1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

"Hiếp mà không hiếp, thế mới gọi là hiếp"

Chủ đề trong 'Văn học' bởi am_anh, 31/12/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. am_anh

    am_anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2005
    Bài viết:
    194
    Đã được thích:
    0

    Đã có 1 ý kiến phản hồi thế này, mời các bạn cùng xem:
    17.2.2006
    Dương Thu Hoàng
    Vào năm 1987, mới xuất đầu lộ diện mà được trình làng ngay chùm thơ 3 bài ở giữa trang báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam là một hiện tượng phá luật thời đó. Hơn nữa, chùm thơ ấy lại được xét tặng thưởng thơ hay nhất trong năm của tờ báo đó, tên tuổi một cây bút nữ lạ hoắc ở Hải Phòng đã trở thành tiêu điểm ngờ vực, tò mò của độc giả văn chương. Tiếp theo, báo chí Bắc Trung Nam đều săn đón thơ chị. Sau 11 tháng hiển hiện, Dư Thị Hoàn cho ra tập thơ đầu tay Lối nhỏ gồm 42 bài do Hội Văn nghệ Hải Phòng xuất bản. Từ đó chị đã tự khẳng định được vị trị tác giả trên thi đàn, đồng thời góp phần khẳng định hiệu ứng đột biến, lan rộng khắp nước của văn học đổi mới cùng với Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài... được khởi xướng từ báo Văn nghệ do nhà văn Nguyên Ngọc làm tổng biên tập hồi đó.
    Ðã gần 20 năm trôi qua, tập thơ Lối nhỏ vẫn còn dư ba trong những cuộc trà dư tửu hậu, bởi nhiều bài thơ trong đó (được công bố trước khi in tập) có giá trị bản lề, thách thức và bổ khuyết cho một vài nhận thức nghệ thuật và quan niệm nhân sinh xuôi chiều được đời người tôn thờ một cách hiển nhiên bấy lâu nay, như ?oMai?, ?oTổ quốc?, ?oHỏi Lý Bạch?, ?oTâm sự quả bóng đá?, ?oÐi lễ chùa?, ?oÐừng giận em?, ?oGiàn hoa giấy than thở?... và lay động tâm thức, đụng chạm đến thuần phong nhiều nhất vẫn là bài thơ ?oTan vỡ? với chi tiết cởi cúc áo trên ghế đá. Ðã có nhiều người viết về thơ Dư Thị Hoàn, và nhiều tranh cãi về bài thơ ?oTan vỡ?.
    Mới đây nhất, bài ?oHình như có người cởi áo trước hư không? của Đặng Thân trên trang web Tiền Vệ cũng bắt nguồn từ cảm thụ bài thơ ?oTan vỡ? này.
    Tôi cho rằng cái phát hiện đáng lưu ý của bài viết này là tác giả đã mạnh dạn liên hệ và triển khai một cách hào hứng hai khái niệm: ?oCởi trói? có tính cột mốc lịch sử của ông Nguyễn Văn Linh, nguyên Tổng Bí thư Đảng CSVN, và ?oCởi áo? do nhà thơ Dư Thị Hoàn khởi xướng vào thời điểm manh nha cuộc cải cách ở Việt Nam. Bài viết rất dễ đồng cảm nếu tác giả này đừng quá ôm đồm, đừng quá thiên kiến, và đừng quá lạm dụng khẩu khí.
    Ôm đồm:
    Thay vì đi sâu vào phân tích bối cảnh thời cuộc và khám phá xuất xứ, nội dung của bài thơ ?oTan vỡ? để nhằm nêu bật giá trị tiên phong và ý thức đòi hỏi tự do của người nghệ sĩ như ý tưởng mà Ðặng Thân đã bộc lộ, rồi mở rộng liên hệ tới các cuộc cách mạng nghệ thuật ở thời kỳ Phục Hưng, thì ông lại lan man sang nguồn gốc nhân thân, truy tìm dòng máu Trung Hoa qua tên của một bài hát hải ngoại (tiếng Trung) - ?oTruyền nhân của rồng? mà Dư Thị Hoàn đã lấy làm tựa đề cho một tiểu thuyết của chị, một cách hoàn toàn không ăn nhập với chủ đề bài viết... Hơn nữa Ðặng Thân còn dựa vào ngoại hình của nữ thi sĩ và đưa ra lập luận đàn bà già mới đẹp để dẫn dắt câu thành ngữ ?oMỹ nhân tự cổ như danh tướng? theo ngẫu hứng của mình!? Rồi hốt nhiên tóm được vẻ ?ocuồng nhân? của nữ nhà thơ này lại nèo kéo sang triết lý người điên và những thí dụ từ Đông sang Tây một cách tản mát, cố kỉnh và hời hợt. Do vậy, tôi tiếc cho bài viết đã bị phân tán, các vấn đề được nêu ra đều không đến nơi đến chốn.
    Thiên kiến:
    Chuyện về ông Nguyễn Văn Linh đưa ra chuyên mục ?oNhững việc cần làm ngay? trên báo Nhân dân và khởi xướng ?oCởi trói? cho văn nghệ sĩ, mở đầu cuộc lột xác tư duy ở thời điểm bi kịch nhất của đất nước, đã ấn nút khởi động cuộc chấn hưng dân tộc. Ðiều đó không ai có thể chối cãi. Nhưng, nếu chỉ vì thân sinh nhà ông mả táng hàm rồng, ông mới được hưởng chính ngôi (Thiên tử) như chi tiết mà Ðặng Thân đã lượm lặt, vậy những vị cũng ngự ngai rồng như Ðỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Ðức Mạnh? thì sao? Cũng mả phát cả chứ?
    Nếu chỉ vì ông Linh được khai ngộ do mớ sách vở (đồi truỵ *********) vớ được từ chính quyền Sài Gòn cũ mà làm nên công trạng cải cách đất nước như Ðặng Thân đã diễn giải thì quả là...
    Hơn nữa, nếu chỉ nhìn vào ?ochiếu chỉ? đổi mới mà tụng ca kẻ ?oLong uy?: Công của ông quả là phi thường... làm nên cả một cuộc chấn hưng dân tộc... Nhờ có ông mà mọi người mới đủ cơm áo được như hôm nay... Nhận định như vậy thì thật có tội với vô số vị ?otàng long? khác, đã và đang cống hiến thầm lặng để xoay vận cho xứ sở, trả giá bằng cả sự nghiệp thậm chí tính mạng của mình để cho vị ?oChăn dân? ấn nút ?oÐổi mới? một cách ngoạn mục đến thế. Họ đang bị khuất lấp, đang phải nếm đủ mùi oan nghiệt chắc ông Ðặng Thân biết chứ?
    Lạm dụng khẩu khí:
    Cảm thán bùi ngùi của tác giả về con số ?o9? đã khép lại luận đề về đại nghiệp ngôi ?oCửu ngũ? của ông Nguyễn Văn Linh, và cách ứng vận lời thoán dịch quẻ nữa, đủ thấy tác giả là một người ham tường lý số, kinh sách lắm.
    Nghe Ðặng Thân khuyên: Bạn hãy đọc đi đọc lại bài ?oTan vỡ? này đi! Bạn nghĩ gì trước câu nói ấy của một người con gái: [tại sao] sau phút giây êm đềm trên ghế đá, anh không cài lại khuy áo ngực cho em?, tôi thấy tác giả vô cùng tâm đắc với nhà thơ có tinh thần tiên phong, triệt để cổ xuý giải phóng con người, tiếng nói (quyền mở miệng) của con người... Nhưng bỗng giật thót khi mường tượng ông đang chỉ tay vào những ai không cùng chủ kiến:... Bạn hãy im ngay! Thế đấy, khẩu khí kẻ cả, áp đảo đã phản lại toàn bộ tinh thần mà tác giả bênh vực, chắt chiu và nâng niu. Tiếc lắm thay!
  2. am_anh

