1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hậu nhân nhà Lý

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi moc_nhan_bao_binh, 01/02/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Lý Thừa Vãn (Syngman Rhee, 1875-1965), tổng thống Hàn Quốc 1948-1960, hình như cũng là hậu nhân nhà Lý thì phải?
  2. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Tháng 11 năm 1994, Đại học Quốc gia Hà Nội đã có vinh dự đón nhận một tư liệu quý trong tộc phả họ Lý Hoa Sơn, một họ Lý gốc Việt ở Hàn Quốc do Hoàng thúc Lý Long Tường lập ra từ đầu thế kỷ 13. Đó là bài văn bia "Thụ hàng môn ký tích bi" ghi lại chiến tích phá quân xâm lược Mông Cổ năm 1253 của quân dân Vương quốc Cao Ly với sự tham gia của con cháu họ Lý do Lý Long Tường lãnh đạo. Với chiến công đó. Lý Long Tường đã được vua Cao Ly phong làm Hoa Sơn Quân.
    Lần này, Đại học Quốc gia Hà Nội lại được vinh dự đón tiếp GS. Pyun Hong Kee về một dòng họ Lý gốc Việt thứ hai ở Hàn Quốc. Đó là họ Lý Tinh Thiện mà thuỷ tổ là Hoàng tử Lý Dương Côn, em vua Lý Thần Tông Lý Dương Hoán( 1116-1138) sang Cao Ly vào đầu thế kỉ 12, trước Lý Long Tường. Điều đặc biệt có ý nghĩa là sau một thời gian cư trú và hoà nhâpvào cuộc sống của Vưong quốc Cao Ly, cháu đời thứ sáu là Lý Nghĩa Mẫn là một nhân vật lịch sử được ghi chép rõ ràng trong bộ chính sử mang tên "Cao Ly sử" và được các nhà sử học Hàn quốc đánh giá cao. Truy cứu gia phả của dòng họ Lý Tinh Thiện mang tên " Tinh thiện Lý thị tộc tổ", GS. Pyun Hong Kee xác minh Lý Nghĩa Mẫn là cháu của Lý Dương Côn, một Hoàng tử nhà Lý ở Việt Nam.
    GS. Pyun Hong Kee là một nhà nghiên cứu tộc phả nổi tiếng của Hàn Quốc, Giáo sư đã từng phát hiện một đội chiến thuyền Bồ Đào Nha giúp TRiều Tiên chống Nhật hồi thế kỷ 16 và do phát hiện này, Giao sư đã được chính phủ Bồ Đào Nha tặng thưởng Huân Chương Văn hoá. Đối với Viet nam , Gíao sư đã phát hiện ra dòng họ Lý Tinh Thiện, một dòng họ Lý gốc Việt nhập cư vào Cao Ly từ thế kỉ 12 với Hoàng tử Lý Dương Côn và góp phần chứng minh Lý Long Tường thuỷ tổ của họ Lý Hoa Sơn, là một nhân vật có thật dù chính sử Hàn Quốc không chép.
    Cả hai dòng họ Lý gốc Việt này đều hội nhập lâu đời vào cuộc sống của cộng đồng cư dân Cao Ly, Triều Tiên trước đây va Hàn Quốc ngày nay, và đều có những cống hiến xuất sắc trong lịch sử Hàn quốc, được nhân dân Hàn quốc quý mến, Con cháu những họ Lý gốc Việt này nhất là họ Lý Hoa Sơn, trải qua hơn 7 thế kỉ vẫn nuôi dưỡng ý thức và tình cảm sâu đậm về cố quốc, về quê cha đất tổ. NHững phát hiện của GS. PyunHong Kee đã góp phần chứng minh, tô thắm thêm quan hệ lịch sử lâu đời giữa nhân dân hai nước Việt - Hàn và thúc đẩy cổ vũ quan hệ giao lưu kinh tế, văn hoá cùng tình hữu nghị đang phát triển tốt đẹp giữa hai nước.
    Trân trọng lao động khoa hoc và phát hiện có nhiều ý nghĩa của GS. Pyun Hong Kee, Đại học Quốc gia Hà nội tổ chức cuộc gặp để giáo sư trình bày những phát hiện khoa học của mình vào ngày 31/10/1995.
    (GS.TS. Nguyễn Văn Đạo)[/b]
  3. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Bài này là của Trần Đại Sỹ
    Ngày 17 tháng 9 năm 1957, Tổng-thống miền Nam là Ngô-đình Diệm công du Đại-hàn (1). Năm sau, ngày 6 tháng 11 năm 1958, Tổng thống Đại-hàn dân quốc là Lý Thừa Vãn, viếng thăm Việt-Nam. Trong dịp này ông đã tuyên bố rằng tổ tiên ông là người Việt. Báo hồi ấy có tường thuật sơ sài. Còn chính quyền thì gần như không để ý đến chi tiết lịch sử này.
    Bấy giờ, đệ nhất Cộng-hòa thành lập chưa quá hai năm, mới chỉ có viện Khảo-cổ, không có cơ quan nghiên cứu lịch sử. Cho nên không ai nghĩ đến việc sang Đại-hàn tìm hiểu xem họ Lý từ Việt Nam, đã di sang đây từ bao giờ? Ai là nguyên tổ của họ?
    Thời gian này tôi mới 18 tuổi, vừa bước chân vào đại học. Nhưng nhờ thấm nhuần Nho-giáo, nên đã chững chạc lắm rồi. Tôi viết thư cho sứ quán Đại-hàn tại Việt-Nam để hỏi về chi tiết này. Dĩ nhiên tôi viết bằng chữ Nho. Hơn tháng sau tôi được thư trả lời của tộc Lý tại Nam-hàn. Trong thư, họ cho tôi biết rằng:
    "Tổng-thống Lý Thừa Vãn là hậu duệ đời thứ 25 của Kiến-bình vương Lý Long Tường. Kiến Bình vương là con thứ 6 của vua Lý Anh-tông. Người cùng tông tộc sang Cao-ly vào đầu thế kỷ thứ 13 vì quốc nạn".
    Ánh sáng đã mở ra trước mắt tôi. Nhưng tôi tra trong Đại-Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), trong Việt-sử lược (VSL), trong Khâm-định Việt-sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM), không bộ nào nói đến Kiến Bình vương Lý Long Tường cả.
    Tò mò chưa được thỏa mãn, nhưng tôi đành bỏ qua, vì bấy giờ tôi phải dồn hết tâm tư vào việc học.
    Năm 1959, trong khi lục lọi tại thư viện Paris, vô tình tôi đọc được Tập-san sử địa của Nhật-bản, số 2 năm 1941, trong đó nói vắn tắt rằng:
    "Năm Bính Tuất, 1226, bấy giờ là niên hiệu Kiến-trung thứ nhì đời vua Thái-tôn nhà Trần. Biết mình là con thứ sáu vua Lý Anh-tông, lại đang giữ chức đô đốc, tư lệnh hải quân, trước sau gì cũng bị Trần Thủ Độ hãm hại, nên ông đã đem tướng sĩ dưới quyền, tông tộc, cùng hạm đội ra đi, sau đó trôi dạt vào Cao-ly".
    Tôi tự hẹn, sau này có tiền sẽ sang Đại-hàn tìm hiểu chi tiết này.
    Thế nhưng, sau khi ra trường, 1964, tuy đã có chỗ đứng vững chắc về phương diện tài chánh. Ngặt vì nghề sinh nhai lối dọc đường ngang, tôi vẫn không thực hiện được cái ước vọng sang Hàn quốc, tìm hiểu về nguồn gốc họ Lý tại đây.
    Mãi tới năm 1980, tháng 8, tôi đi trong phái đoàn Pháp, sang dự đại hội y khoa tại Hàng-châu Trung-quốc. Ở đại hội, tôi được tiếp xúc với phái đoàn Bắc-hàn. Phái đoàn này có bác sĩ Lý Chiếu Minh ở Hùng-xuyên (Hunchon) và bác sĩ Lý Diệp Oanh ở Thuận-xuyên (Sunchon). Bấy giờ tôi đã 41 tuổi, còn Diệp Oanh mới 30 tuổi. Tuy là bác sĩ, thế nhưng cô tươi như hoa lan, phơi phới như hoa thủy tiên ban mai. Thấy mỗi bữa ăn cô lẩm nhẩm đọc kinh mà không làm dấu thánh giá, tôi cho là cô đọc kinh Phật. Trêu cô tôi cũng đọc kinh Bát-nhã bằng tiếng Việt. Cô hỏi tôi:
    - Ủa! Anh đọc kinh cảm ơn Tổng-thống Valéry Giscard đấy à?
    - Không! Tôi đọc kinh Phật. Thế cô đọc kinh gì vậy?
    - Phật đâu có cho anh cơm ăn, áo mặc?
    - Vậy cô đọc kinh gì?
    - Tôi đọc kinh cảm ơn cha già Kim Nhật-Thành đã cho chúng tôi đươc tự do, có cơm ăn, áo mặc! (2)
    Nghe cô nói, tôi hơi ngạc nhiên, nhưng tôi biết đó là niềm tin của cô, tôi không dám đùa, không thắc mắc. Song thấy cô xinh đẹp, tôi tỏ một cái gì cho có vẻ nịnh đầm, theo thói thông thường của y giới Pháp:
    "Ở nước tôi, vào thế kỷ thứ 12, dưới triều vua Lý Anh-tông, tổ tiên tôi là Trần Thủ Huy được gả công chúa Đoan Nghi...". (3)
    Diệp Oanh cắt lời:
    "Sang đầu thế kỷ thứ 13, cũng tổ tiên anh là Trần Liễu được gả công chúa Thuận Thiên, Trần Cảnh được vua Chiêu Hoàng tuyển làm chồng. Rồi tổ tiên anh xua đuổi, nên tổ tiên tôi thành thuyền nhân, ngày nay Hàn quốc mới có họ Lý".
