1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hàng không mẫu hạm

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi hophuoc, 05/09/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. hatakekakashivn87

    hatakekakashivn87 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/04/2006
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    0
    Em tưởng chúng nó mang ra thử vũ khí hay cho bọn máy bay tập ném chứ, có phải lúc nào cũng có tàu sân bay mà tập đâu
  2. Freesky

    Freesky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/09/2006
    Bài viết:
    2.442
    Đã được thích:
    0
    Bây giờ có công ước về bảo vệ môi trường rồi.
    Mấy cái tàu cũ vứt đi còn khó chứ đừng nói bán, nhất là các tàu QS.
  3. P20

    P20 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/11/2006
    Bài viết:
    5.619
    Đã được thích:
    203
    Trận Mid-way:2 thằng Mĩ và Nhật choảng nhau,hình như là gần 7 tàu sân bay của cả 2 phía bị ném bom+ngư lôi cháy đen sì,vậy mà kô có cái nào bị chìm(Có lẽ là nhờ các khoang ngăn nước tràn vào trong tàu)
    Còn chuyện thử vũ khí hay tập ném bom thì ở Irag với Afganistan thiếu gì chỗ:ối người vô tội die rồi đấy thôi.
  4. thanh06

    thanh06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/06/2006
    Bài viết:
    428
    Đã được thích:
    0
    hà àh, trận Miday gì đó nhật lùn chìm 4 chú HKMH đó bác. mẽo chìm có 1cái thui à !
  5. P20

    P20 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/11/2006
    Bài viết:
    5.619
    Đã được thích:
    203
    Cái đấy tớ cũng kô chắc vì đấy chỉ là qua xem bộ film "Phục thù Trân Châu Cảng" thôi!
  6. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0

    Hàng không mẫu hạm Pháp Charles de Gaulle​
    [​IMG]
    Hai hàng không mẫu hạm, USS John C. Stennis (phải) và HMS Illustrious (trái), để minh họa sự khác nhau của cỡ đại hàng không mẫu hạm và cỡ hàng không mẫu hạm V/STOL nhẹ​
    Một hàng không mẫu hạm (cũng được gọi tàu sân bay) là một tàu chiến được thiết kế để triển khai và thu hồi lại máy bay?"trên thực tế hoạt động như một căn cứ không quân trên biển. Vì vậy các hàng không mẫu hạm cho phép lực lượng hải quân triển khai không lực ở các khoảng cách lớn không phụ thuộc vào các căn cứ ở gần đó để làm căn cứ trên mặt đất cho máy bay. Các lực lượng hải quân hiện đại với những con tàu như vậy coi chúng là trung tâm của hạm đội, vai trò trước đó do tàu chiến đảm nhận. Sự thay đổi này, một phần vì sự phát triển của chiến tranh trên không thành một phần quan trọng trong chiến tranh, đã diễn ra trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Các tàu sân bay không có hộ tống được coi là dễ bị các tàu khác, máy bay, tàu ngầm hay tên lửa tấn công và vì thế phải di chuyển trong một nhóm tàu chiến hàng không mẫu hạm. Trong lực lượng hải quân của nhiều nước, đặc biệt là Hải quân Hoa Kỳ, một hàng không mẫu hạm được coi là tàu chính.
    Hình dạng boong đường băng
    Các hàng không mẫu hạm hiện đại có boong phẳng, boong đường băng được dùng làm nơi cất cánh và hạ cánh cho các máy bay. Máy bay cất cánh lên phía trước, ngược chiều gió, và hạ cánh từ phía sau. Các hàng không mẫu hạm có thể chạy với tốc độ, ví dụ lên tới 35 knots (65 km/h), ngược chiều gió khi máy bay cất cánh để tăng tốc độ gió biểu kiến, nhờ vậy giảm được tốc độ cần thiết của máy bay so với con tàu. Trên một số chiếc, một hệ thống phóng máy bay hoạt động bằng hơi nước được sử dụng nhằm đẩy máy bay về phía trước trợ giúp thêm vào sức mạnh của động cơ máy bay, cho phép máy bay cất cánh ở một khoảng cách ngắn hơn bình thường, thậm chí với hiệu ứng của gió ngược chiều từ phía trước tới. Trên các hàng không mẫu hạm khác, máy bay không cần trợ giúp để cất cánh ?" yêu cầu trợ giúp cất cánh liên quan tới thiết kế máy bay và đặc điểm của nó. Ngược lại, khi hạ cánh trên một hàng không mẫu hạm, một số máy bay chỉ dựa vào một móc đuôi để ngoắc vào các dây hãm chạy ngang boong tàu để giữ chúng dừng lại trong một khoảng cách ngắn hơn bình thường. Một số loại khác dùng khả năng lơ lửng của nó để hạ thẳng đứng và vì thế cần phải giảm tốc độ khi hạ cánh. Từ cuối Chiến tranh thế giới thứ hai việc chỉnh vùng hạ cánh quay tới một góc so với trục chính của con tàu đã trở nên phổ thông. Chức năng đầu tiên của kiểu boong chéo là cho phép máy bay nào không móc được dây hãm, như là một "chú ngựa bất kham", tiếp tục cất cánh mà không gặp phải nguy cơ lao vào các máy bay đang đỗ ở những phần phía trước boong. Boong chéo cũng cho phép phóng máy bay cùng lúc khi một máy bay khác hạ cánh.
    Các vùng boong bên của tàu chiến (đài chỉ huy, tháp kiểm soát bay, hệ thống thoát khí của động cơ và các thứ khác) được tập trung ở một vùng khá nhỏ được gọi là một "đảo". Rất hiếm hàng không mẫu hạm được thiết kế hay được chế tạo mà không có một đảo và kiểu thiết kế như vậy chưa từng được thấy trên bất kỳ một hàng không mẫu hạm cỡ hạm đội nào.
    Một hình dạng gần đây hơn, được Hải quân Hoàng gia Anh sử dụng, có một bờ dốc lên ở đầu cuối phía trước đường băng. Nó được phát triển đễ có thể phóng được các máy bay VTOL (hay STOVL) (máy bay có thể cất cánh và hạ cánh mà chỉ cần rất ít hay không cần di chuyển về phía trước) như kiểu Sea Harrier. Mặc dù máy bay có thể bay lên thẳng đứng ở trên bong, nhưng việc sử dụng bờ dốc sẽ tiết kiệm nhiên liệu. Vì sẽ không cần tới các máy phóng, dây hãm nữa, các hàng không mẫu hạm kiểu này sẽ giảm được trọng lượng, tính phức tạp, và khoảng không cần thiết để bố trí thiết bị.

