1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hạnh phúc - mộng và thực - dành tặng Coltpard và những người bạn

Chủ đề trong 'Tâm sự' bởi anh_kurt, 06/12/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. anh_kurt

    anh_kurt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/09/2004
    Bài viết:
    120
    Đã được thích:
    0
    TU HÀNH CŨNG NHƯ LÀM RUỘNG
    Nói đến cày ruộng, ta nhớ đến Kinh Samyutta tức là Tương Ưng Bộ, chương 1, kinh thứ 172. Kinh tương đương trong Hán tạng là Kinh Tạp A Hàm. Kinh thứ 98 Tương Ưng Bộ ghi lại rằng: Một hôm Bụt đi khất thực với các thầy ở miền quê nước Kosala (Câu Tát La, tức là nước của Vua Ba Tư Nặc, nơi có vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc ở thủ đô Xá Vệ). Hôm đó là ngày đầu mùa Xuân, các nhà nông đưa trâu ra cày ruộng. Có một vị Bà là môn tên Bhàradvàja (Bà La Đậu Bà Giá), là một chủ điền rất lớn. Ông đem theo tới 500 lưỡi cày, 500 con trâu và rất nhiều lực điền để cày ruộng. Đến giờ nghỉ trưa, họ mang cơm ra ăn. Giáo đoàn của Bụt đi ngang qua và các thầy dừng lại để khất thực. Ông Bà la môn đứng dậy chỉ trích: ?oChúng tôi làm ruộng, chúng tôi có đất, có hạt giống, có cày, có bò, chúng tôi cày ruộng, bừa ruộng, gieo hạt giống, cấy mạ, vun bón, chăm sóc, thu hoạch rồi chúng tôi mới ăn. Các ông không có đất, không có cày, các ông không tưới, không làm gì hết mà các ông cũng đòi ăn là sao??. Bụt mỉm cười nói: ?oThưa ông, có chứ, chúng tôi có đất, có hạt giống. Chúng tôi có cày bừa, có trâu bò, chúng tôi có gieo hạt, chăm sóc và chúng tôi ăn.? Ông Bà la môn nói: ?oThầy nói vậy làm sao tôi tin được. Đất của Thầy đâu, hạt giống của Thầy đâu, bò của Thầy đâu, cày của Thầy đâu mà Thầy dám nói rằng Thầy là người cày ruộng??. Bụt liền đọc một bài kệ như sau:
    Đức tin là hạt giống
    Công phu mưa phải thời
    Chánh niệm là lưỡi cày
    Tinh tấn là sức kéo
    Cán cày là trí tuệ
    Dây cột là ý căn
    Rễ ách nạn nhổ lên
    Quả Niết bàn thu hoạch.

    Như vậy có nghĩa là tâm ta là đất ruộng, và những hạt giống mà ta gieo trên đó là hạt giống của đức tin, đức tin nơi Pháp môn của Bụt, nơi Giáo Pháp và nơi Tăng đoàn. Hạt giống đó cùng với đất tâm là vốn liếng của người làm ruộng tâm.
    Kinh này cho ta thấy rằng tu hành cũng giống như làm ruộng. Khi tu tập, ta biết tâm mình là ruộng đất, chánh niệm là lưỡi cày để phá đất. Chúng ta phải vun bón, phải chăm sóc thì mới có sự thu hoạch. Thu hoạch trí tuệ tức là có sự hiểu biết, thu hoạch tình thương tức là có lòng từ bi. Có trí tuệ, có tình thương thì có vững chãi và thảnh thơi, hai đặc tính của Niết Bàn. Vì vậy mà Bụt nói ?oQuả Niết Bàn thu hoạch?.
    Theo truyền thống của Bụt Đại thừa, ta thường gọi tâm là đất. Tâm của chúng ta có nhiều tác dụng, nhưng thường chúng ta chỉ nói tới hai tác dụng chính của tâm. Tác dụng thứ nhất gọi là Tàng và tác dụng thứ hai gọi là Ý. Tâm có thể được tượng trưng bằng một vòng tròn với một dây cung chia vòng đó làm hai phần. Phần dưới tượng trưng cho tàng thức, phần trên tượng trưng cho ý thức.
    (không post được hình ảnh)
    Tàng ở đây là đất và đồng thời là những hạt giống. Những hạt giống dưới (tàng) có thể mọc lên thành hoa trái phía trên (ý). Nếu người làm ruộng phải làm việc với đất thì người tu phải làm việc với tàng thức. Nếu chỉ làm việc với ý thức thôi thì ta sẽ không thành công, vì ý thức chỉ là người làm ruộng, còn tang thức mới chính là đất. Tất cả các hạt giống đều nằm trong tàng thức và chính tàng thức mới cống hiến được những hoa trái của sự hiểu biết, của sự yêu thương và của sự giác ngộ. Cho nên nếu ta không tu tập thì đất tâm sẽ đưa lên những quả khổ đau, giận hờn, vô mình và kỳ thị. Vì vậy, ý niệm đất là rất quan trọng vì đất luôn luôn cất giữ những hạt giống. Có đất là có hạt giống.
    Nếu đã tụng Kinh Địa Tang, chắc quý vị còn nhớ một câu trong bài tựa: ?oĐịa ngôn kiên hậu quảng hàm tàng?. Địa có nghĩa là vững chãi, là sâu dày, và chứa đựng rất nhiều; Kiên là chắc chắn; Hậu là dầy là có chiều sâu, là chắc chắn. Tính chất thứ ba của đất là quảng hàm tàng. Quảng là rộng rãi, tàng là chứa đựng, quảng hàm tàng là có khả năng bao gồm và chứa đựng rất rộng rãi. Vì vậy chữ tàng thức rất có ý nghĩa: tàng thức là một cái thức có chứa đủ tất cả các hạt giống, nó có tính cách vững chãi và sâu dầy. Hạt giống ở tàng thức có đủ loại: hạt giống xấu, hạt giống tốt, hạt giống của ma và hạt giống của Bụt. Hạt giống của đau khổ có mặt mà hạt giống của hạnh phúc cũng có mặt. Vì vậy tàng thức có khi được gọi là nhất thiết chủng thức, tức là cái tâm thức có đầy đủ tất cả các loại hạt giống.
    Ở Làng Mai, đứng trên đồi nhìn xuống, ta thấy những ruộng nho, những đồi mận rất đẹp. Ta nên biết rằng những vùng đất đai đó đã được cày bừa rất kỹ lưỡng. Tại xóm Hạ, đất ở các vườn trồng rau trong nhà mặt trời đã được chuẩn bị thật kỹ cho nên ta mới có các loại rau mọc lên rất mạnh và tốt tươi. Sư cô Bảo Nghiêm và sư cô Chân Vị là hai người đã để ra rất nhiều thì giờ và công phu để chăm sóc những vườn rau ở Xóm Hạ. Các sư cô biết rất rõ nếu không xới, không nhổ cỏ, không làm cho đất mềm, đất nhuyễn thì không thể nào trồng rau được. Tâm của ta cũng vậy, nếu tâm của ta không được điều phục, không được uốn nắn, không được bảo hộ thì tâm của ta sẽ gây ra đau khổ và không thể nào tạo được hạnh phúc cho mình và cho người.
  2. anh_kurt