    am_anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2005
    Bài viết:
    194
    Đã được thích:
    0

    Và đây là trả lời của Đặng Thân trên tạp chí talawas, mời các bạn xem và góp ý với các vị ấy:
    Đặng Thân
    Kính gửi ông/bà Dương Thu Hoàng!
    Tôi rất cảm động khi được ông/bà đọc và cho ý kiến về một bài viết của tôi nhân kỷ niệm 20 năm ?odoi moi?. Xin cảm ơn ông/bà.
    Tuy nhiên, sau khi đọc bài của ông/bà tôi thấy khó mà thấu hiểu hết được vì nó có nhiều lỗi về chính tả, dùng từ, đặt câu cùng nhiều lời khuyên bảo nên chưa thể trả lời ông/bà được.
    Kính mong ông/bà thông cảm.
  3. Neo_Confucius

    Neo_Confucius Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/12/2005
    Bài viết:
    62
    Đã được thích:
    0

    Lâu dồi chưa online zì tiếng Ziệt miềng kém wá, nay zô lại tuợc đọc bài "cởi áo" của đặng Thân thiệt quá đã. Bạn am_anh có tìm tược bài nào nữa thì bốt lên cho bà con xem tiếp cho đã thèm zới.
    Cái oông/pà DTHoàng (nghe đọc rống cái rọng văn thằng Vương Văn Quang trong Sài Gòng lày quá) ngứa mồm "càu nhàu" quả là không fải lối. Ở đời có những thằng cầm bút ziết không nổi 1 câu văn cho ra hồn nên có mỗi cái ziệc là đi chọc ngoáy fá thối người khác, nhảm.
    Thư phúc đáp của Đặng thân thiệt là tuyệt wá. Zừa Thâm thuý zừa cao viễn mà đích đáng đối với những thằng ngu xuẩn, zô học, đê tiện.
  4. am_anh

    am_anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2005
    Bài viết:
    194
    Đã được thích:
    0