    Tháp chỉ huy của tàu USS Enterprise​
  7. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Các kiểu thông thường
    Trong thế kỷ vừa qua, đã có nhiều kiểu hàng không mẫu hạm được thiết kế, một số chúng hiện đã lỗi thời. Nói chung, chúng có thể được phân loại như sau:
    Các thiết kế ban đầu và những phát triển giữa hai cuộc chiến
    Những chiếc Tàu tiếp liệu máy bay trên biển, như HMS Engadine, đã bị loại không được sử dụng trên chiến trường sau thập kỷ 1920 khi những hàng không mẫu hạm có thể chứa các máy bay quy ước được biên chế vào các hạm đội và ưu thế của các loại máy bay trên mặt đất so với các loại máy bay trên biển trong các chiến dịch hải quân đã rõ ràng.
    Những hàng không mẫu hạm tiêu chuẩn, như HMS Ark Royal, đặc trưng 20,000 đến 65,000 tấn. Thường được gọi là "những hàng không mẫu hạm hạm đội"
    Hàng không mẫu hạm chở máy bay; tàu sân bay có thể mang mọi loại máy bay. Gồm cả [[USS Akron]] và Macon
    Những phát triển trong Chiến tranh thế giới thứ hai
    Các hàng không mẫu hạm hộ tống, như USS Barnes, chỉ được chế tạo trong Chiến tranh thế giới thứ hai, và được Hải quân hoàng gia và Hải quân Hoa Kỳ sử dụng.
    Các hàng không mẫu hạm hạng nhẹ, như USS Independence, được thiết kế để chỉ chở các máy bay chiến đấu.
    Các tàu chở máy bay cải tiến từ tàu hàng, như SS Michael E, tàu chở hàng, có thể phóng máy bay chiến đấu nhưng không thu hồi được. Những tàu này được dùng lúc khẩn cấp trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
    Các tàu chở máy bay cải tiến từ tàu buôn (MACs), như MV Empire MacAlpine, một biện pháp khi khẩn cấp khác, lắp thêm đường băng vào các tàu buôn chở hành.
    Các Tàu chiến chở máy bay được sáng tạo bởi Hải quân đế quốc Nhật để bù lại một phần tổn thất về tàu sân bay sau Trận chiến Midway. Hai chiếc trong số chúng được làm từ Tàu chiến lớp Ise vào cuối năm 1943. Những tháp nhỏ ở đuôi tàu bị dời đi và được thay thế bằng một nhà chứa máy bay, boong và máy phóng. Tàu tuần dương hạng nặng Mogami cũng được cải tạo kiểu như vậy.
    Các Tàu ngầm chở máy bay, như kiểu Surcouf của Pháp, hay tàu ngầm lớp I-400 của Nhật có thể mang 3 máy bay Aichi M6A Seiran. Chiếc đầu tiên trong số chúng được chế tạo vào thập kỷ 1920.
    Một số tuần dương hạm và tàu chỉ huy thời giữa hai cuộc chiến thường có máy phóng dành cho máy bay trên biển để trinh sát và phát hiện điểm rơi của các loại súng. Nó được phóng bằng một máy phóng và thu hồi bằng cần cẩu từ trên mặt nước sau khi hạ cánh. Đa số chúng đã bị bỏ đi trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng chúng cũng có một số thành công trong thời gian đầu cuộc chiến như chiếc Walrus của HMS Warspite trong các chiến dịch ở vịnh Fio năm 1940.
    Những phát triển thời hậu chiến
