1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hành trình chữ Việt

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi ATC, 01/06/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Hành trình chữ Việt

    Quá trình phát triển của cư dân Việt Nam qua từng giai đoạn cũng giống như nhiều nơi khác trên thế giới đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, trước tiên từ phía các nhà nghiên cứu đến từ Châu Âu với mong muốn tìm ra điều gì đó ở những quốc gia phương Đông bí ẩn. Trước năm 1945, nhà khoa học người Séc Cesmir Loukotca, trong tác phẩm "Lịch sử chữ viết thế giới" đã viết: "Phía Nam đế quốc Trung Hoa, trong vùng Đông Dương hiện nay có Nhà nước An Nam, ngay từ thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên đã bị người Hán thống trị. Chữ Trung Quốc cũng du nhập vào đây, trước đó hình như người An Nam đã đọc bằng chữ ghi âm riêng, chữ đó không còn lại đến ngày nay". Còn nhà nghiên cứu Terrien de la Couperie viết trong Tạp chí Hàn lâm của Hoàng gia Anh, xuất bản năm 1887, đã cho rằng: "Sĩ Nhiếp buộc người Việt học chữ Hán và cấm dùng chữ tượng thanh của mình".
    Trung Hoa - một đất nước có nền văn minh phát triển vào bậc nhất thế giới, từ xưa đã có những thời kỳ giao lưu với Việt Nam. Những ghi chép trong cuốn "Giao Châu ngoại vực ký" có ghi lại một số ấn tượng về những con người vùng đất phía Nam. Trong những chi chép ấy có nhắc tới những chiếc khánh, chiếc ấn đồng mà các Lạc tướng thời Hùng Vương có đeo. Người ta cho rằng đó chính là tín hiệu để có thể phân biệt phẩm cấp của chủ nhân đeo nó. Đặc biệt nhất chính là chiếc ấn bằng đồng có quai tua xanh, chiếc ấn đồng ấy giờ đây vẫn còn được lưu giữ và được các chuyên gia Châu Âu gọi là quả cân đồng. Một trong những hiện vật khảo cổ của người Việt cổ thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu chính là chiếc qua đồng, gọi là qua đồng Thanh Hoá vì nó được tìm thấy đầu tiên ở vùng đất Thanh Hoá với những ký hiệu rất lạ, không giống với những hoa văn thường thấy. Ngoài qua đồng Thanh Hoá còn có rất nhiều hiện vật được tìm thấy như: chiếc rìu lưỡi xoè, lưỡi rìu hơi cong xoè ra và có những tập hợp ký hiệu lạ mắt... Những ký hiệu lạ ấy được các nhà nghiên cứu tập hợp lại với mục đích giải mã những thông điệp ghi ở đó nếu như có tồn tại thật sự một hệ thống ký tự. Họ phát hiện ra những ký hiệu phức tạp đó đã được xuất hiện lặp đi lặp lại với một tần xuất nhất định, nhiều nhất là 3 lần và ít nhất là 1 lần. Song đó vẫn chưa đủ để khẳng định sự tồn tại của một hệ thống chữ viết. Như văn tự Kipu của người Inca lấy những sợi dây màu và chất liệu khác nhau để thông báo nội dung. Trong cuốn "Địa dư Quảng Ngãi" có nhắc tới việc các cư dân Chăm H'rê lấy vỏ cây đay để làm chữ thắt gút. Trước tiên họ tước lấy vỏ, sau đó vỏ được đập lâu cho thật tơi, rồi đem ngâm với nước vôi hay thứ nước được nấu từ những rễ cây khác nhau. Những vỏ cây đập tơi ấy sẽ được nhuộm thành nhiều màu khác nhau với mục đích ghi lại nhiều nội dung. Các chủ nô thời bấy giờ đều có thư viện chứa loại sách thắt gút như vậy, bằng những đoạn dây được quy định chuẩn, chia từng tháng, các sự kiện thắt gút dài trở thành những cuốn biên niên sử. Chiếc lưỡi cày hình cánh **** được các nhà khảo cổ học Thuỵ Điển khai quật ở Thanh Hoá, giờ đây nó được trưng bày tại Bảo tàng Guimet - Paris. Trên lưỡi cày có hai ký hiệu lạ mắt, theo Giáo sư Hà Văn Tấn, hai ký hiệu đó do không đối xứng với nhau nên ít có khả năng là hoa văn trang trí mà có nhiều khả năng là chữ viết, một loại chữ cổ. Từ những ký hiệu không giống như hoa văn trang trí ấy, cùng với ký hiệu trên những hiện vật thuộc tính chất và khu vực khác song lại có những nét tương đồng, Giáo sư Hà Văn Tấn đã có thống kê về một hệ thống những ký hiệu được xuất hiện theo một quy luật nhất định. Các chuyên gia trên những cơ sở nghiên cứu của mình đã lần lượt tìm ra các nét tương đồng trên những hoa văn của từng thời kỳ phát triển. Núi Đọ - một ngọn núi như bao núi khác ở Thanh Hoá, điều làm nên sự khác biệt chính là những hiện vật khảo cổ được tìm thấy ở đây. Có lẽ sự khác biệt ấy được tạo nên chính nhờ cấu tạo địa lý, ngọn núi này nằm ở ngã 3 nơi 2 con sông Mã và sông Chu hợp dòng. Người ta biết nhiều đến những hiệt vật thuộc khu vực sông Mã, bởi nơi đây xưa kia chính là một địa điểm quần cư đông đúc. Các hiện vật tìm thấy ở đây thuộc nhiều thời kỳ, song chiếm tỷ lệ nhiều nhất là thời kỳ Văn hoá Đông Sơn, thời kỳ phát triển và phát tán khá mạnh của văn hoá Việt. Cuốn sách"Thanh Hoá quan phong" ghi chép khá đầy đủ những sự kiện đã xảy ra ở vùng đất này kèm theo đó là các đánh giá của tác giả trên mọi lĩnh vực cuộc sống. Tác giả của cuốn sách này là Vương Duy Trinh, được biết đến từ đời Thành Thái thứ 15. Một phần quan trọng trong đó được Vương Duy Trinh ghi chép và đánh giá là sự biến đổi của ngôn ngữ Thập châu, mà chữ viết là một phần quan trọng. Ông có những so sánh về các loại hình chữ viết rồi đưa ra quan điểm của mình và khẳng định về sự tồn tại của một hệ thống chữ viết bản xứ.
    Người ta biết đến SaPa là một khu du lịch lý tưởng, song ít người biết rằng ở đó còn lưu giữ những thông điệp của các cư dân cổ được ghi trên nhiều phiến đá. Những hình khắc trên các phiến đá không dễ nhận ra song nó vẫn đủ sức mạnh để chống lại với khắc nghiệt của thời gian đang phủ lên bề mặt qua nhiều thời kỳ. Tộc người nào là chủ nhân của những tác phẩm này thì chưa xác định, nhưng những gì thể hiện ở đây thì không dễ phủ nhận về một hệ thống ký hiệu. Những hình khắc thô sơ trên phiến đá cho phép xác định thời điểm xuất hiện của chúng cùng một mốc thời gian. Không xa với những phiến đá có khắc những hình vẽ ấy chính là những con suối. Có lẽ do tập quán cư trú hình thành từ xa xưa là quần cư bên những con suối để tiện cho việc săn bắt thú và tìm thức ăn, nên những dấu tích trên đá có rất nhiều ở đây. Từ việc lao động và sinh hoạt hàng ngày, các cư dân cổ nơi này đã nảy ra ý muốn tìm một phương thức nào đó để có thể ghi chép lại những câu chuyện đã xảy ra với họ. Hình vẽ nhiều nhất được tìm thấy ở đây giống như những hình người, có lẽ các tác giả thời bấy giờ lựa chọn cho mình những chủ đề gần nhất với hoạt động thường ngày. Theo phán đoán và phân tích của chuyên gia người Pháp Goloubew, bức tranh vẽ trên một phiến đá to được chia làm nhiều phần: khu vực của thủ lĩnh chiếm vị trí trung tâm, phần bên trái và bên phải là đồng ruộng, tiếp theo là khu vực cư dân đông đúc, khu vực nhà kho được xây xa nhà để phòng cháy và gần cánh đồng. Các cánh đồng đều có công trình tưới nước, cư dân làm lúa trên ruộng bậc thềm. Dưới thủ lĩnh tối cao có các cấp chiếm vị trí quan trọng gần dân cư và đồng ruộng. Ngoài biên cương dân cư thưa thớt, đất đai nhỏ hẹp. Quanh phiến đá to còn có rất nhiều phiến đá lớn nhỏ nhiều loại khác nhau, chủ đề là phần tiếp theo của câu chuyện, cũng như các bức tranh ghi chép những công việc đồng áng và sinh hoạt hàng ngày khác. Giờ đây, khi các cư dân nơi này đã có một cuộc sống phong phú về văn hoá cũng như sự đa dạng trong phương thức lao động, và đặc biệt là hệ thống chữ viết đã có, thì những thông điệp được ghi lại trên các phiến đá vẫn thu hút sự chú ý của chính bản thân họ cũng như nhiều chuyên gia về văn tự trên thế giới. Vậy những ký hiệu có nội dung ấy, những thông điệp được gửi lại ấy nên được hiểu và đánh giá như thế nào? có lẽ đó vẫn chỉ là những ký hiệu có khả năng là mầm mống của một hệ thống chữ viết cổ.

    ( Hoàng Lâm )


    Được atc sửa chữa / chuyển vào 08:13 ngày 01/06/2003
  2. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Từ tín hiệu được phát hiện trên đá cổ ở Sa Pa và những ký hiệu trên công cụ sản xuất của người Việt cổ, các chuyên gia đã và đang đặt ra những giả thuyết về sự tồn tại một hệ thống chữ cổ của người Việt cổ trước khi chịu ảnh hưởng những hệ thống văn tự từ các quốc gia khác.
    Song song với sự tìm tòi, phát hiện ấy, các chuyên gia luôn phải đối mặt với những trở ngại, một trong những trở ngại ấy chính là những sự kiện xảy ra trong lịch sử. Sau khi đất nước Trung Hoa được tái thống nhất vào thời điểm sắp bước vào kỷ nguyên mới, đất nước này đã trở thành một khối thống nhất và dần lấy lại được ưu thế của một cường quốc hùng mạnh. Hình hài một vùng lãnh thổ Trung Nguyên rộng lớn được gây dựng nên bởi một Tần Thuỷ Hoàng danh tiếng lẫy lừng đã được tái tạo, ước vọng sở hữu thiên hạ lại trở nên cháy bỏng trong tâm tưởng của nhà cầm quyền phong kiến nước này. Và vì thế, công việc mở mang bờ cõi luôn là mối bận tâm hàng đầu trong các quyết sách của họ. Đường biên giới ngày càng được mở rộng hơn qua những cuộc viễn chinh hướng tới những vùng đất ở bên ngoài.
    Thời gian qua đi cùng với việc chính quyền phong kiến phương Bắc ngày càng trở nên mạnh mẽ, đường đi của các đội quân hướng dần xuống phía Nam. Nằm ở phía Nam của Trung Nguyên, Việt Nam cũng không tránh khỏi những cuộc chinh phạt ấy. Sự kiện này đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử nước nhà, nó mở đầu cho những giai đoạn thăng trầm của cả một quá trình phát triển văn hoá lâu dài sau này của Việt Nam. Ngay từ thời khắc ban đầu của quá trình xâm nhập vào Việt Nam, các thế lực phương Bắc đã đạt được một dấu ấn nhất định lên nền văn hoá của đất nước nhỏ bé này. Dấu ấn ấy đầu tiên được tiếp nhận một cách bị động, các cư dân người Việt cổ lúc bấy giờ tiếp nhận một cách cưỡng ép, song họ cũng nhận thấy đó là một nền văn minh lớn của thế giới. Đền Ngọc Sơn, một ngôi đền nằm giữa Hà Nội, người Việt Nam coi đây là một trong những biểu tượng đặc trưng của Thủ đô bởi vị trí trang trọng trong tâm linh, bởi quá trình tồn tại lâu dài và những gì chứa ẩn ở đó cũng chính là đặc trưng của mảnh đất này. Có điều đặc biệt, cũng giống như ở những ngôi chùa, ngôi đền khác ở Hà Nội, tất cả những dòng chữ ghi ở đó đều là chữ Hán, và các cư dân ở Hà Nội nói riêng và người Việt Nam trên toàn bộ lãnh thổ đều chấp nhận sự tồn tại của loại hình văn tự này ở những nơi trang trọng như một điều tất yếu. Điều tất yếu ấy được hình thành qua một quá trình ảnh hưởng lâu dài từ văn hoá Hán, theo đó chữ Hán cũng vào Việt Nam và tồn tại với tư cách là một hệ thống văn tự duy nhất ở đây. Cho đến ngày nay, chữ Hán cùng với chữ Nôm được sử dụng ở những nơi rất trang trọng như: chùa, miếu, đền và cả ở những từ đường của dòng họ. Tập quán ấy được hình thành một thời gian dài, chữ Hán là văn tự duy nhất trong các văn bản chính thức của chính quyền phong kiến Việt Nam. Thời gian về sau, với sự du nhập mạnh mẽ của Đạo Nho, chữ Hán lại trở thành phương tiện tích cực cho việc truyền bá lễ giáo này, cũng như phục vụ các học sĩ người Việt tiếp thu kiến thức. Cứ như thế chữ Hán đi sâu vào đời sống người Việt một cách chắc chắn. Sự tồn tại vượt qua thời gian của những ngôi nhà cổ ở Hà Nội như một minh chứng cho giai đoạn phát triển văn hoá của khu vực. Những dòng chữ Hán ở đây cho thấy vị trí của hệ thống chữ viết này một thời gian dài không chỉ được xác lập trong hoạt động của chính quyền, nó đã chiếm một vai trò quan trọng trong đời sống thường ngày của cư dân bản địa. Điều đó chứng tỏ người Việt đã dần biết cách sử dụng chữ Hán để phục vụ mục đích của riêng mình. Bên cạnh đó, chữ Hán còn được sử dụng ở một trình độ cao hơn, đó là trong những cuộc thi tuyển hoạt động giáo dục của nước nhà.
