1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hệ thống SAM (Surface to Air Missile)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi macay3, 02/10/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. akhoa99

    akhoa99 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    08/10/2008
    Bài viết:
    107
    Đã được thích:
    0
    Cho em xin tờ hóa đơn thanh toán
  2. quangtungah

    quangtungah Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/11/2007
    Bài viết:
    233
    Đã được thích:
    0
    hình như đó là pháo phong không thì phải.
    em thấy ở đấy còn 1 xe ra đa nữa, con này đc phủ bạt suốt ngày, nên ko bít loại gì
  3. nguoiquansat

    nguoiquansat Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    1.542
    Đã được thích:
    352
  4. hanuman2008

    hanuman2008 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/09/2008
    Bài viết:
    457
    Đã được thích:
    0
    Kẻ thù của SAM
    Vũ khí xung điện từ công suất cao
    Vũ khí xung điện từ công suất cao được nghiên cứu, ứng dụng hơn 30 năm qua, nhưng được các nhà quân sự đánh giá là một trong những loại vũ khí then chốt trong tác chiến điện tử, chế áp các mạng chỉ huy, điều khiển, truyền tin và hệ thống máy tính đối phương. Phương thức tiến công của vũ khí xung điện từ là dùng sóng siêu cao tần công suất cao để chế áp các thiết bị vô tuyến điện, đốt cháy các linh kiện điện tử, vi mạch trong hệ thống khí tài chỉ huy, điều khiển, dẫn đường, làm cho các loại vũ khí công nghệ cao không hoạt động được hoặc đi chệch hướng mục tiêu cần tiêu diệt...
    Những tiến bộ khoa học-công nghệ trong lĩnh vực điện tử, kỹ thuật phát sóng siêu cao tần nhanh chóng đưa vào ứng dụng khiến cho vũ khí xung điện từ phát triển đa dạng, phát huy hiệu quả thực tế ngày càng cao. Ngay đầu thế kỷ 21, LB Nga đã nghiên cứu thành công và giới thiệu hai loại vũ khí xung điện từ Ranest-E và Rosa-E tại Triển lãm hàng không-vũ trụ và hàng hải Li-ma (Ma-lai-xi-a)-2001. Những vũ khí này gây sự chú ý mạnh mẽ của giới quân sự và thúc đẩy cuộc chạy đua phát triển vũ khí xung điện từ thế hệ mới của Mỹ, các nước trong khối NATO và các quốc gia trên thế giới. Dự án vũ khí Ranest-E nhằm tạo ra hệ thống phòng thủ vô tuyến cơ động chống các loại vũ khí chính xác cao của đối phương trong phạm vi bán kính 10km. Một hệ thống vũ khí Ranest-E bao gồm an-ten, máy phát công suất cao, thiết bị đo và điều khiển và nguồn cấp năng lượng. Vũ khí Ranest-E làm việc ở dải sóng xăng-ti-mét, tạo ra xung điện từ 10 đến 20 na-nô giây, công suất ra đạt 500MW (mê-ga-oát); toàn bộ hệ thống được lắp trên bệ cố định hoặc xe cơ động. Với công suất lớn, vũ khí Ranest-E hoàn toàn làm mất khả năng làm việc của thiết bị định hướng, dẫn đường của tên lửa. Hệ thống vũ khí Rosa-E làm việc trên dải sóng xăng-ti-mét, công suất từ 50 kW đến 100kW, tầm hoạt động 500km, do đó có khả năng vô hiệu hóa hiệu quả các hệ thống ra-đa của đối phương. Hệ thống vũ khí Rosa-E lắp đặt linh hoạt ở các trạm trên mặt đất, xe cơ động và máy bay.
    Đối với Mỹ, vũ khí xung điện từ công suất cao đã phát triển và trang bị đến các đơn vị lục quân, không quân và phòng không. Hai hãng chế tạo thiết bị quân sự Di-en BGT và Lốc-hít Mác-tin đã phát triển hệ thống vũ khí xung điện từ công suất cao lắp đặt trên xe việt dã Humvee dùng để kích nổ các thiết bị điều khiển nổ trong phạm vi từ 50m đến 100m với hiệu suất kích nổ đạt từ 75% đến 80%. Các loại vũ khí này còn được cải tiến, lắp đặt lên máy bay không người lái, bay ở độ cao từ 20m đến 200m để kích nổ và phá hủy các phương tiện điều khiển trên mặt đất. Gần đây, Mỹ phát triển hệ thống vũ khí xung điện từ Vigilant Eagle (VE) dùng chống các loại tên lửa phòng không vác vai để bảo vệ máy bay trực thăng và máy bay dân dụng. Hệ thống VE có tính tự động hóa cao, sử dụng mạng gồm bốn xen-xơ cảnh báo tên lửa hồng ngoại chồng phủ lên nhau, có khả năng diệt tất cả các loại tên lửa phòng không tầm thấp như Stinger (Mỹ), Blowpipe (Anh) và họ tên lửa phòng không hiện đại của Nga như SA-7, SA-16, SA-18... Hệ thống VE bố trí để bảo vệ sân bay, các công trình, mục tiêu chiến lược và chống khủng bố. Các công ty chế tạo vũ khí lớn của Mỹ đang hợp tác với nước ngoài triển khai các dự án phát triển vũ khí công nghệ cao như tên lửa, bom, đạn pháo mang đầu đạn xung điện từ công suất cao. Hiện nay, Mỹ đã ứng dụng đầu đạn xung điện từ cho tên lửa không đối đất tầm xa liên quân chủng JASSM, tên lửa Tô-ma-hốc phóng từ chiến hạm và tên lửa hành trình phóng từ trên không CALCM...
    Vũ khí xung điện từ công suất cao có nhiều ưu điểm nổi bật trong tác chiến hiện đại, nhưng chúng đang vấp phải hàng loạt vấn đề cần phải giải quyết nhất là công nghệ chế tạo phức tạp, chi phí cao. Vũ khí xung điện từ đòi hỏi trình độ của người sử dụng rất cao, nếu thiếu thận trọng, chúng sẽ gây tổn hại cho hệ thống thông tin, điều khiển và thiết bị điện tử của các loại vũ khí của chính bên sử dụng.
    Hoàng Hồng Phương
  5. napster90