    À! Vạn lý tha hương ngộ tri kỷ đây. Biết rất rõ Diệp Oanh là con cháu của Kiến Bình vương Lý Long Tường, tôi đùa thêm:
    "Biết đâu cô không là công chúa Đoan Nghi, tôi không là Trần Thủ Huy tái đầu thai? Có lẽ chúng mình nên đi tiếp con đường tổ tiên mình đã đi".
    Diệp Oanh vã tôi một cái vào má trái, tỏ cử chỉ thân thiện. Song chúng tôi bắt con tim ngừng phiêu lưu ở đây, vì bấy giờ bà vợ tôi còn sống, còn quá trẻ; vợ chồng lại rất tương đắc ngoài đời, nồng thắm trong phòng the.
    Thế rồi chúng tôi nhận họ. Đặc biệt là trong lúc đối thoại, Chiếu Minh với Diệp Oanh cứ tự hào cái gốc Việt của mình. Suốt đại hội, tôi với Chiếu Minh, Diệp Oanh gần nhau như bóng với hình. Tôi kể cho hai người nghe về những trang sử rực hào quang dưới thời Lý, nhất là huyền sử về Linh Nhân hoàng thái hậu (Ỷ Lan). Sau đại hội, Chiếu Minh, Diệp Oanh rủ tôi du lịch Bắc-Hàn. Bấy giờ là thịnh thời của chủ tịch Kim Nhật Thành, Bắc-Hàn khép kín cánh cửa với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên nhờ mang thông hành Pháp, nên tòa đại sứ Bắc-Hàn ở Bắc-kinh cho tôi cái chiếu khán được du lịch nghiên cứu về nhân sâm trong 8 ngày.
    Tới Bắc-Hàn, ông đại sứ Pháp tưởng tôi đi nghiên cứu nhân sâm thực. Ông lệnh cho văn phòng tùy viên văn hóa giúp đỡ tôi. Tôi tự biết mình có địa vị, có danh dự, không muốn nói dối ông đại sứ. Tôi thú thật là đi tìm một số tài liệu lịch sử của tổ tiên tôi về thế kỷ thứ 12. Dù biết tôi mượn danh đi nghiên cứu y khoa, mà Ủy-ban y học Pháp-Hoa (Commité Médical Franco-Chinois viết tắt là CMFC) dư thừa tài chánh đài thọ tất cả phí tổn cho tôi. Thế nhưng sứ quán Pháp vẫn giúp đỡ tôi tận tình. Nào cung cấp xe, cung cấp tài xế, gửi thư giới thiệu.v.v. Kể ra làm công việc nghiên cứu của Pháp cũng sướng thực. Xin cảm ơn tinh thần yêu văn hóa của nước Pháp.
    Tại Hùng-xuyên, cũng như Thuận-xuyên, các chi họ Lý tiếp đón tôi rất niềm nở. Buồn là các cuộc đàm thoại bị giới hạn khá nhiều, tôi phải uốn cong lưỡi dùng tiếng Quan-thoại nói với Chiếu Minh và Diệp Oanh. Hai vị này dịch sang tiếng Đại-hàn. Các chi họ Lý xin phép chính quyền, rồi tổ chức những buổi hội, để nghe tôi nói chuyện về thời đại Tiêu-sơn tức thời Lý. Khi nghe kể đến đoạn công chúa Bảo Hòa tu tiên, cho đến tuổi 90 vẫn trẻ như hồi 17 tuổi, cử toạ suýt xoa sung sướng. Lại khi nghe tôi thuật giai thoại vua Lý Thánh-tông, đang đêm trốn khỏi hoàng cung, gặp cô thôn nữ Yến Loan, rồi sau đưa về cung phong làm Ỷ Lan phu nhân; cử tọa vỗ tay hết tràng này đến tràng khác. Khi nghe tôi kể đến các công chúa Bình Dương, Kim Thành, Trường Ninh trấn ngự biên cương khiến các quan Tống ở Nam-biên nghe đến tên đều kinh hồn vỡ mật. Các cô ngửa mặt lên nhìn trần nhà cười đầy vẻ hãnh diện. Lúc mà tôi thuật đến đoạn Quách Quỳ, Triệu Tiết đem đại quân phá vỡ phòng tuyến Như-nguyệt (1076), tiến đến rừng tre, cách Thăng-long có 25 cây số... Trong phòng có đến hơn 700 người, mà không một tiếng động. Rồi tôi kể tiếp: Công chúa Thiên Ninh đánh bật quân Tống trở về Như-nguyệt, thì phòng hội hoan hô đến muốn rung động thành phố. Tôi thuật tiếp đến đoạn công chúa tuẫn quốc, thì cả phòng hội đều khóc nức nở. Những người khóc nhiều nhất lại là những thiếu niên.
    ***
    Hầu hết những chi họ Lý đều đem gia phả ra hỏi tôi những chi tiết mà họ không hiểu. Tất cả gia phả đều viết bằng chữ Nho. Như gia phả của chi Thuận-xuyên, có đôi câu đối:
    Thập-bát anh hùng giai Phù Ðổng,
    Tam thiên nữ kiệt tỷ Mê-linh.
    (Mười tám anh hùng đều như Phù Ðổng thiên vương.
    Ba nghìn nữ kiệt đều có thể sánh với Trưng-vương).
    Tôi phải moi trí nhớ, để đọc cho họ chép lại tiểu sử 18 danh tướng vào thời vua Lý Nhân-tông, kháng Tống tuẫn quốc. Tôi lại phải thuật cho họ nghe về công chúa Thiên Ninh (Bà chúa kho) có 3 nghìn nữ binh. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết mang quân sang Đại-Việt, phá vỡ phòng tuyến Như-nguyệt tiến về Thăng-long. Quân Tống nhập vào phòng đai phòng thủ chỉ cách Thăng-long có 25 cây số, bị công chúa đánh bật trở về Bắc sông Như-nguyệt. Sau đó công chúa cùng 3 nghìn nữ kiệt đều tuẫn quốc. (4)
    Hầu hết các chi, khi nghe tôi nói rằng: Triều Trần kế tục triều Lý. Nhưng các vua triều Trần đều dành ra một số ruộng đất lớn, cho tá điền cầy cấy, thu tô để làm phương tiện hương khói, thờ cúng, tu bổ lăng tẩm 9 đời vua triều Lý (Ghi chú: Triều Lý có 8 vị vua, nhưng tôi vẫn coi Lý Chiêu-Hoàng là vị vua thứ 9, chứ không dám coi thường Ngài.)... đều hài lòng. Các triều đại kế tiếp như Lê, Nguyễn vẫn giữ nguyên truyền thống này. Mãi đến năm 1956, trong cuộc cải cách ruộng đất, những ruộng đất này mới bị lấy lại lập hợp tác xã. Tuy nhiên đây là những di tích lịch sử, nên kể từ năm 1962, bộ Văn-hóa của nước Việt-Nam dân chủ cộng hòa (Bắc Việt-Nam) đã ban nghị định công nhận là di tích văn hóa, lịch sử, và cử cán bộ bảo quản rất kỹ.
    ***
    Bác-sĩ Diệp Oanh dẫn tôi thăm những vùng đất linh của giòng họ Lý. Thực là kỳ điệu, dưới chế độ Bắc-Hàn chủ trương hủy diệt tất cả những gì là văn minh của tổ tiên, để chỉ còn biết đến cha già dân tộc Kim Nhật Thành. Thế nhưng giòng họ Lý vẫn giữ gìn được những di tích của tổ tiên. Nào cửa biển Phú-lương giang nơi hạm đội của Kiến-bình vương cập bến Cao-ly, nào Ung-tân, nơi đầu tiên họ Lý làm nhà ở, nào ngọn đồi Julhang thuộc xã Đỗ-môn (Tô-mơ-ki) nơi có lăng của Kiến Bình vương Lý Long Tường. Tôi cũng được lên Quảng-đại sơn thăm Vọng-quốc đài, là nơi vương lên nhìn về quê hương.
    Sau đó, với quyết tâm tìm lại dấu vết người xưa, năm 1983, tôi lên đường đi Nam-hàn để tìm hiểu thêm về giòng họ Lý. Tiếc rằng hạm đội của Lý Long Tường tới Hàn-quốc táp vào miền Bắc, vì vậy dường như tại Nam-hàn không có một chút di tích nào của ông. Giòng họ Lý sống tại Nam-hàn rất ít, tổng số chưa quá nghìn hộ, nhưng họ đều là những người kiệt hiệt trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, thương mại, kỹ nghệ. Về tình cảm, họ cũng giống như người Bắc hồi 1954 di cư vào Nam, mang theo rất ít di vật, gia phả về tổ tiên mình. Không nhà nào mang được gia phả cổ. Gia phả mà họ cho tôi xem, hầu hết là mới chép gần đây. Nội dung lại quá nhiều sai lạc. Như chép về việc ra đi của Kiến Bình vương, gia phả nói rằng họ Lý bị Trần Thủ Độ cướp ngôi, Lý Long Tường cầm quân chống lại, bị thua. Về Lý Chiêu Hoàng, họ chép là hoàng hậu của vua Lý Huệ-tông! (5)
    Dòng thứ nhất:
    Hậu duệ Kiến Hải vương, hay họ Lý Tinh-thiện
    Thế nhưng, tại Nam-hàn tôi gặp ông Lý Gia Trung. Ông cho biết, tổ tiên ông là người Việt, nhưng không thuộc giòng dõi Kiến Bình vương. Tổ tiên ông là Kiến Hải vương Lý Dương Côn, đã đến Cao-ly hồi đầu thế kỷ thứ mười một.