    Quay trở lại thời kỳ đầu của quá trình áp đặt nền đô hộ của mình tại Việt Nam, nhà cầm quyền phương Bắc bắt đầu từ đời Tây Hán. Sau khi tái thống nhất đất nước, chính quyền nhà Tây Hán với đà tiến của mình đã mở nhiều cuộc chinh phạt để mở rộng bờ cõi nhằm thoả mãn ý đồ làm chủ thiên hạ. Do Trung Nguyên thu về một khối, thế lực nhà Tây Hán trở nên hùng mạnh với sự góp mặt của những con người từ nhiều địa phương trên một khu vực lãnh thổ rộng lớn. Mảnh đất phương Nam với những điều kiện tự nhiên vô cùng thuận lợi, tài nguyên phong phú và con người hiền hoà trở thành đích ngắm. Vào năm 179 trước Công Nguyên, Nhà Tây Hán đưa quân xuống Việt Nam, bắt đầu giai đoạn đặt sự thống trị của mình tại đây, mở đầu cho một quá trình mới của đất nước này. Cùng lúc đó, Việt Nam bắt đầu làm quen với sự có mặt của một nền văn hoá, nền văn hoá ấy không lạ bởi đã có sự giao lưu từ trước, nhưng giờ đây, nó tác động toàn diện lên đời sống của cư dân bản địa. Cho tới năm 111 trước Công Nguyên, nhà Tây Hán đã hoàn toàn có được sự thống trị tại Việt Nam. Chính quyền thành lập Giao Châu gồm có 9 quận, ở Việt Nam có 3 quận là quận Giao Chỉ, quận Cửu Chân và quận Nhật Nam. Lúc này đây, toàn bộ khu vực Trung Nguyên đã được mở rộng ra một phạm vi lớn. Cùng với việc thiết lập một hệ thống cai trị rộng khắp Giao Châu, nhà Tây Hán cũng xác lập một nền giáo dục và phát triển văn hoá trên toàn khu vực.
    Từ lúc này, chữ Hán trở thành văn tự bắt buộc của các cấp chính quyền, ngôn ngữ sử dụng tại Việt Nam là tiếng Việt và tiếng Hán nhưng văn tự chỉ có một là chữ Hán. Tích Quang được nhà Tây Hán bổ làm Thái thú cai quản quận Giao Chỉ, khu vực nằm ở phía Bắc của Việt Nam. Việc cai quản tuân theo chỉ đạo từ phương Bắc. Còn Nhâm Diên làm Thái thú của quận Cửu Chân. Cả hai ông đều là những quan lại theo Nho giáo nên rất chú trọng việc truyền bá lễ giáo này. Công việc chính của hai vị Thái thú này ở Việt Nam là phục vụ yêu cầu đồng hoá văn hoá mạnh mẽ của nhà cầm quyền Tây Hán. Do đó việc mở những lớp học chữ Hán đã được chuẩn bị. Bên cạnh đó, là nhà Nho nên Tích Quang và Nhâm Diên cũng tìm cách truyền bá nền giáo lễ của loại hình tôn giáo này vào Việt Nam. Song song với việc mở trường dạy học chữ Hán cùng với các lễ giáo phong kiến, nhà Tây Hán vẫn tìm mọi cách đẩy mạnh quá trình đồng hoá. Theo đà thống nhất đất nước, nhà Tây Hán đã coi việc cưỡng ép những tộc người nhỏ tuân theo sự cai trị của mình là điều tất yếu. ở đây, chính quyền đô hộ đã đặt một chế độ cai trị hết sức hà khắc lên cư dân bản địa. Không khí ngột ngạt không chỉ tồn tại ở những thực địa mà ngay cả ở Trung Nguyên cũng chịu sự khắc nghiệt đó. Cho tới năm 40, ở Việt Nam đã nổ ra một cuộc khởi nghĩa nổi tiếng của Hai Bà Trưng. Cuộc khởi nghĩa này rồi cũng đi vào thời kỳ suy tàn, song nó đã mang một luồng gió mới đến khắp Giao Châu. Tuy chỉ diễn ra ở Việt Nam, song cuộc khởi nghĩa đã nhận được sự ủng hộ trên toàn Giao Châu rộng lớn. Nó có tác động mạnh mẽ tới mức tuy không duy trì lâu dài nhưng cũng đủ làm cho nhà cầm quyền phải thay đổi phương thức cai trị.
    Sau nhà Tây Hán, nhà Đông Hán lên cầm quyền, quan điểm cai trị do có được bài học từ trước nên đã có những lựa chọn cởi mở hơn trước, các học sĩ ở Việt Nam sau một thời gian làm quen với hệ thống học vấn đã hình thành nền tảng nhất định Nho học và đặc biệt là vốn chữ Hán. Thêm vào đó, chính sách cai trị của nhà Đông Hán phần nào cởi mở hơn đã làm cho cư dân bản địa tiếp thu nền văn hoá này tốt hơn. Hơn nữa, với những tương đồng về tập quán lao động và sinh hoạt được hình thành từ lâu, các cư dân nơi đây đã có được phương thức tiếp nhận tốt nhất những giá trị văn hoá mới này. Chữ Hán vì vậy đã nhanh chóng chiếm được vai trò quan trọng trong đời sống văn hoá như một bộ phận hữu cơ. Hệ thống giáo dục cũng được mở mang theo đúng như lối tổ chức của Trung Nguyên nên đã tạo ra những thay đổi lớn trong đời sống văn hoá cư dân nơi đây. Vốn xuát phát từ một dân tộc hiếu học, hai anh em Lý Tiến và Lý Cầm đã nhanh chóng hiểu được những kiến thức mới thông qua việc truyền bá Nho giáo. Hai ông đã đỗ đạt và được nhận chỉ phong làm quan tại bản xứ. Theo đà đó, mảnh đất phương Nam dần trở thành nơi lý tưởng cho sự thâm nhập của những lễ giáo mới, và ngày càng xuất hiện nhiều nhân vật có ảnh hưởng.
    Vùng Thuận Thành - Bắc Ninh trước vốn là trung tâm của quận Giao Chỉ, nơi trú ngụ của Sĩ Nhiếp. Tại chính khu vực này, người dân bản xứ đã dựng nên ngôi đình Nam Giao để thờ Sĩ Nhiếp, người được mệnh danh là "Nam Giao học tổ". Trong suốt quá trình ở Việt Nam làm Thái thú, ông đã có công lớn trong việc mở những trường đào tạo chữ Hán, đào tạo giáo lý nhà Nho cho cư dân toàn vùng. Thời gian này, văn tự Hán không chỉ đơn thuần là những văn bản của chính quyền, nó đã trở thành phương tiện để người Việt Nam ghi lại chính những sự kiện, những giá trị văn hoá của dân tộc mình. Thời kỳ nhà Đường đánh dấu một bước chuyển biến lớn cho nền văn hoá Trung Nguyên, hàng loạt những sáng tạo trên mọi mặt của người Trung Hoa đều được phát hiện và phát tác thời kỳ này. Trong lễ giáo Nho gia, thời kỳ này cũng đạt được những đột phá mạnh mẽ. Những giá trị được tích luỹ từ bao đời, bao thế hệ giờ như gặp thời cơ để có thể giới thiệu tốt nhất. Người ta đã hình thành được một quy chuẩn cho sự phát triển của Nho giáo nói riêng và cho sự phát triển của văn hoá Trung Nguyên nói chung. Cùng với đó, những luồng tư tưởng mới của Trung Nguyên dần được đưa tới mảnh đất phía Nam, theo đó là cả một hệ thống giáo dục bằng văn tự Hán. Các công trình kiến trúc được xây dựng riêng cho những hoạt động truyền bá văn hoá cũng được nhà cầm quyền chú trọng hơn trước. Cùng với những thành tựu văn hoá, các phát kiến về khoa học kỹ thuật cũng tạo nên tên tuổi cho đời nhà Đường trên thế giới. Các cư dân Việt Nam cũng vì thế mà phần nào tiếp thu được những tinh hoa từ phương Bắc. Lúc này văn hoá và chữ Hán đã được người Việt tiếp nhận một cách tự nhiên, khác với trước đây. Giờ đây bên cạnh những công việc đồng áng thường ngày, họ đã chấp nhận sự tồn tại một nền văn hoá và hệ thống văn tự được du nhập từ phương Bắc. Song mục đích của sự tiếp nhận ấy lúc này đã khác hơn so với mục đích của chính quyền đô hộ. Các cư dân Việt đã biết sử dụng văn tự Hán như một phương tiện thuận lợi để ghi lại những kinh nghiệm làm nông được tích luỹ qua nhiều thế hệ. Những ghi chép ấy giờ đây vẫn được lưu gữ nhưng không phải ai cũng hiểu được xuất xứ cũng như mục đích ban đầu của những văn bản đó. Song dù sao thì sự phát triển của thời kỳ này phần nào có lợi tới nền văn hoá bản địa. Tiêu biểu cho những học sĩ người Việt Nam ấy chính là Khương Công Phụ và Tinh Thiều. Việc hai ông đỗ đạt và được cử đi làm quan ở Trung Nguyên đã làm thay đổi phần nào cách nhìn của nhà cầm quyền với giới tri thức Việt Nam, đồng thời càng khuyến khích lòng hiếu học của các học sĩ bản địa khác. Và đó cũng là một môi trường tốt cho quá trình thâm nhập của chữ Hán trong đời sống văn hoá cư dân Việt Nam.
    ( Hoàng Lâm )
  3. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Sau khi đã thành lập được một lãnh thổ thống nhất và mở rộng về phía Nam, khu vực Giao Châu rộng lớn được hình thành với 9 quận trải dài từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông. Cùng với lúc ấy, các cư dân Việt cũng vừa trải qua một giai đoạn khai phá, mở mang đất đai cư tụ, và vì thế chính quyền phương Bắc ngẫu nhiên sở hữu một địa vực tự nhiên và văn hoá vừa rộng lớn vừa vô cùng phong phú.
    Bên cạnh việc thu nhận từ vùng thực địa chiếm được những giá trị văn hoá bản địa, chính quyền đô hộ phương Bắc đã tích cực mở rộng sự ảnh hưởng của nền văn hoá Trung Hoa rộng ra những khu vực ấy. Và chữ viết cũng không nằm ngoài quy luật này, chữ Hán dần có được chỗ đứng chắc chắn tại Việt Nam.
    Các cư dân Việt vốn cần cù lao động nhưng cũng chính là những người dân hiếu học vào bậc nhất. Với việc học tập được một hệ thống chữ viết tương đối hoàn thiện, các học sĩ bản địa có thể thực hiện mục đích tiếp thu tri thức từ một nền văn minh lớn láng giềng.
    Bên cạnh việc tiếp nhận những tri thức đó, người Việt Nam còn sử dụng chính những con chữ Hán để ghi chép lại các kinh nghiệm trong tập quán lao động, sinh hoạt được hình thành từ xa xưa của chính dân tộc mình. Và như vậy có thể nói những nhân sĩ người Việt sau giai đoạn tiếp thu chữ Hán một cách thụ động từ phương Bắc đã biết sử dụng một cách tốt nhất hệ thống văn tự này vào mục đích riêng có lợi cho mình. Cứ như vậy, chữ Hán vô tình trở thành một người bạn đồng hành của đời sống lao động, sinh hoạt văn hoá của người dân nước Việt.