    napster90 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/07/2006
    Bài viết:
    1.022
    Đã được thích:
    1
    cái này bản chất cũng là hệ thống ECM để jamming thôi mà nhỉ. Mà em chưa nghe ECM vs jam lại tác dụng vào quân ta bao h chắc bác dịch bài báo này nhầm lẫn gì chăng
  6. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    9K33 "Osa"
    NATO Codename SA - 8 "Gecko"
    [​IMG]
    Loại Surface-to-Air
    Nhập vào dịch vụ trong 1977
    Missile armament
    Số sứ 2 - 6
    trọng lượng 130 kg
    Warheads trọng lượng 19 kg
    Mục tiêu của tốc độ tối đa 1 800 km / h
    Firing phạm vi tối đa 10 km
    Firing phạm vi tối thiểu 1,5 km
    Tối đa nhắm mục tiêu của altitude 6 km
    Mục tiêu tối thiểu của altitude 25 m
    Số firing mục tiêu cùng một lúc 1
    Công thời gian chuẩn bị 5 phút
    [​IMG]
    [​IMG]
    9M36 Buk SA-11 Gadfly
    [​IMG]
    Loại: Surface-to-Air
    Năm: 1983
    Khoảng (km): 3 - 32
    Trần (km): 0,015-22
    Trọng lượng (kg): 690
    Chiều dài (m): 5,55
    Tốc độ gió (m / sec): 900 (3 M)
    Loại hình seeker: --
    Trọng lượng của warhead: 70 kg
    Số tầm: 4

