1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hậu Duệ Lê Chiêu Thống

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi vietyouth007, 01/05/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. MDB

    MDB Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2003
    Bài viết:
    947
    Đã được thích:
    0
    Lê Duy Kỳ (tên thật của Lê Chiêu Thống) là cháu của Ngọc Hân công chúa - vợ cưng của Nguyễn Huệ, gọi Huệ bằng dượng. Nếu là người nhu nhược , Duy Kỳ có thể gồi rung đùi, tọa hưởng kỳ thành, làm ông vua bù nhìn dưới sự bảo kê của bà cô ruột Ngọc Hân, cần chó gì phải lếch thếch lang bạt đầu rừng xó núi cho nó nhọc thân. Cái khổ là Duy Kỳ muốn yên mà người ta không cho yên.
    Theo công ước "quốc tế" thời í, Đàng Trong (miền Trung) của anh em Nhạc Huệ, và Đàng Ngoài (miền Bắc) của nhà Lê là hai vương quốc riêng biệt. Thế cho nên, khi Nguyễn Huệ đưa quân làm "nghĩa vụ quốc tế" ra Đàng Ngoài dẹp nhà Trịnh lần trước, xong xuôi mọi chuyện, thì đã thưa thốt rành rọt với vua Lê Hiển Tông là em dọn dẹp rác rưởi nhà bác xong thì em phắn chứ không tơ hào gì nhà bác cả nhớ. Thậm chí, Huệ ở hơi lâu lâu ngoài Bắc để hú hí với cô vợ non Ngọc Hân téo thôi, là Nguyễn Nhạc đã sốt ruột ***g lộn lên, đem vài trăm quân ngày đi đêm nghỉ từ Phú Xuân vào Thăng Long để gọi chú nó về. Khi Huệ về Nam, thì để lại Nguyễn Hữu Chỉnh lên ngôi phò Lê Hiển Tông rồi Lê Duy Kỳ. Sau đó, Nguyễn Hữu Chỉnh chọc giận Vũ Văn Nhậm (bộ tướng Nguyễn Huệ, và là con rể Nguyễn Nhạc) sao đó mà Nhậm lại kéo quân ra Bắc để đục bố con nhà Hữu Chỉnh, xâm phạm chủ quyền và lãnh thổ Đàng Ngoài. Rồi Huệ lại kéo quân ra Bắc lần hai cho Văn Nhậm đi suốt bài ca luôn.
    Cái kẹt là ở lần ra quân thứ hai này, Văn Huệ nảy tà tâm. Chỉnh có lần nói với Huệ rằng thì là đất Bắc Hà ngoài Chỉnh ra đếch còn ai là nhân tài cả. Huệ ra Bắc lần hai này, Chỉnh và Nhậm đều toi rồi. Quan lại nhà Lê thì chạy tứ tán khỏi Hà Nội từ lần Nhậm đục Chỉnh khi trước. Bây giờ, Bắc Hà chỉ còn là căn nhà trống gió thổi đầu này ra đầu kia. Chỉ cần mượn gió bẻ măng, tung quân Tây Sơn ra mượn tiếng là truy kích tàn quân của Nhậm, Chỉnh rồi tìm bắt Duy Kỳ, thí cho một đao thì đất Bắc là vật trong túi của Văn Huệ. Ông tổ Lê Duy Kỳ là Lê Lợi đã từng làm thế một lần. Sau khi đuổi được quân Minh rồi, Lợi cũng cho người đi tìm hậu duệ nhà Trần tên Trần Cao cho về giả cách lập tước vương xong giết phắt đi. Văn Huệ biết thế, mà Duy Kỳ cũng hiểu thế. Ván bài lật ngửa.
    Được ptlinh sửa chữa / chuyển vào 16:22 ngày 18/07/2007
  2. kemetmoi

    kemetmoi Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/09/2003
    Bài viết:
    648
    Đã được thích:
    393
    Thế điều đó nói lên được cái quái gì? Công ước, hiệp ước hay cái quái gì đi nữa chỉ tồn tại được khi và chỉ khi các bên làm ra nó có đủ thực lực để đảm bảo lợi ích của mình trong đó. Anh không đủ thực lực mà muốn người ta tôn trọng mình, đi nằm mơ đi.
    Quần hùng trục lộc, nhân nghĩa chỉ là trò tiểu xảo vặt vãnh mị dân. Nếu Nguyễn Huệ không có tư tâm đi chăng nữa mà nhìn thấy cái đất bắc hà như cái nhà trống toang hoác, ông ta không thuận tay dắt dê thì đã không phải là Bắc Bình Vương mà chỉ là tên tiều phu đốn củi nơi xó núi thôi.
    Còn Lê Duy Kỳ, đã tài hèn sức yếu, không thể giữ nổi cơ nghiệp cha ông thì biến vào rừng sâu núi thẳm cho rồi, hoặc giả có hùng tài đại lược thì chiêu mộ nghĩa sĩ tính kế lâu dài, dẫu không thành công cũng thành nhân, can chi cầu viện lũ người khác máu tanh lòng, từ nơi xa đến đè đầu cưỡi cổ đồng bào. Cho dù có ngồi lên cái ngai đã mọt rỗng được vài ngày thật cũng chỉ là con bù nhìn cho kẻ khác giật dây, lại di xú vạn niên.