    Thời gian về sau chữ Hán không còn chỉ có vai trò trong những văn bản chính thức, trong những ghi chép thư tịch nữa mà hệ thống văn tự này đã trở nên gần gũi với đời sống các cư dân hơn, khi nó được dùng để ghi gia phả dòng họ hay những sự kiện của một khu vực nhỏ.
    Việt Nam là một đất nước nông nghiệp từ xa xưa, những kinh nghiệm trồng lúa, những cách chế tạo và sử dụng nông cụ của Việt Nam đã trở thành bài học quí giá cho những quốc gia khác. Và lúc này, chữ Hán lại đóng vai trò ghi chép những bài học ấy cho chính Trung Hoa, đất nước mà nông nghiệp chủ yếu là làm lúa khô.
    Trong các thư tịch của Trung Hoa còn giữ lại được cho đến ngày nay đều cho thấy có những ghi chép kiểu như vậy. Người ta thuật lại việc nước Nam đã trồng lúa nước ra sao, hay những giống lúa khác vụ mà ở Trung Nguyên không có. Cùng với đó còn có những tập tục sinh hoạt thường ngày rất đặc trưng của người Việt cũng đều được ghi lại bằng những văn bản chữ Hán.
    Do tính chất tiện dụng cũng như được truyền bá rộng rãi, hệ thống văn tự Hán lúc này là loại chữ viết duy nhất có mặt trong đời sống các cư dân Việt.
    Tại nhiều ngôi đình ở Việt Nam, bên cạnh những đồ thờ, những bức tượng hay những đồ vật mang tính chất tín ngưỡng thì những bức hoành phi, đại tự hay những câu đối chữ Hán là không thể thiếu. Và chữ Hán lúc này đối với cư dân Việt không đơn thuần chỉ là hệ thống văn tự.
    Những lớp học được tổ chức trên diện rộng nhằm truyền bá và giáo dục hệ thống Nho học nói chung và dạy chữ Hán nói riêng.
    Thời gian này, sự ảnh hưởng của việc dạy chữ Hán không còn giới hạn ở quận Giao Chỉ nữa, mà nó đã lan rộng ra khắp 3 quận thuộc Việt Nam.
    Chữ Hán đã ăn sâu và bén rễ vào đời sống văn học cũng như đời sống của các cư dân Việt lúc bấy giờ. Các thế hệ nhà Nho Việt Nam cứ nối tiếp nhau xuất hiện làm cơ sở cho một nền tảng tri thức của dân tộc.
    Giờ đây, không chỉ có những thày giáo từ trung Nguyên tới mở lớp cho người bản xứ học nữa, mà chính những lớp Nho sĩ ấy đã có thể dạy cho người dân nước mình cách sử dụng hệ thống văn tự Hán. Song ngay cả khi chữ Hán đã trở thành phương tiện duy nhất của người Việt dùng để ghi chép lịch sử của đất nước, thì người Việt vẫn sử dụng tiếng nói của riêng mình.
    Ngay cả khi chữ Hán được sử dụng rộng rãi trong các văn bản của chính quyền, trong những kỳ thi tuyển người tài thì nó vẫn đóng vai trò chỉ là một ngoại ngữ thông dụng. Bởi ngoài việc ghi chép thì người Việt vẫn nói tiếng Việt của mình. Đặc biệt tại những nơi sinh hoạt dân cư công cộng như chợ búa, bến sông thì những người nông dân lao động Việt Nam vẫn nói thứ tiếng mẹ đẻ, bởi thứ tiếng ấy đã hình thành từ lâu và đủ sức đáp ứng cho nhu cầu giao tiếp. Thời gian cứ dần qua đi đủ làm cho người Việt hiểu được vai trò của chữ Hán trong đời sống, nhưng mặt khác càng làm cho chủ nhân mảnh đất này cảm nhận rõ hơn về tiếng nói của chính dân tộc mình.
    Cuộc sống lao động cũng như sự vận động của thời cuộc đã tạo nên những thay đổi phần nào những nét văn hoá của vài địa phương và ngôn ngữ cũng không phải là ngoại lệ. Tiếng Hán ở Việt Nam dần có những biến chuyển khác đi so với nguồn gốc của nó. Ví dụ như chữ Mậu, vào năm 907 vua Lương vì kiêng huý nên đã ra lệnh đổi thành chữ Vũ. Vậy là toàn Trung Nguyên sử dụng chữ mới này song ở Việt Nam người ta vẫn sử dụng chữ Mậu như cũ. Đây được coi là một trong những tín hiệu đầu tiên báo hiệu một xu thế mới, đó là xu thế chữ Hán dùng ở Việt Nam dần tách rời phần nào khỏi chữ Hán ở Trung Nguyên, và nó đã tạo ra một bước đi tương đối độc lập về văn tự cho người Việt Nam.
    Trận thuỷ chiến trên sông Bạch Đằng của quân và dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền được coi là cột mốc của Lịch sử và cả văn hoá dân tộc ta.
    Vào năm 938, sau bao nhiêu năm chịu ách đô hộ của thế lực phong kiến phương Bắc, Việt Nam đã lật đổ được chính quyền cai trị nhà Nam Hán. Trận thủy chiến nổi tiếng này không chỉ đưa Việt Nam đến với độc lập tự chủ, nó còn gây sự chú ý đặc biệt từ nhiều quốc gia văn minh khác. Chiến thắng Lịch sử ấy cùng lúc đã đem lại cho văn hoá Việt Nam một cơ hội khẳng định mình trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, và nền Hán học cũng không nằm ngoài ảnh hưởng đó.
    Ngay lúc này, nhà nước phong kiến đầu tiên của Việt Nam đã ra đời. Ngay sau khi giành được độc lập từ tay nhà cầm quyền Nam Hán, chính quyền phong kiến của Việt Nam đã tiến hành ngay một số biện pháp, nhằm bảo tồn và duy trì nền văn hoá được thiết lập từ xa xưa, cũng như chắt lọc những giá trị tinh hoa của Trung Nguyên được du nhập qua một thời gian dài, mà đặc biệt là hệ thống chữ viết.
    Tới khi giành được độc lập thì đời sống văn hoá của cư dân Việt Nam đã trải qua một quá trình hình thành lâu dài dưới những ảnh hưởng từ văn hoá Trung Nguyên.
    Người Việt lúc này sử dụng song song hai thứ tiếng nói là tiếng Việt bản địa và một số ít sử dụng tiếng Hán nhưng chữ viết thì chỉ có duy nhất là chữ Hán. Chính vì vậy mà tất cả những văn bản ghi chép từ những chính sách nhà nước cho tới những thư tịch lịch sử, và đặc biệt là một kho tàng văn hoá Hán và Việt đều được ghi lại bằng chữ Hán. Do đó, chữ Hán thời gian này vẫn là một trong những đại diện rõ rệt nhất cho những dấu ấn của Trung Nguyên tại Việt Nam.
    Song không vì thế mà người Việt Nam không có những sáng tạo của riêng mình trên phương diện này. Tiếng Hán là một sinh ngữ nên nó có những biến đổi liên tục. Nhưng những thay đổi liên tục ấy chỉ diễn ra bên trong phạm vi Trung Nguyên, bởi lúc bấy giờ tiếng Hán không còn có được sự ảnh hưởng trực tiếp tới đất nước Việt Nam độc lập nữa.
    Và như vậy tiếng Hán và chữ Hán ở Việt Nam lại được chính người dân bản địa tạo ra những khác biệt mới. Những khác biệt ấy bắt nguồn từ chỗ, do có một thời gian dài ảnh hưởng tới ngôn ngữ ở Việt Nam, âm Hán đã phần nào thay thế những âm Việt cổ nhằm thoả mãn sự tiện lợi trong sử dụng.
    Một lợi thế nữa của tiếng Hán là có chữ viết nên việc phát tán cũng như gây sức ép lên một hệ thống ngôn ngữ khác trở nên có hiệu quả. Trong khi ấy thì một hệ thống chữ Việt của người Việt cổ vẫn chỉ là những giả thuyết chưa được chứng minh. Do đó mà tiếng Việt thời kỳ này chịu ảnh hưởng tới gần 70% âm Hán.
    Nguồn gốc sự sáng tạo của người Việt trong vấn đề âm Hán Việt được hình thành từ thời kỳ nhà Đường ở Trung Nguyên. Những cách phát âm tiếng Hán thời kỳ này đã được cư dân Việt chủ động tiếp nhận do có những tương đồng trong ngữ âm. Thời gian dần trôi, với trí thông minh và ý thức sáng tạo, người Việt đã tạo thành một hệ thống âm Hán Việt hoàn chỉnh.
    Ví dụ như con chữ Hán được phát âm là tian, nghĩa Việt là trời, và âm Hán Việt của chữ đó là Thiên. Còn chữ Hán tượng hình đọc là Jia, nghĩa tiếng Việt là Nhà, còn âm Hán Việt đọc là Gia. Tương tự thế, chữ Hán đọc là Shan, nghĩa tiếng Việt là núi, còn âm Hán Việt đọc là Sơn.
    Sự khác biệt một cách rõ rệt như vậy đã đem lại một diện mạo mới cho âm Hán được sử dụng tại Việt Nam. Những học giả người Trung Hoa về sau khi tới Việt Nam có dịp tiếp xúc với hệ thống âm này đều không hiểu được.
    Xu thế tách rời âm Hán gốc ở Việt Nam thời gian này không chỉ là kết quả của sự độc lập trong văn hoá người Việt, mà nó còn là tiền đề cho sự ra đời của một hệ thống chữ viết mới ở Việt Nam, cũng là một sáng tạo văn hoá lớn của những học sĩ phong kiến người Việt.
    Lúc này, tuy chữ Hán là hệ thống chữ viết duy nhất ở Việt Nam, nhưng nó vẫn chưa đủ để ghi chép tất cả những âm của tiếng Việt. Đó chính là hạn chế lớn của chữ Hán, bởi văn hoá truyền thống của người Việt có một quá trình hình thành và phát triển từ lâu đời với những giá trị không thể phủ nhận.
    Ví dụ như trong âm Hán: chữ huyết (nghĩa là máu) ghép lại với chữ khẩu, được đọc là hoét, một âm không có trong hệ thống chữ Hán mà chỉ người Việt mới có.
    Cứ như vậy, những con chữ Nôm được các học sĩ Việt Nam sáng tạo ra trên cơ sở chữ Hán, để có thể ghi được những âm mà tiếng Hán không hề tồn tại. Thành tựu ấy được các tầng lớp Nho sĩ người Việt sáng tạo từ những con chữ Hán gốc. Có thể nói, chữ Nôm không chỉ là một thành tựu trong học thuật từ xưa của người Vệt Nam. Chữ Nôm còn là một biểu tượng bất diệt cho tinh thần dân tộc được hình thành từ muôn đời, được hun đúc qua nhiều thế hệ và kết tinh trong tâm hồn của giới trí thức Việt Nam.
    Nhưng cũng không thể phủ nhận vai trò của hệ thống chữ Hán trong việc tạo lập ra chữ Nôm. Ngoài việc đóng vai trò là nguyên liệu cho kết cấu của chữ Nôm. Văn tự Hán còn tạo cho những tầng lớp nho sĩ người Việt một nền tảng sơ khai về quan niệm chữ viết, điều kiện quan trọng cho quá trình hình thành chữ Nôm. Còn chữ Nôm, sau thời gian đầu chập chững với những quy tắc kết cấu, dần dần đã đạt được một sự thống nhất nhất định và trở thành phương tiện ghi chép mới.
    Với nền tảng là một kho tàng văn hoá vốn phong phú, lại thêm quá trình giao lưu với những nền văn minh bên ngoài, chữ Nôm có được một môi trường hết sức thuận lợi cho việc hoàn thiện và phổ biến rộng rãi.
    Lúc này, bên cạnh những trước tác nổi tiếng được ghi bằng chữ Hán, những thư tịch của Việt Nam lại có sự góp mặt của các tác phẩm chữ Nôm, và chỉ trong một thời gian không dài, chữ Nôm đã xác định được chỗ đứng vững chắc trong đời sống sinh hoạt và hoạt động văn hoá của người dân nước Việt.
    Thời gian cứ trôi đi, loại văn tự này cũng có số phận với những biến đổi trong quá trình tồn tại, và đó cũng chính là một trong những biểu hiện của văn hoá nước nhà.