    Hey, có hàng mới đây:
    Ðặng Thân
    Hình như là ?ocởi quần?
    Ồ đã 20 năm rồi đấy nhỉ. ?oDoi Moi? đã in sâu vào tâm trí rất nhiều người trong và ngoài nước như một dấu ấn đặc sắc của một thời đại khó lặp lại.
    Xuân đã về, hoa nở khắp nơi. ?oNày hoa ban, một nghìn năm trước thì mày có trắng như thế không?? Đã có nhiều người đi tìm ?ohoa ban? bao quản gian nan sau khi Nguyễn Huy Thiệp tung ra cái câu hỏa mù nghe như có giọng bùa chú ấy. Có kẻ đi rất xa mà chẳng thấy, có người (như ?onúi vàng? Nguyễn Hoàng Sơn) ở Hà Nội bảo đã gặp ở Gia Lâm ?" ngay bên kia cầu Chương Dương ?" việc gì phải đi đâu xa mà tìm cho mệt. Ô, người ta đã làm gì mà phải đi tìm? Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên còn chủ sự cả tập Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp nữa, trong đó ta gặp rất nhiều tiếng nói và những tên tuổi uy thế như Hoàng Ngọc Hiến, Đặng Anh Đào, T. L. Filimonova, Greg Lockhart, Lại Nguyên Ân, Đỗ Văn Khang, Văn Tâm, Nguyễn Văn Lưu, Nguyễn Vy Khanh, Vương Trí Nhàn, Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Đức Hiểu,... Viết về anh còn có sự góp mặt đầy tinh thần và trách nhiệm của những người xa tổ quốc như Trương Hồng Quang, Thụy Khuê hay Đoàn Cầm Thi; và cũng không thể bỏ qua tiếng nói của Dương Thu Hương. Sơ sơ như thế đã thấy đây là nhân vật gây ra nhiều hứng thú và mệt mỏi cho văn học.
    Tuy mới 20 năm nhưng những năm tháng ấy khác bây giờ xa lắm. Mọi người đều đói, có nhiều nguồn tin là đã có nhiều người chết đói, chính tôi cũng đã có lúc nhịn đói một tuần (nhưng báo Văn nghệ thì bán chạy hơn bây giờ nhiều). Chiến tranh lớn đã qua đi cả thập kỷ nhưng mọi người vẫn phải nghe hàng ngày những từ ngữ đầy khí thế như từ ?onắp hầm? trong mỗi bữa ăn, những đôi mắt người ?omang hình viên đạn?, ?okẻ thù giai cấp?, ?oâm mưu xâm lược?, ?ođời người là một khúc quân hành?, cùng những lời hứa hẹn và khích động phát hàng ngày trên loa phóng thanh rải khắp các phường xóm. 10 năm hậu chiến làm được nhiều chuyện mà trước đó hàng mấy chục năm trường không ai tưởng tượng nổi. Con người tha hóa khủng khiếp. Trộm cắp và ?otrấn lột? (từ này chính được phổ biến trong thời kỳ này) như rươi, người ngay sợ kẻ gian. Tất cả hầu như chỉ nghĩ đến tiền và đau khổ vì tiền, sẵn sàng vì tiền mà bất chấp mọi thứ gì liên quan đến tình người. Hàng triệu người lên thuyền di tản đi tìm cuộc sống khác. Cuộc tổng khủng hoảng về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội và con người hậu chiến đã lên đến cực điểm. Vì thế ?oDoi Moi? đã là chuyện không thể khác đi, có thể nói ?ođổi mới hay là chết?. Nghe hai tiếng ?ođổi mới? có vẻ hoành tráng thật thế nhưng hành động cụ thể lại thường là những việc quá cũ. ?oKhoán sản phẩm? trong nông nghiệp chẳng hạn. Trước đó mấy chục năm ông Kim Ngọc ?" một Bí thư Tỉnh ủy ?" đã bị ông Trường Chinh (các nhà sử học đã xác minh ông thuộc dòng dõi Trần Hưng Đạo!) kỉ luật cách chức vì thực hiện nó trước đấy. Sau khi thực hiện trở lại, nghe nói các cán bộ miền Nam đã không ngần ngại hỏi ông Trường Chinh về chuyện này thì được trả lời ngay: khi đó anh Kim Ngọc đúng, tôi sai. Và chỉ có vậy. Câu chuyện làm ta nhớ Trần Khánh Dư: ?ochúng ta là chim ưng, dân chúng là vịt trời; con chim ưng ăn thịt con vịt trời là lẽ thường tình.?