    Âu cũng chỉ là tài hèn sức mọn nhưng lại muốn ngồi cao, không muốn chịu gian khổ mà lại thích được hưởng thụ, nên chịu làm tay sai cho ngoại bang dày xéo quê hương, từ Lê Chiêu Thống cho đến lũ hậu duệ sau này đều đi một con đường, đều chung một kết quả: CHẾT NHỤC NƠI ĐẤT KHÁCH,
    Được kemetmoi sửa chữa / chuyển vào 12:51 ngày 24/06/2007
    Được kemetmoi sửa chữa / chuyển vào 12:52 ngày 24/06/2007
  3. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Nói đi nói lại thì tại Lê Chiêu Thống thôi, Vũ Văn Nhậm kéo ra Bắc là diệt con chim bằng Nguyễn Hữu Chỉnh chứ ko dại gì mà lật đổ nhà Lê, Thế mà bố cuống cả lên chạy luôn đâm ra dẫn đến kết cục như vậy, giá như ông cứ ung dung ngồi lại Thăng Long thì chẳng bố con thằng nào dám động đến, nhà Lê dù đã quá mục rồi nhưng tiếng tăm còn nhiều, chú nào cũng phải giương lên lá cờ "Phù Lê" mà (cứ xem các cuộc nổi dậy thời Nguyễn Thì biết, toàn tôn con cháu họ Lê lên làm minh chủ cả đấy).
    Nếu vua Thống ở lại, Vũ Văn Nhậm vào thì dù có mưu đồ gì khác thì vẫn phải dựa vào vua, mưu của ông Nhậm chắc cũng chỉ như Chỉnh ấy vua làm bình phong để tác quái là cùng chứ gì. Chính vua Thống bị Chỉnh ép quá cũng đã định đánh thuốc độc khử đi. Vì vậy nếu Nhậm lộng quyền, ép vua thì ông chỉ cần "phone" cho bà cô ruột ở Phú Xuân là thằng "đệ" của chú nó "đì" cháu, cô bảo chú cho ra "xử" nó để giành lại quyền lực cho hộ Lê mình----Nhưng ông Thống này nhát quá, thấy quân Tây Sơn ra là hoảng lên té luôn, trong sách có ghi quân Tây đi tìm ông, chắc chẳng phải để giết đâu mà đưa về Thăng Long thôi. Tiếc nhảy, hoặc giả dụ quân Tây lập luôn Lê Duy Cận làm vua thì chuyện sẽ khác đi
  4. Linhcabincrew

    Linhcabincrew Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/03/2006
    Bài viết:
    1.110
    Đã được thích:
    0
    Linh lại có một suy nghĩ khác các bạn. Các bạn nên nhới rằng về triều đại, vua và hoàng đế ở Việt Nam chính thống đến thời điểm đó, dù không thực lực thì vẫn đang là nhà Lê. Chúa Trịnh thì dù nắm quyền nhưng thực ra vẩn là tôi nhà Lê. Vậy thử hỏi ai nắm quyền mà chẳng mong làm vua. Ta không lạ gì lịch sử từ ta đến tàu đến bất cứ nước nào. Gọi là không xâm phạm nhưng để lại bộ tướng để khống chế thì khác gì chúa Trịnh ngày xưa. Rõ ràng, Nhà Lê sau khi thoát khỏi cái ách chúa trịnh lại lâm vào cái ách khác. Bình mới nhưng rượu cũ.
    Được ptlinh sửa chữa / chuyển vào 16:26 ngày 18/07/2007
  5. kemetmoi

    kemetmoi Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/09/2003
    Bài viết:
    648
    Đã được thích:
    393
    Vấn đề là Linh ạ, trường hợp của ông Lê Chiêu Thống này không còn áp dụng luật hình sự được nữa. Không ai có thể phủ nhận một điều những người dân chịu đau khổ dưới ác quân Thanh đầu tiên là người dân Bắc Hà, vậy đó có phải là "gà nhà" hay không? Hành động của Lê Chiêu Thống có phải là cõng rắn cắn gà nhà hay không chắc đã rõ.
    Ở đây chúng ta không đứng trên bình diện cá nhân hay dòng tộc để phán xét, chúng ta đứng trên bình diện người dân một nước để đặt vấn đề. Đừng nghĩ rằng quân Thanh sang đất Việt là chỉ để đánh quân Tây Sơn, những nạn nhân đầu tiên của chúng không phải ai khác là người dân, điều này lịch sử đã chỉ rõ, không có gì là mập mờ và đối với những người dân đó LCT có phải là kẻ cõng rắn cắn gà nhà hay không bạn có thể tự đặt mình vào địa vị của họ để suy xét.