    (Hoàng Lâm )
  4. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Trải qua những phát hiện từ các cuộc khai quật, tìm tòi, các nhà nghiên cứu cho rằng thật khó xác định được thời điểm chính xác sự xuất hiện của chữ Nôm. Những phát hiện lẻ tẻ về dấu vết của loại văn tự này không chỉ tập trung vào một nơi hay một thời kỳ nhất định. Điều đặc biệt là những con chữ Nôm đầu tiên ấy xuất hiện lác đác cả trong những văn bản chữ Hán, vì vậy có thể khẳng định rằng chữ Nôm đã góp mặt tương đối sớm, ngay từ khi mới có hiện tượng tạo ra hệ thống mà không cần chờ tới khi hoàn thiện tất cả hệ thống. Cứ như vậy, các văn bản chữ Nôm dần được tìm thấy ở nhiều nơi.
    Vậy tại sao những nhân sĩ đầu tiên tạo ra chữ viết Nôm lại phải dựa vào cách sử dụng những con chữ vuông của người Hán để làm nguyên liệu. Có thể thấy, tiếng Việt từ xa xưa sử dụng trong đời sống sinh hoạt và giao tiếp của các cư dân bản địa cũng có những đặc điểm giống như tiếng Hán, đó đều là những ngôn ngữ đơn lập âm tiết. Và do đó, việc đi theo con đường tạo chữ theo như của người Hán lúc bấy giờ được coi là một lựa chọn chính xác nhất. Vậy nguyên tắc tạo thành chữ Nôm của người Việt từ chữ Hán được dựa trên những phương pháp nào? Đầu tiên là phương pháp giả tá, sử dụng chính chữ Hán gần âm để ghi âm Việt, ví dụ: Một con chữ trong âm Hán nghĩa là học thì được dùng để ghi âm hóc trong tiếng Việt. Nhưng biện pháp này sẽ khó phân biệt với những từ đồng âm khác thanh điệu hoặc phụ âm. Ví dụ: muốn viết chữ hiếm trong âm Việt, người ta dựa vào chữ âm Hán là kiếm, và để phân biệt người ta thêm một dấu nháy. ở phương pháp hình thanh, người ta sử dụng cách làm cụ thể hơn, ở đó có hai bộ phận là chỉ nghĩa và chỉ âm để cấu thành, ví dụ: chữ hải đóng vai trò chỉ âm, còn chữ khẩu dùng chỉ nghĩa để cấu tạo thành chữ hỏi của tiếng Việt. Phương pháp hội ý thì chọn hai chữ để tạo nên nghĩa, ví dụ: chữ thiên nghĩa là trời cùng với chữ thượng nghĩa là ở bên trên, kết hợp làm rõ nghĩa cho âm trời trong tiếng Việt. Phương thức hội âm dùng cho trường hợp phụ âm kép trong tiếng Việt cổ, ví dụ: chữ sang nghĩa là giàu được người Việt xưa đọc là Clang. Muốn tạo thành chữ đọc âm đó phải có 2 chữ ghi âm là cư và lang, từ hai chữ đó hình thành nên chữ Nôm đọc là Clang với nghĩa là sang.
    Với những thành tựu dần tạo dựng được trong việc tạo chữ viết cho việc phát âm tiếng Việt, cách ghi chép chữ Nôm với nhiều phương pháp dần đạt đến sự chuẩn mực hơn. Từ đó, chữ Nôm đã thu hút sự chú ý đặc biệt của người dân Việt Nam, và nó đã được phát tán rộng rãi khắp nơi. Thời gian trôi đi, chữ Nôm dần dần có mặt trong đầy đủ những hoạt động thường ngày của người Việt. Từ những tập quán sinh hoạt cho tới những kinh nghiệm trong lao động để lại từ xa xưa đều được ghi chép lại bằng những văn bản chữ Nôm. Bên cạnh đó, với những giá trị được hình thành từ lâu trong kho tàng văn hoá dân gian, chữ Nôm lại có được một không gian hoạt động tốt nhất. Những kinh nghiệm làm nông, những làn điệu dân ca, những câu ca dao của dân tộc đều có sự góp mặt của hệ thống văn bản Nôm. Từ trong đời sống thường ngày cho tới những sáng tác của những học sĩ, các văn bản Nôm cứ thế xuất hiện liên tục trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Cư dân người Việt bên cạnh việc tuân theo những chính sách của Nhà nước bằng chữ Hán thì đã làm quen với những tác phẩm văn học Nôm, những tác phẩm ấy rất gần với cuộc sống thường ngày của họ. Bên cạnh đó, sau khi giành được độc lập từ năm 938, kho tàng văn hoá dân gian tộc Việt lúc đó có một bước biến chuyển tốt theo một hướng riêng của mình. Cùng với đó là các giá trị văn hoá tiếp nhận được từ thời kỳ Bắc thuộc đã làm phong phú hơn sự tích luỹ ấy. Sự phát triển, hoàn thiện không ngừng của hệ thống chữ Nôm đã làm cho nền văn học nước nhà có được một giai đoạn tiến lên hết sức phong phú. Điều đặc biệt là chữ Nôm rất phù hợp với những tác phẩm thơ của người Việt.
    Thế kỷ 13 được coi là cái mốc phát triển của nền văn hoá Việt và cũng là mốc phát triển của riêng chữ Nôm. Lúc này đây, những tác phẩm thơ và văn Nôm đã đi vào cuộc sống của những cư dân nơi này như một phần không thể thiếu. Sự hoàn thiện tương đối của chữ Nôm đã cho phép đáp ứng hầu như tất cả những nhu cầu từ ghi chép cho tới sáng tác của các văn sĩ người Việt. Những tác phẩm được sáng tác bằng chữ Nôm hay chuyển thể từ Hán qua Nôm trên nhiều phương diện khác nhau đã liên tục ra đời. Lúc bấy giờ, nhiều học giả Trung Quốc có dịp tiếp xúc với nền văn hoá Việt đã không khỏi ngạc nhiên về sự phát triển đó, những phát triển mà chữ Nôm có vai trò đáng kể. Những thành tựu trên phương diện văn hoá đó không chỉ gây nên sự ngạc nhiên cho các nước láng giềng mà nó còn thu hút sự chú ý từ những nền văn minh từ xa tới. Thế kỷ 13 đánh dấu sự khám phá của các nước phương Tây đối với khu vực Viễn Đông đầy bí ẩn. Một trong những nhà thám hiểm của phương Tây đầu tiên đặt chân lên vùng Đông á là Marco Polo. Thời gian ở Châu á của Marco Polo phần lớn là ở Trung Quốc, nhưng ông cũng có dịp xuống phía Nam, tức là Việt Nam bây giờ. ở đây Marco đã phát hiện ra một khu vực văn hoá cổ xưa với những mạch chảy văn hoá rất riêng biệt, có một trình độ phát triển khá cao và cũng rất phong phú. Trong những ghi chép về vùng đất phía Nam này, Marco Polo không hề giấu diếm thái độ khâm phục đối với một giai đoạn lịch sử của mảnh đất này. Cùng với đó, những cuộc khám phá về sau của những nhà nghiên cứu phương Tây khác đều có những nhận xét đồng tình với Marco. Với lợi thế là sở hữu một bờ biển dài, Việt Nam luôn là điểm đến đầy hứa hẹn của những hải trình xa xôi. Trong những ghi chép của các nhà nghiên cứu tới Việt Nam từ sau thế kỷ13, ngoài hệ thống chữ Hán, chữ Nôm luôn được họ nhắc tới như một thứ chữ riêng của người Việt đã phát triển. Tương truyền rằng khi ấy ở sông Hồng cá sấu nhiều vô kể, sự xuất hiện của loài cá hung dữ đã gây biết bao khó khăn cho cuộc sống của cư dân nơi này. Nguyễn Thuyên là một học sĩ thời nhà Trần, ông có viết một bài thơ Nôm với tên gọi "Văn tế cá sấu" và đọc rồi đốt thả trôi trên sông Hồng. Cá sấu dần không thấy nữa, vì vậy tên tuổi của ông từ đó được gắn liền với câu chuyện huyền thoại này. Đó là một câu chuyện đầy màu sắc hoang đường, song những nhân vật gắn với chữ Nôm thì liên tục xuất hiện trong hiện thực, thời gian này người ta được biết tới cái tên Hồ Quý Ly. Những mẩu chuyện của cuộc đời ông tuy có những khúc mờ khúc tỏ. Nhưng những cống hiến của ông trong lĩnh vực chữ Nôm thì không ai không biết tới. Bên cạnh những sáng tác thơ Nôm của mình, Hồ Quý Ly còn có những cống hiến không chỉ trong việc phát triển hệ thống văn tự này, mà còn là một nhà Nho xuất sắc, ông đã dịch rất nhiều tác phẩm Nho học từ chữ Hán qua chữ Nôm. Tên tuổi được gắn với thời kỳ Nho giáo của Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển cao, Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà Nho đơn thuần, ông còn có đóng góp lớn lao cho triều đình.
    Lúc này đây, chữ Nôm đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống sinh hoạt của những cư dân nước Việt. Thời kỳ này, tên tuổi của một vị vua được nhắc nhiều đến trong việc phát triển nền văn hoá nước nhà nói chung và phát triển chữ Nôm nói riêng, đó chính là vua Lê Thánh Tông, đứng đầu hội Tao đàn nhị thập bát tú gồm 28 ngôi sao trong làng trí thức nước Việt, ông đã tạo nền cho sự phát triển của rất nhiều tác phẩm văn học giai đoạn này. Song chữ Nôm lúc bấy giờ trên thực tế vẫn chỉ được sử dụng như một phương tiện để sáng tác văn chương. Để ghi chép lại những sự kiện hàng ngày và ở trong phạm vi hoạt động dân gian chứ chưa có vai trò trong những văn bản của chính quyền.
    Một giai đoạn dài kế tiếp sau đó, Việt Nam trải qua rất nhiều những biến động của lịch sử. Thời kỳ này, Việt Nam phải hứng chịu nhiều tác động từ những thế lực ngoại xâm. Trong những khó khăn như vậy, tinh thần dân tộc và lòng dũng cảm được hun đúc qua bao thế hệ lại được bộc lộ. Nền văn hoá Việt nói chung cũng như văn tự Nôm nói riêng dần phát triển và đứng vững qua những thử thách như thế. Rồi cuối cùng những chiến thắng của quân và dân Việt Nam cũng đã đưa dân tộc và kho tàng văn hoá của mình sang một trang sử mới. Văn tự Nôm cũng vì thế mà có những biến động tích cực. Được mệnh danh là người Anh hùng áo vải, Hoàng đế Quang Trung đã có một bước tiến thần tốc đưa dân tộc Việt Nam thoát khỏi nạn ngoại xâm, đi đến nền độc lập của mình. Xuất thân từ một đất nước chuộng hoà bình và rất hiếu học, vị hoàng đế này không những tỏ rõ khí phách phi thường của một quân vương mà còn là một trong những ông vua yêu văn học của nước Việt. Trong thời kỳ trị vì đất nước, bên cạnh việc củng cố an ninh đất nước, Quang Trung còn hết sức mình làm dày dặn thêm cho kho tàng văn hoá dân tộc. Đặc biệt hơn, ông còn tỏ ra thành thạo trong việc sử dụng hệ thống chữ Nôm, văn tự của riêng người Việt. Thời kỳ về sau này, khi chữ Nôm đã ngày càng hoàn thiện, sự phát tán mở rộng khắp dân chúng thì các tác phẩm cùng những gương mặt đi kèm ngày càng nở rộ. Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương với những tác phẩm mạnh mẽ cho tới tận bây giờ vẫn còn nguyên đó những giá trị. Tất cả những tác phẩm của bà đều được sáng tác bằng chính chữ Nôm, thứ chữ như được dành riêng cho những áng thơ văn bất hủ của nước nhà. Những tác phẩm thơ bằng chữ Nôm ấy còn làm nên một tên tuổi, một phong cách sáng tác cho từng giai đoạn. Rồi Nguyễn Du với "Truyện Kiều" lưu danh muôn thủa, có lẽ giai đoạn này văn hoá Việt Nam và văn tự Nôm đã có những hoạt động mạnh mẽ tách dần khỏi văn hoá Hán vốn chi phối lâu nay, tạo bước đệm cho một thời kỳ văn hoá độc lập.
    (Hoàng Lâm)
  5. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Vào thế kỷ thứ 15, chữ Nôm ở Việt Nam đã đạt được sự phát triển nhất định trong khung cảnh văn hoá Việt Nam. Sự góp mặt của chữ Nôm trong những tác phẩm văn học nổi tiếng thời bấy giờ đã đánh dấu bước ngoặt lớn về tinh thần dân tộc.