    anh_kurt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/09/2004
    Bài viết:
    120
    Đã được thích:
    0
    BA TÂM SỞ MỚI TRONG ĐẠO BỤT NAM TÔNG
    Trong khoá tu mùa Xuân vừa qua chúng ta đã học về 51 Tâm sở một cách khá kỹ lưỡng. Pháp tướng Duy Thức học và 51 Tâm sở đã trở thành quen thuộc với chúng ta. Nhưng khi đi vào lãnh vực của Nam tông, ta khám phá ra những tâm sở mới không có mặt trong 51 Tâm sở thường được nhắc đến. Hôm nay chúng ta sẽ kể tên ba tâm sở mà chúng ta chưa được học trong số những tâm sở thiện của Đạo Bụt Bắc truyền.
    Trước hết là Tâm sở nhu nhuyến, tiếng Phạn là Cittamudutà. Nhu nhuyến là mềm. Tâm nhu nhuyến dễ làm việc lắm, còn nếu tâm cứng ngắc thì rất khó làm việc. Đất cứng mà không cày thì không trồng trọt gì được. Hãy lấy một cành cây khô mà ta lượm ở Pháp Thân Tạng làm ví dụ. Khi ta uốn cành cây khô này thì nó gãy. Trong khi đó với một cành tre non hay một dây mây, ta có thể uốn nắn một cách dễ dàng. Sự khác nhau giữa cành cây khô và sợi dây mây là ở chỗ một bên có sự nhu nhuyến, một bên không có sự nhu nhuyến. Tâm ta cũng vậy, có khi nó cứng ngắc, cố chấp đủ thứ dù có người muốn giúp, cố nói cho ta nghe một điều gì đó nhưng tâm ta nó vẫn trơ trơ, vẫn không chuyển lay. Tâm đó gọi là tâm không nhu nhuyến.
    Một tâm sở khác là Tâm thích ứng (Cittakarmannata). Ngày xưa dịch là Tâm thích nghiệp vì trong đó có chữ karma, nhưng dịch là tâm thích ứng thì dễ hiều hơn. Tâm thích ứng là tâm uyển chuyển, tâm có thể chấp nhận được những hoàn cảnh mà ta không chờ đợi trước. Ví dụ ta có một ý niệm về Làng Mai, nghĩ rằng Làng Mai là thế này hoặc thế kia, nhưng khi về tới Làng thì thấy Làng Mai không giống như những điều mà ta đã vẽ ra, đã suy nghĩ đến. Vì không bỏ được cái ý niệm trước của ta về Làng Mai nên ta không thích ứng được. Kết quả là ta cảm thấy thời gian ở Làng Mai không hạnh phúc vì những điều ta mong đợi đã không xảy ra. Tâm đó gọi là Tâm không thích ứng. Trong khi đó, tâm thích ứng là tâm dễ hội nhập với hoàn cảnh trong hiện tại. Hội nhập ở đây không có nghĩa là ta phải bỏ cái của ta và hoàn toàn đi theo cái của người khác. Hội nhập ở đây là ta hoà chung với hoàn chảnh và tìm cách để đem những điểm tích cực của mình ra cống hiến và phối hợp với cái tích vực của địa phương, khiến cho hai cái tốt được phối hợp với nhau. Mình không đánh mất cái tốt của mình mà địa phương cũng không đánh mất cái đẹp của địa phương. Đó gọi là thích ứng. Ví dụ các sư chị ở Việt Nam có cái đẹp, cái hay của truyền thống. Sang Làng Mai sư chị thấy các sư em thỉnh thoảng thiếu những cái hay đó của truyền thống, nhưng đồng thời các sư chị lại thấy các sư em có những cái hay của Tây phương, của những cái ?okhông truyền thống?. Nếu các sư chị thích ứng thì các sư chị chấp nhận hoàn cảnh mới rồi từ từ trao truyền những cái hay, cái đẹp của truyền thống cho các sư em, đồng thời học những cái hay, cái đẹp mà các sư em có, tại vì mỗi nền văn hoá đều có những nét đặc thù khác nhau. Nếu các sư chị bó tay và nghĩ là mình phải về lại Việt Nam, còn nếu ở lại thì mình sẽ không làm được gì hết, đó là vì các sư chị không có tâm thích ứng. (Phần này đọc hơi buồn cười )
    Một tâm sở khác gội là Tâm hữu năng (Cittapãgunnatà), có khi được dịch là Tâm tinh luyện hay Tâm xảo diệu. Tâm xảo diệu là tâm có khả năng làm được những việc mà những tâm khác không thể làm được. Những người có tâm đó thì rất khéo léo, khéo léo như hai bàn tay của một cô Y tá khi chích thuốc hay băng bó. Phải luyện tập lắm mới có được hai bàn tay của cô y tá. Ai muốn biết hai bàn tay của cô y tá như thế nào thì hỏi sư chị Bảo Nghiêm hay sư chị Minh Tánh. (Mấy cô Y tá này chắc không phải người Việt Nam mình ). Tâm của mình cũng vậy, khi tâm của mình xảo diệu thì mình có thể đối cơ, đối cảnh và độ đời một cách rất dễ dàng. Mình có thể sống với các sư anh, sư em, sư chị một cách rất hạnh phúc, còn nều không có tâm xảo diệu, nếu cứng ngắc và không biết thích ứng thì mình chịu chết thôi.
    Tất cả những tâm sở và tâm hành này đều có hạt giống ở trong tàng thức. Nếu thực tập chuyện cày ruộng, thực tập chuyện tu học hàng ngày thì hạt giống của tâm nhu nhuyễn, của tâm thích ứng và của tâm xảo diệu sẽ được tưới tẩm và ta sẽ trở thành một người sống hạnh phúc trong bất cứ hoàn cảnh nào. Vì vậy, mỗi khi giận, buồn hoặc thất vọng ê chề, ta thối thất muốn bỏ đi, muốn trốn tránh xã hội loài người thì ta phải biết rằng cái tâm của ta đang còn là một miếng đất hoang, chưa được cày bừa, chưa được tu tập. Bụt dạy rằng, tâm không được tu tập sẽ đem lại rất nhiều khổ đau cho mình và cho người, tâm được tu tập sẽ đem lại hạnh phúc cho mình và cho người. Vì vậy, đối với người tu hành, công việc hàng ngày là cày cấy mảnh đất tâm của mình. Khi ngồi thiền hành mình cũng cày ruộng tâm của mình. Khi nghe chuông, khi thở, khi ăn cơm, đều là những lúc ta cày ruộng tâm của mình cả. Cũng vậy, khi lượm mận, làm mứt, nấu cơm, đều là những lúc ta cày miếng đất tâm của ta. (Nhàm chán nhỉ?) Đừng nghĩ rằng tu hành chỉ xảy ra trong khi mình ngồi thiền hay nghe thuyết Pháp mà thôi. Cái tâm của mình, phải luôn luôn được tu tập. Theo danh từ Hàn Việt, tu là làm cho đẹp, làm cho tốt, làm cho nó có thể sử dụng được, như trong danh từ tu bổ. Tiếng Phạn, Bhavana (tu) có nghĩa là cày bừa, trồng trọt. Tiếng Pháp là culture, tiếng Anh là cultivation. Ví dụ như tu Từ bi có thể dịch là The cultivation of Compassion and Loving Kindness. Ta phải cày bừa đất, phải gieo hạt giống, phải tưới tẩm, đó là tu tập. Bhavana là như vậy. Cố nhiên, khi muốn trồng thì ta phải có đất mà đất thì đã có rồi. Nhưng có thể đất của ta còn hoang cho nên ta phải dùng cày, dùng bừa, phải tưới tẩm, phải vun bón, phải trừ diệt cỏ. Tất cả những công việc đó đều thuộc vào phạm vi tu tập. Vì những phiền não hàng ngày quấy động và vì ta có hạt giống từ dưới chiều sâu của tàng thức, nên nếu không tu tập thì chúng sẽ lăng xăng, trỗi dậy và làm cho quang cảnh của ý thức tiêu điều. Ý thức là phòng khách của chúng ta, còn tàng thức là kho chứa. Khi kho chứa đầy khổ đau thì thỉnh thoảng khổ đau đẩy cửa vào ngồi chễm chệ trong phòng khách của chúng ta. Nếu không tu tập thì ta không có khả năng đuổi chúng đi, không có khả năng chuyển hoá chúng được. Ý thức là người làm vườn; người làm vườn phải biết điều phục khu vườn của mình, phải biết cày bừa, phải biết nhổ cỏ, phải biết chọn hạt giống, phải biết vun bón, phải biết tưới tẩm thì mới có những hoa trái của hạnh phúc, của thương yêu và của giác ngộ.
    (Trong Văn hệ Pali, Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) viết tắt là S.. Vì vậy khi thấy chữ S., ta biết đó là Tương Ưng Bộ; khi thấy chữ M., ta biết đó là Trung Bộ (Majjhima Nikaya); thấy chữ A., là Tăng Nhất (Anguttara Nikaya); và thấy chữ D. là Trường Bộ (Digha Nikaya).)
  3. anh_kurt