    Quý độc giả có biết tâm trạng tôi bấy giờ ra sao không? Kinh ngạc, bàng hoàng, đờ đẫn cả người ra, trong khi chân tay run run. Vì trong khi nghiên cứu về triều Lý, tôi biết một huyền sử vắn tắt như sau:
    « Vua Lý Nhân-tông không có hoàng nam, người nhận con của các thân vương trong hoàng tộc làm con nuôi. Năm Đinh Dậu (1117 nhận con của hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng làm con nuôi. Sau truyền ngôi cho con của Sùng Hiền hầu là Lý Dương Hoán, tức vua Lý Thần-tông. Khi Lý Thần-tông băng, Thái-tử Thiên-tộ còn bế ngửa, triều thần muốn tôn con của Thành Quảng hầu là Lý Dương Côn lên nối ngôi. Cuộc tranh quyền trong giòng họ Lý diễn ra, sau vợ của vua Lý Thần-tông nhờ có tình nhân là Đỗ Anh Vũ giúp đỡ, mà loại hết các địch thủ. Năm Canh Ngọ (1150) nhân vụ chính biến, Cảm Thánh thái hậu mưu với tình nhân Đỗ Anh Vũ giết hết tông tộc của các hầu Thành Khánh, Thành Chiêu, Thành Hưng. Bấy giờ con Thành Quảng hầu là Kiến Hải vương Lý Dương Côn đang là đô đốc Thủy-quân, bèn đem gia thuộc xuống chiến thuyền lưu vong. Song không biết đi đâu (1150) ».
    Được flyingmagician sửa chữa / chuyển vào 12:54 ngày 08/03/2006
  4. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Bây giờ, sau 831 năm, tôi gặp lại hậu duệ của Kiến Hải vương. Tâm tư rúng động ! Hỡi ơi ! Tại Hàn-quốc có tới hai giòng họ Lý, gốc là thuyền nhân Đại-Việt.
    Tôi ghi chú tất cả những gì mà giòng họ Lý của Kiến Hải vương cung cấp để khi viết về thời đại Tiêu-sơn còn có thêm tài liệu.
    Cuối năm 1996, một nhà nghiên cứu tộc phả nổi tiếng của Nam-hàn là giáo sư Phiến Hoằng Cơ (Pyon Hong Ke) công bố kết quả cuộc nghiên cứu của ông rằng ông đã phát hiện một giòng họ Lý thứ nhì, tại Đại-hàn, được gọi là Lý Tinh-thiện. Giòng họ này, chính là giòng họ Lý, con cháu Kiến Hải vương mà tôi đã có cơ duyên gặp hậu duệ là ông Lý Gia Trung.
    Giáo sư Phiến Hoằng Cơ cho biết, căn cứ vào gia phả của giòng họ này mang tên Tinh-thiện Lý thị tộc phả, được lưu trữ tại thư viện Quốc-gia Hán-thành, thì ông tổ của giòng họ Lý Tinh-thiện là Lý Dương Côn (Lee Yang Kon) tới Đại-hàn vào đầu thế kỷ thứ 12:
    "Lý Dương Côn hiệu là Nguyên Minh, hoàng tử thứ ba con vua Càn Đức, được Tống triều phong tước Nam-bình vương".
    Tra trong sử Việt, thì vua Càn Đức chính là tên của vua Lý Nhân-tông. Vua Lý Nhân-tông là con của vua Lý Thánh-tông với Ỷ-Lan phu nhân, sau được tôn là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Người chỉ đạo cuộc đánh Tống, kháng Tống lừng danh lịch sự Việt-Nam. Theo ĐVSKTT, Lý kỷ, Nhân-tông kỷ thì:
    "Niên hiệu Hội-tường Đại-khánh thứ 8 (DL.1117, Đinh Dậu)...
    ...Tìm con trai trong tôn thất để nuôi trong cung. Xuống chiếu rằng: Trẫm cai trị muôn dân mà lâu không có hoàng nam, ngôi báu của thiên hạ biết truyền cho ai? Nên trẫm nuôi con của các hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng, chọn người giỏi lập làm thái tử. Bấy giờ con Sùng Hiền hầu là Dương Hoán, lanh lợi, vua rất yêu, bèn lập làm Thái-tử".
    Vậy thì Lý Dương Côn là con nuôi của vua Lý Nhân-tông, chứ không phải con đẻ. Con nuôi thứ ba, thì là con của Thành Quảng hầu. Lý Dương Côn, được phong tước Kiến Hải vương.
    Giáo-sư Phiến Hoằng Cơ dựa theo Tinh-thiện Lý thị tộc phả và bộ Cao-ly sử, ông công bố:
    « Hậu đuệ đời thứ sáu của Lý Dương Côn là Lý Nghĩa Mẫn (Lee Unimin) trở thành nhân vật kiệt hiệt trong lịch sử. Bấy giờ Cao-ly đang ở dưới triều đại vua Nghị-tông (Ui-jiong 1146-1170). Nhà vua rất sủng ái Lý Nghĩa Mẫn, phong cho chức Biệt-trưởng. Nước Cao-ly trong thời gian này, phải chống trả với cuộc xâm lăng của Khiết-đan tức Đại-liêu, nên các võ tướng nắm hầu hết quyền hành. Năm 1170 tướng Trịnh Trọng Phu (Jeong Jung-bu) chưởng môn một võ phái, đảo chính vua Nghị-tông lập vua Minh-tông (Mycong 1170-1179). Trọng Phu bị các võ phái, võ tướng nổi lên chống đối. Lý Nghĩa Mẫn là người phụ tá đắc lực cho Trịnh Trọng Phu, đem quân dẹp các cuộc nổi dậy. Ông được thăng chức Trung-lang tướng, rồi dần dần thăng Tướng-quân, Đại-tướng quân (1173), Thượng-tướng quân (1174), cuối cùng là Tây Bắc bộ binh mã sứ (1178) (Tức Tư-lệnh quân lực miền Bắc Cao-ly). Năm 1179, một võ quan khác là Khánh Đại Thăng (Kyung Dae-Seung) làm cuộc chính biến, giết chết Trịnh Trọng Phu, lên nắm quyền. Bấy giờ Lý Nghĩa Mẫn giữ chức Hình-bộ thượng thư (1181) (Bộ trưởng Tư-pháp). Vì ông thuộc phe Trịnh Trọng Phu, nên bị nghi ngờ, chèn ép. Ông cáo quan về hưu.
    Sau khi Khánh Đại Thăng chết, vua Minh-tông mời Lý Nghĩa Mẫn vào bệ kiến, được trao chức Tư-không, Tả-bộc xạ, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự tức Tể-tướng trong 14 năm (1183-1196).
    Năm 1196, một phe võ tướng do Thôi Chung Hiếu (Cho Chung Heon) cầm đầu làm cuộc đảo chính, giết Lý Nghĩa Mẫn. Ba con ông là Lý Chính Thuần, Lý Chí Vinh, Lý Chí Quang đều là tướng cầm quân, cũng bị giết chết. Quân phiến loạn chỉ tha cho người con gái ông là Lý Hiền Bật. Giòng họ Lý Tinh-thiện tưởng đâu tuyệt tự. Nhưng may mắn thay, giòng họ này còn kế tục là nhờ người anh Lý Nghĩa Mẫn và các con không bị hại.
    Phối hợp chính sử với gia phả, giáo sư Phiến Hoằng Cơ kết luận rằng: Giòng họ Lý tại Tinh-thiện thuộc đạo Giang-nguyên, phía Đông Nam Đại-hàn ngày nay là con của hoàng tử Lý Dương Côn thuộc triều Lý, Việt-Nam (1010-1225). Lý Dương Côn bỏ quê hương ra đi vì sự đe dọa của nước Kim đối với Tống, năm 1115. Tới năm 1127 thì Bắc Tống bị diệt ».
    Qua cuộc nghiên cứu của Phiến Hoằng Cơ, tôi thấy có đôi chút nghi vấn:
    Một là, vua Lý Nhân-tông nhận con nuôi năm 1117. Vua Thần-tông sinh năm 1116, vậy thì Lý Dương Côn chỉ có thể sinh năm 1116 hay 1117 mà thôi. Năm Lý Dương Côn rời Đại-Việt ra đi là năm 1150. Bấy giờ ông mới 32-33 tuổi. Thế nhưng gia phả Lý Tinh-thiện nói rằng năm 1170 Lý Nghĩa Mẫn, hậu duệ đời thứ sáu của Lý Dương Côn, được vua Nghị-tông phong cho chức Biệt-trưởng. Đây là điều vô lý. Bởi năm đó chính Lý Dương Côn có còn tại thế thì ông mới có 54 tuổi, làm sao ông đã có cháu 6 đời? Tôi thì tôi cho rằng Lý Nghĩa Mẫn là con Lý Dương Côn. Còn hậu duệ đời thứ sáu là kể từ vua Lý Thái-tổ:
    Lý Thái-tổ.
    Lý Thái-tông.
    Lý Thánh-tông.
    Lý Nhân-tông.
    Kiến Hải vương Lý Dương Côn.
    Lý Nghĩa Mẫn.
    Hai là, trong gia phả Lý Tinh-thiện nói rằng, Lý Dương Côn rời quê hương ra đi vì quốc nạn. Giáo-sư Phiến Hoằng Cơ cho rằng vì sự đe dọa của Kim. Có lẽ khi giải đoán việc ra đi của Lý Dương Côn, ông đã bị ảnh hưởng bởi sử Cao-ly. Vì hồi ấy, nước Kim đang từ một bộ lạc Nữ-chân, nổi lên diệt nước Liêu, rồi đem quân đánh Tống. Sau đó, họ bắt vua Tống mang về Bắc. Nhưng con cháu nhà Tống lại tái lập triều Nam-Tống. Khoảng cách Kim với Đại-Việt còn một nước Tống quá rộng, quá xa. Dù Kim hùng mạnh cũng không ảnh hưởng gì tơí Đại-Việt khiến Lý Dương Côn phải bỏ nước trốn đi. Nhất là giai đoạn 1161 đến 1174, bấy giờ binh lực Đại-Việt đang mạnh, muốn hướng lên Bắc tái chiếm lại Quảng Đông, Quảng Tây! (xin đọc Anh-hùng Đông-A dựng cờ Bình-Mông của Trần Đại Sỹ, hồi 4 và hồi 16-17-18).