    Những gương mặt nổi tiếng gắn với những sáng tác bằng chữ Nôm liên tục xuất hiện như Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi hay Hồ Xuân Hương, những sáng tác của họ đã góp phần quảng bá chữ Nôm rộng rãi. Thời gian này hệ thống chữ Nôm đã được phát tán trên một phạm vi khá rộng với nhiều quy tắc tạo chữ. Song cũng chính vì sự phong phú trong cách tạo chữ ấy đã làm cho tính thống nhất của hệ thống văn tự này xuất hiện những rào cản không nhỏ, những rào cản ấy đã gây ra những khó khăn cho việc truyền bá sâu trong quần chúng. Lúc bấy giờ, do sự phát triển của ngành hàng hải phương Tây, những thương thuyền với các hải vụ liên tục được tổ chức hướng về phía Đông. Việt Nam, một đất nước có bờ biển dài thuận lợi cho các chuyến hải vụ ấy cũng nằm trong đích đến của những thương thuyền phương Tây. Những ghi chép của người phương Tây khi tới Việt Nam là khá chi tiết, ở đó có đề cập tới một hệ thống văn tự của riêng người Việt là chữ Nôm. Ngay từ khi mới có mặt tại đây, các chuyên gia nước ngoài đã chú ý tới một yếu tố quan trọng trong văn hoá bản địa là chữ viết.
    Thời kỳ sau, vào cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16 hàng hải Châu Âu liên tiếp thu được những thành tựu lớn, và vì thế những thương gia hướng tầm nhìn của mình sang các quốc gia phía Đông xa xôi ngày càng nhiều thêm do đó các thương thuyền có đích tới khu vực này ngày càng nhiều. Không chỉ có những nhà thám hiểm trên các con thuyền, những nhà nghiên cứu văn hoá cũng tham gia vào đó tương đối nhiều. Họ tìm tới những khu vực trung tâm văn hoá phía Đông như khu vực Lưỡng Hà, Trung Quốc và nhiều nơi khác. Thời gian sau, góp mặt vào đó có cả những nhà truyền giáo, những giáo sĩ thuộc dòng Tên của đạo Ki tô. Họ đi theo để làm nghĩa vụ dẫn dắt tinh thần cho các thuỷ thủ cũng như truyền bá đạo Thiên chúa đến những vùng đất mới. Việt Nam vì thế cũng không phải là một ngoại lệ trong khu vực truyền đạo ở Đông Á. Các giáo sĩ đầu tiên có mặt ở đây khá sớm, họ theo những thương thuyền của các nhà buôn từ Châu Âu. Tới Việt Nam, các giáo sĩ lúc đầu chỉ hoạt động ở những khu vực nhỏ mà những thương gia có quan hệ buôn bán. Song không ai có thể biết được, một hệ thống chữ viết của người Việt về sau này lại được phát triển trên cái nền tảng ban đầu của sự xuất hiện những giáo sĩ đó. Thế kỷ thứ 15 và 16 đánh dấu sự có mặt của Thiên chúa giáo trên một phạm vi rộng lớn. Lúc bấy giờ, đạo Thiên chúa đang có một sự ảnh hưởng mạnh mẽ ở Châu Âu, đặc biệt là ở hai quốc gia Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Không bằng lòng với việc chỉ tồn tại ở Châu Âu, hai quốc gia này luôn muốn mở rộng hơn nữa, phát tán rộng hơn nữa công giáo sang cả những địa vực khác trên thế giới. Đích ngắm của những cuộc truyền giáo ấy đầu tiên chính là những quốc gia và lãnh thổ vẫn chưa có những tôn giáo, tôn giáo bản địa chưa thật mạnh mẽ như Châu Mỹ hay những khu vực còn cởi mở trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo như ở Đông Á. ở sát Đại Tây Dương, các giáo sĩ Bồ Đào Nha rất thuận lợi trong việc di chuyển bằng đường biển, xuất phát từ cảng Lisbone, họ đi tới eo Gilbranta ngay cạnh mình, từ đó di chuyển xuống phía Nam, men theo bờ biển châu Phi, qua Cápve. Rồi từ Cápve đi vòng qua mũi Hảo Vọng của Nam Phi và ngược lên phía Bắc men theo bờ biển của Ma-đa-gas-ca. Hướng lên phía Bắc tới ấ Độ, tại đây người Bồ Đào Nha đã xác lập điểm truyền giáo đầu tiên tại Đông Á. Rồi từ đó, các giáo sĩ lại đi vòng qua Alaska, lách qua những hòn đảo thuộc Đông Nam Á để tới Trung Quốc. Sau khi thành lập điểm truyền giáo thứ 2 ở Macao, những chiếc thuyền lại theo Thái Bình Dương để lên tới Nhật Bản. Tại Nhật Bản, các giáo sĩ cũng có những hoạt động truyền giáo mạnh mẽ như ở Trung Quốc. Ngược lại với Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha lại đi sang phía Tây của bán cầu, ở đó, điểm dừng chân đầu tiên của họ chính là Mê-hi-cô, ở đây họ đã thực hiện kế hoạch truyền giáo của mình hết sức quyết liệt. Ảnh hưởng của Thiên chúa giáo tại khu vực Châu Mỹ cứ dần rộng ra khắp châu lục, tới Colombia rồi Pê ru. Nhưng giống như Bồ Đào Nha có mặt ở Brasil tại phía Tây bán cầu, người Tây Ban Nha cũng mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình sang phía Đông như một sự thoả thuận ngầm. Và đó cũng chính là lý do người Tây Ban Nha đã có mặt tại Philipine. Rồi cùng với Goa của Ấn Độ, Macao của Trung Quốc, khu vực Đông Nam á nằm chọn trong tam giác truyền giáo tại Châu Á. Sau khi tới truyền giáo tại Trung Quốc và Nhật Bản chỉ một thời gian ngắn, các giáo sĩ đã có mặt tại Việt Nam. Tại Việt Nam lúc bấy giờ, Phật giáo và Nho giáo đã có một thời gian du nhập và phát triển. Nhà nước Phong kiến được thành lập ở Việt Nam đã có những hoạt động vững vàng, làm nền tảng cho những tôn giáo có mặt tại Việt Nam từ trước. Những tôn giáo ấy còn có một vị trí chắc chắn trong tâm thức cũng như đời sống văn hoá của các cư dân Việt Nam. Những nguyên nhân ấy cũng làm cho các tôn giáo mới không dễ dàng tìm được chỗ đứng. Còn về môi trường chính trị thì lúc bấy giờ ở Việt Nam đang trải qua những biến động lớn của thời cuộc. Vận mệnh đất nước đối mặt với cuộc chiến phân chia do sự tranh chấp của hai thế lực Trịnh và Nguyễn. Khu vực Đàng ngoài lúc bấy giờ do đã có một quá trình chịu sự ảnh hưởng của hệ thống Nho giáo từ phương Bắc với những lễ giáo phong kiến, cùng với đó là hệ thống văn tự Nôm đã được hình thành từ trước nên những luồng tư tưởng mới chưa thể ngay lập tức xác lập được chỗ đứng trong tâm thức của các cư dân nơi này. Song không vì thế mà đạo Thiên chúa không thể thâm nhập được. Lúc bấy giờ, tình hình văn hoá và tôn giáo ở toàn Việt Nam tương đối hoà nhã. Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo cùng tồn tại một cách hài hoà. Trên cái nền tam giáo đồng nguyên ấy, các cư dân nơi này cũng tỏ ra cởi mở với những tư tưởng tôn giáo từ bên ngoài. Theo chân những thương gia, Thiên chúa giáo đã có mặt tại Việt Nam và dần tạo được chỗ đứng cho mình. Sự tồn tại hài hoà các tôn giáo ở Việt Nam khi ấy và cả bây giờ rất dễ có thể nhận thấy, đặc biệt thể hiện ở kiến trúc. Bên cạnh những nét đặc trưng về kiến trúc nhà thờ Công giáo được quy định ngay tại các nước Tây Âu, những nhà thờ tại Việt Nam còn mang những dáng dấp của đất nước mình, thậm chí ở đó có cả hình bóng của kiến trúc Phật giáo. Điều này thể hiện rõ tính cách ôn hoà của các cư dân đất Việt đối với một luồng tư tưởng mới từ bên ngoài, nó cũng tạo điều kiện cho họ có được tư thế tiếp thu khách quan nhất những luồng tư tưởng ấy, và đó là nền tảng thuận lợi cho việc hình thành một hệ thống chữ viết mới. Ngay từ khi có mặt tại khu vực Đông Nam Á, các nhà truyền giáo đã chú ý tới những quốc gia có thuận lợi về giao thông đường biển. Và Việt Nam hoàn toàn đáp ứng được tất cả những yêu cầu đó, chỉ sau một thời gian, hoạt động của các nhà truyền giáo tại đất nước này đã có sự mở rộng rõ rệt. Những giáo sĩ khi có mặt tại Việt Nam đã có các ghi chép đầu tiên về đất nước này, và một trong những công việc thường thấy là học ngay thứ tiếng của người bản xứ để dễ bề thực hiện hoạt động truyền giáo. Và do đó, nền tảng cho một hệ thống chữ viết sau này được ra đời bởi nhu cầu ghi chép lại những âm tiếng Việt bằng chữ La Tinh. Hoạt động này của các nhà truyền giáo được diễn ra theo một hệ thống và trải qua thời gian tương đối dài. Song không phải tới Việt Nam các giáo sĩ mới có nhu cầu dùng chữ cái La Tinh để ghi lại cách phát âm của người bản xứ, bởi họ đã có mặt ở Trung Quốc và Nhật Bản từ trước khi tới Việt Nam. Những ghi chép cho tới tận bây giờ đều cho thấy đã có một công trình khá quy mô nhằm La Tinh hoá tất cả những ngôn ngữ ở khu vực Đông Á, trong đó có Trung Quốc và Nhật Bản, những công trình ấy cũng có một quy tắc tương đối thống nhất. Khi tới bất kỳ một quốc gia hay vùng lãnh thổ nào đó, các giáo sĩ đều được học thứ tiếng nói của chính những khu vực ấy để có thể thu được kết quả cho việc truyền giáo của mình. Do đó, các giáo sĩ người Bồ Đào Nha là những người nói thông thạo tiếng Hán và tiếng Nhật khi họ tới đó. Nhưng việc viết những con chữ của các quốc gia này không phải là chuyện đơn giản. Và để dễ dàng hơn cho việc truyền bá những ngôn ngữ này tới các giáo sĩ khác hay phiên âm những địa danh bản xứ, người ta bắt buộc phải tạo ra một hệ thống chữ viết sao cho tự mình có thể dễ học nhất. Và thế là hệ thống phiên âm bằng chữ cái La Tinh được ra đời. Người ta có thể tìm được những cách đọc âm Hán, hay âm Nhật bằng những con chữ La Tinh. Những cách phiên âm đó còn xuất hiện ngay ở những cuốn từ điển đầu tiên của những quốc gia này. Vậy tại sao các giáo sĩ Bồ Đào Nha khi đáp những chuyến hải trình xa xôi ấy lại phải cất công học những ngôn ngữ không hề đơn giản của các quốc gia bản xứ, tại sao họ không buộc chính những quốc gia đó phải học tiếng Bồ Đào Nha của mình?. Điều này liên quan tới các phương thức truyền giáo. Lúc bấy giờ ở phương Đông, những quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam đã có sự phát triển nhất định. Các Triều đình Phong kiến đã được xác lập vững vàng. Điều này hoàn toàn trái ngược với khu vực phía Tây là Châu Mỹ, nơi cư trú của các bộ lạc da đỏ hay những tộc người còn trong tình trạng chưa phát triển mạnh. Với những trường hợp này, các giáo sĩ áp đặt cho họ một nền văn hoá mới, buộc họ phải học tiếng nói của mình. Cũng chính vì thế mà khu vực châu Mỹ sử dụng tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là chính, còn ở Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam thì không thể xoá bỏ được một nền văn hoá bản địa đã được hình thành từ rất lâu đời, được thử thách và trải nghiệm qua nhiều thế hệ. Do đó, ở những khu vực này không thể áp đặt được những phương pháp như ở châu Mỹ. Và thế là Việt Nam cũng giống như Trung Quốc và Nhật Bản, tiếng nói của mình không hề mất đi mà được các giáo sĩ phương Tây sử dụng những con chữ La Tinh để dễ dàng phiên âm. Sự mở rộng phạm vi truyền giáo tại Việt Nam cũng vì thế mà vô tình làm phát tán hệ thống chữ cái La Tinh, hệ thống mà vài thế kỷ sau đó được người Việt Nam chấp nhận là văn tự của quốc gia. Cũng thời gian này, Việt Nam có những biến động về xã hội, do chính sách mở rộng địa vực sinh sống, nhà Nguyễn làm chủ khu vực phía Nam liên tục có những cuộc khai phá vào Đàng trong. Sự có mặt đông đảo của các cư dân ở khu vực này tạo ra một địa vực sinh sống rộng lớn tại nơi mà trước kia vẫn còn là vùng hoang hoá. Địa vực sinh sống được mở rộng đồng nghĩa với việc phát tán những hình thái tôn giáo đi theo như một điều tất yếu, và như vậy có thể nói chữ cái La Tinh cũng có mặt theo chân những giáo sĩ vào Nam từ thời kỳ đó. Trong khi ấy, ở Đàng ngoài Nho giáo vẫn là một hình thức tư tưởng phổ biến, các cư dân người Việt lúc bấy giờ nói tiếng Việt nhưng có tới hai hệ thống chữ viết là chữ Hán trong các văn bản Nhà nước và chữ Nôm dùng để sáng tác và ghi chép văn thơ. Vậy tới khi nào chữ La Tinh mới được chấp nhận như một hệ thống văn tự chính?, việc đó còn phải trải qua một thời gian dài với những thử thách của lịch sử.