    anh_kurt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/09/2004
    Bài viết:
    120
    Đã được thích:
    0
    TÊN VÀ NGUỒN GỐC KINH TAM DI ĐỀ
    1.1 NGUỒN GỐC TÊN KINH
    Kinh Tam Di Đề hiện giờ ta có ba bản, một bản tiếng Pali và hai bản chữ Hán (Tạp A Hàm và Biệt Dịch Tạp A Hàm). Kinh Tam Di Đề mà ta đang đọc được dịch từ Hán Tạng, đó là kinh số 1078 trong Tạp A Hàm.
    Tam Di Đề tiếng Phạn là Samiddhi. Samiddhi là tên của một thầy còn trẻ, khoảng 22,23 tuổi. Thầy Samiddhi được sinh ra trong một gia đình trâm anh thế phiệt, sống tại thủ đô Vương Xá (Ràjagaha).
    Ngày xưa, trước khi thành đạo, Bụt có hứa với vua Tần Bà Xa La (Bimbisara) là sau khi thành đạo thế nào Ngài cũng về để giúp vua. Lúc đó Bụt còn là một vị sa-môn đang đi tìm đạo và hai người đã gặp nhau trên một khu đồi ở gần Thành Vương Xá. Vua Tần Bà Xa La rất cảm phục Bụt và đã khẩn khoản mời Ngài về làm Quốc Sư, nhưng Bụt đã nói: ?oBần đạo xin cảm tạ tấm lòng chiếu cố của Đại Vương, nhưng quả thật là giờ đây bần đạo chỉ có một ước vọng mà thôi, đó là ước vọng tìm cho ra chánh đạo để cứu giúp muôn loài. Cuộc sống rất vô thường, cái khổ của sinh, lão, bệnh, tử luôn luôn rình rập ta, những ngọn lửa phiền não từ nội tâm như tham vọng, giận dữ, oán thù, si mê, ganh ghét và kiêu mạn đang nung nấu tâm hồn ta, và ta chỉ có thể đạt tới an lạc thật sự nếu ta tìm được con đường tu tập. Chỉ khi nào Đạo Lớn được tìm ra thì muôn loài mới có con đường giải thoát. Nếu Bệ Hạ có lòng yêu mến bần đạo, xin Bệ Hạ để cho bần đạo được theo đuổi con đường mà kẻ tu hành nầy đã hướng đến từ lâu. Bần đạo xin hứa là khi nào tìm ra được đạo, bần đạo sẽ trở về chia sẻ với Đại Vương?.
    Vì vậy, sau khi thành đạo, lập được tăng thân ở Vườn Nai, trở về thăm cây bồ đề, điều phục ba anh em ông Ca Diếp thờ Thần Lửa, và thu nhận gần một ngàn môn đồ của ba vị nầy làm đệ tử xuất gia, Bụt đã đưa cả giáo đoàn đó về thủ đô Vương Xá, cư trú tại Rừng Kè mới trồng ở ngoại ô, cách thủ đô hai dặm về phía Nam. Buổi sáng giáo đoàn được phép vào thành để khất thực. Các vị khất sĩ tổ chức thành từng chúng hai mươi lăn người, bước từng bước khoan thai và có ý thức, tay ôm bình bát, mắt nhìn thẳng về phía trước, dáng điệu rất uy nghi. (Lười thật, có đất thì cày bừa, tu tập rồi tự ăn, chứ ai lại đi khất thực như thế chứ???) Dân chúng trong thành rất ngạc nhiên khi thấy có một giáo đoàn khất sĩ mới nhưng rất trang nghiêm. Bụt cũng đã đi khất thực chung với các thầy. Chỉ trong vòng nửa tháng, phần lớn dân chúng thủ đô đã biết tới sự có mặt của giáo đoàn khất sĩ do Bụt lãnh đạo. Tiếng đồn tới tai vua và vua biết là Người xưa đã trở về. Bụt chưa kịp đi thăm vua thì một buổi chiều, vua cùng với hoàng hậu và thái tử đã ngồi xe tứ mã tìm về Rừng Kè để thăm Bụt. Tháp tùng Vua có nhiều nhân sĩ, trí thức và lãnh đạo cao cấp trong giới Bà La Môn, trong đó có thân phụ của Samiddhi. Lúc đó Samiddhi là một người trẻ, cũng được đi theo phái đoàn. Cố nhiên chàng không phải là một thanh niên tầm thường. Nếu không có tài, không có ưu thế trong xã hội thì đâu dễ gì chàng được tham dự vào phái đoàn để đi thăm Bụt.
  4. anh_kurt