    Hàng không mẫu hạm tấn công đổ bộ, như USS Tarawa, thường được dùng cho mục đích chở quân đổ bộ và điều khiển một đạo quân trực thăng lớn cho mục đích đó. Chúng cũng được gọi là "tàu chở lính đặc công" hay "tàu chở máy bay trực thăng".
    Các Tàu chống tàu ngầm, như HMS Ocean, cũng được gọ là "tàu chở máy bay trực thăng."
    Các Siêu hàng không mẫu hạm, như USS Nimitz, đặc trưng 75,000 tấn hay lớn hơn. Được trang bị động cơ bằng các lò phản ứng hạt nhân và là trung tâm của một hạm đội được thiết kế hoạt động xa nhà.
    Nhiều tàu chiến hiện đại có khả năng đỗ máy bay trực thăng và các tàu chở máy bay trực thăng là một loại tàu sân bay tấn công đổ bộ kiểu mới.
    Hồng Viên Anh sưu tầm từ Wikipedia
  8. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    Ely phóng lên từ USS Birmingham ngày 14 tháng 11 năm 1910​
    Lịch sử và cuộc chạy đua
    Nguồn gốc
    Khi máy bay nặng hơn không khí được phát triển vào đầu thế kỷ 20, nhiều lực lượng hải quân bắt đầu chú ý tới tiềm năng sử dụng chúng để trinh sát những tàu chiến lớn. Nhiều chuyến bay thử nghiệm đã được thiến hành để kiểm tra ý tưởng này. Eugene Ely là phi công đầu tiên được phóng từ một tàu đứng yên vào tháng 10 năm 1910. Ông đã cất cánh từ một kết cấu được gắn chặt vào phần boong mũi tàu chiếc tuần dương hạm bọc sắt của Mỹ, USS Birmingham tại Hampton Roads, Virginia và hạ cánh ở gần đó trên Mũi đất Willoughby sau vài phút bay trên không. Vào ngày 18 tháng 1 1911 ông trở thành phi công đầu tiên hạ cánh trên một tàu đứng yên. Ông cất cánh từ đường đua Tanforan và hạ cánh trên một kết cấu tạm khác trên đuôi chiếc USS Pennsylvania bỏ neo tại San Francisco bến cảng ?" hệ thống phanh ngẫu tác gồm các bao cát và những sợi dây dẫn thẳng tới mũi hãm và những sợi dây được miêu tả bên trên. Máy bay của ông sau đó quay tròn và ông không thể cất cánh lại. Sĩ quan chỉ huy Charles Samson, RN, trở thành người đầu tiên cất cánh từ một tàu chiến đang chạy vào ngày 2 tháng 5 1912. Ông cất cánh trông một Short S27 từ tàu chiến HMS Hibernia khi nó đang chạy với tốc độ 10.5 knots (19 km/h) trong cuộc Thao diễn hạm đội hoàng gia ở Weymouth.
    HMS Ark Royal là chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên. Ban đầu nó là một chiếc tàu buôn, nhưng được hoán cải lại để trở thành một tàu sân bay chở máy bay trên biển. Được đưa vào sử dụng năm 1914, nó phục vụ trong chiến dịch Dardanelles đến hết Chiến tranh thế giới thứ nhất.
    Cuộc tấn công đầu tiên từ một tàu sân bay là tấn công một mục tiêu trên đất liền diễn ra ngày 19 tháng 7 1918. Bảy chiếc Sopwith Camel được phóng từ HMS Furious đã tấn công căn cứ Zeppelin của Đức tại Tondern, với hai quả bom 50 lb mỗi quả. Nhiều khí cầu và bóng khí bị phá huỷ, nhưng vì tàu sân bay không có cách nào để thu hồi máy bay một cách an toàn, hai phi công đã bỏ máy bay trên biển cạnh tàu trong khi những người khác bay tới nước Đan Mạch trung lập.