    Lần lại trang sử Đại-Việt thời đó: Vua Thần-tông được vua Nhân-tông đem vào cung nuôi cùng 4 người anh em họ. Nhưng ngài được lập làm Thái-tử, rồi lên ngôi vua. Theo Hội-điển sự lệ triều Lý thì những chức như:
    Thái-úy, tương đương với ngày nay là Tổng Tư-lệnh quân đội.
    Tổng-lĩnh Thiên-tử binh, tương đương với ngày nay là Tư-lệnh lục quân.
    Đại Đô-đốc Thủy quân, tương đương với ngày nay là Tư-lệnh thủy quân.
    Các chức này luôn trao cho các hoàng đệ. Vì vậy trong 5 con nuôi của vua Lý Nhân-tông, thì Thái-tử Dương Hoán đươc truyền ngôi, còn 4 con nuôi khác, là con của các hầu Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng ắt được phong vào các chức trên. Con của Thành Quảng hầu là Lý Dương Côn được phong tước Kiến Hải vương, lĩnh chức Đại Đô-đốc Thủy-quân. Khi vua Thần-tông băng (1138), Thái-tử Thiên-tộ mới có 2 tuổi, triều thần muốn tôn hoàng đệ Lý Dương Côn lên ngôi vua, vì ông là người thông minh, tài trí, đang là Đại Đô-đốc, ở tuổi 22. Nhưng rồi mẹ của Thái-tử Thiên-tộ là Cảm Thánh hoàng hậu đã dùng vàng bạc đút lót cho các quan, bà lại được tình nhân Đỗ Anh Vũ là em của Chiêu Hiếu thái hậu, (mẹ vua Thần-tông) hết sức ủng hộ. Thiên-tộ lên ngôi vua, sau là vua Anh-tông.
    Dĩ nhiên vua Anh-tông lên ngôi, khi còn bế ngửa, thì mẹ là Cảm Thánh thái hậu thính chính, nói khác đi là làm vua. Bà phải diệt hết những mầm mống có thể nguy hiểm cho con bà. Bà cùng Đỗ Anh Vũ vu cáo, giết hết các em nuôi của vua Thần-tông là con của các hầu em vua Nhân-tông. Toàn gia các hầu, từ thê thiếp, con, cháu, thân binh, nô bộc đều bị giết sạch. Riêng Lý Dương Côn đóng quân ở Đồn-sơn, được mật báo. Ông đem hết gia thuộc, xuống chiến thuyền, bỏ quê hương ra đi, rồi táp vào Cao-ly.
    Tôi kết luận:
    Dù Lý Nghĩa Mẫn là cháu 6 đời của Kiến Hải vương Lý Dương Côn hay là cháu 6 đời vua Lý Thái-tổ, thì ta vẫn kết luận rằng: Năm 1150, Kiến Hải vương Lý Dương Côn, lĩnh chức Đại Đô-đốc đã cùng tông tộc dùng thuyền tỵ nạn tại Cao-ly. Đời sau có nhân vật kiệt hiệt là Lý Nghĩa Mẫn, đóng một vai trò trọng yếu trong lịch sử Cao-ly. Giòng họ Lý này, nay vẫn còn truyền tử lưu tôn tại Đại-hàn.
  5. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Dòng thứ nhì,
    Hậu duệ của Kiến-bình vương Lý Long Tường, còn gọi là Lý Hoa-sơn.
    Giòng họ Lý thứ nhì tới Đại-hàn sau giòng họ Lý Tinh-thiện 76 năm, là hậu duệ của Kiến Bình vương Lý Long Tường, con thứ 7 của vua Lý Anh-tông. Mà tôi đã trình bầy ở trên.
    Theo Trần-tộc vạn thế ngọc phả, của chi bốn, thuộc giòng dõi Chiêu-quốc vương Trần Ích Tắc, để tại nhà từ ở thị xã Lãnh-thủy, huyện Chiêu-dương, tỉnh Hồ Nam, Trung-quốc; phần chép về Ninh-tổ hoàng đế Trần Lý. Có đoạn nói về các con vua Lý Anh-tông, nguyên văn như sau:
    Vua có bẩy hoàng tử.
    Hoàng trưởng tử Long Xưởng do Chiêu Linh hoàng hậu sinh vào niên hiệu Đại Định thứ 12 (DL.1151, Tân-Mùi). Được phong tước Hiển Trung vương, lập làm Thái-tử. Niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo nguyên nhiên (DL.1174, Giáp-Ngọ) bị giáng xuống làm con út, tước Bảo Quốc vương. Niên hiệu Trinh Phù thứ sáu (DL.1181, Tân-Sửu) làm phản, bị hạ ngục, rồi bị Đỗ An Di giết cả nhà, thọ 31 tuổi.
    Hoàng-tử thứ nhì Long Minh do Thần-phi Bùi Chiêu Dương sinh vào niên hiệu Đại Định thứ 11 (DL. 1152, Nhâm-Thân). Tước phongKiểm-hiệu Thái-sư, Thượng-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Trung-vũ quân tiết độ sứ, lĩnh Đại đô-đốc, Kiến Ninh vương. Bị giết niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nhì (DL.1175.). Thọ 24 tuổi.
    Hoàng-tử thứ ba Long Đức, cũng do Bùi Thần-phi sinh niên hiệu Đại Định thứ 12 (DL.1153, Quý-Dậu) ra. Chức tước phong như sau: Dao-thụ Thái-bảo, Khu-mật viện sứ, Thượng-thư tả bộc xạ, Phụ-quốc thượng tướng quân, Long-thành tiết độ sứ, Kiến An vương. Bị giết niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nhì (1175), thọ 23 tuổi.
    Hoàng-tử thứ tư Long Hòa do Quý-phi Hoàng Ngân Hoa sinh niên hiệu Đại Định thứ 11 (DL.1152, Nhâm-Thân). Chức tước phong như sau : Đặc tiến Thiếu-sư, Khu-mật viện sứ, Thượng-thư tả thừa, Trấn Nam tiết độ sứ, Thượng-thư lệnh, Tả kim ngô thượng tướng, Tổng-lĩnh Thiên-tử binh, Kiến Tĩnh vương. Bị giết niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nhì (1175) thọ 24 tuổi.
    Hoàng-tử thứ năm Long Ích, do Đức-phi Đỗ Kim Hằng sinh niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ 5 (DL.1167, Đinh-Hợi). Chức tước phong như sau : Dao-thụ Thái-phó, trấn Nam tiết độ sứ, Thượng-thư tả thừa, Kiến Khang vương. Hoăng niên hiệu Kiến-gia thứ 2 (DL.1212 Nhâm-Thân), thọ 46 tuổi.
    Hoàng-tử thứ sáu Long Trát, do Thục-phi Đỗ Thụy Châu sinh niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ 11 (DL.1172, Nhâm-Thìn), tháng 5, ngày 25, niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo nguyên niên được lập làm Thái-tử. Năm thứ nhì được truyền ngôi tức vua Lý Cao-tông. Băng niên hiệu Trị-bình Long-ứng thứ 6 (DL.1210, Canh-Ngọ), ngày 28 tháng 10, thọ 38 tuổi.
    Hoàng-tử thứ bảy Long Tường do Hiền-phi Lê Mỹ Nga, sinh vào niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ 12 (DL.1174, Giáp-Ngọ). Đức Thái-tông nhà ta (tức Trần Cảnh) phong chức tước phong như sau: Thái-sư Thương-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Thượng-thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc, tước Kiến Bình vương. Niên hiệu Kiến-trung thứ nhì đời đức Thái-tông nhà ta (tức Trần Cảnh), tháng tám, ngày rằm, vương cùng gia thuộc hơn 6 ngàn người bôn xuất.
    So sánh giữa Tộc phả Hoa-sơn và Trần tộc vạn thế ngọc phả, có một chi tiết khác nhau. Tộc phả Kiến Bình thì chép Kiến Bình vương là con thứ sáu vua Anh-tông. Trong khi Trần tộc vạn thế ngọc phả lại chép vương là con thứ bẩy. Vì sao? Phả Trần tộc chép theo huyết tộc, ai sinh trước là anh, ai sinh sau là em. Vì vậy Kiến Bình vương là con thứ 7. Phả Kiến Bình thì chép thứ tự theo chỉ dụ của vua Lý Anh tông, Long Xưởng bị giáng xuống làm con út, thì Long Tường trở thành con thứ sáu.
    Hồi đó Lý Long Tường dẫn tông tộc rời Đại-Việt ra đi. Trần triều không biết đi đâu. Nay chúng ta mới được biết vương với hạm đội bị bão phải ẩn ở một đảo lớn (Đài-loan?) Nghỉ ít lâu, hạm đội của vương lại tiếp tục lên đường rồi dạt vào Cao-ly. Duy một người con của vương tên Lý Long Hiền cùng gia thuộc hơn hai trăm người ở lại đảo. Vương là khai tổ của giòng họ Lý tại Đại-hàn, thế tử Long Hiền là khai tổ của giòng họ Lý tại Đài-loan hiện nay? Sự kiện này tôi sẽ đi Đài-loan tìm hiểu sau.
    Tôi đã bỏ công sang Bắc cũng như Nam-hàn, tìm các chi, hậu duệ của Kiến Bình vương Lý Long Tường, khảo gia phả của họ. Phần chi tiết tuy có sự khác biệt, nhưng đại lược vẫn giống nhau. Tổng-thống Lý Thừa Vãn của Đại-hàn là hậu duệ đời thứ 25 của Kiến Bình vương Long Tường. Còn tổng thống Lý Đăng Huy của Đài-loan có phải là hậu duệ của thế tử Lý Long Hiền hay không, thì tôi không dám quyết, bởi Lý là giòng họ chiếm đa số ở Trung-quốc. Trong một bài khác, tôi sẽ trình bầy về Thủ-tướng Lý Quang Diệu của Singapore là Việt kiều, khai tổ một chi họ Lý đời thứ nhất hay Lý khác? (Thưa quý độc giả, chỉ cần thử nghiệm di truyền ADN là ra ngay).