    anh_kurt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/09/2004
    Bài viết:
    120
    Đã được thích:
    0
    Trở về, sớm hơn sự tính 20 ngày, tiều tuỵ và đau khổ!
    Vậy đấy, đôi khi mình biết rõ vì sao mình đau đớn, rằng nỗi đau nó đang ở đó đấy, thế mà mình vẫn muốn bị đau... Có những điều không thể lý giải được và những gì mình đang đọc, đang gõ lại đây, lúc này chẳng giúp gì được cho mình. Nhưng mình không muốn bỏ giữa chừng, mình phải kết thúc nó! Biết đâu ngày mai sẽ lại tươi sáng, "Đời còn dài, ai biết được ngày mai thế nào" - Cảm ơn vì câu nói này, bạn thân của tớ!
  5. anh_kurt

    anh_kurt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/09/2004
    Bài viết:
    120
    Đã được thích:
    0
    SƯ CHÚ SAMIDDHI VÀ MA VƯƠNG
    Ngay lần đầu được gặp Bụt và chứng kiến cuộc nói chuyện giữa Bụt và vua Tần Bà Xa La, Samiddhi đã có ý định muốn xuất gia, và người trai trẻ này là một trong những thanh niên đầu tiên của thành Vương Xá được chấp nhận vào giáo đoàn của Bụt.
    Sauk khi xuất gia, Samiddhi được về ở tại một vùng để tu học chung với một số các thầy khác và thầy sống rất an lạc. Sau vài ba năm tu học, trong một đêm thiền toạ, thầy Samiddhi quán chiếu thấy mình thật may mắn đã được chấp nhận vào trong giáo đoàn mầu nhiệm nầy và thầy cảm thấy rất hạnh phúc. Bỗng nhiên thầy nghe thấy một tiếng nổ kinh hoàng giống như trái đất vỡ tung, làm thầy rất hoảng sợ.
    Ngày hôm sau tìm tới Bụt thầy kể lại câu chuyện đã xảy ra: ?oBạch Đức Thế Tôn, con đang thiền toạ rất an lạc, đang ý thức được sự may mắn của con vì được xuất gia từ lúc còn trẻ tuổi, thì tự nhiên có một tiếng nổ giống như trái đất này đang vỡ tung. Con đã rất sợ nên đến với Đức Thế Tôn để hỏi Ngài là con phải đối trị với cái sợ ở trong con như thế nào?? Bụt nói: ?oNầy Samiddhi! Đó là ma phiền não trong tâm quấy nhiễu con. Con chỉ cần biết đó là ma phiền não thôi thì từ nhiên con sẽ bình an, hết sợ. Con đừng trốn ở một nơi khác, cứ ở ngay chỗ đó để tu học.?
    Vài ngày sau khi trở về trung tâm đó, cũng vào nửa đêm, trong khi thiền toạ, thầy Samiddhi lại nghe một tiếng nổ kinh hoàng giống như lần trước. Thầy mỉm cười, thở vào, thở ra và nói: ?oĐây là ma phiền não, ta nhận biết cái hạt giống sợ hãi ở trong ta rồi.? Và mầu nhiệm thay tất cả những sợ hãi đó đều biến mất và tiếng nổ kia không bao giờ còn được nghe thấy nữa. Từ đó trở đi thầy Samiddhi sống rất an lạc và tu học rất tinh chuyên trong giáo đoàn màu nhiệm này.
    Câu chuyện trên đây có nghĩa là trong thời gian tu học, có thể sự nghi ngờ và sợ hãi xảy ra trong tâm ta. Đôi khi sự nghi ngờ hoặc sợ hãi đó rất lớn, giống như một tiếng nổ kinh hoàng, giống như trái đất sắp nổ tung. Nhưng ta không nên lo lắng, tại vì tất cả những sợ hãi và nghi ngờ đó đã từ tâm ta phát sinh. Ta chỉ cần nhận diện sự có mặt của chúng thì chúng sẽ không làm gì được ta. Trong khi tu hành, nếu ta sinh ra tâm niệm chán nản, thì tâm niệm chán nản đó cũng là ma phiền não. Đó là một hạt giống trong tâm địa đã nảy mầm. Ta không cần chạy trốn, ta chỉ cần mỉm cười, thở vào, thở ra, và nói rằng: Hạt giống của chán nản ơi! Ngươi vừa xuất hiện, ta biết sự có mặt của ngươi, thì hạt giống đó không làm gì được ta.
    Một lần khác, thầy Samiddhi đã gặp và đàm luận với một vị ngoại đạo khá nổi tiếng, vị này là một nhà triết học. Lúc đó Đức Thế Tôn đã được vua Tần Bà Xa La (Bimbisara) cúng dường cho một khu rừng tre rất đẹp ở cạnh thành Vương Xá, gọi là Tu Viện Trúc Lâm. Trong rừng có rất nhiều con sóc hiền lành. Hôm ấy, thầy Samiddhi đang ngồi trong một cái thất ở rừng tre thì có một vị du sĩ ngoại đạo tên là Totali Budtha đến gặp thầy và hỏi về giáo lý đạo Bụt. Ông hỏi về thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp và về cảm thọ. Thầy Samiddhi đã giảng, đã giải thích cho vị tu sĩ đó. Kiến thức của thầy lúc bấy giờ chưa vững, cho nên khi biết chuyện, Bụt có hỏi lại Samiddhi. Samiddhi đã nói vài điều không đúng lắm với chánh pháp nên bị Bụt quở. Hôm đó Samiddhi hơi có nội kết, tự giận mình mới tu nên còn non yếu. Nhưng nội kết đó đã rất tốt cho quá trình tu tập của thầy.