    Trường hợp Nguyễn Trãi thì khác, bất kể vua kết án thế nào, thế nhân vẫn vì tư cách và đức độ của ông mà hiểu cho ông. Đừng so sánh ông với Lê Chiêu Thống, rất khập khiễng.
    Và cuối cùng lịch sử không có chữ "nếu", còn đứng về dã tâm và dụng ý của quân thanh thì càng không cần phải "ví dụ", các chiếu chỉ và văn từ qua lại giữ Càn Long và Tôn sĩ Nghị bạn có thể tham khảo qua các nghiên cứu về cuộc chiến đó.
    Được ptlinh sửa chữa / chuyển vào 16:25 ngày 18/07/2007
  6. Linhcabincrew

    Linhcabincrew Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/03/2006
    Bài viết:
    1.110
    Đã được thích:
    0
    Thật khó nói. Linh hoàn toàn hiểu ý bạn và đồng ý với nó. Tuy nhiên, Linh chỉ muốn nhắc một điều. Cái gì cũng cần công bằng. Công tội và hoàn cảnh. 1 Kẻ đang sống nhung lụa mà phản bội nó khác một ông vua đang đào tẩu. Thử đặt bạn mà là ông ta, bạn sẽ làm gì?. Hơn nữa, sự việc đó là thế nào, có ai biết không mới là quan trọng. Bị lừa khác với cố tình, vô tình khác với hữu ý.
    Nhưng kết luận lại, chấp nhận ý bạn.
  7. MDB

    MDB Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2003
    Bài viết:
    947
    Đã được thích:
    0
    Đa tạ nhiều anh hùng, hào kiệt đã nhiệt tình tham gia góp vào chủ đề này. Sau 1945, ********* có khuynh hướng bài bác giới thượng lưu, trí thức, và phong kiến Việt Nam; do đó, các tay mưu sĩ + như Trần Huy Liệu, Hoàng Quốc Việt, Đặng Xuân Khu đã ra sức chỉ đạo cho báo đài, bộ giáo dục ra sức bôi bác các vua chúa Việt Nam, kể từ nhà Nguyễn trở đi, và tô son đánh bóng cho nguồn gốc "bần nông" của những người như Văn Nhạc, Văn Huệ.
    Khi nhiều bác trên này ra sức bôi nhọ lịch sử, các bác đã cố tình bỏ lơ đi tư liệu lịch sử chính yếu về giai đoạn này là "Hoàng Lê Nhất Thống Chí" (HLNTC), và do đó đã xuyên tạc các sự kiện lịch sử một cách trắng trợn. Một đặc điểm chung của nền giáo dục và thông tin XHCN ở Việt Nam là sự đặt điều dối trá trắng trợn không dựa trên dữ liệu người thực, việc thực.
    HLNTC đã chỉ rõ ra rằng Văn Huệ đã cố tình xâm lược xâm phạm chủ quyền của nhà Lê ở Đàng Ngoài chứ không phải là chỉ muốn dẹp Vũ Văn Nhậm và phò vua Lê như vài bác đặt điều bịa đặt trong các bài viết vừa rồi:
    "....Sau khi Bắc bình vương đã hoà với vua Tây Sơn (theo các tài liệu lịch sử, thì hai anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ giảng hoà với nhau ở thành Qui Nhơn (Nghĩa Bình) liền trở về Phú Xuân mở đại hội các tướng mà bảo họ rằng: "Nguyễn Chỉnh là người đã chết, ta lại vẽ mặt vẽ mày cho. Nay hắn bay nhảy ở Bắc Hà, phò vua Lê để sai khiến cả nước. Đã không lo đền đáp ơn ta mà còn định cắn lại, mưu đồ giành đất Nghệ An, đặt làm một trấn quan trọng, để bắt chước việc chúa Trịnh xâm lấn phương Nam ngày xưa. Thằng giặc ấy thật đáng giết. Không biết hắn đã sắp sẵn được bao nhiêu binh mã, có thể đánh nhau với ta được một trận hay không?"
    Tức thì, Bắc bình vương sai bọn Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, kéo quân ra Nghệ An, họp cùng Võ Văn Nhậm tính việc đánh dẹp phương Bắc. Tiếp đó lại cho Võ Văn Nhậm lĩnh ấn tiết chế, các tướng đều phải ở dưới quyền. Khi sắp đặt đã xong, Bắc bình vương hạ lệnh giục họ tiến quân. Bấy giờ đúng vào tháng mười một mùa đông năm Đinh vị (1787)." (HLNTC, Hồi 10)
    Rõ ràng lần xâm lược Đàng Ngoài lần hai này chủ mưu là Văn Huệ; Vũ Văn Nhậm chỉ là kẻ thừa lệnh. Do đó, khi đích thân Nguyễn Huệ đem đại quân theo sau Vũ Văn Nhậm ra Bắc, thì vua Lê Chiêu Thống không thể nào ngồi tại Thăng Long chờ chết được. Khi cha con Nguyễn Hữu Chỉnh thua trận chạy về Thăng Long, Chỉnh đã bày mưu nhờ Lê Chiêu Thống lên Việt Bắc lập chiến khu, còn mình thì định rút quân sang bờ Bắc của sông Hồng cự địch (HLNTC, Hồi 10).