    Ai cũng thấy rằng cái đất nước này không thể được quản lý theo kiểu cũ, kiểu ?otrại lính? được nữa. Nhưng ai dám nói? Lãnh tụ Nguyễn Văn Linh đã hô ?ođổi mới? và ?ocởi trói?, nữ sỹ Dư Thị Hoàn đã ?ocởi áo? (xin xem thêm "Hình như có người ?ocởi áo? trước hư không" trên Tiền Vệ), dĩ nhiên tôi muốn nói người ?ocởi quần? (?oGiữa đám người mặc áo quần súng sính thì thằng cởi truồng có văn?) là nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, với "Tướng về hưu". Hơn nữa, anh đã ?ocởi quần?, đã lột truồng cả một thời cuộc.
    Nguyễn Huy Thiệp quan trọng đến cỡ nào? Một nhân vật hóa thân của nhà văn có nói: ?oMột số báo chí phương Tây như Le Monde hay Libération gọi tôi là nhà văn hiện đại lớn nhất Việt Nam. Tôi cũng không thích được gọi như thế vì gọi như thế cũng chẳng khác gì ví tôi như con ễnh ương lớn nhất giữa bầy ễnh ương!? Vậy"Tướng về hưu" đã ?ocởi quần? ai, đã lột truồng những gì?
    Ông tướng trong truyện đã về hưu sau khi tự tay ?ochôn ba nghìn thằng? sau những chiến thắng oanh liệt. Ông xuất thân nông dân, cả đời sống với chiến trận, gia đình là những người lính, ?ongủ hầm, mưa dầm, cơm vắt?, tình đồng đội son sắt, ?osúng là vợ, đạn là con?, cho đến khi nghỉ hưu về với gia đình ông đã biết chút gì đâu về những con người hậu chiến đã hình như hóa dã thú lúc nào không hay. Ông phát cho mọi thành viên ?obình quân? như nhau mỗi người mấy mét vải bộ đội như một ý muốn âm thầm lập lại ?otrật tự kỷ cương? như thời chiến. Tất nhiên ý tưởng đó sụp đổ. Sau khi vị tướng cởi bỏ quân phục ông thấy mình hết mọi quyền uy và lạc lõng ngay tại nhà và quê hương mình giữa những cá nhân dị hợm. Thằng con đẻ yếm thế, nhu nhược trong cái khổ lụy có tên ?obám váy vợ?. Quyền lực của cô vợ nằm ở đàn chó béc-giê và những nồi cám nấu bằng thai người. Những đứa cháu thờ ơ, vô cảm trước mọi chuyện đời đang diễn ra. Thằng em vợ lưu manh ?omọi người đều gọi em là chó? chỉ mình chị gọi em là người?. Những nhà thơ đăng bài trên báo Văn nghệ làm việc ở nhà máy chế biên nước mắm. Những người hiền lành, tốt bụng nhất thì không dốt nát cũng dở hơi? Cái cảnh ?olột truồng? xã hội sinh động nhất có thể chính là khi thằng em ?ochó má? khóc chị, là vợ ông tướng: ?oỐi chị ơi, sao chị lừa em mà đi?? Rồi con trai ông tướng tự vấn: ?ođến chết mà người ta cũng phải lừa nhau mới đi được. Hóa ra ngoài đồng kia rặt quân lừa đảo!? Không chốn nương thân giữa những người thân ông quay lại đơn vị cũ và chết cùng đồng đội như không thoát khỏi lời nguyền ?osinh ư nghiệp, tử ư nghiệp?.
    Ông tướng đã không biết tới lời Tố Hữu: Trong chiến tranh tất cả cho chiến thắng nên mọi ngón tay đều phải dồn sức mạnh cho cả bàn tay thành nắm đấm. Khi hòa bình rồi lại phải quan tâm đến từng ngón tay. Ông cũng không biết Lê Đức Thọ đã bảo Hoàng Ngọc Hiến: ?oTrong kháng chiến, tôi cắt tóc thế nào cũng được, nhưng bây giờ hòa bình rồi, cắt cũng phải có kiểu của nó?. Ông chắc càng đâu để ý đến ngụ ngôn của Trang Tử: kìa hãy xem đàn cá mắc cạn kia, chúng hà hơi bú mớm cho nhau từng chút nước bọt để cứu nhau mong đến khi trở về với nước, nhưng khi cá đã gặp nước bơi lội nhởn nhơ thì chúng nhìn nhau như những kẻ xa lạ. Càng là cái lẽ thường hằng ?oThiên địa bất nhân sử vạn vật vi sô cẩu? mà Lão Tử đã vạch ra từ rất xưa. Loài chó rơm, sau lễ cúng tế được nâng niu trân trọng, lại trở về với cống rãnh mà thôi.