    [​IMG]
    phong tỏa mục tiêu
    SA "ANTEY-2500"
    Các thông số kỹ thuật
    Khoảng cách của hitted mục tiêu, km: 200
    Alt. hitted của các mục tiêu, km: 0,025-30
    Vận tốc tối đa của một đánh chặn m s: 4500
    Thời gian chuẩn bị của một rocket để bắt đầu lên, s : 7
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    9M331 Tor SA-15
    [​IMG]
    Loại: Surface-to-Air
    Năm: 1988
    Khoảng (km): 1 - 12
    Trần (km): 0,01-6
    Trọng lượng (kg): 165
    Chiều dài (m): 3,5
    Tốc độ gió (m / sec): 850 (2.8 M)
    Loại hình seeker: --
    Trọng lượng của warhead: 15 kg
    Số tầm: 6
    [​IMG]
    [​IMG]
    S300PMU SA-10 Grumble
    Type: Surface -to- Air
    Year: 1985
    Range (km): 3- 150
    Ceiling (km): 0.025- 30
    Weight (kg): 1480
    Lenght (m): 7.0
    Speed (m/sec): 2100 (7 M)
    Type of seeker: -
    Weight of warhead: 100 kg
    Number of missiles: 4
    [​IMG]
    S-400 Triumph
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    S-300PMU2 Favorit
    Type: Surface -to- Air
    Year: 1995
    Đặc điểm
    Tham gia nhiều mục tiêu, km:
    - Tối đa 200
    - Tối thiểu 3
    tốc độ tối đa, km / h 10000
    Số đồng thời tham gia các mục tiêu 36
    Số đồng thời hướng dẫn tầm 72
    Đánh giá của lửa, sec 3
    Thời gian triển khai, min 5
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
  7. Jet_Ace

    Jet_Ace Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/12/2003
    Bài viết:
    830
    Đã được thích:
    0
    Đề nghị các bác dùng phần mềm dịch tự động thì chịu khó ngồi soát lại 1 chút. Dịch ngô nghê thế này đọc thấy @ lắm
  8. napster90