    http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/hoangle/index.html (Hoàng Lê Nhất Thống Chí trên mạng)
    Được ptlinh sửa chữa / chuyển vào 16:27 ngày 18/07/2007
  8. MDB

    MDB Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2003
    Bài viết:
    947
    Đã được thích:
    0
    Khi gửi Tôn Sĩ Nghị sang, vua nhà Thanh cũng đã hành động theo đúng tinh thần của công ước quốc tế về sự bảo trợ quân sự giữa các hoàng gia với nhau. Thay vì nghe theo lời xuyên tạc vô bằng cớ của bọn +, tại sao chúng ta không nhìn vào tư liệu lịch sử chính thống để xem xem vua quan nhà Thanh hành xử có đúng phép ngoại giao không?
    Theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí, đây là lời của Tôn Sĩ Nghị:" Nước An Nam được phong, đời đời lo giữ chức phận tiến cống. Tây Sơn là bọn giặc nhỏ, dám diệt nước họ. Nạn của cống thần không thể không cứu, tội của cuồng tặc không thể không trị. Vì nghĩa mà hành quân ai dám không theo? Nếu lấy cớ là mọi rợ mà bỏ ra ngoài, ngồi nhìn bọn họ giết hại nhau mà không cứu thì tám xứ "man", chín xứ "di" làm bề tôi Trung Quốc, còn trông cậy gì nữa?"
    Theo HLNTC, đây là tư tưởng của vua Thanh về việc cứu viện cho nhà Lê:
    "... Lê Duy Kỳ ở An Nam, tuy chưa được phong, nhưng y là người đáng được nối ngôi, cũng không khác gì quốc vương. Nay mẹ và vợ cùng các quyến thuộc của y đều chạy sang đây, thế là toàn cõi nước ấy đều đã mất cả. Việc dựng lại nước đã bị diệt, nối lại dòng đã bị tuyệt, cần phải trù liệu sắp đặt mà rốt cuộc cũng phải hao phí rất nhiều binh lực. Nay xét ra, Duy Kỳ còn ở lại trong nước để tự lo lấy việc khôi phục, dân nước ấy theo giặc chẳng qua mới chỉ mấy xứ Mục Mã, Lạng Sơn, còn ở các vùng đông bắc, tây nam thì lòng người mến chủ cũ vẫn có thể tin cậy. Nếu dựa vào đó để lo nối lại ngôi vua ắt là có thể xong việc. Vậy truyền dụ cho Tôn Sĩ Nghị biết rằng: "Họ Lê thờ phụng thiên triều rất là kính thuận. Duy Kỳ theo lệ đáng được nối ngôi. Việc mất quốc ấn, ngày trước đã có dâng thư xin cấp ấn khác, song vì chưa cho sứ sang báo tang, không hợp thể chế, cho nên việc cấp ấn phải hoãn, đã có hịch dụ. Nay họ lại sai sứ thần tha thiết sang kêu xin, vậy chuẩn y việc sắc phong và cấp ấn cho họ. Xét cho kỹ. Duy Kỳ sở dĩ bị giặc đánh đuổi cũng chỉ là vì y không lo gắng sức trỗi dậy mà ra. Hiện giờ đất nước của y còn nhiều chỗ chưa bị giặc chiếm, thần dân cũng còn biết kính mến; Duy Kỳ nên nhân dịp ấy nhóm họp nghĩa quân, thu phục quốc thành, để cho nghiệp cũ không đến nỗi bị sụp đổ. Mẹ và vợ y chạy sang nội địa, đã được sắp đặt chỗ ở yên ổn, ăn mặc không thiếu, đất nước đã quen, y cũng không cần phải lo nghĩ, có thể chuyên ý lo việc trong nước, chờ khi khôi phục được kinh thành thì sẽ cho quân đưa mẹ và vợ y trở về. Lúc y sai sứ thần, thì lại nên sai người đã thông tin lần này sang, để làm chứng cứ, ngõ hầu mới khỏi bị kẻ gian lừa dối mưu hại. Đến như Nguyễn Huệ cậy mạnh cướp nước, phép không thể tha, đã giáng chỉ điều động đại quân ở Quảng Tây, để chờ khi gọi đến. Nếu giặc cứ hung hăng như trước, mà tự tôn họ Lê không thể phấn chấn để làm nên việc, thần dân nước họ lại cam lòng theo giặc thì sẽ cho đem đại quân bốn mặt họp lại mà đánh, cho sáng tỏ tội trạng của chúng. Như thế, trước tiên phải đưa hịch phi báo cho thần dân nước ấy, khiến họ đều biết, để làm mạnh thêm thế của họ Lê và làm cho bọn Tây Sơn mất vía kinh hồn, mà đối với việc giúp đỡ cho sự thanh viện cũng là có ích. Những người đi theo như bọn Nguyễn Huy Túc, tình nguyện về nước, tìm kiếm chỗ ở của tự tôn, để cùng giúp việc khôi phục, chí ấy rất đáng khen, lẽ nên cho họ về sớm; sớm một ngày là tự tôn của họ đỡ lo một ngày, và sau này trẫm cũng được nghe tin nước ấy mau hơn một ngày. Tôn Sĩ Nghị vốn có