    Sau một màn ?ocởi? ngoạn mục đưa anh lên tầm thời đại, Nguyễn Huy Thiệp đã trở thành hiện tượng quan trọng vào bậc nhất của văn học ?oĐổi Mới?. Sau "Tướng về hưu" là sự xuất bản một loạt những "Tâm hồn mẹ", "Huyền thoại phố phường", "Giọt máu", "Muối của rừng", "Không có vua", "Những người thợ xẻ", "Những bài học nông thôn", "Thương nhớ đồng quê", "Sang sông", "Chút thoáng Xuân Hương", "Mưa", "Nguyễn Thị Lộ", "Trương Chi",? mà truyện nào cũng đặc sắc, hình như là đủ đưa anh lên tầm quốc tế. Thế nhưng những truyện được ghi nhận sâu sắc và gây bàn cãi nhất chính là chùm truyện Con gái thủy thần, ba truyện có đề tài lịch sử "Kiếm sắc", "Vàng lửa", "Phẩm tiết" và tập truyện núi rừng Những ngọn gió Hua Tát. Nhà văn Hồ Anh Thái thích nhất Con gái thủy thần vì nó dân dã, nó ma quái, nó ám ảnh, nhưng đến phần ba thì anh lại thấy chán ngắt vì Thiệp đã cất cái giọng ?onhà quê? lên mà dạy đời. Chùm truyện đề tài lịch sử gây tranh luận ầm ĩ nhất vì nhiều người không hiểu anh định nói gì, chỉ biết là đọc thấy rất lạ rất hút; rất nhiều ông bảo Thiệp bôi nhọ lịch sử, thóa mạ anh hùng hay so sánh quyền lực chính trị với nghệ thuật. Có một nhà văn hóa amateur nghe nhiều những câu như thế đã nóng tiết: ?oCác ông câm mẹ nó hết đi! Thực ra Thiệp muốn nói lên cái câu của các cụ: Anh hùng khí đoản, nhi nữ tình trường.? Những câu chuyện về cái đề tài này cho đến nay vẫn chưa chấm dứt. Còn rất đông người đã thích mê mẩn Những ngọn gió Hua Tát có lẽ vì cái không gian huyền thoại lãng mạn classique hơn cả classicisme của chúng. Đánh giá cả một sự nghiệp có chừng ấy không khỏi có phần sơ suất, hy vọng sẽ có những luận văn tiến sĩ văn chương bàn sâu hơn, chi tiết hơn cho thỏa lòng yêu Thiệp (và ghét Thiệp) của mọi người.
    Truyện anh viết được in khắp nơi trong và ngoài nước. Anh đi nói chuyện. Anh đi nước ngoài. Anh cho đắp tượng Phật ngay giữa vườn nhà như thể một điểm níu kéo cho đức tin của mình. Không biết anh có hay rằng chính Phật cũng không ưa các loại tượng thần, cho đó là nơi cư ngụ của quỷ dữ. Ở Hà Nội cũng có một người khác đắp tượng Phật giữa một khuôn viên rộng hàng vạn mét vuông đất nội thành, đó là Nguyễn Bảo Sinh (có biệt danh Sinh ?ochó? ?" ghi danh một cái nghề khét tiếng của anh). Tượng của Nguyễn Bảo Sinh là tượng Phật Bà Quan Âm đứng ôm bình bồ liễu nhưng lại theo tỷ lệ 1/6 của Hy Lạp. Anh còn tạc cả thầy trò Đường Tăng để nêu cái ngũ đức Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín. Sau anh khiêm tốn tạc tượng mình nhỏ nhoi com-lê ca-vát sau tượng Phật Bà nhưng đứng trên quả địa cầu. Vì thế mà trong dân gian có câu vui vui:
    Bảo Sinh đứng trên quả địa cầu
    Sủa gâu gâu
    Bảo Sinh có nhiều tài, lại hay thơ. Anh tự gọi thơ mình là ?ohuyền thi? với ?onhững câu thơ đi tắt đón đầu thẳng vào ý thơ mà bỏ qua mọi nhạc tính hay tu từ?. Thiệp thích thơ Sinh nên cũng hay trích ?ohuyền thi? vào truyện của mình, lại còn mang sang đọc bên Mỹ. Nghe nói hai người rất thân nhau, và Nguyễn Huy Thiệp đã có bài giới thiệu Sinh trên báo, gọi anh là ?onhà thơ dân gian?.
    Nguyễn Huy Thiệp còn có công giới thiệu nhiều người viết khác đến với công chúng.
    Đáng nể nhất là anh có nhiều bài viết về thi sỹ đồng quê Đồng Đức Bốn, bạn chí thiết của anh. Anh lăng-xê Bốn bằng một luận đề về thơ và nhà thơ:
    Trong thơ ranh giới chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp rất khó xác định. Thơ dân chủ và... bao la đến nỗi có lần nhà văn Phạm Thị Hoài (vốn hóm hỉnh) từng mơ đến việc ra đời nước cộng hòa của các nhà thơ(!). Trong lịch sử Phật giáo đã xảy ra việc chia ra hai môn phái Bắc tông (Thần Tú) và Nam tông (Huệ Năng). Môn phái Bắc tông gọi là tiệm ngộ (giác ngộ dần dần) có phần coi trọng sự học hành kinh điển và tổ chức. Môn phái Nam tông gọi là đốn ngộ (giác ngộ tức khắc) có phần coi trọng trực giác nhiều hơn. Thực ra, hai môn phái ấy đều chung một thầy, đều thờ Phật, đều cùng mục đích hoằng dương Phật pháp. Xét về mặt nào đấy, trong thơ cũng có thể chia ra hai môn phái tiệm ngộ (trí năng) và đốn ngộ (trực năng). Chế Lan Viên, Bằng Việt, Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Anh Ngọc, Hoàng Trần Cương v.v... là trí năng chăng? Nguyễn Bính, Bùi Giáng, Đồng Đức Bốn v.v? là trực năng chăng?