    Cả ba bộ sử ĐVSKTT, VSL, KĐVSTGCM cùng chép rất mơ hồ về việc vua Anh-tông phế Long Xưởng lập Long Trát. Nhà vua có tới bẩy hoàng tử. Nếu sự thực Long Xưởng phạm tội, phế xuống, sao không lập các con đã trưởng thành, tài trí xuất chúng, đang cầm đại quyền như Kiến Ninh, Kiến An, Kiến Tĩnh vương? Hoặc cùng quá, thì lập Kiến Khang vương Long Ích, năm ấy đã chín tuổi ? Mà phải lập Long Trát mới có 26 tháng làm Thái-tử, rồi phải cử Tô Hiến Thành làm phụ chính ? Cái khúc mắc này tôi đã giải thích rất chi tiết, rất rõ ở hồi 21-23 bộ Anh-hùng Đông-a dựng cờ bình Mông. Trong bài ngắn này không thể giải thích hết.
    Dưới đây là phần tôi thuật theo Tộc-phả Lý Hoa-sơn:
    Niên hiệu Kiến-trung thứ nhì đời vua Thái-tông nhà Trần (DL.1226, Bính Tuất), lo sợ bị Thái-sư Trần Thủ Độ hãm hại, vì vị thế trọng yếu của mình:
    Là con vua Anh-tông, em vua Cao-tông, chú vua Huệ-tông.
    Thân vương duy nhất nắm quyền hành.
    Chức tước cực phẩm Thái-sư Thương-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Thượng-thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc.
    Vương âm thầm cùng Bình Hải công Lý Quang Bật từ căn cứ Đồn-sơn về Kinh Bắc, lạy ở lăng miếu Đình-bảng. Lại đến Thái-miếu mang bài vị, các tế khí ra trấn Đồn-sơn, rồi đem hết tông tộc hơn 6 nghìn người, xuống hạm đội ra đi.
    Việc Kiến Bình vương ra đi, có lẽ bắt nguồn từ việc ra đi của Kiến Hải vương trước kia chăng?
    Sau hơn tháng lênh đênh trên biển, thì gặp bão. Hạm đội phải ngừng lại một đảo (Đài-loan?) rồi tiếp tục lên đường. Một trong các con của vương là Thế-tử Lý Đăng Hiền cùng vợ con ở lại đảo. Hạm đội lênh đênh trên biển một thời gian, thì táp vào cửa Phú-lương giang, quận Khang-linh (Ong Jin-Gun) tỉnh Hoàng-hải (Hwang-hac) thuộc Bắc Cao-ly. Nơi hạm đội táp vào, dân chúng gọi là Nak-nac-wac có nghĩa là Bến của khách phương xa có đồ thờ cúng.
    Theo gia phả của con cháu vương thì:
    Đêm hôm trước, vua Cao-tông (Kojong) của Cao-ly mơ thấy một con chim cực lớn bay từ phương Nam lại đậu ở bờ Tây-hải. Tỉnh lại, vua sai người tới đó tìm kiếm, thì gặp hạm đội của Kiến-bình vương. Kiến-bình vương được bệ kiến. Vương dùng bút đàm với vua Cao-tông và các đại thần Cao-ly. Triều đình Cao-tông đối xử với vương rất tốt, chu cấp lương thực. Cho làm nhà ở Ung-tân phủ Nam-trấn sơn (Chin-sang). Thế là mấy nghìn người Việt trở thành thuyền nhân kiều ngụ tại Cao-ly.
    Lý Long Tường cùng tướng sĩ, gia thuộc bắt đầu cuộc sống mới. Họ trồng trọt, đánh cá, chăn nuôi làm kế sinh nhai. Vương mở trường dạy học: Thi phú, lễ nhạc, tế tự, binh pháp, võ thuật. Vương soạn sách Học vấn giảng hậu. Vì học trò đông, Vương cho xây Độc-thư đường, Giảng võ đường. Đệ tử của Vương lúc nào cũng trên nghìn người.
    Tháng 7 năm Quý-sửu (1253) đời vua Cao-tông năm thứ 40, quân Mông-cổ xâm lăng Cao-ly, vượt Hỗn-đồng giang, chiếm Tây-hải, phá An-giang Tây-thành. Về mặt thủy, Mông-cổ chiếm các đảo Đại-thanh, Tiểu-thanh, Sáng-lân, rồi tiến chiếm Tây-đô (Giang-hoa). Thủ-đô Cao-ly bị đe dọa. Các tướng sĩ hầu hết bị tử trận.
    Thấy tình hình Cao-ly nguy ngập, Kiến Bình vương đến gặp Thái-úy (tướng tổng chỉ huy quân đội) là Vi Hiển Khoan, cố vấn cho ông về binh pháp Đại-Việt. Đích thân vương cỡi bạch mã chỉ huy cuộc giữ thành: Đắp thành cao lên, đào hào đặt chông quanh thành. Trong thành đào giếng để có nước uống, tích trữ lương thảo. Vương đem tất cả binh pháp Đại-Việt trong những lần đánh Tống, bình Chiêm ra giúp Cao-ly.
    Đánh nhau suốt 5 tháng, quân Nguyên bị tuyệt lương thảo, bị chặn đường rút lui, xin hàng (6). Tết năm ấy, toàn Cao-ly mừng chiến thắng. Triều đình khen ngợi Lý Long Tường, lấy tên ngọn núi ở quê hương vương là Hoa-sơn; phong cho vương làm Hoa-sơn tướng quân. Lại cho đổi tên ngọn núi nơi vương cư ngụ là Hoa-sơn. (7). Nhà vua sai dựng bia ghi công vương trên núi Hoa-sơn, đích thân vua viết ba chữ Thụ hàng môn (Cửa tiếp thụ giặc đầu hàng). Cho đến nay, sau 746 năm, trải biết bao nhiêu mưa nắng, thăng trầm; tấm bia ấy vẫn trơ gan cùng cùng tuế nguyệt, nhắc nhở du khách nhớ huân công của một Việt-kiều trên Hàn-quốc.
    Trong dịp thăm Hoa-sơn năm 1981, tôi xin người đại diện tộc Lý cho phép được mượn thợ khắc vào một phiến đá bài thơ cổ phong bằng chữ Trung-quốc (Hán, Nho), đặt cạnh tấm bia trên, gọi là chút lòng của người sau, tế người trước. Xin phiên âm như sau:
    Điếu Kiến Bình vương
    Phúc tại Tiêu-sơn lĩnh,
    Thất đại bôn Bắc Cao,
    Bình Mông danh vạn đại,
    Tử tôn giai phong hầu.
    Học phong nhân bất cập.
    Vọng quốc hồn phiêu phiêu,
    Kim tải quá bát bách,
    Hà thời quy cố hương?
    (Ngài là người họ Lý, được hưởng phúc tại ngọn núi Tiêu-sơn. Kể từ vua Lý Thái-tổ tới ngài là đời thứ bẩy, phải bôn tẩu đến xứ Bắc Cao-ly. Nhờ chiến công đánh Mông-cổ, mà con cháu ngài đều được phong hầu. Ngoài ra, ngài là người đem học phong tới Cao-ly, công đức ấy không ai sánh kịp. Thế nhưng trải trên tám trăm năm, hồn ngài lúc nào cũng phiêu phưởng, không biết bao giờ được về cố hương ?).
    Ngày nay trên ngọn đồi Julbang thuộc xã Đỗ-môn (Tô-mơ-ki) cách núi Hoa-sơn 10 cây số về phía Tây còn lăng mộ ngài và con, cháu cho đến ba đời. Trên Quảng-đại sơn có Vọng-quốc đàn, nơi cuối đời ngài thường lên đó, ngày ngày nhìn về phương Nam, ôm mặt khóc, tưởng nhớ cố quốc. Mỏm đá mà ngài đặt chân đầu tiên lên bờ biển Cao-ly, được gọi là Việt-thanh nham, tức đá xanh in vết tên Việt.
    Trên Hoa-sơn còn rất nhiều di tích kỷ niệm huân nghiệp của vương. Khi đến Hoa-sơn hành hương, thay vì chào nhau, du khách được hướng dẫn viên du lịch dạy cho nói câu: Hữu khách, Hữu khách, kỵ bạch mã. Nghĩa là Có người khách cỡi ngựa trắng, tức Lý Long Tường.
    Tương truyền một đạo binh thiện chiến do Vương huấn luyện, trở thành đạo binh bảo quốc, đời nọ sang đời kia đều lấy tên là Bạch-mã. Hồi chiến tranh Việt-Nam (1960-1975) sư đoàn Bạch-mã có tham chiến, trấn đóng tại vùng Bồng-sơn, Quy-nhơn, Bình-định.
    Cho đến nay, giòng họ Lý Hoa-sơn truyền trải 28 đời. Tại Nam-hàn chỉ có khoảng hơn nghìn hộ. Tại Bắc-hàn thì đông lắm, không thống kê được. Lý tộc tại Nam-hàn, hầu hết họ là những gia đình có địa vị trọng yếu về giáo dục, kinh tế, kỹ nghệ. Kỳ ứng cử vừa qua, một ứng viên Tổng thống họ Lý suýt trúng cử.