tiếng nhanh nhẹn, sáng suốt, sao không liệu trước điều đó, mà còn lo trẫm không ưng cho làm, để phải tâu đi tâu lại, không khỏi phạm sai lầm về sự câu nệ. Nay Nghị cần phải sớm tới Long Châu, giáp mặt mà hiểu dụ bọn sứ thần, giục họ lập tức lên đường; đem ý của trẫm truyền bảo cho họ biết, để họ về nước báo tin với anh em Duy Kỳ; đồng thời phải sao các tờ hịch thành nhiều bản, bảo họ đem về trong nước, ngõ hầu có thể truyền bá rộng rãi. Ngoài ra, bọn họ lặn lội khó nhọc, hành lý sơ sài, vậy ở đường thuỷ và đường bộ đều phải cấp phu trạm, hộ tống cho họ gấp đường mà đi; lại cấp cho mỗi người mười lạng bạc để tiêu pha về việc ăn uống. Nói tóm lại, việc này, nếu như cả nước An Nam bị mất, Duy Kỳ lại bị giết hại, thì nghĩ tình cống thần, không thể bỏ qua mà không hỏi tới. Vả chăng bờ cõi nước Nam chưa đến nỗi hoàn toàn mất hết, tự tôn tuy phải chạy trốn, nhưng thần dân vẫn còn mến phục. Như vậy, ta chỉ cần làm thanh viện cho họ, để họ tự lo lấy công việc, bất tất phải dấy quân làm to chuyện đem binh lực trong nước hao phí ở ngoài cõi nóng nực, xa xôi. Đó mới là kế tuyệt hay. Tôn Sĩ Nghị phải theo chỉ dụ trước, tới nơi biên thuỳ, trù tính cho kỹ, đốc thần (chỉ Tôn Sĩ Nghị) là người thạo việc, chắc có thể hiểu được ý của trẫm. Việc kinh lý biên thuỳ ở đấy, cho phép đốc thần được cùng viên phủ thần là Tôn Vĩnh Thanh họp bàn thoả đáng, tuỳ tiện thi hành. Hãy kính theo chỉ dụ này!".
    Rõ ràng, vua quan nhà Thanh chỉ định làm hư trương thanh thế cho nghĩa quân của vua Lê mà thôi, chứ không có ý định trực tiếp xâm lược.
    Lại nói về Lê Chiêu Thống, Hoàng Lê Nhất Thống Chí đã nêu rõ ý chí tự chủ của ông rất cao khi lãnh đạo phong trào Cần Vương chống ngoại xâm Tây Sơn tại miền Bắc. Hãy cùng nghe Hoàng Lê Nhất Thống Chí thuật lại các hoạt động và lời nói của vua Lê:
    "...Lại nói, vua Lê thân hành tới xem diễu võ ở núi Vạn Kiếp. Nhà vua ngự ở đền Trần Hưng Đạo, gọi Châu đến và hỏi:
    - Có được mấy trăm quân?
    Châu đáp:
    - Trừ số người mới theo về, thủ hạ tinh luyện của thần chỉ có trăm người mà thôi!
    Vua nói:
    - Tiếc rằng ít quá!
    Châu đáp:
    - Quân cần tinh nhuệ không cần nhiều. Có trăm quân cảm tử, cũng đã đủ để hoành hành trong thiên hạ. Thần đã từng thử, quân giặc có lúc kéo tới đầy cả đồng, thần chỉ sai vài chục người xông đến trước trận, múa dao chém bừa, không lần nào giặc không tan vỡ.
    Vua bảo:
    - Đúng như lời ngươi nói, nhưng đánh bất thình lình thì được, chứ đối trận mà đánh thì không được. Nay đang khi trốn chạy tan tác, nhân tình dễ loạn, làm gì cũng phải cho chu đáo mới có thể đứng vững để lo việc khôi phục. Vạn nhất bị vấp ngã thì không thể nào nhóm họp lại được nữa. Vì thế, thời xưa có người chịu nương náu ở núi Cối Kê, có người chịu nép mình ở đất Ba Thục (ở đây Chiêu-thống muốn nói đến chí phục thù của các vua đời xưa ở Trung Quốc, như Việt vương Câu Tiễn thời Xuân-Thu và Hán Cao Tổ cuối đời Tần. Câu Tiễn bị Ngô Phù Sai đánh bại và cho ở đất Cốt Kê, nhưng vẫn nhẫn nhục chịu đựng mọi cay đắng, ngầm nuôi chí lớn, sau quả nhiên trở lại diệt được nước Ngô. Hán Cao Tổ bị Sở Bá vương biếm phong vào đất Ba Thục. Cao Tổ tạm thời chịu lép vế, rồi về sau đã thắng Sở), người ta vẫn phải ẩn nhẫn mà giữ lấy lực lượng, không dám làm liều để rước lấy sự thất bại. Ngày nay, việc nước nhà cũng giống như vậy, nên trước tiên phải kêu gọi quân cần vương để thêm thanh thế, không nên lộ mặt ra vội. Trẫm đã sai các quan chia đường đi chiêu mộ binh lính, ở Kinh Bắc có Phạm Đình Dư, Chu Doãn Lệ, ở Sơn Nam có Trương Đăng Quỹ, Phạm Văn Lân, ít lâu nữa họ sẽ trở về phục mệnh. Nhà ngươi nên đợi họ, bây giờ hãy đóng quân ở trong núi, luyện tập số người mới theo, cho tất cả đều tinh nhuệ, để chờ sai khiến.