    (Hoàng Lâm)
  6. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0
    Cũng giống như ở Việt Nam thời kỳ sau, khi tới Trung Hoa và Nhật Bản để truyền đạo, các giáo sĩ Bồ Đào Nha đã được chứng kiến một chế độ xã hội rất phát triển ở những quốc gia này.
    Đặc biệt ở Trung Quốc đã có một nền văn hoá được hình thành từ lâu đời với những thành tựu trên nhiều lĩnh vực và các tên tuổi kiệt xuất. Do đó, người Bồ Đào Nha không thể sử dụng những biện pháp truyền giáo huỷ diệt như cách họ cùng với người Tây Ban Nha áp dụng ở châu Mỹ. Lúc bấy giờ, các giáo sĩ đã lựa chọn phương thức thích nghi, tức là dựa trên nền tảng có sẵn của một nền văn hoá mà truyền bá tôn giáo của mình vào. Vì thế mà ngôn ngữ của các quốc gia này được họ sử dụng để truyền đạo chứ không bắt dân bản xứ phải học tiếng Bồ Đào Nha, do đó mà ở cả Nhật Bản lẫn Trung Quốc các giáo sĩ đều tiến hành phiên âm La Tinh tiếng nói bản địa. Vậy tại sao ngày nay người Trung Quốc và Nhật Bản không sử dụng những con chữ đã được La Tinh hoá ấy để ghi chép tiếng nói của mình, lý do là bản thân họ đã có một hệ thống chữ viết riêng khá hoàn hảo.
    Còn ở Việt Nam, vào khoảng nửa thế kỷ sau khi các giáo sĩ Bồ Đào Nha tới Trung Quốc và Nhật Bản, thì quốc gia này bắt đầu chịu ảnh hưởng của Công giáo. Lúc bấy giờ, tình hình xã hội của Việt Nam cũng có những biến đổi nhất định. Thế kỷ 16 đánh dấu những cuộc di dân vào sâu hơn phía Nam của đất nước, tạo lập thêm những địa vực sống mới rộng khắp. Cùng với đó, thời gian tiếp theo, do chính sách mở rộng hơn nữa phạm vi ảnh hưởng của chính quyền Đàng trong, nhà Nguyễn đã phái Nguyễn Hữu Cảnh, một chức sắc của triều đình vào nơi này để tổ chức một xã hội cho các cư dân, đánh dấu sự có mặt của nhà cầm quyền trong đời sống lao động và sinh hoạt của cư dân Đàng trong. Khi những giáo sĩ đầu tiên vào Việt Nam, khu vực Đàng trong này đã sơ bộ hình thành có thể tạo lập cuộc sống. Một điều đặc biệt nữa, khi đã hình thành được một địa vực sinh sống tại đây thì những cư dân hầu hết là từ nhiều vùng đất khác nhau di dời đến. Trước một cảnh quan mới với điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho lao động và sinh sống, những cư dân nơi này dễ dàng tiếp nhận các luồng tư tưởng mới, và thế là Công giáo có mặt một cách tự nhiên. Cùng thời gian đó, ở Đàng ngoài, tuy gặp phải những khó khăn nhất định nhưng Công giáo cũng đã có được chỗ đứng trong đời sống tín ngưỡng của các cư dân Đàng ngoài. Song điều đáng nói nhất là bên cạnh việc truyền bá đạo Thiên chúa vào Việt Nam thì các giáo sĩ đã đặt được một nền móng cho hệ thống văn tự của quốc gia này. Khi tới những quốc gia mới để truyền giáo, các giáo sĩ Thiên chúa đều phải học tiếng nói bản địa, và tới Việt Nam cũng vậy, các nhà truyền giáo có những người khá thông thuộc tiếng Việt. Trong quá trình truyền giáo, các giáo sĩ cảm thấy khó viết tiếng Việt theo kiểu chữ Hán hay chữ Nôm bởi quá khó, vì thế mà họ đã tiến hành phiên âm bằng chữ La Tinh.
    Quá trình La Tinh hoá những âm tiếng Việt được tiến hành qua một thời gian khá dài. Trong những ghi chép của các giáo sĩ về sau này có nhắc đến A.Rhodes - một giáo sĩ Công giáo thuộc dòng Tên là người có công hệ thống hoá những cách phiên âm La Tinh một cách thống nhất. Ông có mặt tại Việt Nam từ thế kỷ 17, và là một trong nhiều các giáo sĩ người Pháp có mặt tại Việt Nam giai đoạn này. Nhưng tại sao người Pháp lại có mặt ở Việt Nam, trong khi các giáo sĩ Bồ Đào Nha mới là những người đến đây đầu tiên, đó là một vấn đề cần làm rõ. Chính sự ưu tiên đó nên A.Rhodes đã có mặt tại Việt Nam. Việc A.Rhodes có mặt tại Việt Nam thời gian đầu cũng chỉ đóng vai trò như một giáo sĩ truyền đạo như nhiều giáo sĩ khác. Lúc bấy giờ có lẽ chính bản thân ông cũng không biết rằng, tên tuổi của mình sẽ gắn với hệ thống chữ viết của quốc gia này. Những ghi chép sau này đã cho thấy ông đóng một vai trò khá quan trọng đối với việc hình thành chữ viết La Tinh hoá của người Việt, song sản phẩm ấy được hình thành bởi sự góp công của nhiều người. Lúc bấy giờ, Việt Nam đã hình thành là một quốc gia với đầy đủ các cơ cấu chính quyền từ nhà nước tới các địa phương với những địa danh, tương ứng với đó là các vị chức sắc. Khi những giáo sĩ vào Việt Nam, để có thể nắm được đầy đủ những hiểu biết ấy, bắt buộc phải ghi chép lại đầy đủ địa danh cũng như những chức danh bản địa. Việc làm ấy cùng với quá trình học tiếng Việt bằng cách dùng chữ La Tinh để phiên âm đã tạo nên nền tảng cho việc hình thành chữ Quốc ngữ. Trong những ghi chép của các giáo sĩ thời kỳ đầu gửi về La Mã đã xuất hiện những địa danh bản xứ được phiên âm qua bằng tiếng Bồ Đào Nha và sau này là tiếng Pháp. Tất nhiên lúc bấy giờ các cách phiên âm còn chưa thể tìm được sự thống nhất. Lúc bấy giờ, tại châu Âu, ngoài A.Rhodes ra còn có rất nhiều giáo sĩ khác được phái sang châu á và tên tuổi của họ vẫn còn được lưu lại tới ngày nay.
    Vậy A.Rhodes là ai? Avinhion - một vùng đất nổi tiếng của Pháp với những phong cảnh tự nhiên yên bình, những mái nhà đỏ làm nên đặc trưng của cả một vùng. Lúc bấy giờ, thế kỷ 17 Avinhion là nhượng địa của Roma, đây được coi là khu vực có ảnh hưởng của Công giáo lớn ở nước Pháp. Những cậu bé vừa ra đời đã được tắm mình trong giai điệu du dương từ những chiếc dương cầm trong Thánh đường, và A.Rhodes là một cậu bé như thế. Ra đời trong một gia đình Công giáo theo dòng Tên, với một hoàn cảnh như vậy, A.Rhodes được sống trong một bầu không khí yên bình của cả thời tuổi thơ. Do cha là một Lãnh chúa của Ôđiắc, thuộc Avinhion, A.Rhodes từ bé đã được theo học những trường nổi tiếng của địa phương. Với những ảnh hưởng từ gia đình, dường như tương lai cuộc đời của A.Rhodes đã được xác định. Lớn lên, A.Rhodes được đưa vào học trong một trường Dòng của Pháp. Tới năm 1618, ông tới La Mã và được thụ phong linh mục tại đây. Một thời gian sau, ông nhận được lệnh đi sang châu á để truyền đạo. Như vậy, sau một thời gian lênh đênh trên biển, cũng đi theo những con đường mà các giáo sĩ trước đã đi, A.Rhodes đã có mặt tại Việt Nam. A.Rhodes đến vùng Viễn Đông năm 1619 và tới tháng 12/1624 mới tới Việt Nam. Lần đầu tiên tới Việt Nam, ông cập cảng Đàng trong, thuộc vùng Đà Nẵng. Lần đầu tiên A.Rhodes ở Việt Nam không lâu, ông chỉ lưu lại đây 18 tháng. Vào tháng 7 năm 1626, ông lên đường trở về Ma Cao. Lúc bấy giờ, Ma Cao là một trong những trung tâm truyền giáo của châu Á. Năm 1627, A.Rhodes tới Việt Nam, ông cập bờ Cửa Bạng thuộc Thanh Hoá. Từ đây bắt đầu một thời kỳ khó khăn vất vả của A.Rhodes, và đó cũng là thời kỳ hoàn thiện dần hệ thống chữ viết của người Việt. Theo một số tài liệu cho biết, thời gian này A.Rhodes đã nói được tiếng Việt khá thạo bên cạnh tiếng Pháp, Ý, La Tinh, Bồ Đào Nha, Nhật và cả tiếng Hán. Thời kỳ này ở Việt Nam, ông đã có khá nhiều ghi chép về tiếng Việt và chữ phiên âm, hiện giờ những văn bản chép tay ấy vẫn còn một số được bảo lưu. Nhưng thời kỳ đầu, hầu hết trong các văn bản, chữ quốc ngữ chưa xuất hiện, chỉ có tên của các địa danh được phiên âm theo tiếng Bồ Đào Nha. Tới đầu năm 1630, ông bị chúa Trịnh trục xuất, vì không có thuyền đi Ma Cao, A.Rhodes đi dọc miền ven biển vào vùng Bố Chính - Nghệ An, ở lại đó tới tháng 5/1630 thì đón tàu về Ma Cao. Lúc bấy giờ, quãng đường biển nối giữa Việt Nam và Ma Cao trở nên quen thuộc với A.Rhodes. Tại Ma Cao, A.Rhodes lưu lại đây 10 năm để làm công việc của một giáo sư Thần học. Còn ở Việt Nam lúc bấy giờ tình hình xã hội có những biến động nhất định, do chính sách mở đất vào Nam tạo thành những địa vực sinh sống mới, từ đó hình thành nên những thành thị thương cảng hoạt động khá sầm uất. Hoạt động buôn bán cũng kéo theo những giao lưu mạnh mẽ về văn hoá. Những tên tuổi của các thương cảng lúc bấy giờ trở nên nổi tiếng với thương gia nước ngoài như Cù Lao Phố, rồi cả những cảng thị hình thành thời kỳ sau nhưng đã nhen nhóm ngay từ lúc này. Sau năm 1640, A.Rhodes lại từ Ma Cao theo đường biển vào Việt Nam, đây là lần cuối cùng tới Việt Nam và cũng là lần vất vả nhất của ông. Ông không được cư trú yên ổn một nơi do luôn bị triều đình Lê - Trịnh xua đuổi, trục xuất, vì thế ông phải đi về nhiều lần trên con đường Ma Cao - Đàng trong. Trong những năm 1643 đến 1645, A.Rhodes vẫn lẩn quất ở Việt Nam. Cho tới năm 1646, A.Rhodes bị trục xuất khỏi Việt Nam, năm 1649 ông từ Viễn Đông quay trở về châu Âu và vĩnh viẽn không bao giờ trở lại vùng Viễn Đông nữa. Trong suốt thời kỳ tới Việt