    Boong phẳng đầu tiên, HMS Argus năm 1918​
    [​IMG]
    Hàng không mẫu hạm đầu tiên thực sự được phát triển, Hosho của Hải quân Hoàng đế Nhật năm 1922​
    Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922 đã đặt ra những giới hạn chặt chẽ về sức mạnh hải quân sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, các giới hạn không chỉ về tổng kích thước của các tàu sân bay, mà còn về giới hạn tối đa là 27,000 tấn cho mỗi chiếc. Mặc dù đã có một số sửa đổi về tổng kích thước (chỉ tính những chiếc trong hạm đội, không tính những chiếc thử nghiệm), không được vượt quá tổng kích thước. Tuy nhiên, trong khi các cường quốc hải quân lớn vượt quá kích thước đối với những chiếc tàu chiến, thì họ không vượt kích thước đối với các tàu sân bay. Vì thế, nhiều tàu chiến và tuần dương hạm đang được chế tạo (hay đang được sử dụng) đã được chuyển đổi thành tàu sân bay. Chiếc tàu đầu tiên có boong phẳng trên toàn bộ chiều dài là chiếc HMS Argus việc hoán cải nó hoàn thành vào tháng 9 1918, với việc Hải quân Hoa Kỳ không following suit until 1920, khi việc hoán cải chiếc USS Langley đã hoàn thành. Hạm đội tàu sân bay đầu tiên của Mỹ chỉ được đưa vào phục vụ năm 1928 (USS Lexington và Saratoga).
    Chiếc tàu sân bay thực sự đầu tiên được phát triển là chiếc HMS Hermes, mặc dầu chiếc đầu tiên được biên chế vào hạm đội là chiếc Hosho của Nhật Bản (được biên chế vào tháng 12 năm 1922, tiếp đó là chiếc HMS Hermes vào tháng 7 năm 1923). Thiết kế của chiếc Hermes tiếp nối và có ảnh hưởng từ chiếc Hosho, và việc chế tạo nó trên thực tế được bắt đầu sớm hơn, nhưng nhiều cuộc kiểm tra, thực nghiệm và ngân sách đã làm chậm thời gian hoàn thành nó.
    Tới cuối thập kỷ 1930, các tàu sân bay trên thế giới thường mang ba kiểu máy bay: máy bay phóng ngư lôi, cũng được sử dụng cho những vụ ném bom quy ước trinh sát; máy bay ném bom bổ nhào, cũng được sử dụng vào trinh sát (trong Hải quân Hoa Kỳ, kiểu máy bay này được gọi là "máy bay ném bom trinh sát"); và máy bay chiến đấu để bảo vệ hạm đội và hộ tống các máy bay ném bom đi làm nhiệm vụ. Bởi vì khoảng không trên tàu sân bay rất hạn chế, tất cả các máy bay đó đều nhỏ, có một động cơ, và thường có cánh gấp lại để dễ xếp cất.
  9. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    Chiến tranh thế giới thứ hai
    Các tàu sân bay đóng một vai trò quan trọng trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Với bảy tàu hoạt động, Hải quân hoàng gia có một ưu thế về số lượng to lớn ở đầu cuộc chiến khi cả Đức và Italia đều không có tàu sân bay. Tuy nhiên, điểm yếu dễ bị tấn công cả các tàu sân bay trước các tàu chiến truyền thống đã nhanh chóng lộ ra khi tàu HMS Glorious bị tuần dương hạm Đức đánh đắm trong chiến dịch Na Uy năm 1940. Tới chiến tranh thế giới thứ hai, các tàu sân bay chở máy bay trên biển không con được coi là ngang sức với những tàu sân bay mang máy bay quy ước, bởi vì các máy bay quy ước có tầm bay xa hơn, nhanh hơn, với trọng lượng vũ khí đem theo lớn hơn và tính năng tốt hơn; tới cuối cuộc chiến, những chiếc máy bay trực thăng đầu tiên đã thay thế nhiều nhiệm vụ của những máy bay trên biển.
    Sự yếu kém rõ ràng này trước các tàu chiến đã thay đổi vào tháng 10 năm 1940 khi chiếc HMS Illustrious tung ra một cuộc tấn công tầm xa vào hạm đội Italia trong Trận Taranto. Chiến dịch này đã làm mất khả năng chiến đấu của ba trong sáu tàu chiến tại cảng và chỉ mất 2 chiếc trong số 21 chiếc máy bay tấn công Fairey Swordfish torpedo bombers. Các tàu sân bay cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc củng cố cho Malta, cả bằng cách vận chuyển máy bay và bảo vệ các đoàn tàu tiếp tế cho hòn đảo đang bị phong tỏa này. Việc sử dụng các tàu sân bay đã làm cho hải quân Italia và Đức vốn chỉ có căn cứ sân bay trên đất liền không thể thống trị trên vùng Địa trung hải.
    Ở Đại Tây Dương, các máy bay từ tàu HMS Ark Royal và HMS Victorious chịu trách nhiệm làm giảm bước tiến của Tàu chiến Bismarck Đức trong tháng 5 năm 1941. Sau đó, các tàu sân bay hộ tống đã chứng minh giá trị của mình trong vai trò bảo vệ các đoàn tàu trong Trận chiến Đại tây dương thứ hai và ở các vùng biển Bắc Cực.
    Nhiều trận chiến lớn ở Thái Bình Dương cũng có sự tham gia của các tàu sân bay. Nhật Bản bắt đầu cuộc chiến với mười chiếc, hạm đội lớn nhất và hiện đại nhất trên thế giới ở thời điểm đó. Ban đầu cuộc chiến có sáu chiếc tàu sân bay Mỹ mặc dù chỉ có ba trong số chúng hoạt động ở Thái bình dương.