    Vua lại sai Đình Giản qua miền thượng du trấn Sơn Tây, kêu gọi nghĩa binh các trấn Tuyên Quang, Hưng Hoá, hẹn ngày cùng đến. Còn tự mình thì đi tới vùng Hải Dương, truyền hịch chiêu dụ.
    Lúc vua đến huyện Chí Linh, quan văn đi theo chỉ có ba người là Trần Danh án, Vũ Trinh và Ngô Thì Chí mà thôi.
    Ngô Thì Chí có dâng vua bài "Sách lược trung hưng" như sau:
    "Thần trộm nghĩ, dẹp loạn phải xem cơ, dùng võ phải có đất. Vua Thiếu Khang giữ Luân ấp mà sau mới dấy được nghiệp trung hưng; Vua Chiêu Liệt chiếm ích Châu mà sau mới chống được kẻ ngoại địch. Địa thế nước ta, Cao Bằng, Lạng Sơn nằm ở phía đông bắc, giáp với đất Trung Hoa. Núi sông hiểm trở, đủ để giữ vững, binh mã hùng cường, đủ để tiến đánh. Nay bệ hạ hãy ngự giá đến đó, sai một sứ thần sang báo với nhà Thanh, xin họ đem quân đóng áp bờ cõi, để làm thanh viện cho ta; đồng thời đưa mật chỉ cho hào kiệt bốn trấn, bảo họ hưởng ứng. Lòng người đã được khích lệ, ai dám không theo? Trăm quan kẻ nào chưa theo kịp, ai dám không tới? Ngoài tựa vào thế thượng quốc, trong nhóm họp quân cần vương, khiến cho thế giặc mỗi ngày mỗi trơ trọi, thế ta mỗi ngày một lớn mạnh. Rồi đó, ta sắp đặt phương lược, tiến lên khôi phục kinh thành, công nghiệp trung hưng hẳn có thể hẹn ngày mà làm nên được!".
    Vua vời Chí tới và bảo:
    - Ngươi nói rất hợp ý ta. Mùa đông năm ngoái, ta sai hoàng đệ và các hoàng thân hầu thái hậu lên Cao Bằng, có đưa mật chỉ cho viên đốc đồng Nguyễn Huy Túc, dặn y dùng lời nghĩa khí khích động lòng người, liên kết bọn phiên tướng, tụ tập quân biên cương, cũng là sắp sẵn cho việc ấy. Nhưng còn Lạng Sơn thì ta chưa sai ai đi.
    Chí tâu:
    - Trước kia, khoảng năm Đinh Dậu (1777), niên hiệu Cảnh Hưng, cha thần đã vâng chiếu lên làm trấn thủ xứ Lạng Sơn, để tuyên bố uy đức của triều đình và chiêu tập những kẻ lưu vong. Nhân dân bảy châu, đến nay vẫn còn mến yêu. Thần xin lên đó, vâng chỉ chiêu dụ, nhân dịp báo tin cho Túc, tâu với thái hậu, hẹn ngày ra quân để đón xa giá. Thế là một chuyến đi mà được cả hai việc.
    Vua Lê khen là phải rồi cho Chí đi. Chí mới đến huyện Phượng Nhãn thì phát bệnh, không thể đi tiếp, liền gửi tờ biểu về xin nghỉ ít hôm để điều trị. Vua bèn cho mười nén bạc để chi về việc thuốc thang.
    Trong lời biểu của Chí gửi về tạ ơn vua, có đoạn viết:
    "Gặp cơn nguy biến, chí hợp mà tâm đồng; nghĩa vua tôi ngàn năm mới gặp; trong đạo luân thường, phận ưa mà tình nặng; tình cha con một nhà khác chi? Nay gặp buổi quốc gia còn lắm nạn; chính là khi thần tử phải quên mình. Dám đâu vì việc riêng mà tiếc thân; nguyện sẽ đeo bệnh tật để dấn bước".
    Vua xem tờ biểu lấy làm cảm động.