Nam sinh sống và truyền giáo, A.Rhodes đã tích cực tìm tòi và thống nhất lại những cách phiên âm tiếng Việt. Ngay cả khi quay trở lại Ma Cao và khoảng thời gian trốn tránh sự hắt hủi của nhà Lê - Trịnh, ông vẫn có những nghiên cứu và ghi chép về tiếng Việt trên phạm vi rộng. Có lẽ những công lao của A.Rhodes đối với tiếng Việt không cần phải nhắc tới nhiều. Từ những công trình tổng hợp của ông, người ta có được cách nhìn tương đối toàn diện về bức tranh phát triển một giai đoạn của chữ Việt. Song lúc bấy giờ, người Việt Nam không biết nhiều đến hệ thống chữ viết từ những giáo sĩ này. Ngoài các thầy cả người Việt giúp việc cho Chúa, những cư dân khác ở Việt Nam vẫn chỉ biết tới hệ thống văn tự Nôm, một hệ thống đã có chỗ đứng khá vững chắc trong nền văn hoá Việt. Và vì thế nhiều người khi tiếp xúc với hệ thống chữ Quốc ngữ thời kỳ sau thường lầm tưởng rằng A.Rhodes là giáo sĩ đầu tiên tiến hành La Tinh hoá các âm của tiếng Việt. Đến Việt Nam khá sớm, Buisomi cùng với một số nhà truyền giáo khác như PiNa đã tiến hành thống nhất việc phiên âm tiếng Việt. Để có thể tìm đến sự chính xác trong quá trình phiên âm, các ông đã cùng với những thầy cả người Việt đi tới nhiều nơi được coi là tập trung đông những người dân cư tụ và hoạt động buôn bán như chợ búa và bến sông. Dưới sự trợ giúp đắc lực của những thầy cả bản xứ, những giáo sĩ ấy đã có được cách đọc những âm tiếng Việt một cách phong phú và chính xác nhất. Khác với Buisomi, Fransisco de Pina lại là một giáo sĩ có thể nói tiếng Việt rất giỏi, với những hiểu biết của mình, cùng với những ghi chép như của Buisomi, ông đã có những tập hợp theo một hệ thống về cách phiên âm tiếng Việt. Khi tới Việt Nam, được sự chỉ bảo trực tiếp của PiNa, A.Rhodes đã có được một sự hiểu biết khá tổng hợp về tiếng Việt và các phương thức phiên âm ngôn ngữ này. Thời gian sau đó, từ những ghi chép và tổng hợp của những người đi trước, một vài giáo sĩ đã cho ra mắt hai cuồn từ điển Việt - Bồ La và Bồ La - Việt. Và điều cần đến đã phải đến, vào năm 1651, cuốn từ điển Việt - Bồ La chính thức được A.Rhodes cho ra đời. Với tính thống nhất trong cách phiên âm và được ghi chép đầy đủ, cuốn từ điển này là lời tuyên bố chính thức cho sự xuất hiện của một hệ thống chữ viết mới. Trong không khí trang nghiêm và sùng kính của Giáo đường ở Roma, những tuyên bố về ghi chép của một ngôn ngữ châu á thể hiện bằng chữ cái La Tinh được trân trọng đưa ra. Trước sự có mặt của những giáo sĩ trong Giáo đoàn La Mã, A.Rhodes trịnh trọng giới thiệu cuốn từ điển. Cũng tại đây, A.Rhodes cũng không quên nhắc tới công lao của các giáo sĩ đi trước mình. Giờ đây, khi nhìn lại một giai đoạn đi qua, người ta có thể đánh giá một cách khách quan về công lao của A.Rhodes với tiếng Việt, cho dù hệ thống văn tự ấy của ông có những khác biệt với bây giờ. Trong cuốn từ điển Việt - Bồ La thời bấy giờ, tuy đã có những điểm nhất quán trong việc phiên âm, nhưng vẫn tồn tại nhiều điểm chưa hoàn toàn được chính xác. Có những âm được sử dụng nhiều cách ghi khác nhau và không được quy định chặt chẽ. Song dù thế nào đi nữa thì vai trò của A.Rhodes là không thể phủ nhận được. Từ những ghi chép không nhất quán, ông đã tổng hợp lại và thống nhất được thành một hệ thống nhất định và giới thiệu ra với công chúng. Tên tuổi của A.Rhodes từ đó gắn với sự hoàn thiện của chữ Việt như nhiều nhà nghiên cứu khác của dân tộc.
    ( Hoàng Lâm )
  7. ATC

    ATC Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/03/2001
    Bài viết:
    6.452
    Đã được thích:
    0

    Khi đã đưa ra giới thiệu rộng rãi ở Roma cuốn từ điển Việt - Bà La, tên tuổi của A.Rhodes không chỉ được biết đến như một nhà truyền giáo, mà còn được biết đến như một nhà văn hoá gắn với hệ thống văn tự của cả một dân tộc. Nhưng cũng ngay trong trang giới thiệu của cuốn từ điển này, ông cũng nhắc tới sự giúp đỡ đặc biệt của những cha cố đi trước và các thầy Cả người bản xứ, những người đã đặt nền móng cho thành công của ông. Cuốn từ điển Việt - Bà La ra đời không những tuyên bố cho thế giới sự có mặt của một hệ thống văn tự, mà nó còn là cơ sở cho rất nhiều ghi chép về các lĩnh vực văn hoá quốc gia thời gian từ đó về sau.
    Từ A.Rhodes trở về sau, chữ Quốc ngữ đã có những thay đổi nhất định, từ thế kỷ 17 cho tới thế kỷ 19 là cả một chặng đường. Song những đặc trưng của chữ Quốc ngữ thế kỷ 18 thì không phải dễ dàng tìm thấy. Những đặc trưng của chữ Quốc ngữ thế kỷ 17 và thế kỷ 19 được lưu lại khá dày dặn trong các văn bản, đặc biệt là ở những cuốn từ điển. Song thế kỷ 18 do nhiều lý do đã không lưu giữ được văn bản liên quan tại Việt Nam. Nhưng có một nhà ngôn ngữ học đã giải quyết được vấn đề này, đó là Giáo sư, tiến sĩ Đoàn Thiện Thuật, cách đây hơn 20 năm, ông đã sưu tập được rất nhiều tư liệu chữ Quốc ngữ lưu giữ tại Bảo tàng Pari ở Pháp. Đó chính là những bức thư tay, những bản thông báo được thực hiện trong suốt thế kỷ 18. Những văn bản này có nội dung khá phong phú nên rất thuận lợi cho công việc nghiên cứu. Dựa vào tất cả những văn bản này, Giáo sư Đoàn Thiện Thuật đã có được những phân tích khoa học và chỉ ra được những đặc trưng cũng như sự thay đổi của chữ Quốc ngữ giai đoạn này. Những phân tích cho thấy, ở thế kỷ 17 vẫn sử dụng chữ ub và v để ghi âm v, song sang thế kỷ 18 chỉ còn sử dụng chữ v và b. Hay ở thế kỷ 17 vẫn sử dụng chữ u có dấu móc để ghi âm ông hoặc ung , thì tới thế kỷ 18 đã dùng chữ ng để viết phụ âm cuối. Song điều đáng tiếc là những nghiên cứu này vẫn chưa được giới thiệu rộng rãi.
    Quay trở lại với những đặc trưng chữ Quốc ngữ thế kỷ 18, có thể coi sự thay đổi giai đoạn này là bước đệm cho những thống nhất trên diện rộng của thế kỷ 19. Thế kỷ 19 đánh dấu sự biến động lớn của xã hội Việt Nam, người Pháp bắt đầu xác lập quá trình ảnh hưởng văn hoá mạnh mẽ của mình. Nhà cầm quyền Pháp không chỉ muốn xác lập sự có mặt của mình trên phương diện tổ chức chính quyền, họ còn muốn nhìn thấy nền văn hoá bản địa được phát triển theo xu hướng có lợi cho những chính sách cai trị. Trong những ghi chép của người Pháp được giữ lại cho tới tận bây giờ, người ta có thể nhận thấy rất rõ mục đích truyền bá văn hoá Pháp vào Việt Nam, bên cạnh việc mở rộng dạy tiếng Pháp trong phạm vi quan lại, họ cũng rất chú trọng tới chữ Quốc ngữ, hệ thống văn tự ghi âm tiếng nói bản xứ được thống nhất bởi một giáo sĩ nước mình. Trên cơ sở không gian rộng lớn của cả đất nước Việt nam, người Pháp nỗ lực mở rộng sự ảnh hưởng của chữ Quốc ngữ, song khác với trước đây, mục đích của các giáo sĩ truyền bá chữ Quốc ngữ để truyền giáo thì lúc bấy giờ, nhà cầm quyền Pháp lại có mục đích phục vụ cho công việc cai trị. Cũng từ những mục đích ấy, một số thay đổi của chữ Quốc ngữ đã diễn ra lúc này.
    PiNô de Behaine - còn được biết đến với cái tên Bá Đa Lộc, người đã đắc lực giúp cho nhà Nguyễn lật đổ quân Tây Sơn. Trên phương diện học thuật, PiNô cũng là một giáo sĩ có những đóng góp nhất định vào sự thay đổi cách ghi âm chữ Quốc ngữ ở giai đoạn này. Trong cuốn từ điển viết tay của mình, PiNô là một trong số ít người thời bấy giờ sử dụng chữ ng để ghi phụ âm cuối, nhằm viết được những âm ông hoặc ung, sự thống nhất trong cách ghi âm này về sau đã nhận được hỗ trợ của một nhà nghiên cứu khác. ở cuốn từ điển viết tay cũng như nhiều văn bản khác, PiNô đều sử dụng chữ ng để ghi phụ âm cuối trong một số trường hợp. Trong khi đó, cách viết cũ sử dụng chữ u có dấu ở trên thời kỳ này vẫn còn được nhiều người áp dụng trong ghi chép của mình. Do đó, có thể thấy, sự thay đổi từ việc ghi phụ âm cuối bằng u có dấu ở thế kỷ 17 sang việc sử dụng chữ ng ở thế kỷ 18 tạo điều kiện phát triển trong cách viết của một số người như PiNô và Tabe. Trên nền tảng của cách viết ấy, nhiều văn bản khác sử dụng chữ Quốc ngữ đã dần viết theo cách viết sử dụng chữ ng thay cho chữ u có dấu ở trên, song lúc ban đầu, chỉ có một số ít người sử dụng phương pháp ghi âm này, bởi từ lâu người ta đã quen với những cách ghi âm cũ. Cho tới khi Tabe, một nhà truyền giáo khác khi sang tới Việt Nam đã có những thay đổi theo chiều hướng của PiNô. Rồi sự thuận lợi đã đến khi Tabe cho xuất bản cuốn từ điển của mình vào năm 1838, thời kỳ mà những cách viết khác nhau đang song song tồn tại. Trên nền tảng của các cuốn từ điển đã phát hành thời gian trước, cùng với những thay đổi mà PiNô đã sử dụng, Tabe tổng hợp và sử dụng những cách viết đó một cách thống nhất trong cuốn từ điển của mình.