    Đây là những điều quý vị nên biết trước khi đọc Kinh Tam Di Đề, nếu không mình sẽ không hiểu một vài chi tiết ở trong kinh. Câu chuyện thầy Samiddhi bị Bụt rầy được ghi lại trong Kinh Đại Nghiệp Phân Biệt, tức là Kinh 136 ở trong Trung Bộ Kinh.
  6. Coltpard

    Coltpard Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/03/2005
    Bài viết:
    988
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn anh-Kurt, bạn đang làm một việc rất có ý nghĩa.
    Cái gì cũng xuất phát từ tâm cả. Tất cả chỉ là trò chơi của bản ngã.
    Đức Phật là người hiểu biết cõi nhân sinh và quy luật của vũ trụ, là người đứng ở điểm trung dung giữa những sự đối kháng. Đã thoát khỏi thất tình lục dục. Tôi dám chắc đây không phải là một chi tiết để nói về Ngài:
    Samiddhi đã nói vài điều không đúng lắm với chánh pháp nên bị Bụt quở
    Tôi không dám buông lời phán xét gì. Vì mọi lời phán xét đều có giới hạn và dễ gây hiểu lầm. Tất cả chỉ là sự quan sát.
    Không còn Phật nữa, chỉ có cây bồ đề là ở lại.
    CC
  7. Coltpard

    Coltpard Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/03/2005
    Bài viết:
    988
    Đã được thích:
    0
    Khất thực là một trong những cách tu.
    1. Cho người đi khất thực
    2. Cho kẻ bố thí
    3. Cho người quan sát thấy cảnh khất thực và bố thí
    Vả lại, ngoài thời gian khất thực thì các vị còn phải tham thiền và thuyết pháp.
    Bây giờ, việc tu hành đã khác.
    Thế nên có câu, một trong những bất hạnh của ta là không sinh cùng thời với Phật.
    Chỉ cần quan sát chút thôi, sẽ thấy...
    CC
  8. anh_kurt

    anh_kurt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/09/2004
    Bài viết:
    120
    Đã được thích:
    0
    Tôi cũng cho rằng Bụt chắc chắn phải có cách khác để răn dạy chứ không phải là quở mắng, nhưng đó chỉ là những gì tôi trích nguyên văn, có lẽ cần hiểu theo cách của mình thì tốt hơn, bỏ qua bớt những rắc rối thì sẽ thấy dễ hiểu hơn chăng?
    Cảm ơn chị đã cho tôi biết về ý nghĩa của việc khất thực. Lâu rồi không gặp bạn tôi (người bạn đã xuất gia) vì cả hai đều bận bịu với công việc của mình. Muốn hỏi rất nhiều mà chưa kịp, tết này nhất định sẽ vào chùa để gặp cô ấy!
  9. Tuta_tatu

    Tuta_tatu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/01/2006
    Bài viết:
    5
    Đã được thích:
    0


    Được Tuta_tatu sửa chữa / chuyển vào 23:54 ngày 05/01/2006
  10. anh_kurt

    anh_kurt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/09/2004
    Bài viết:
    120
    Đã được thích:
    0
    1.2 TRƯỜNG HỢP BỤT NÓI KINH
    Đây là những điều tôi được nghe vào một thời mà Bụt đang cư trú ở Tu viện Trúc Lâm Ca Lan Đà, tại kinh thành Vương xá. Một sớm mai nọ có vị khất sĩ ra sông cởi y áo để trên bờ, rồi xuống nước tắm gội. Tắm xong vị ấy lên bờ đợi cho khô mình mẩy rồi mặc áo vào. Bấy giờ có một vị thiên nữ xuất hiện, hào quang từ thân hình phát ra sáng chói, soi rõ cả bờ sông. Thiên nữ nói với vị khất sĩ:
    - ?oThầy là một người mới xuất gia, tóc còn xanh, tuổi còn trẻ, giờ này đáng lý phải xông ướp hương thơm, trang điểm châu báu, đeo tràng hoa thơm mà hưởng thọ năm thứ vui thú ở đời. Trong khi đó thì thầy lại bỏ những người thương, quay lưng lại với cuộc đời thế tục, chịu đựng sự biệt ly, cạo bỏ râu tóc, khoát áo Cà Sa, tin tưởng vào con đường xuất gia đạo học. Tại sao lại bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lạc thú phi thời như thế??