    Vừa lúc đó, bọn Đình Dư, Doãn Lệ sai người đưa tờ mật biểu tới nói rằng: "Các vùng Đông Ngàn, Kim Hoa, Võ Giàng, Quế Dương (nay đều thuộc Hà Bắc; riêng Kim Hoa sau đổi là Kim Anh nay thuộc Vĩnh Phú và một phần nhập vào huyện Sóc Sơn thuộc Hà Nội), lòng người đâu đâu cũng căm tức. Bọn thần đã tuyên lời chiếu dụ, các hào mục đều xin dấy quân cần vương. Cúi xin xa giá trở về Kinh Bắc, để cho bọn họ được vào yết kiến. Rồi nhân đó, bệ hạ ban lời dụ trước mặt họ cho họ về nói lại với nhau, như vậy ai mà không theo? Khi đã phò giá về đóng ở đấy, thì người trong thiên hạ đều được trông thấy mặt trời. Đình Giản trước đây đi Sơn Tây, Tôn Lân trước đây đi Sơn Nam, cũng được xa nhờ tiếng tăm, uy linh của nhà vua mà đem quân về họp. Hà tất phải lên Lạng Sơn, là nơi bờ cõi xa xôi cách trở? Bọn thần e rằng cứ nấn ná ngày tháng sẽ làm lỡ mất cơ hội, rồi lại bỏ chỗ gần mà lo chỗ xa, thì thật là thất sách!".
    Vua Lê cho lời ấy là phải.
    Vũ Trinh mời nhà vua về làng Xuân Liên, huyện Lang Tài (nay sáp nhập với huyện Gia Bình thành huyện Gia Lương). Cha Vũ Trinh là Vũ Chiêu làm tờ biểu xin dâng hai trăm lạng bạc để tiêu vào việc quân. Vua nhận số bạc ấy, bèn dùng nhà Chiêu làm nơi hành tại."
    Nhất nhất, nghĩa khí cần vương tự chủ của vua quan nhà Lê trước cơn quốc nạn rõ ngời ngời ra đấy, thế mà còn bị một lũ hậu thế khốn nạn xuyên tạc trắng trợn. Cũng trong tinh thần tự chủ đồng thời rất thực tiễn về việc cầu viện ngoại quốc,. Hồ Chủ tịch đã hai lần lặn lội đi năn nỉ người ngoài giúp mình. Năm 1944, Hồ Chủ tịch luồn rừng từ Việt Bắc sang Tàu vào chầu tướng tư lệnh Mỹ ở Nam Hoa để xin Mẽo giúp; kết quả tình báo Mẽo tái trang bị lại Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân của Võ Nguyên Giáp lại hoàn toàn từ tiểu liên Thômpson cho tới quân phục khaki. Năm 1950, Hồ Chủ tịch cũng lại lặn lội sang chầu Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai. Kết quả là ********* được Tàu không những đưa quân viện, mà còn gửi bộ đội cao xạ, cố vấn quân sự ồ ạt sang.
    Kể cũng nực cười, khi mạt sát vua Lê, nhiều bác đã lờ đi chuyện khi Nguyễn Ánh từ trong Nam tấn công ra Bắc, vua Tây Sơn lúc ấy là Nguyễn Quang Toản, con Nguyễn Huệ, cùng hoàng thân Quang Thùy cũng bỏ Thăng Long chạy lên hướng Bắc trực chỉ biên giới Tàu hòng cầu viện. Ấy là vì, Nguyễn Huệ và Quang Toản khi lên làm vua cũng lại khuất phục theo tinh thần chịu sự bảo trợ về quân sự như vua Lê. Nguyễn Huệ lại còn sai người giả mình sang làm lễ "Ôm Gối", nhận vua Thanh làm cha, mình làm con nữa mà! Cái khác nữa là vua quan nhà Lê khi thất thế, họ vẫn còn được lòng dân, chạy tới đâu, dân chúng còn ủng hộ theo cần vương. Ngược lại, vua quan Tây Sơn từ Quang Toản, Quang Thùy, cho chí Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Vũ Văn Dũng, chạy tới đâu là dân chúng đổ ra bắt nộp cho quân của Nguyễn Ánh.
  9. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Khặc khặc, bác MDB đã quay trở lại dạy dỗ đám đàn em!
    Các đàn em yêu quý, xin giới thiệu bác MDB chính là 01 đại cao thủ LS-VH năm xưa với thiên tài cắt đầu cắt đít tài liệu, thí dụ Hoàng Lê Nhất Thống Chí, cuốn tiểu thiết đang bị chửi như hát hay trong topic "Nước cờ Tam Điệp" đây kia vì tính tiểu thuyết của nó, ngoài những đoạn bác MDB trích dẫn ra còn có những đoạn như này:
    "Tuy vua Lê đã được phong Vương, nhưng giấy tờ đưa đi các nơi, đều dùng niên hiệu Càn-long. Vì có Nghị ở đấy nên không dám dùng niên hiệu Chiêu thống. Ngày ngày sau buổi chầu, vua lại tới chờ ở doanh của Nghị để nghe truyền việc quân, việc nước. Vua cưỡi ngựa đi trước, Lê Quýnh cưỡi ngựa đi sau, quân lính hộ vệ chỉ vài chục người. Người trong kinh có kẻ không biết là vua. Hoặc có người biết, thì họ nói riêng với nhau rằng:
    "Nước Nam ta từ khi có đế, có vương tới nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế. Tiếng là làm vua, nhưng niên hiệu thì viết là Càn-long, việc gì cũng do viên tổng đốc, có khác gì phụ thuộc vào Trung Quốc?"."