    Quay trở lại với tình hình xã hội của Việt Nam lúc bấy giờ, sự áp đặt của thực dân Pháp ở Việt Nam ngày càng trở nên nặng nề. Trước sức ép cai trị của thực dân Pháp ngày càng trở nên hà khắc, sự phản kháng của cư dân Việt dần được nung nấu, họ không dễ dàng chấp nhận sự áp đặt đó. Cũng chính vì vậy, người dân Việt không chấp nhận được những truyền bá về văn hoá từ phía những kẻ xâm lược, do đó đời sống ngày càng trở nên ngột ngạt. Các sĩ phu yêu nước lúc bấy giờ không dễ gì chấp nhận một nền văn hoá thực dân, và từ đó vô hình chung cũng không chấp nhận quá trình truyền bá của chữ Quốc ngữ, thứ chữ lúc đó vẫn chưa phổ biến trong dân. Thậm chí thời gian này còn có những phản đối gay gắt. Khi nhà cầm quyền thúc ép các tầng lớp sĩ phu và nhân dân phải học chữ Quốc ngữ thì gặp phải phản đối mạnh mẽ, do đang sở hữu hệ thống chữ Hán và chữ Nôm rộng rãi nên cư dân Việt khó lòng chấp nhận chữ Quốc ngữ, bởi họ vẫn coi đó là sản phẩm của Đế quốc. Đồng thời trước sự áp bức của thực dân Pháp trên một diện rộng, những phản ứng cứ thế ngày càng lên cao và mở rộng. Vừa phải đối mặt với ách thống trị khắc nghiệt và tàn bạo của Thực dân, người dân Việt Nam còn phải chứng kiến sự thờ ơ, bất lực của Triều đình phong kiến nhà Nguyễn. Bên cạnh sự bất lực của mình, triều đình nhà Nguyễn còn lợi dụng các thế lực nước ngoài để dập tắt những cuộc khởi nghĩa của quần chúng, đồng nghĩa với việc phải có những nhượng bộ nhất định cho thế lực thực dân. Chí căm thù hình thành trong dân lại càng hun đúc thêm tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, từ đó càng ra sức bảo vệ những hệ thống văn tự mình đang sở hữu, quyết không chấp nhận những thay đổi mới. Chữ Quốc ngữ vì những lý do đó mà đứng trước nguy cơ không được tiếp nhận từ chính dân tộc sở hữu tiếng nói đã được phiên âm ấy. Song thật may mắn, một sự kiện lịch sử quan trọng đã xảy ra đúng lúc. Không cầm lòng nhìn Tổ quốc bị áp bức, song cũng muốn tiếp thu những tri thức tiên tiến của thế giới, một phong trào đã nổ ra với những mục đích cụ thể. Nhà Nho Lương Văn Can - người cầm đầu phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, hoạt động của những nhà Nho tân tiến này là muốn cho dân tộc mình được tiếp cận với thế giới, từ đó hiểu rõ mình hơn và giành độc lập. Có dáng vóc gần giống như phong trào Khánh ứng Nghĩa Thục ở Nhật, Đông Kinh Nghĩa Thục ở Việt Nam cũng có những phương pháp và kết quả tương đương, song điều đáng nói ở đây chính là nhờ kết quả đó mà người dân Việt Nam đã có cái nhìn khách quan hơn về một hệ thống văn tự, đó chính là chữ Quốc ngữ. Trong quá trình hoạt động của mình, nhờ sự tác động sâu rộng trong quần chúng và nhận được ủng hộ, mục đích của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục đã có những kết quả thấy rõ. Theo chân phong trào, chữ Quốc ngữ có mặt ở rộng khắp nhiều nơi, đạt được kết quả hơn mong đợi. Hoạt động của phong trào này dù diễn ra không quá một năm nhưng đã có một vai trò quan trọng như một trạm chuyển tiếp trong quá trình phát triển của chữ Quốc ngữ, nó như một giai đoạn lịch sử tất yếu của một hệ thống văn tự. Thời gian sau, khi phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục đã phần nào đó đặt được nền móng cho sự tồn tại của chữ Quốc ngữ trong đời sống cư dân Việt, thì một hoạt động rất hiệu quả nữa được diễn ra đã giải quyết được khá toàn diện sự truyền bá chữ Quốc ngữ. Cũng nhờ hoạt động này mà chủ trương của chính quyền cách mạng đã được tuyên truyền rộng rãi. Trên cơ sở kết quả của hoạt động truyền bá chữ Quốc ngữ, liên tiếp về sau những lớp bình dân học vụ được tổ chức. Nhờ những lớp học như thế mà chữ Quốc ngữ đã được phổ biến rộng rãi hơn trong quần chúng nhân dân, và cũng nhờ đó mà tỷ lệ cư dân Việt biết viết đã tăng gấp nhiều lần so với trước đây. Có thể nói, với tính tiện lợi và dễ tiếp thu, chữ Quốc ngữ đã góp phần làm được điều mà thời gian trước chữ Hán và chữ Nôm không có được, đó là sự phổ cập. Ngày 2/9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào khai sinh ra nước Việt Nam, và chính Người cũng đã thấy ngay rằng: việc đầu tiên cần làm là chống đói, việc thứ hai là xoá nạn mù chữ. Người chỉ rõ, một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, vì vậy đã mở chiến dịch chống nạn mù chữ. Chỉ vài ngày sau, ngày 8/9 Chính phủ đã liên tiếp ban hành những sắc lệnh quyết định đặt ra một Bình dân học vụ trong toàn cõi Việt Nam, việc học chữ Quốc ngữ từ đó là bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người. Hạn trong một năm, toàn bộ dân chúng Việt Nam trên 6 tuổi phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ. Để tăng thêm sức mạnh của phong trào, ngay sau đó, Người đã ra lời kêu gọi toàn dân chống thất học, Người nói: "Là một người Việt Nam, phải đọc thông, viết thạo chữ Quốc ngữ". Chữ Quốc ngữ từ đó đã không tách rời khỏi đời sống của người Việt Nam. Nhìn lại cả một quá trình hình thành, tiếp thu của chữ viết Việt Nam, ta có thể thấy được cả một tiến trình phát triển của dân tộc. Từ những hình vẽ thô sơ thủa ban đầu để ký hiệu và chép lại những sự kiện xảy ra trong cuộc sống, rồi những biến động trong xã hội xảy ra liên tiếp đã có tác động trực tiếp tới việc tiếp thu chữ viết, người Việt đã bước vào một thời kỳ mới, đó là tiếp thu và hình thành một hệ thống chữ viết của mình. Sự vận động của thời gian đã kéo theo những bước tiến của lịch sử loài người, từ đó mỗi dân tộc cũng có con đường riêng của mình trong quá trình phát triển văn hoá. Quá trình dịch chuyển của cư dân Việt cũng phần nào ảnh hưởng nhiều đến sự lựa chọn và phát triển hệ thống chữ viết riêng cho mình, với những gì đã và đang sở hữu, dân tộc Việt Nam hoàn toàn có thể tự hào về một nền văn hoá văn tự của mình.
    ( Hoàng Lâm)
  8. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    hay quá. cái này em cũng đang theo dõi sát sao trên VTV2. Nhưng xem , nó ít vào đầu qua.Bác post lên, quả thật rất tuyệt.Kết hợp với mấy bài của Lis, và em đưa lên, thì có thể nóiHành trình chữ việt đã được đưa lên box TV khá đầy đủ.
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  9. DE_LA_FERE

    DE_LA_FERE Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    1.825
    Đã được thích:
    0
    Tuyệt, những bài viết thế này gọi là 5 Stars nhĩ
    Roẹt
  10. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Cách mạng Chữ Việt
    (phần 1)
    Tân Việt

    Sự tiến hoá là lẽ tự nhiên, ngôn ngữ cũng thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh. Từ xưa khi con người hiện diện trên trái đất đã có tiếng nói nhưng mãi dến khoảng 4.000 năm trước đây chữ viết mới bắt đầu xuât hiện. Thoạt đầu, người Trung Hoa dùng dây thắt gút để ghi lại những điều mình muốn nhớ. Tsang Chie là người Trung Hoa đầu tiên thay các gút dây bằng các gạch, mở đầu kỹ nguyên chữ viết. Cũng trong thời này, Chu Sung đã bổ túc hệ thống hoá chữ viết. Từ 3700 năm trước, dưới đời nhà Thang, người Trung Hoa đã bắt đầu viết trên vỏ rùa hoặc xương thú vật. Đến đời nhà Chu chữ viết theo hình tròn như con dấu triện. Thời chiến quốc ngôn ngữ Trung Hoa đã trải qua thay đổi lớn về lối chữ viết, về sau đời nhà Hán thì chữ đưọc viết thành hình vuông. Trải qua nhiều thay đổi chữ Trung Hoa đã hình thành như chúng ta thấy hiện nay.
    Ở Tây phương cũng phát minh chữ viết khoảng 3.000 năm trước, khởi đầu bằng chữ viết Ugarit (Syria), do người Do Thái sáng tạo. Khỏang 2,900 năm trước thành chữ Phoenician, tiến đến chữ Hy Lap cỗ cách đây 2.600 năm, thành chữ Etruscan và chữ Latin cách đây 2.500 năm, dó là các mẫu tự A B C v.v...
    Mặc dầu thay đổi chậm nhưng tất cả các ngôn ngữ đọc lẫn viết đều thay đổi theo nhu cầu tiến hoá con người, không ngôn ngữ nào đứng yên tại chổ. Chữ Hán phát triển tại nưóc ta cũng là lúc đánh dấu những ngày nô lệ đen tối trong lịch sử. Trước khi bị đô hộ, ngươi Việt Nam cũng đã có chữ viêt riêng của mình mặc dầu thô sơ gồm những gạch và vòng (tôi tình cờ dọc một bài nói hiẹn có viẹn bảo tàng tại Nhật còn lưu giữ). Tiéng Viẹt ngày xưa không có thanh ngữ nhưng vì gần Tàu và trải qua 1000 năm dô hộ, thanh ngữ Tàu đã ảnh hưỏng nên mièn Băc có 6 (không dấu, huyèn, săc, nặng, hỏi, ngã) và mièn Trung và Nam xa Tàu hơn nên chỉ có 5 (không có ngã).
    Ngay khi dành dưọc độc lập từ thế kỷthứ 10 dân tộc với tinh thần độc lậpViệt dã sáng tạo chữ viết của mình gọi là chữ Nôm, cấu tạo bởi 2 chữ Hán cho mỗi chữ Việt, một chữ chỉ nghĩa và một chữ chỉ cách phát âm. Người Nhật và Đại Hàn thì cắt bớt nét chữ Hán để làm thành chữ viết của họ dễ học hơn. Chữ nôm trên cột chùa Bảo an, Yen lãng, tỉnhVĩnh phú đã đưọc viết từ năm 1209 (dời Lý).
    Dến dời Trần vào thếkỷ 13 thì chữ nôm dưọc hệ thống hoá. Hàn Thuyen và Nguyẽn Si Cơ làm thơ chữ Nôm. Năm 1400 Hồ Quý Ly chính thức dùng chữ Nôm trong sach giáo khoa, công văn và chiéu chỉ. Dến thế kỷ 15 Nguyẽn Trãi dùng chữ Nôm sáng tác 250 bài thơ trong Quôc Âm Thi Tập. Sau này có truyẹn Kièu của Nguyẽn Du, bản dịch Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điẻm, các tác phẩm của Bà Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát , Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trư là những danh tác chữ Nôm. Dến đời Quang Trung thì chữ Nôm cực thịnh, tiếp tục cho dến khi chữ Đắc Lộ, tức chữ "quốc ngữ" thay thế. Chữ Đắc Lộ du nhập vào nước ta cũng cùng hoàn cảnh như chữ Hán ngày xưa, đánh dấu ssự bắt đầu của kỹ nguyên nô lệ mới cho thực dân Pháp và hậu quả trên 100 năm đau thương sau này. Không biêt có oan trái gì giữa chữ Đắc Lộ và vận mạng dân tộc VN hay không, nhưng chắc chắn chẳng có dân tộc nào hãnh diện khi chữ viết của chính mình cũng không sáng tạo nổi, một dân tổc tự kiêu hãnh với trên 4.000 năm văn hiến lại phải nhờ đến nhà truyền giáo ngoại quốc khai hoá chữ viết rất giản dị gần như ai có chut Tây học cũng dư khả năng ký âm tiếng nói của mình qua mẫu tự Latin một cách hợp lý hơn, giản di hơn. Ngay cả những bộ lạc Phi châu cũng Latin hoa chữ của họ mà không cần các dấu rườm rà. Đã thế, dân tộc VN cứ tiếp tục sử dụng chữ viết đó đến nay không ai dám hô hào thay đổi mặc dầu nó có rât nhiều khuyết diểm.
    Chữ quốc ngữ hay chữ Việt Nam thật ra không phải chữ của người VN sáng tạo, chỉ là thứ ký âm bằng mẫu tự Latin không được hệ thống và hợp lý lắm, nó chỉ là công trình thô thiển của ông Đắc Lộ, tức Alexandre de Rhodes nhằm mục đích duy nhất là giảng đạo Chúa mà thôi vì ông ta không thể kiên nhẫn học hết chữ Hán hoặc chữ Nôm để truyền đạo, hơn nửa đa số dân quê ông ta gặp lại mù chữ cả hai thứ đó. Ông Rhodes cũng không bao giờ nghĩ là chữ viết của ông sẽ trở thành chữ viết chính thức sau này của dân tộc Việt Nam 4.000 năm văn hién. Thật ra, không phải ông Rhodes là ngưòi duy nhât có công sáng tạo chữ quôc ngữ. Linhmục Francisco de Pina dến Thanh Chiêm (tức xả Điện Phưong, huyện Điện Bàn ngày nay thuộc tỉnh Quảngnam) vào năm 1617 là ngưòi thạo tiéng Viẹt dã để ý nghiên cứu văn phạm và cách phat âm. Alexandre de Rhodes và Antonio de Fontes theo học tiéng Viẹt với linh mục Pina. Lúc đó, Thanh Chiêm là dinh trấn cuả chuá Nguyễn Phước Nguyên, tổng trấn ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Binh Định nên các giáo sĩ đều phải qua đây.

    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.

Chia sẻ trang này