    Đó là đoạn đầu của kinh theo bản văn Hán tạng. Trong bản văn tiếng Pali cũng nói giống như vậy và có ghi rõ tên vị khất sĩ là Tam Di Đề. Trong bản văn Hán tạng tuy không nêu rõ tên vị khất sĩ trẻ, nhưng ta biết chắc rằng vị khất sĩ đương sự mang tên Samiddhi.
    Chúng ta cũng có một bản dịch khác trong Hán tạng là Biệt Dịch Tạp A Hàm Kinh. Trong bản kinh này có ghi là khi thầy Samiddhi cởi áo đi xuống nước tắm thì trời còn mờ tối, chưa sáng hẳn. Khi bước lên thì thầy để lộ cái thân hình của một người con trai trẻ tuổi, và thấy đứng như vậy đợi cho khô ráo chứ không mặc vào một cái áo để che thân như đã được mô tả trong Tạp A Hàm Kinh số 1078 hay là trong kinh văn Pali. Biệt Dịch Tạp A Hàm nói ?olộ hình xuất thuỷ?, tức là đi ra khỏi nước để lộ thân hình và đợi cho khô thôi, không nói có mặc áo vào. Tôi nghĩ rằng bản kinh nói ?olộ hình xuất thuỷ? có tính cách gần với kinh nguyên thuỷ hơn. Sau này có lẽ người ta thấy cái hình ảnh đó không được thuần phong mỹ tục cho lắm, nên bản Tạp A Hàm cũng như bản Pali đều cho thầy mặc vô một cái áo để đứng đợi cho khô mình mẩy.
    Ở gần núi Linh thứu có nhiều suối nước nóng, các thầy ưa tới đó tắm. Có nhiều thầy trẻ, tắm hơi nhiều nên bị Bụt quở. Vì vậy sau đó đã phải qui định lại là nên tắm bao nhiêu thì đủ, vì tắm ở suối nước nóng là một sự thích thú của rất nhiều thầy (hehe buồn cười nhỉ). Trong khu vực những suối nước nóng có một tu viện. Nói là tu viện nhưng kỳ thực không có những toà nhà lớn mà chỉ có những thảo am, những tịnh xá nho nhỏ cất lên rải rác đó đây cho các thầy lớn tuổi thôi, còn các thầy nhỏ thì sống ở dưới các gốc cây. Những dòng suối nước nóng đó chảy vào một con sông tên là Tapoda, và tu viện ở đó gọi là tu viện Tapodarama. Nước sông không còn nóng như ở suối, và thầy Samiddhi đã tắm ở dòng sông này.
    Chúng ta nên biết rằng ngày xưa các vị Thiên giả hiện xuống sống chung với người thường rất thường. Hiện nay ta chỉ thấy người thường thôi chứ không thấy Chư Thiên xuống nghe Pháp. Thật ra chúng ta phải nghĩ rằng giữa Thiên với Nhân khoảng cách cũng không xa bao nhiêu. Có những người sống nhẹ nhàng như tiên và như vậy thì dưới trần thế cũng có những vị Thiên giả chứ không phải là không.
    Trong đoạn này, ta nhận thấy vị Thiên giả xuất hiện khi thầy Samiddhi mới tắm xong và chưa mặc áo. Có lẽ nhìn thấy thầy là một người con trai mới lớn, thân hình tráng kiện mà lại xuất gi, cho nên cô đã hỏi: ?oThầy tuổi còn trẻ, tóc còn xanh, giờ này đáng lý phải xông ướp hương thơm, trang điểm châu báu, đeo tràng hoa mà hưởng thọ năm thứ vui thú ở đời. Tại sao thầy lại bỏ những người thương, quay lưng lại với cuộc đời thế tục, chịu đựng sự biệt ly, cạo bỏ râu tóc, khoác áo Cà Sa, tin tưởng vào con đường xuất gia học đạo. Tại sao thầy lại bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lợi phi thời như thế?? Chuyện này xảy ra trong quá khứ nhưng cũng đang xảy ra trong hiện tại. Người ta thường hay nói: Mình còn trẻ mà đi tu làm gì? Mình phải xông pha trong cuộc đời, hưởng thọ năm thứ dục lạc trước, rồi sau đó mình đi tu cũng chưa muộn. Truyền thống Đạo Bà La Môn chủ trương như vậy. Nhưng truyền thống của Đạo Bụt là một truyền thống mới, khác với đạo Bà La Môn. Vì vậy mà thầy Samiddhi đã trả lời câu hỏi của vị Thiên Nữ:
    ?oTôi đâu bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lạc thú phi thời? Chính tôi đã bỏ cái lạc thú phi thời để tìm tới cái lạc thú chân thật trong hiện tại đó chứ!?
    Phi thời nghĩa là không đúng lúc. Theo vị Thiên Nữ thì năm thứ dục lạc (tài, sắc, danh, thực, thuỵ) là lạc thú hiện tại, còn lạc thú mà người xuất gia đi tìm, tức là giải thoát và niết bàn, là lạc thú phi thời. Ai lại bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lạc thú phi thời như vậy? Đó là lời nói của vị Thiên nữ. Thầy Samiddhi đã trả lời rất hay: ?oTôi đâu bỏ cái lạc thú hiện tại mà đi tìm cái lạc thú phi thời? Chính tôi đã bỏ cái lạc thú phi thời để tìm tới cái lạc thú chân thật trong hiện tại đó chứ!?. Câu trả lời này rất đúng chánh pháp. Nếu không học nhiều kinh khác nói về Bụt, về Pháp và về Tăng thì chúng ta sẽ không hiểu được câu này.
    Vị thiên nữ hỏi:
    - ?oThế nào là bỏ cái lạc thú phi thời để đi tìm cái lạc thú chân thật trong hiện tại??
    Vị khất sĩ đáp:
    - ?oĐức Thế Tôn có dạy: trong cái vui phi thời của ái dục, vị ngọt rất ít mà chất cay đắng rất nhiều. Cái lợi rất bé mà cái hoạ rất lớn. Tôi giờ này đang an trú trong hiện pháp, lìa bỏ được những ngọn lửa phiền não đốt cháy. Hiện pháp này vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, tự mình thong đạt, tự mình có thể giác tri. Nầy thiên nữ, đó gọi là bỏ cái lạc thú phi thời để đạt tới cái lạc thú chân thật trong hiện tại.?