    Theo tấm bia trên mang tên Thụ-hàng môn bi ký, thì Kiến Bình vương Long Tường có nhiều con trai, tất cả đều hiển đạt. Không thấy nói tơí Lý Long Hiền, cùng tông tộc hơn 200 người ở lại đảo (Đài-loan? ). Lý Cán Đại lĩnh Đề-học nghệ văn quán, Kim-tử quang lộc đại phu. Lý Huyền Lương, Tham-nghị lễ tào, Chính-nghị đại phu. Lý Long Tiền Giám-tu quốc sử. (8)
    Ngày nay, tại Bắc-hàn, cứ đến dịp tết Nguyên-đán, hậu duệ của Kiến Bình vương Lý Long Tường khắp lãnh thổ Đại-hàn đều kéo về Hoa-sơn để dự lễ tế tổ (Luật pháp Nam-Bắc Hàn đều cấm ngặt người Nam-Hàn du lịch Bắc-Hàn. Thế nhưng, hầu hết các hậu duệ tại Nam-hàn đã dùng phi cơ sang Trung-quốc, rồi từ Trung-quốc vào Bắc-hàn. Khi những hậu duệ Nam-Bắc Hàn gặp nhau, họ ôm nhau khóc nức nở. Sự kiện này chính phủ Nam-Bắc Hàn nhắm mắt lờ đi, vì tộc Lý dù ở Nam hay Bắc họ đều giữ những chức vụ trọng yếu). Khởi đầu của cuộc tế, đánh chín tiếng trống, gọi là Tâm-thanh để mọi người cùng tưởng nhớ cố quốc. Theo gia phả của chi Thuận-xuyên, sở dĩ đánh chín tiếng, vì muốn ghi lại triều Lý trải 9 đời vua, kể cả Lý Chiêu-hoàng. (9)
    Năm 1995, con cháu của Kiến Bình vương Lý Long Tường, quy tụ hơn trăm người trở về Đình-bảng, huyện Tiên-sơn, tỉnh Bắc-ninh dự lễ hội làng vào ngày rằm tháng ba Âm-lịch. Tại thiên chi linh, hẳn 9 đời vua triều Tiêu-sơn, cũng như Kiến Bình vương Lý Long Tường đã thỏa nguyện: Những đứa cháu lưu lạc, nay trở về chầu tổ.
    Ghi chú:
    (Những tài liệu tôi dùng để viết bài này rất phong phú, rất nhiều. Xin xem phần Những nguồn tài liệu, trong bộ Anh-hùng Đông-a dựng cờ bình Mông, quyển 1, do Đại-Nam Hoa Kỳ ấn hành)
    1. Trong chuyến đi này, Tổng-thống Ngô Ðình Diệm cho một sĩ quan tháp tùng, mà người ưu ái vì lòng yêu nước, tin tưởng vì lòng trung thành là Dương Văn Minh. Nhưng cũng tương đương với ngày tháng này, sáu năm sau, Dương Văn Minh tuân lệnh Hoa-kỳ, giết chúa.
    2. Tại Bắc-Hàn, thịnh thời của Chủ-tịch Kim Nhật Thành, để tỏ lòng tôn kính lãnh tụ; toàn quốc, khi ăn cơm, sáng dậy, tối đi ngủ đều đọc kinh tạ ơn Kim chủ tịch.
    3. Theo gia phả của con cháu Chiêu-quốc vương Trần Ích Tắc tại Trường-sa Trung-quốc, thì một tướng triều Lý Anh-tông là Trần Thủ Huy được giả công chúa Lý Đoan Nghi, con vua Anh-tông. Thái-sư Trần Thủ Độ của triều Trần là con của Phò-mã Thủ-Huy và Công-chúa Đoan-Nghi.
    4. 18 anh hùng đánh Tống, kháng Tống thời Lý, trong sử không ghi, nhưng tôi đã tìm ra tên, và đền thờ, nhờ tài liệu rải rác trong các thư tịch Trung-quốc, đó là:
    01. Lý Hoằng Chân,
    02. Lý Chiêu Văn,
    03. Bùi Hoàng Quan,
    04. Dư Phi,
    05. Nguyễn Căn,
    06. Hoàng Kiện,
    07. Phạm Dật,
    08. Vũ Quang,
    09. Đinh Hoàng Nghi,
    10. Lý Đoan,
    11. Trần Ninh,
    12. Trần Di,
    13. Dương Minh,
    14. Triệu Thu,
    15. Mai Cầm,
    16. Quách Y,
    17. Ngô Úc
    18. Tạ Duy.
    5. Sau đó tôi đã giúp họ hiệu đính lại những chỗ sai lầm trong gia phả của họ.
    6. Có một sự trùng hợp. Năm năm sau, tháng 1-1258, Thái-sư Mông-cổ là Ngột-lương Hợp-thai (Uriyangqadai) đem quân đánh Đại Việt, cũng bị tuyệt đường lương, rồi bỏ chạy. Xin đọc Anh-hùng Đông-a dựng cờ bình Mông hồi 50).
    7. Tôi tra trong địa lý thời Lý, trên lãnh thổ Ðại Việt không có ngọn núi nào tên Hoa-sơn cả. Có lẽ là núi Tiêu-sơn, nơi phát tích ra triều Lý chăng?
    8. Theo quan chế Tống, hồi đó thì chức Chiêu-văn quan đại học sĩ, giám tu quốc sử là danh tự để chỉ chức Tể-tướng. Không biết quan chế Cao-ly có giống Tống không ? Nếu giống thì Lý Long Tiền đã làm Tể-tướng.
    Chín đời vua triều Lý là:
    1. Thái-tổ Lý Công Uẩn.
    2. Thái-Tông Lý Ðức Chính.
    3. Thánh-Tông Lý Nhật Tông.
    4. Nhân-Tông Lý Càn Ðức.
    5. Thần-Tông Lý Dương Hoán.
    6. Anh-Tông Lý Thiên Tộ.
    7. Cao-Tông Lý Long Trát.
    8. Huệ-Tông Lý Long Sảm.
    9. Chiêu-hoàng Lý Phật Kim
  6. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    LTS: Cách đây hơn 5 năm Cháu hỏi tôi tại sao chúng bạn cười chế nhạo Cháu khi Cháu " tỉnh bơ tuyên bố" là " dưa chua Kim Chi (KimChee) là của Việt Nam" . Tôi vội chống đỡ là " có thể là của Đại Hàn" ... Bây giờ tôi lại trở nên phân vân... " Chưa chắc! Có thể là của Việt Nam từ đời Vua Lý... và Đại Hàn đã nhờ vào những Hoàng Phái họ Nhà Lý mà có dưa chua Kim Chi, tương đậu nành (fermented soybean sauce)... và có thể là đã giúp Đại Hàn chống được ngoại xâm Trung Hoa, Mông Cổ để giữ vững bờ cõi... Đại Hàn... ngày nay...
    Bài 1 là cuộc phỏng vấn của Phóng viên Minh Nguyệt với G. S. Trần Gia Phụng về Hoàng Tủ Lý Long Tường " vượt biên tỵ nạn sang Cao Ly" (Đại Hàn khi chưa chia hai)
    Bài 2 là " Nguyên tổ hai giòng họ Lý tại Ðại Hàn " bài viết dưới dạng PDF của Cư Sĩ Trần Đại Sỹ (là bài bạn ntkdung đã post ở trên -- SV)
    Ðại Hàn__________________________________________Minh Nguyệt
    Thưa quý thính giả, hiện nay, một trong những quốc gia có ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống văn hoá và một phần đời sống kinh tế Việt Nam là Đại Hàn. Bật tivi lên, người ta không những thấy đầy dẫy các quảng cáo hàng hoá của Đại Hàn mà còn được xem vô số phim do Đại Hàn, chủ yếu là Nam Hàn, tức Hàn quốc sản xuất. Qua phim ảnh, một số thời trang, từ cách ăn mặc đến các kiểu tóc của Nam Hàn cũng dần dần phổ biến trong xã hội Việt Nam.
    Trong mục VQTG kỳ này, MN sẽ nói đến một thứ ảnh hưởng ngược, đó là ảnh hưởng của người Việt Nam trong xã hội Đại Hàn qua cuộc đời và sự nghiệp của một người Việt tị nạn ở Đại Hàn vào thế kỷ 13: Hoàng tử Lý Long Tường. Tuy người Việt Nam chúng ta ít biết đến hoàng tử Lý Long Tường, thậm chí, trong một thời gian dài, cả hàng mấy trăm năm, ngay cả giới sử gia cũng không hề nghe nhắc đến tên của ông, nhưng ở Đại Hàn, Lý Long Tường là một danh nhân. Bức tượng của ông được dựng uy nghi gần thủ đô Seoul của Hàn Quốc, là nơi du khách từ khắp nơi đến thăm viếng và người dân trong nước đến để tỏ bày lòng ngưỡng mộ...
    Tại sao lại có hiện tượng nghịch lý như vậy? Tại sao một người Việt Nam mà lại tạo được sự nghiệp vẻ vang ở nước người như vậy?
    Để tìm hiểu vấn đề này, MN đã phỏng vấn Giáo sư Trần Gia Phụng, hiện đang định cư tại thành phố Toronto thuộc Canadạ Giáo sư Trần Gia Phụng là tác giả nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam xuất bản tại Canada như bộ " Những câu chuyện Việt sử" gồm 3 tập, " Những cuộc đảo chánh trong cung đình Việt Nam" , " Những kỳ án trong Việt sử" , hay " Quảng Nam trong lịch sử" , v.v... Minh Nguyệt: Trước hết, xin ông cho biết sơ qua về thân thế Hoàng tử Lý Long Tường.
    Trần Gia Phụng: Theo những tài liệu mới phát hiện thì Hoàng tử Lý Long Tường sống vào thế kỷ 13 và là con thứ của vua Lý Anh Tông (trị vì 1138-1175), em của vua Lý Cao Tông (trị vì 1176-1210), và là chú của vua Lý Huệ Tông (trị vì 1211-1224).
    Tôi nói tài liệu mới phát hiện là vì những bộ chính sử như " Đại Việt Sử ký Toàn thư" , " Khâm định Việt sử" , " Thông giám Cương mục" hoàn toàn không viết về Lý Long Tường, và có thể không biết có Lý Long Tường trong lịch sử. Chỉ vào nửa sau cuả thế kỷ 20, khi hậu duệ cuả Hoàng tử Lý Long Tường về Việt Nam tìm hiểu nguồn cội tổ tiên, thì chúng ta mới biết đến vị hoàng tử nhà Lý mà thôị Lý Long Tường có thể được xem là một trong những " Ông Tổ" vượt biên vì lý do chính trị đầu tiên cuả người Việt Nam.