    Anh có cái lý của anh, hình như là một nhà tư tưởng theo hướng Duy tâm chủ quan. Tuy nhiên, tôi lại thấy thích cái quan niệm mà anh mới phát biểu vào ngày cuối cùng của năm ngoái (xin hãy bỏ qua cái lỗi nhỏ về toán học của người viết văn):
    Thú thực, tôi rất mong thơ ca tĩnh lặng. Tôi đã có lần nói về ba loại nhà thơ: loại 1 là của những người trẻ (những trai tân, gái tân), những thiên thần, số này chiếm tỷ lệ 0,1%. Loại 2 là ?othi ngôn chí?: thơ nói ra cái chí của con người (chí tình, chí nghĩa, chí anh hùng...), số này chiếm tỷ lệ 0,1%. Còn lại 98% chỉ toàn là thơ nhảm nhí, thơ tuyên truyền, thơ về hưu, thơ thù tạc, thơ tán tỉnh, không ra gì, tĩnh lặng là phải, im miệng là phải.
    Đầu Xuân Tân Tị 2001, anh viết về Bốn:
    Đồng Đức Bốn xuất hiện trong làng thơ Việt Nam khoảng 10 năm nay, viết chừng 80 bài thơ, trong đó có tới trên dưới 15 bài thơ được khách sành văn chương xếp vào loại cực hay, tài tử vô địch! Còn lại, thực ra nhiều bài cũng chẳng ra gì.
    Lại còn kết luận một câu chết người:
    Tiếc cho Đồng Đức Bốn đọc không nhiều sách, không chịu học hành, đôi khi bừa bãi ngông cuồng, lại không biết viết (anh thường làm thơ trong đầu rồi đọc cho người khác chép), vốn từ vựng có lẽ chỉ ngót nghét có... 600 từ! Nếu không, chúng ta đã có một nhà thơ chân quê hạng nhất!
    Xuân Quý Mùi 2003 anh lại có bài viết về Bốn, nghe đồn lần này là viết theo đơn đặt hàng nên bài viết rất có ?okhí?. Nhưng những bài hay nhất của anh về Bốn là vào hồi năm ngoái khi Bốn mắc bạo bệnh với những cái title thế này: "Một nhân vật hoang đường", "Một người bạn hiếm có"? với một câu hết sức ấn tượng:
    Tôi có lần nói đùa rằng Đồng Đức Bốn chỉ biết có 600 từ tiếng Việt. Giải pháp tốt nhất khiến Đồng Đức Bốn thoát khỏi lưới rập ngôn từ là thả phanh nói tục, nói toạc ra thẳng thừng. Nói tục là một cách tiếp cận chân lý trắng trợn và hiệu quả nhất. Tôi chưa thấy ai nói tiếng Việt tục hay như Đồng Đức Bốn! ?oMở miệng thời văng tục rầm lên?. Đồng Đức Bốn không suy nghĩ nhiều nhưng khi tia chớp bản năng vừa mới bừng lên loé sáng là anh ?omúc liền, bụp luôn?!
    Thiệp còn viết truyện "Đưa sáo sang sông" đến hai lần để đưa Bốn vào làm nhân vật. Yêu nhau đến thế được sao? Tình bạn duo ấy cũng đã để lại cho mọi người những ý tượng lạ lẫm, đáng yêu, đáng trọng về thơ.
    Nguyễn Huy Thiệp còn viết bài về một Phan Huyền Thư ?okhá tinh tế, đức hạnh và lịch sự? với thể thơ ?otự do thật?, với ?onỗi buồn day dứt khôn tả? đến mức có lúc nhà thơ ?omuốn cáo phó mình?.
    Đó còn là Vi Thùy Linh viết bằng ?otâm hồn và cơ thể?, ?olà một đại diện đáng kể nhất, thậm chí nguy hiểm nhất? với ?okẻ tình nhân trong thơ [cô] là một tên Sở Khanh rất đáng kể, siêu phàm?, đến mức ?okhông thể nhận ra Vi Thùy Linh là một nhà thơ tình [hay] một nhà thơ tội nghiệp luôn bị phụ tình?. Với tập thơ mới nhất của Linh, anh nhận xét: ?oNăm vừa qua có sự trở lại của Vi Thùy Linh với tập Đồng tử nhưng Linh giờ đây đã qua giai đoạn thiên thần rồi, không còn ?othơ? nữa.?
  5. am_anh