    Đoạn kinh văn này rất quan trọng. Ta phải nghiên cứu mới hiểu sâu được.
    Vị thiên nữ lại hỏi vị khất sĩ:
    - ?oTại sao Đức Thế Tôn lại nói trong cái vui phi thời của ái dục vị ngọt rất ít mà chất cay đắng rất nhiều. Cái lợi rất bé mà cái hoạ rất lớn? Tại sao Đức Thế Tôn lại nói an trú trong hiện pháp là lìa bỏ được những ngọn lửa phiền não đốt cháy, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, tự mình thông đạt, tự mình có thể giác tri??
    - ?oTôi mới xuất gia được có mấy năm, không đủ sức giảng bầy rộng rãi những giáo pháp và luật nghi mà Đức Như Lai tuyên thuyết. Hiện Đức Thế Tôn đang cư ngụ gần đây, nơi rừng tre Ca Lan Đà, thiên nữ có thể đến hỏi Người để trình bày những nghi vấn của thiên nữ. Đức Như Lai sẽ dạy cho thiên nữ chánh pháp để tuỳ nghi thọ trì?.

    Câu nói đó của thầy Samiddhi chứng tỏ thầy đã cẩn thận trong khi trả lời. Thầy không dám giảng rộng ra, và câu mà thầy vừa nói trên là một câu thầy đã học thuộc lòng, nó nằm trong công thức về phép niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng. Trước đây, thầy Samiddhi đã một lần giảng giải rộng, nhưng vì giảng giải chưa được đúng nên thầy đã bị Đức Thế Tôn quở, thành ra bây giờ thầy cẩn thận hơn.
    Hồi đó Bụt ở tại tu viện Trúc Lâm. Tu viện này ở miền Nam thủ đô Vương xá, cách thủ đô chừng vài cây số. Trong tu viện Trúc Lâm có một cái hồ lớn, gọi là Hồ Ca Lan Đà (Kalandala). Ngày xưa tu viện có rất nhiều loại tre quý do Vua Tần Bà Xa La đem từ các nơi về. Trong vườn tre có rất nhiều con sóc hiền lành. Khi đến thăm Bụt ở rừng Kè, vua Tần Bà Xa La đã thỉnh Bụt và giáo đoàn về cung thọ trai. Mấy tuần lễ sau, vào ngày trăng tròn, buổi sang Bụt khoát áo Cà Sa, mang bình bát cùng với giáo đoàn gồm 1250 vị khất sĩ đi vào thành Vương Xá để đáp lại lời mời của quốc vương Tần Bà Xa La. Trong dịp thiết trai tăng cúng đường này, Vua Tần Bà Xa La đã hiến cúng cho Bụt và giáo đoàn khu rừng tre đó. Vườn tre này trở thành tu viện đầu tiên của giáo đoàn Đạo Bụt. Về sau giáo đoàn lại có thêm tu viện Nalanda ở tám cây số phía Bắc thủ đô.
    Ngày xưa Tu viện Nalanda là một tu viện rất phồn thịnh, quê hương của thầy Xá Lợi Phất. Tu viện này có hang ngàn sinh viên xuất gia tới học. Thầy Huyền Trang cũng có qua học ở đây. Bây giờ tu viện đã tan nát rồi. Sau này, một học giả người Pháp nói rằng sở dĩ ở Ấn Độ đạo Bụt bị tiêu mòn không còn dấu vết nữa là tại Bụt đã nhận đất cúng dường! Từ một người khất sĩ không cửa, không nhà, Bụt đã trở thành một địa chủ, vì vậy mà sau này Đạo Bụt đã gặp khó khăn. Theo nhà học giả này thì nếu ngày xưa Bụt đừng nhận đất, đừng trở thành địa chủ thì các giáo phái khác có muốn đánh cũng không đánh được, vì có nơi nào mà đánh đâu? Ví như giáo đoàn lõa thể của giáo chủ Mahavira đạo Jain, họ vẫn trường tồn từ thời của bụt cho đến bây giờ.
    Đọc những lời nhận xét này của nhà học giả Pháp, tôi chỉ mỉm cười thôi. Theo tôi thì nguyên do suy đồi của đạo Bụt là vì vào thế kỷ thứ VII và thứ VIII, giới Phật tử ưa tranh luận quá nhiều, lý thuyết quá nhiều, mà không chú tâm mấy đến sự tập hành trì. Quan trọng hơn nữa là trong đời sống hang ngày lúc đó, Đạo Bụt đã không đặt nền tảng và cơ sở thực tập của mình trong quảng đại quần chúng mà chỉ lo tiếp xúc nhiều với giới quyền quý. Đó mới là những nguyên do căn bản đã đưa đến sự suy đồi của Đạo Bụt tại Ấn Độ.
    Trở lại Kinh Tam Di Đề, khi nghe thầy Samiddhi mời đi gặp Bụt thì vị thiên nữ nói:
    - ?oThưa khất sĩ, Đức Như Lai đang được các vị Thiên giả có nhiều uy lực túc trực bao quanh, tôi không dễ gì có cơ hội để tới gần Người mà hỏi Đạo. Nếu thầy có thể đến trực tiếp gặp Đức Thế Tôn để thỉnh vấn trước giùm tôi thì tôi sẽ xin theo thầy?.
    Vị khất sĩ nói:
    - ?oTôi sẽ đi giúp thiên nữ?.
    Vị thiên nữ nói:
    - ?oThưa Tôn giả, vâng, tôi sẽ đi theo Tôn giả?.