    Các máy bay trên tàu sân bay Shokaku Nhật Bản chuẩn bị Tấn công Trân Châu Cảng.​
    Việc phát triển những ngư lôi lặn ở độ sâu thấp của Nhật Bản năm 1939, vụ tấn công năm 1940 của không quân Anh vào hạm đội Ý ở Taranto, vụ tấn công bất ngờ của Nhật Bản vào tấn công Trân Châu Cảng là một minh chứng rõ ràng của sức mạnh có được khi sở hữu một lực lượng lớn những tàu sân bay hiện đại.
    Đống thời, người Nhật bắt đầu tiến ra khắp Đông Nam Á và vụ đánh chìm tàu Prince of Wales và Repulse của các máy bay có căn cứ trên mặt đất của Nhật Bản khiến cho nảy sinh nhu cầu về những chiếc tàu bảo vệ hạm đội khỏi những cuộc tấn công không quân. Tháng 4 năm 1942, Lực lượng tàu sân bay tấn công nhanh của Nhật Bản chạy vào Ấn Độ Dương và đánh chìm các tàu, gồm cả chiếc tàu sân bay đang được sửa chữa và không được bảo vệ HMS Hermes. Các hạm đội nhỏ hơn của Đồng Minh không được bảo vệ đúng mức đã bị buộc phải rút lui hay bị phá huỷ. Trong Trận chiến biển Coral, các hạm đội Mỹ và hạm đội tàu buôn hoán cải của Nhật Bản đã chiến đấu trận đầu tiên mà không tàu bên nào nhìn thấy nhau. Trong Trận Midway bốn tàu sâu bay Nhật bị đánh chìm trong một cuộc tấn công bất ngờ bởi những chiếc máy bay từ ba tàu sân bay Mỹ lúc ấy đang được cho là ở Thái Bình Dương.
    Sau đó người Mỹ có thể chế tạo được nhiều loại máy bay có thể được chở trên nhiều loại hạm đội, nhẹ và (mới được đưa vào sử dụng) hộ tống những chiếc tàu sân bay. Những chiếc tàu sân bay đó đóng một vai trò quan trọng trong chiến thắng ở chiến tranh Thái Bình Dương. Sự lu mờ của tàu chiến như là một thành phần hàng đầu trong hạm đội đã được minh chứng rõ ràng với việc một lượng lớn tàu chiến từng được chế tạo bị đánh đắm, Tàu chiến Yamato Nhật Bản, bởi máy bay từ tàu sân bay năm 1945. Nhật cũng chế tạo tàu sân bay lớn nhất của cuộc chiến, tàu sân bay Shinano, giống như Yamato, nó được đặt tên theo một tỉnh ở Nhật.
  10. Hong_Vien_Anh