    am_anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2005
    Bài viết:
    194
    Đã được thích:
    0

    Ngoài ra anh còn viết về nhiều nhân vật lạ lẫm khác trong thơ ca. Tất cả những bài giới thiệu ấy như những cố gắng gồng mình lên để cởi bỏ những gì cũ kỹ, nặng nề, những gông cùm của tư tưởng để mang lại những sinh khí mới của tinh thần ?odoi moi? do chính anh góp phần lớn tạo dựng nên. Hãy nghe chính anh tổng kết văn học Việt Nam 20 năm qua:
    Từ 1986 bắt đầu công cuộc đổi mới trong xã hội ta. Trước giai đoạn này văn học chỉ có một giọng, một luồng chính thống. Nguyễn Minh Châu gọi đó là nền văn học minh họa, có lẽ cũng không chính xác... nhưng rõ ràng trước 1986 chỉ có một dòng chảy, một ?otư tưởng?, chỉ có một thứ ?ovăn học mậu dịch?.

    1987-1990: văn học cựa quậy, bắt đầu có những thí nghiệm cách tân, xã hội chấp nhận sự đa thanh trong văn học. Các cây bút mới xuất hiện. Các ?oông tướng cũ? (trong văn học) ?ovề hưu? hoặc ?ongỏm?, một thế hệ nhà văn mới hình thành.

    Giai đoạn 1990-2000: Thế hệ nhà văn mới hình thành, khẳng định mình, trụ lại được và có thêm nhiều ?ođệ tử? tạo ra một dòng chảy nữa, mới (gọi là gì thì không biết nhưng tự do hơn, ?otrăn trở? hơn, ngày càng có ảnh hưởng lớn trong xã hội). Dòng chảy này (chưa thành trường phái) vẫn tồn tại song song với dòng văn học chính thống, dòng văn học nặng về bao cấp.

