires nothing more from its launching aircraft. Time between launch and contact with the target can be as much as three minutes.
    It has been widely reported that in ad***ion to these guidance modes, the AIM-54 also features a home-on-jamming mode. It is speculated that the missile will travel most of the distance under autopilot mode until the target is suspected to be within range of the missile''''''''s radar. The radar then utilizes this special homing feature to seek out the source of the jamming energy. It is not known how successful this mode has been during trials. Given that it receives no mid-course corrections during flight suggests that there is a danger of the target aircraft maneuvering out of the onboard radar''''''''s coverage by the time the Phoenix covers the enormous distance. This fact may impose a limitation on the range of the missile, requiring the Tomcat to close the distance before launch.
    In all cases, long-range Phoenix shots follow a parabolic trajectory. This has two advantages. First, there is an increase in range, as the missile does not have to waste energy maintaining level flight to the target following motor burnout. Second, the trajectory carries the missile out of the direct path of the Tomcat''''''''s radar, thus diminishing the interference between the F-14''''''''s initial radar waves and its reflective waves. Following this parabolic trajectory, the reflective waves are the stronger of the two signals..."
    Về R-33, đành dùng 1 đọan này vậy - xin lỗi rằng chỉ là kỹ thuật chơi game, nhưng cũng khá rõ
    http://www.ecf.utoronto.ca/~pavacic/flanker2/master.htm
    http://www.alasrojas.com/Escuela/bvreng/Tables.htm
    R33
    The R33E (NATO codename AA9 "Amos") as featured in Flanker 2.5x is the longest-range AA missile carried by Russian aircraft. It is very similar in performance to the AIM54 Phoenix. The one big difference between the two is the fact that the booster on the R33E burns out much sooner than on the Phoenix. As a result, it becomes invisible to you and it cannot be defeated with a clear-cut maneuver like it''''''''s US counterpart. In the initial stage of flight it is guided toward the target by the launch platform (Mig31). At a certain point the active seeker head takes over and the missile effectively becomes a fire-and-forget weapon.
    Defeating Air Missiles with Maneouvering
    1. Pilots are advised that maneouvering solutions to aspect problems generated by modern air-to-air missiles have timing windows shorter than one second (1 s) and constitute neither viable training material nor practicable tactics for the mission planning level. Pilots will train and plan to prevent launch at all times, through combinations of avoidance, masking, and standoff SEAD, including high-altitude AWACS-assisted R-27ER shots.
    2. When approaching a SAM or aircraft threat zone, pilots are advised to employ the tactic described in Table 6, Note 4: Establish 800 km/h and engage Autothrottle ("J"). Maximum maneouverability is experienced at altitudes below 3000 m. Sorbtsiya ECM pods should be activated.
    3. Air missile threats must be categorized according to a) speed and b) motor burn on/off. The R-33E is used at various phases in its TOF in the recordings below by way of example.
    The first R-33E is fired at long range. The motor burns out and it homes unpowered on Master''''''''s Su-33. Master''''''''s beam and split-S (which is carried through into an inverted loop; do not initiate this maneover below 1500 m AGL) force the missile to continually correct its lead trajectory, inducing drag. The missile slows to less than 1800 km/h. It is necessary to time the maneouver exactly so that Master''''''''s Su-33 is heading straight up when the missile reaches him. This forces the missile to fight earth''''''''s gravity, which it fails to do. Since Master was approaching the threat when MLWS was triggered, the missile is beamed and the split-S is initiated exactly 11 s after warning. If the missile had already been on the beam, split-S would be initiated 13 s after warning.
    The second R-33E is fired at shorter range, and is powered up until the time it reaches Master''''''''s aircraft. Master has less time to react to this faster (4-5000 km/h) missile and begins his split-S immediately upon warning. The missile is powered, so this time the loop fails to slow it down. Instead, Master settles into a -15o dive for 5 s, giving the missile time to settle into a lead intercept course. Master times his pull-up so that his Su-33 is pointing up the instant the R-33E reaches him. The R-33E misses, its motor burns out, it is unable to overcome earth''''''''s gravity and it crashes into the ground.