    Hong_Vien_Anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/12/2006
    Bài viết:
    1.014
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    Tàu sân bay Taiho mũi chống bão.​
    Những cải tiến thời chiến
    Kinh nghiệm chiến đấu đã cho thấy phát minh "mũi tàu chống bão" của Anh là các sử dụng mũi tàu hữu hiệu nhất, hơn cả súng máy hay một tầng thứ nhì. Loại mũi tàu này đã được sử dụng rộng rãi cho các hàng không mẫu hạm Anh và Mỹ. Hàng không mẫu hạm Nhật Taiho là tàu đầu tiên của Nhật sử dụng phát minh này.
    Bắt đầu muộn trong cuộc chiến với lớp tàu sân bay Midway, các tàu sân bay Mỹ đã trở nên to lớn tới mức thực tế việc áp dụng khái niệm thiết kế boong chứa máy bay (hangar deck) trở thành boong mạnh (strenth deck) không còn thích hợp nữa, và mọi tàu sân bay Hoa Kỳ sau này đều có boong cất cánh là boong mạnh, khiến đảo trở thành siêu cấu trúc duy nhất.
    Những tàu sân bay loại nhỏ
    Sự thiệt hại ba tàu sân bay chính liên tiếp ở Thái bình dương buộc hải quân Hoa kỳ phải phát triển tàu sân bay hạng nhẹ (CVL) từ những thân tàu tuần dương hạm hạng nhẹ vốn đã được chế tạo. Chúng được dùng để hỗ trợ thêm các phi đội máy bay chiến đấu cho lực lượng tấn công, và đã chỉ được sử dụng trong hải quân Hoa Kỳ trong chiến tranh thế giới thứ hai. Hải quân hoàng gia cũng đưa ra một thiết kế tương tự cho họ và các nước thuộc Khối thịnh vượng chung sau chiến tranh thế giới thứ hai. Một trong những chiếc tàu sân bay đó, chiếc INS Viraat của Ấn Độ, ban đầu là HMS Hermes, hiện vẫn đang được sử dụng.
    Những tàu sân bay hộ tống và Tàu sân bay kiểu tàu buôn
    Để bảo vệ các đoàn tàu trên biển Đại Tây Dương, người Anh đã phát triển một kiểu tàu được gọi là tàu sân bay kiểu tàu buôn, chúng vốn là những tàu buôn được trang bị một boong phẳng cho khoảng sáu chiếc máy bay. Chúng được vận hành bởi những đoàn thủy thủ dân sự, treo cờ thương mại, và mang hàng hóa thông thường tuy nhiên vẫn có hỗ trợ bảo vệ bằng không quân. Bởi vì những tàu đó không có thang máy hay chỗ đỗ cho máy bay, việc bảo dưỡng máy bay bị hạn chế và trong suốt cuộc hành trình, máy bay phải đỗ trên boong.
    Chúng được dùng tạm thời cho tới khi tàu sân bay hộ tống chuyên dụng được chế tạo ở Hoa Kỳ (Xếp hạng ở Hoa Kỳ CVE). Khoảng một phần ba kích thước của một hạm đội tàu sân bay, nó mang khoảng hai tá máy bay với nhiệm vụ chống tàu ngầm. Hơn một trăm chiếc đã được chế tạo hay được hoán cải từ các tàu buôn.
    Các tàu sân bay hộ tống sản xuất ở Mỹ thường từ hai kiểu thiết kế thân căn bản: một từ tàu buôn, và một từ tàu chở dầu hơi lớn và tốc độ hơi cao. Bên cạnh việc bảo vệ hộ tống, chúng được sử dụng để vận chuyển máy bay qua biển. Tuy nhiên, một số cũng tham gia vào các trận đánh giải phóng Philippines, nổi tiếng là trận Samar trong đó sáu chiếc tàu sân bay hộ tống và các tàu khu trục đã nhanh chóng tiếp chiến năm tàu chiến Nhật Bản và buộc chúng phải rút lui.
    Hồng Viên Anh sưu tầm từ Wikipedia

Chia sẻ trang này