    Thôi thì tiểu thuyết nó muốn viết gì chẳng được, đọc sử tử tế kiểu "VN sử lược" của Trần Trọng Kim thì cái đoạn đó được miêu tả như này:
    "Vua Chiêu Thống tuy đã thụ phong, nhưng các tờ văn thư đều phải đề niên hiệu Càn Long. Mỗi khi buổi chầu xong rồi, lại đến dinh Sĩ Nghị để chầu chực việc cơ mật quân quốc. Vua cưỡi ngựa đi với độ mười người lính hầu mà thôi. Sĩ Nghị thì ngạo nghễ, tự đắc, ý tứ xử với vua rất là khinh bạc; có khi vua Chiêu Thống lại hầu, không cho vào yết kiến, chỉ sai một người đứng dưới gác chiêng truyền ra rằng: không có việc quân quốc gì, xin ngày hãy về cung nghỉ.
    Người bấy giờ bàn riêng với nhau rằng: "Nước Nam ta từ khi có đế vương đến giờ, không thấy vua nào hèn hạ đến thế. Tiếng là làm vua mà phải theo niên hiệu vua Tàu, việc gì cũng phải bẩm đến quan Tổng Đốc, thế thì có khác gì đã là nội thuộc rồi không?"
    Vua và triều thần bấy giờ việc gì cũng trông cậy vào Tôn Sĩ Nghị; ngày đêm chỉ lo việc báo ân báo oán, giết hại những người trước đã đi theo Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị thì càng ngày càng kiêu ngạo thêm, coi việc binh làm thường, lại thả quân lính ra cướp phá dân gian, làm lắm sự nhũng nhiễu. Vì thế cho nên lòng người mất cả trông cậy."
    Các bác có thể đọc tất tật những thứ này trong www.vnthuquan.net, đọc xong tự nhận xét xem Lê đại ca có đáng so sánh với Mr. Diệm, Mr. Thiệu ko chứ chưa nói người khác.
    Chào thân ái và quyết thắng!
  10. kemetmoi

    kemetmoi Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/09/2003
    Bài viết:
    648
    Đã được thích:
    393
    Em cũng muốn đóng góp chút đỉnh cho mọi người bớt thời giờ tìm kiếm:
    "Lại nói, lúc sắp xuất quân, Tôn Sĩ Nghị lại dâng tiếp một tờ sớ, đại ý nói: "Thần nghe họ Lê ở nước An Nam hèn yếu, sau này không chắc đã giữ được nước. Nay họ sang cầu cứu, bản triều theo nghĩa phải cứu giúp. Vả chăng, An Nam vốn là đất cũ của Trung Quốc (chỉ nước ta ở thời kỳ Bắc thuộc), nếu sau khi khôi phục họ Lê rồi, nhân đó lại cho quân đóng giữ, thì như thế là bảo tồn họ Lê mà đồng thời lại chiếm giữ được nước An Nam, một công mà hai việc vậy".
    Tuần phủ là Tôn Vĩnh Thanh dâng sớ chống lại lời bàn ấy của Nghị, đại để nói: "Triều đình mượn tiếng khôi phục họ Lê, khi thấy họ Lê không thể giữ được nước, lại định sai quan chiếm nước họ; ban đầu thì làm việc nghĩa, cuối cùng lại theo việc lợi, thần trộm cho là không nên. Hiện nay họ Lê họ Nguyễn (họ Nguyễn đây là chỉ Tây Sơn) đang đánh nhau, họ Lê thế nào cũng bị họ Nguyễn thôn tính. Chi bằng cứ đóng quân yên lặng, rồi sau đó, nhân lúc cả hai bên đều kiệt quệ, bấy giờ ta sẽ đánh lấy cũng chưa muộn gì".
    Rốt cuộc, vua Thanh nghe theo lời Nghị. Vì không hợp ý với Nghị, Vĩnh Thanh bèn cáo ốm không đi."
    Hoàng Lê Nhất Thống Chí (Hồi mười ba)
    vàng 1: Không biết trong hai việc, việc nào quan trọng hơn nhỉ
    vàng 2: Chú này chắc đang mơ, hèn gì Càn Long không nghe lời chú.
    Lời bàn của Nghị thì cấp, lời bàn của Thanh thì hoãn nhưng cấp hay hoãn cũng đều không tha cho miếng mồi nước Việt, , xem ra dù sao thì "Đánh cho nó biết nước Nam anh hùng đã có chủ" quả là chí lý.
    Được kemetmoi sửa chữa / chuyển vào 22:01 ngày 28/06/2007
    Được ptlinh sửa chữa / chuyển vào 16:21 ngày 18/07/2007

Chia sẻ trang này