    MN: Xin ông cho biết rõ hơn lý do tại sao Hoàng tử Lý Long Tường phải bỏ nước vượt biển ra đi?
    TGP: Như tôi đã thưa, Lý Long Tường vượt biên vì lý do chính trị... Nguyên là như thế nầy: Năm 1225, Trần Thủ Độ tổ chức đảo chánh một cách khôn khéo, lật đổ nhà Lý, đưa cháu là Trần Cảnh lên ngôi tức Trần Thái Tông (trị vì 1225-1258), lập ra nhà Trần (1225-1400). Sau cuộc đảo chánh không đổ máu, thì đến cuộc tàn sát đổ máụ Trần Thủ Độ đưa ra 3 biện pháp để tiêu diệt họ Lý: thứ nhất buộc con cháu nhà Lý đổi qua họ Nguyễn, thứ nhì đày con cháu nhà Lý đi lên vùng núi non biên giới phía bắc, và thứ 3 tàn sát con cháu nhà Lý. Vì sự ngược đãi của Trần Thủ Độ, con cháu nhà Lý bỏ trốn, trong đó có Lý Long Tường. Ông ra đi không phải để cầu viện hay tìm cách khôi phục nhà Lý, mà chỉ để bảo toàn sinh mạng và để lo việc thờ cúng tổ tiên. Tấm bia ghi lại công nghiệp của Lý Long Tường còn lưu lại hiện nay ở Thụ Hàng Môn (Bắc Cao Ly), có ghi như sau: " Năm bính tuất [1226], niên hiệu Bảo Khánh (đời Tống) trong nước có loạn, việc thờ cúng tổ tiên ở nhà Tông miếu bị huỷ bỏ, ông là chú vua, khóc ở miếu Nam Bình, rồi đem đồ tế khí ở bàn thờ tổ tiên, chạy về hướng đông."
    MN: Tại sao hoàng tử Lý Long Tường không sang tỵ nạn ở Trung Hoa mà lại sang Cao Ly?
    TGP: Tấm bia tôi vừa nói ở trên hoàn toàn không nói đến lý do vì sao Lý Long Tường qua Cao Ly mà không qua Trung Hoa.Trong quyển tiểu thuyết dã sử nhan đề là " Hoàng thúc Lý Long Tường" của một tác giả Cao Ly, ông Kang Moo Hak, có viết rằng Lý Long Tường qua Trung Hoa, tới Nam Kinh nhưng được biết rằng sứ thần nhà Trần đã qua Nam Kinh xin phong vương, và nhà Tống đã chấp thuận, nên Lý Long Tường thấy không thể ở lại Trung Hoạ Ông nhờ một người Cao Ly đưa qua nước Cao Ly.
    Vì sách của tác giả Cao Ly là một tiểu thuyết dã sử nên ở đây chúng ta không cần cẩn án về các chi tiết. Tuy nhiên có một điểm có thể ghi nhận là Lý Long Tường đã đến Trung Hoa trước khi đến Cao Ly, và có thể ông thấy ở Trung Hoa chưa an toàn, nên ông tiếp tục đi qua Cao Ly . Ngoài ra, tại sao chúng ta không nghĩ đến một giả thuyết rằng trên cuộc hải trình, Lý Long Tường có thể bị gió bão đẩy đi xa, hoặc thuyền của ông trôi theo dòng nước nóng Kuro Shivo lên tận biển Cao Ly ?
    MN: Tại sao hoàng tử Lý Long Tường được xem là một vị anh hùng ở Cao Ly?
    TGP: Lý Long Tường được xem là một anh hùng Cao Ly vì ông đã giúp vua Cao Ly chống lại hai cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ vào các năm 1232 và 1253. Nguyên khi đến Cao Ly, Lý Long Tường lên bộ ở tỉnh Hoàng Hải (Hwanghae), trên bờ biển phía tây Cao Ly, ở phía trên vĩ tuyến 38, trong eo biển nhìn qua Trung Hoạ Ông được chính quyền Cao Ly tiếp đón ân cần, và chấp nhận cho ông dung thân tại Trấn Sơn, huyện Bồn Tân, tỉnh Hoàng Hải.
    Năm 1232, vua Mông Cổ là A Hoạt Đài (Ogadai) tức Nguyên Thái Tông (trị vì Mông Cổng 1229-1241), sai quân đánh qua Cao Ly. Quân Mông Cổ đi bằng hai đường: đường bộ và đường thuỷ. Trên đường bộ, quân Mông Cổ tách làm 2, một cánh đánh thẳng vào kinh đô Cao Ly lúc đó là Khai Kinh, ở trung tâm nước Cao Ly, và một cánh quân đánh các tỉnh miền tây Cao Ly. Về đường thuỷ, quân Mông Cổ vượt giữa Trung Hoa và Cao Ly, tiến đánh tỉnh Hoàng Hải nhưng sau đó bị đẩy luị Một trong những tướng lãnh góp công đẩy lui quân Mông Cổ ở tỉnh Hoàng Hải là Lý Long Tường.
    Năm 1253, vua Mông Kha (Mangu) của Mông Cổ tức Nguyên Hiến Tông (trị vì Mông Cổ 1251-1259) gởi quân đánh Cao Ly lần nữa. Quân Mông Cổ tràn đến tấn công Hoàng Hải cả đường thuỷ lẫn đường bộ... Lý Long Tường đã cầm cự vững vàng vùng đất nầy. Sau khi quân Mông Cổ rút lui, vua Cao Ly cho xây tại Bồn Tân một công trình kỷ niệm chiến công của Lý Long Tường là " Thụ Hàng Môn" . Tại đây, vào năm 1711, người Cao Ly dựng một tấm bia ghi công trạng của Lý Long Tường. Nhờ thế hậu thế mới biết được ông là một Hoàng thân họ Lý qua định cư tại Cao Ly.
    MN: Còn con cháu Lý Long Tường về sau như thế nào ?
    TGP: Văn bia dựng ở Thụ Hàng Môn cũng có ghi sơ lược về con cháu của Lý Long Tường. Con cháu ông nhiều người đỗ đạt làm quan. Con ông là Lý Căn, làm Nghệ Văn Đại Đế Học, Kim Tử Quang Lộc Đại Phu; cháu của ông là Lý Huyền Lương giữ chức Lễ Bộ Tham Nghị Thượng Thư; Lý Long Tuyền làm Giám Tu Quốc Sử. Cháu đời thứ 5 là Lý Duy, đời thứ 6 là Lý Mạnh Nghệ được sắp vào hàng 72 danh sĩ ở ẩn vì giữ trung nghĩa, không ra làm quan với kẻ soán nghi.ch.
    Sau khi Cao Ly chia hai năm 1953, hậu duệ họ Lý cũng chia hai: Một nhánh ở lại tỉnh Hoàng Hải, một di cư xuống phía nam vĩ tuyến 38, lập nghiệp ở Hán Thành và ở Đông Hoả, một thành phố ở đông nam Cao Lỵ Cho đến nay, kể từ Lý Long Tường, họ nầy truyền được 26 đời.
    Trước 1975, ông Lý Khánh Huân, đời thứ 25 tính từ Lý Long Tường, đến Sài Gòn để tìm về cội nguồn tổ tiên, nhưng vì lúc đó đang có chiến tranh, nên chính phủ Đệ Nhị Cộng Hòa không giúp đỡ được gì nhiềụ Năm 1994, ông Lý Xương Căn, con của ông Lý Khánh Huân, tức đời thứ 26, qua Việt Nam, tìm đến bái vọng tổ tiên tại từ đường họ Lý ở làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn (Tiên Sơn cũ), tỉnh Bắc Ninh. (Đình Bảng cách Hà Nội 20 cây số về phía đông bắc, trên quốc lộ 1A đi từ Hà Nội đến Bắc Ninh)
    Vừa rồi là buổi phỏng vấn của MN với giáo sư Trần Gia Phụng về cuộc đời và sự nghiệp của hoàng tử Lý Long Tường tại Đại Hàn cách đây gần 8 thế kỷ. MN cám ơn giáo sư TGP đã dành thì giờ cho buổi phỏng vấn và hẹn gặp lại quý vị vào kỳ tới .
    Minh Nguyệt
  7. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Dòng họ Lý Hoa Sơn lại chủ yếu ở Bắc Hàn, Nam Hàn chỉ có ít thôi.
  8. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Theo Trần Đại Sỹ thì ko có sự việc nhà Trần diệt nhà Lý. Nếu mà quả thế thì các cụ mình cũng ko dã man lắm.

    Vì những liên hệ gữa Lý Long Tường với Nguyên tổ Trần Triều là Trần Lý, nên sau này tuy nhà Trần lên ngôi, nhưng vẫn tu bổ, tế lễ lăng tẩm các vua triều Lý. Chứ không có việc đào hố làm bẫy rồi giật sập tiêu diệt như ảo sử đã thuật.
    Nguyên do, có ảo sử là từ xưa đến giờ các sử gia đều tin theo ĐVSKTT, cho rằng : Khi Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh vào tháng 10 niên hiệu Thiên chương Hữu đạo thứ nhì (1225), thì Trần Thủ Độ loại tất cả các thân vương, đại thần thuộc hoàng tộc nhà Lý ra khỏi quan trường. Năm sau, niên hiệu Kiến trung nguyên niên, đời vua Thái tông nhà Trần, ngày 10 tháng 8 (1226) Thủ Độ bức tử vua Lý Huệ Tông, rồi giết hết tông tộc triều Lý.
    Trong khi ấy, gia phả cả bốn giòng của con cháu Hưng Đạo vương, lại chép rằng tông tộc Lý triều không hề bị giết, mà chỉ phải đổi thành họ Nguyễn, vì kiêng tên Nguyên tổ Trần Lý.
    Nhưng người ta tin theo ĐVSKTT, chứ không chịu suy xét thêm.