    napster90 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/07/2006
    Bài viết:
    1.022
    Đã được thích:
    1
    -Em nghĩ post ảnh mãi cũng hơi chán, để em dịch 1 bài nói về lịch sử chi tiết của hệ thống S-300 cho mọi người đọc.
    S-300 - A Detailed Analysis
    Mở đầu:
    Gia đình hệ thống phòng không chiến lược S-300P là một trong những hệ thống phòng không hiện đại nhất trong kho tàng vũ khí thế giới. Phiên bản đầu tiên được Tình báo phương Tây đặt tên là SA-10A Grumble, đưa ra một lời cảnh báo về một mức độ phức tạp và hiệu quả mới của các hệ thống phòng không hậu Xô Viết. SA-10A là hệ thống phòng không kế tiếp mà phương Tây thường nhắc đến như là những hệ thống SAM 2 chữ số, đánh dấu một mức độ nguy hiểm và hiệu quả lớn hơn các hệ thống đi trước. Mức độ nguy hiểm của hệ thống S-300P làm nó trở thành một hệ thống rất được chú ý trên thị trường xuất khẩu.
    Những phát triển ban đầu
    Khái niệm về hệ thống S-300 được hình thành từ cuối năm 1966. Với việc bắn thử thành công hệ thống S-200(SA-5 Gammon) , VPK đã đưa ra ý tưởng về hệ thống SAM thế hệ kế tiếp. Hệ thống phòng không này được nhắc đến với cái tên S-300. Nó có khả năng tấn công đồng thời nhiều mục tiêu, có khả ănng cơ động cao và hiệu quả để được triển khai trong quân chủng phòng không, bộ binh và hải quân Soviet. Một trong những cục chế tạo đưa ra bản đề nghị là cục thiết kế MKB Strela mà đứng đầu là Aleksandr Raspletin. MKB Strela sau này trở thành NPO Almaz. Raspletin đã tham gia vào việc chế tạo các hệ thống phòng không chính của Soviet thời đó như S-25(SA-1), S-75(SA-2) và S-200. Hệ thống mới này được phân loại là một hệ thống phòng không tầm trung, được thiết kế để thay thế cho S-75 và S-225 , bảo vệ các mục tiêu quan trọng của Liên Xô. Rất nhiều khẩu đội S-300 có thể được phát hiện ra ở các bãi bắn của SA-2 trước đây.
    Sự tách rời của hệ thống S-300V
    Đã có rất nhiều tranh luận về việc phát triển một hệ thống duy nhất để phục vụ cho 3 quân chủng khác nhau. Mỗi quân chủng có những yêu cầu khác nhau và không thể chuyển sang cho các quân chủng khác: quân chủng phòng không cần một hệ thống có tính cơ động cao, bộ binh cần một hệ thống có thể ngăn chặn được tên lửa đạn đạo thế hệ mới Pershing, hải quân cần một hệ thống có khả năng bắn hạ các tên lửa hành trình bay thấp. Đã có ý kiến cho rằng phiên bản cho hải quân có thể dùng chung với nhiều thành phần giống với phiên bản của pk-kq. Những nhà thiết kế giải quyết vấn đề với hệ thống cho bộ binh, tuy nhiên họ nhanh chóng lạc lối trên con đường đó, bắt đầu bằng việc chuyển sang làm hệ thống khung xe cho hệ thống. Cuối cùng, chủ tịch hội đồng quân ủy quân chủng phòng khung Dmitry Ustinov đã giải quyết vấn đề. Ông xác định rằng sẽ có 2 hệ thống được phát triển: S-300P cho không quân và một hệ thống S-300V cho bộ binh. Quyết định này là lý do tại sao hai gia đình hệ thống S-300P và S-300V có tên gọi giống nhau nhưng là hai hệ thống phòng không khắc hẳn nhau.
    Nguồn lực cuối cùng của Raspletin
    MKB Strela bắt đầu thiết kế S-300P vào năm 1969, cục được giao việc phát triển phiên bản S-300 cho pk-kq với khẩu hiệu ?oSáng tạo hệ thống S-300 chuẩn mực? Altair và Antey thiết kế phiên bản cho hải quân S-300F và bộ binh S-300V. Người đứng đầu thiết kế S-300P là Boris Bunkin, người đã nắm giữ chức vụ sau khi Raspletin qua đời. Raspletin đã đưa ra 2 quyết định then chốt về hệ thống mới trước khi qua đời. Những quyết định này là hệ thống nguồn điện tích hợp trong hệ thống và sử dụng radar mạng pha cho hệ thống dẫn bắn
    Như được tính toán trước đó, hệ thống S-300P sẽ có các đặc tính sau:
    -Thời gian triển khai dưới 5?T
    -Hệ thống chỉ huy có khả năng theo dõi 100 mục tiêu và điều khiển 6 khẩu đội.
    -Khả năng đặt 6 khẩu đội cách hệ thống chỉ huy từ 30-40 km
    Các cục thiết kế được phân chia để thực hiện việc chế tạo các thành phần của S-300P
    -Almaz TkSB: radar dẫn bắn 5N63 và các thành phần hệ thống.
    -Fakel MKB: tên lửa 5V55
    - Novosibirsk Measuring Instrument NII: hệ thống chỉ huy chiến đấu 5N64 sử dụng hệ thống chỉ huy 5N83
    -Leningrad KBSM: xe chở đạn 5P851 TEL
  9. sam400

    sam400 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/10/2008
    Bài viết:
    191
    Đã được thích:
    4
    có phần mềm dịch tự động Anh Việt rồi hở bác?
  10. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    là translate.google
    chịu khó chỉnh lại chút thì tiết kiệm thời gian

Chia sẻ trang này