    Như ta thấy, AA-9 bị thất tốc nhanh khi phải đổi hướng - vì động cơ đã đốt hết từ lâu. Hỏa tiễn chỉ đuổi theo bằng năng lượng tích lũy (động năng + thế năng).
    Về chữ "MARCH" - tôi không cố ý bới móc đâu, nguyên nhân vì bạn tranh luận 1 cách kém lễ độ - cho dù Quynhle có là ai đó giả danh. Mà chính bạn còn cao ngạo nhấn mạnh là "chính tả của nó là như thế" nên tôi chỉnh. trước giờ chắc chắn ai cũng thấy, nhưng có lẽ tôi cũng nghỉ như mọi người - thôi thì bạn mình có "ngọng" 1 chữ cũng chả sao. Trong tranh luận, tôi nghĩ mình đủ lý lẽ và kiến thức so với bạn. Nếu tôi có quá lời thì cũng để giúp bạn khiêm tốn hơn thôi.
    Gởi bulubuloa :
    F-14 đã bắn hạ 2 SU-22 và 2 MIG-23, tất cả đều của Lybia, 3 chiến công do AIM-9 Sidewinder, 1 hạ bời AIM-7 Sparrow. Tuy nhiên phi công Arabe thì "bèo" lắm. Đáng chú ý rằng đây là những giao chiến duy nhất giữa các máy bay có cánh xếp mở với nhau.
    Tomcat chưa từng giao tranh thật sự với MIG-29 và SU-27. May ra có thể trong chiến tranh IRAN - IRAQ, nhưng không ai biết chắc.
    Được BALOO2000 sửa chữa / chuyển vào 19:20 ngày 23/07/2003
    Được BALOO2000 sửa chữa / chuyển vào 20:26 ngày 23/07/2003
  9. kien2476

    kien2476 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    11/07/2002
    Bài viết:
    6.180
    Đã được thích:
    12.822
    [​IMG]
    Tập đoàn EADS-European Aeronautic Defense and Space Co đang đàm phán với nhà sản xuất MIG của Nga về 1 dự án du lịch không gian bằng máy bay Mig 31. Theo dự định, một khoang dành cho 12 hành khách chế tạo bằng vật liệu đặc biệt trong suốt sẽ được hắn trên lưng của Mig 31. Mỗi du khách bỏ ra khoảng 10.000$ để được cưỡi trên 1 trong những phi cơ chiến đấu nhanh nhất thế giới ( 3000km/h)trên độ cao 20km. Dự án đã thu hút sự chú ý của rất nhiều công ty du lịch và các nhà đầu tư. Theo Gregor Kursell , người phát ngôn của EADS tại Munich, họ sắp hoàn tất việc ký kết hợp tác với 1 nhà đầu tư thuộc Các Tiểu Vương quốc Arab trị giá 50-100 triệu $. MiG-31 Foxhound xuất hiện từ năm 1975 và người ta ước tính có khoảng 150 chiếc thuộc biên chế không quân Nga. Tuy nhiên Tổng giám đốc nhà máy sản xuất loại máy bay này - Nizhny Novgorod''''s Sokol
    cho hay họ cần được sự đồng ý của chính phủ. Mig 31 là 1 trong những át chủ bài của không quân Nga, ngoài lực lượng này, chỉ duy nhất Kazakhstan được sở hữu vài chiếc. Nhiều lần Trung quốc ve vãn Nga bán cho một ít nhưng đều bị từ chối
    Kiên
    Được kien2476 sửa chữa / chuyển vào 00:12 ngày 24/07/2003
  10. ducsnipper

    ducsnipper Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/04/2003
    Bài viết:
    1.866
    Đã được thích:
    0
    Xin các đại gia nói rõ hơn về hệ thống IRST trên máy bay của Nga. Cám ơn nhiều
    JUST BE COOL!
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này