    Chi tiết này cho ta thấy rằng ngày xưa được gặp Bụt cũng hơi khó. Lý do là vì chung quanh Bụt luôn luôn có những vị có uy lực lớn, tuy vậy các vị khất sĩ và nữ khất sĩ thì tới với Bụt rất dễ. Thầy Samiddhi tuy còn nhỏ nhưng cũng được phép tới gần Bụt, dễ dàng hơn là các vị Thiên giả. Chúng ta có thể nghĩ rằng, một vị Thiên giả có hào quang, có quyền phép mà tại sao không tới gần Bụt được, trong khi đó một vị tỳ kheo trẻ như thầy Samiddhi mà muốn tới với Bụt lúc nào cũng được? Chi tiết đó rất hay. Điều này cũng đúng trong hoàn cảnh hiện giờ của chúng ta. Các Sư Cô, Sư Chú tới với Thầy rất dễ, trong khi đó thì những vị có địa vị và danh lợi tới với Thầy rất khó. Điều đó chứng tỏ rằng khi ta đã xuất gia rồi, đã hoàn toàn đem cuộc đời mình đi vào trong Chánh Pháp, thì ta đã trở thành một loại đất tốt, một loại ruộng phước (phước điền) tốt, và vì vậy ta được Bụt để ý và chăm sóc nhiều hơn. Một người đã bỏ hết gia sản, công danh, sự nghiệp để đi xuất gia, thì tự nhiên được Bụt coi như là đối tượng chính của sự giáo hoá. Vì vậy cho nên dầu họ không phải là các vị Thiên giả có hào quang sang, có uy tín nhiều, có địa vị lớn trong xã hội, nhưng họ có thể tới với Bụt bất cứ lúc nào. Cũng vì lý do đó mà vị Thiên giả mới phải nhờ thầy Samiddhi dẫn đi diện kiến với Bụt.
    Lúc ấy vị khất sĩ kia đi đến nơi Bụt ở, cúi đầu làm lễ dưới chân Người, lui ra đứng một bên và đem câu chuyện đã nói với vị Thiên nữ thuật lại cho Bụt nghe. Rồi thầy tiếp:
    - ?oBạch Đức Thế Tôn, nếu vị thiên nữ kia có tâm thành khẩn thì giờ này vị ấy đã có mặt ở đây rồi. Nếu không thì có lẽ vị ấy đã không tới?.
    Lúc bấy giờ có tiếng vị thiên nữ từ xa nói lại:
    - ?oThưa Tôn giả, tôi đang có mặt đây, tôi đang có mặt đây.? Và vị thiên nữ tới gần.
    Đức Thế Tôn liền nói cho vị thiên nữ bài kệ sau đây:
    Chúng sanh theo dục tưởng,
    Trú trong dục tưởng ấy,
    Không biết dục là gì,
    Nên đi vào nẻo chết.
    Rồi Bụt hỏi vị thiên nữ:
    - ?oCon có hiểu bài kệ không? Nếu chưa hiểu thì cứ nói?.
    Vị thiên nữ liền bạch Bụt:
    - ?oCon thật tình chưa hiểu, bạch Đức Thế Tôn, con thật tình chưa hiểu, bạch Đức Thiện Thệ?.
    Lúc bấy giờ Bụt lại đọc cho vị thiên nữ nghe một bài kệ khác:
    Biết bản chất của dục,
    Sẽ không sinh dục tâm,
    Dục không, dục tưởng không,
    Không ai xúi được mình.
    Rồi Bụt hỏi vị thiên nữ:
    - ?oCon có hiểu bài kệ không? Nếu chưa hiểu thì cứ nói?.
    Vị thiên nữ bạch Bụt:
    - ?oCon thật tình chưa hiểu, bạch Đức Thế Tôn, con thật tình chưa hiểu, bạch Đức Thiện Thệ?.
    Bụt lại đọc cho vị thiên nữ một bài kệ khác:
    Mặc cảm hơn, thua, bằng,
    Tạo thành mọi tranh luận,
    Ba mặc cảm dứt rồi,
    Tâm không còn khuynh động.
    Đọc xong Bụt lại hỏi vị thiên nữ:
    - ?oCon có hiểu bài kệ không? Nếu chưa hiểu thì cứ nói?.
    Vị thiên nữ bạch Bụt:
    - ?oCon thật tình chưa hiểu, bạch Đức Thế Tôn, con thật tình chưa hiểu, bạch Đức Thiện Thệ?.
    Bụt lại đọc cho vị thiên nữ một bài kệ khác nữa:
    Cắt ái và danh sắc,
    Trừ mạn hết buộc ràng,
    Chấm dứt mọi sân hận,
    Nội kết và hy cầu,
    Là giải thoát mọi cõi,
    Đời này và đời sau.
    Rồi Bụt hỏi vị thiên nữ:
    - ?oCon có hiểu bài kệ không? Nếu chưa hiểu thì cứ nói?.
    Thiên nữ bạch Bụt:
    - ?oCon đã hiểu, bạch Đức Thế Tôn, con đã hiểu, bạch Đức Thiện Thệ?
    Nghe Bụt nói kinh này xong vị thiên nữ vui mừng vâng theo, biến đi và không ai còn trông thấy tăm dạng cô đâu nữa.

    Đó là trường hợp mà Bụt đã nói Kinh Samiddhi. Kinh này trích từ Bộ Tập A Hàm. Khi học kinh này chúng ta sẽ xét luôn văn bản bằng tiếng Pali và văn bản bằng chữ Hán trong bộ Biệt dịch Tạp A Hàm. Có một vài kinh khác cũng có liên hệ tới Kinh Samiddhi, chúng ta sẽ có dịp tham cứu.

Chia sẻ trang này