    Mãi tới năm 1941, tạp chí Sử học số 2 của Nhật bản đã sưu tầm, tìm ra một sự kiện đặc biệt thì vấn đề này được soi sáng :
    Tháng tám năm Bính Tuất (1226), đại đô đốc Trần triều là Lý Long Tường, con thứ 6 vua Anh tông, đã đem toàn bộ chu sư, tướng sĩ, tông tộc rời Đại Việt, tỵ nạn tại Cao ly.
    Rồi thời đệ nhất Cộng hòa (1955 1963), tổng thống Lý Thừa Vãn của Đại hàn trong khi viếng thăm Việt Nam, ông cũng tuyên bố rằng tổ tiên ông là người Việt. Bấy giờ tôi còn là một học sinh trung học, nhưng cũng ghi tâm sự kiện này, tự hẹn sau sẽ đi tìm cho ra sự thực : Nếu như quả có việc Lý Long Tường đem mấy nghìn người họ Lý sang Cao ly, thì không có việc Thủ Độ tuyệt diệt con cháu họ Lý.
  9. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Nếu nhà em nhớ không nhầm thì trong trận Như Nguyệt chỉ có một cánh quân nhỏ của Tống bí mật qua sông nên đột nhập được trận địa của ta chừng vài dặm, nhưng ngay sau đó đã bị đánh bật. Còn Bà chúa kho là hy sinh khi chống giặc Nguyên chứ có chống Tống đâu nhỉ.
    Bố TĐS này lại linh tinh rồi
  10. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Thì đọc cho vui còn ông Trần Đại Sỹ thì ai cũng biết mà.
    Hồi năm 2000 trên truyền hình có vở kịch Hoa Sơn Tướng Quân hoành tráng phết. Hàn xẻng tài trợ nên may trang phục oách lắm.

    Vòng vèo một hồi rồi chúng tôi cũng tìm được nhà ông Lý Xương Căn - Chủ tịch Công ty Việt Lý. Người đàn ông ngồi ở hàng nước đầu ngõ ngoái hẳn ra: "Đúng rồi, cái nhà ông Hàn Quốc dòng dõi vua Lý chứ gì? Rẽ trái đi thêm chục mét nữa là đến? Khu này ai chẳng biết ông ấy cơ chứ?".
    Trước khi đến đây, tôi đã gặp ông Lý Xương Căn trong một bữa tiệc do Hội Hữu nghị Việt Nam - Hàn Quốc tổ chức và được anh Nguyễn Phú Bình, Đại sứ - Phó chủ nhiệm Uỷ ban người Việt Nam ở nước ngoài giới thiệu: "Đó là người rất tâm huyết với đất nước. Chúng tôi cũng đã nói trước những khó khăn ở Việt Nam nhưng anh vẫn quyết tâm bán hết gia sản và đưa cả gia đình về Việt Nam?". Người đàn ông 43 tuổi - hậu duệ đời thứ 31 của vua Lý Thái Tổ và đời thứ 26 của Hoàng tử Lý Long Đường - đứng trước chúng tôi và nói những câu đầu tiên bằng tiếng Việt, dù còn hơi lơ lớ: "Chào các chị! Vợ chồng tôi rất cảm động khi được các chị tới thăm vào buổi chiều cuối tuần này?". Sau những lời nói đó, mọi sự khách sáo biến mất, chúng tôi chuyển sang cách xưng hô tự nhiên của người Việt - gọi chủ nhà bằng anh. Tôi biết anh Căn vừa từ nhà máy ở Đình Bảng - Từ Sơn - Bắc Ninh về tới Hà Nội. Cô Thái, trợ lý của anh cho biết: "Anh ấy bận rộn tối ngày ở miết trên nhà máy. Anh ấy là con người của công việc?". Vợ anh, chị Kim Yong Ja mỉm cười: "Phụ nữ Hàn Quốc phục tùng tuyệt đối người chồng". Anh Căn trải ra bàn những bức ảnh, những bài báo được lưu giữ cẩn thận, có cái đã mờ theo thời gian: "Đây là một cộng đồng họ Lý ở Hàn Quốc. Đây là bác Lý Huân, bác ruột tôi, người luôn đau đáu về quê hương gốc gác của mình, người đã hoạt động tích cực để thúc đẩy quan hệ Việt - Hàn. Đây là ngôi chùa một cột mà bác đã xây dựng ở Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc? Tôi là người làm tiếp những điều bác tôi đang làm dở?".
    Chúng tôi với anh chị Căn như sống lại với kỷ niệm của người con lưu lạc gần nghìn năm: "Thân ở nơi xa vạn dặm - Hồn lưu Tổ quốc Việt Nam". Tôi hiểu sự trở về của anh không phải dễ dàng. Có lẽ đúng như anh nói: "Đó là một câu chuyện dài và nếu viết được chắc có nhiều điều thú vị". Cuộc sống vật chất, tiện nghi, phong tục tập quán đã quen thuộc trong máu thịt, không phải ai cũng dễ dàng vứt bỏ. Nhưng cao hơn những điều đó và thiêng liêng hơn là tiếng gọi của tổ tiên, nguồn cội. "Khi Việt Nam ?" Hàn Quốc lập quan hệ năm 1992, tôi lúc đó là một kỹ sư điện ở Seoul, đã ấp ủ mong ước được trở về góp phần dù nhỏ bé cho sự nghiệp phát triển của đất nước?" ?" anh Căn tâm sự.
    Trở về Việt Nam, về quê hương Bắc Ninh, anh Căn tận mắt chứng kiến cuộc sống và lao động của người dân. Anh nghĩ rồi so sánh và bật ra ý tưởng: xây dựng một nhà máy vật liệu nhựa tổng hợp Peasco, thay xi măng và thay thế cho nhiều loại vật liệu khác? Đặc biệt dùng nguyên liệu là các phế thải sản xuất các sản phẩm cho hệ thống kênh mương cống thoát nước để dùng cho các công trình tưới tiêu nước trong nông nghiệp, cống nước và phục vụ cho xây dựng giao thông đường bộ. Ngày 8/5/2000 là một cái mốc lớn trong cuộc đời anh Căn ?" Công ty Việt Lý được thành lập. Nhà máy Đình Bảng với tổng trị giá khoảng 300.000 USD và 15 công nhân ban đầu được khởi công. Anh Căn cho biết: "Hệ thống kênh mương này đã được sử dụng ở Hàn Quốc 30 năm nay. Ưu điểm của nó là dễ dàng vận chuyển và sử dụng, bền vững gần như vĩnh cửu và giá rẻ hơn hơn 20% so với bê tông?". Anh nhấn mạnh: "Điều quan trọng là nhà máy của chúng tôi sẽ góp phần bảo vệ môi trường. Ở Hàn Quốc, những công ty tái sử dụng các phế thải nhận được sự tài trợ của Chính phủ. Ở Việt Nam, chúng tôi cũng nhận được sự giúp đỡ tận tình của Uỷ ban người Việt Nam ở nước ngoài, Văn phòng Chính phủ, các Bộ và đặc biệt là Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh". Anh cho chúng tôi biết, sắp tới anh sẽ xuất lô hàng đầu tiên xây dựng hệ thống kênh mương cho đồng ruộng ngay tại quê hương. "Và chúng tôi cũng dự kiến mở thêm nhiều nhà máy mới - trước mắt là tại thành phố Hồ Chí Minh".
    - Anh có lường hết khó khăn khi dấn thân vào công việc này? ?" Tôi không thể không đặt câu hỏi ấy.
    - Bản thân tôi và gia đình trở về đây đã là một câu trả lời. Dù có thế nào chúng tôi cũng không thể lùi. Cả 3 con tôi đều học ở trường Việt Nam. Hai cháu lớn 13 và 11 tuổi học trường Thực Nghiệm, cháu út Lý Việt Quốc 3 tuổi học Mẫu giáo Quảng An. Tôi đã xác định với các cháu là phải học tập và cống hiến cho Tổ quốc Việt Nam. Điều đó cũng là xứ mệnh của tôi.
    Lý Xương Căn thốt ra những lời đó với vẻ nghiêm túc đầy thuyết phục. Tôi biết anh còn rất nhiều dự định. Mỗi năm anh dành một số học bổng cho trường Lý Thái Tổ ở Bắc Ninh, khuyến khích học sinh nghèo học giỏi và mong tăng nhiều suất học bổng như thế khi công việc thuận lợi. Anh còn say sưa nhiều đêm để thiết kế một biểu tượng về Việt Nam trong lòng thế giới nhân dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long, một vở kịch về sự lưu lạc của hoàng tử Lý Long Tường với sự kết hợp của nghệ thuật Việt Nam ?" Hàn Quốc ? "Tôi còn rất nhiều việc phải làm?". Nghe anh, chúng tôi hiểu và chia sẻ, lòng thầm mong anh đạt được ý nguyện của mình.
    Chị Kim Yong Ja kể với chúng tôi những ngày đầu bỡ ngỡ về Việt Nam, về tấm áo dài mặc lần đầu tiên, về những món ăn Việt Nam yêu thích như ốc, phở gà, nem rán, lẩu? Chị khoe cuối tuần cả nhà đi ăn món ốc Hồ Tây nổi tiếng và tự tay chị làm món bún chả? Cũng thật cảm động khi nghe kể chuyện bé út đã bập bẹ những bài hát tiếng Việt đầu tiên: "Cháu lên ba cháu đi mẫu giáo, cô thương cháu?". Hạnh phúc trong gia đình này đã mang bóng dáng Việt Nam.
    Chia tay, chị Kim Yong Ja tiễn chúng tôi ra tận dường, chắp tay cúi đầu như tục lệ Hàn Quốc. Bất giác tôi đọc tên đường Âu Cơ và bỗng nghĩ: có phải trùng hợp chăng, khi anh Lý Xương Căn chọn ngôi nhà trên con đường này để ở? Con Rồng Cháu Tiên rồi cũng về sống giữa dòng giống Tiên Rồng!
    Theo Doanh nhân Việt Nam thời kì đổi mới.

Chia sẻ trang này