    2000-2005: Hai dòng văn học cùng tồn tại, kích thích nhau, ?ocùng lý tưởng nhưng khác môn phái?. Nên phát triển cả hai dòng này trong tình thế văn học hiện nay. Xu hướng văn học ?otự do? đã được thí nghiệm nhưng chưa có chỗ đứng chân vững chắc, vì quán tính của dòng văn học mậu dịch, bao cấp (dưới danh nghĩa chính thống) vẫn còn rất lớn, vẫn chiếm chỗ đứng thượng phong, chủ đạo trên văn đàn. Một mặt khác, cơ chế thị trường vẫn chưa bảo đảm đủ sự nâng đỡ vật chất để nó phát triển.
    Những luận điểm của Thiệp luôn gây hấn. Lúc nào anh cũng muốn ?olột truồng? mọi bộ mặt, mọi ngụy tạo, mọi trò hề để đi thẳng vào bản chất mọi vấn đề. Kịch điểm là vụ ?oHoa thủy tiên? đầu năm 2004 (Xin xem thêm bài "Mơ" trên talawas 30.6.2004). Nhưng xin hãy xem kỹ, những gì anh viết đều có sự tiếp cận chân lý đến hết mình.
    Phật của Bảo Sinh thì đứng nhưng Phật của Thiệp lại ngồi, trông rõ là nhàn du tiên cảnh nơi Tây phương cực lạc. Mỗi lần ngồi viết Thiệp đều thắp trầm, cho nên người ta bảo văn anh sáng và linh là nhờ đó. Phải chăng vì thế mà anh viết nhiều câu như thánh phán, nghe như có giọng phù thủy. Xin đơn cử:
    ?oTin tôi đi, tình yêu là một hung thần.?
    ?oVợ người thì đẹp. Vợ mình lại tử tế.?
    ?oĐàn bà rất thích những ngôi nhà có cửa sổ rộng.?
    ?oĐàn bà là giống phản trắc, đàn ông là giống đểu cáng.?
    ?oLàm thằng đàn ông đừng nên xấu hổ vì có con ****.?
    ?
    Nguyễn Huy Thiệp có bài viết bảo nhà văn Nguyễn Việt Hà có mỗi cái giọng ?otúy quyền?. Thế thì Thiệp còn phải nói là có cái giọng bùa ngải và thuốc phiện. Ta hãy đọc lại những "Mưa", "Món hạc quay", nhất là "Không khóc ở California" sẽ thấy cái luận điệu quay quắt, phiêu linh, nhạt mờ không thời gian, chỉ còn những hiệu ứng văn chương quay cuồng trong trí não người đọc.
    Để kết thúc bài viết nhỏ nhẹ về một Nguyễn Huy Thiệp ?ocởi quần? để ?ođổi mới? xin được nhắc tới một thành quả văn học có tính độc sáng của người ?ocởi quần? mà không ai có thể quên được: anh là người đầu tiên văng *** vào văn học Việt Nam một cách trắng trợn, hiệu quả và day dứt nhất. Từ "Trương Chi", "Phẩm tiết" cho đến "Còn mãi một tình yêu" hay "Chuyện ông Móng"?, *** hiện lên với mọi hình thái cao quý, hiên ngang, phũ phàng, bộc trực, chân thực, phản kháng, khủng bố và đầy nhân tính của nó. Chính nhờ thế mà anh có một hỗn danh vinh dự có nhẽ còn hơn cả Huân chương Sao vàng mà hình như phải là người thấu hiểu Phật tính mới dám nhận ?" nhiều người gọi anh là Thiệp ?o***?.[1] Phải chăng đó chính là nền tảng cho tuyên ngôn bất hủ của anh về sáng tạo văn chương:
    Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành **** và hoa, đấy là chí thánh.

    21.2.2006

    ---------------
    CHÚ THÍCH:
    Tôi vốn rất ngại đọc những bài có nhiều chú thích nên đã không đưa vào đây một chú thích nào. Nếu bạn đọc nào có nhu cầu tìm hiểu kỹ hơn các trích dẫn tôi xin sẵn sàng cung cấp nguồn gốc của mọi tư liệu. E-mail của tôi: dangthan@fpt.vn

    _________________________
    [1]Có lẽ Đặng Thân muốn nói đến chữ "***" trong một công án Thiền: "Que *** khô" (càn thỉ quyết, 乾 Z > ).
    Một tăng sĩ hỏi tổ Vân Môn: "Phật là gì?" Tổ đáp: "Que *** khô." [Chú thích của Tiền Vệ]
  6. Neo_Confucius

    Neo_Confucius Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/12/2005
    Bài viết:
    62
    Đã được thích:
    0

    Gwá tã !!! 2 thumbs up !!! Congratulations, Mr. Dang Thân.
    Chân dung Thiệp đến đây là đầy đủ, thấm thía nhức! am_anh có mail của ổng thì cho ngộ piết zới
  7. am_anh

    am_anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2005
    Bài viết:
    194
    Đã được thích:
    0
    Muốn biết chi tiết hơn xin mời bác vào http://www.thewriterspost.net/author_dangthan.htm
    Cũng xin gửi tới bác Neo và các bạn bài được dẫn đến trong bài trên đây:
    Văn họcVăn học Việt Nam
    30.6.2004
    Đặng Thân

    "Nhân tình như chỉ chương chương bạc"
    Khổng Tử

    1.
    Gần đây có người bạn vong niên đưa cho tôi mấy tờ tạp chí Ngày nay. Những cuộc tranh luận trên đó làm tôi bị ám ảnh vô cùng, vì tôi là người rất yêu thương nền văn học nước nhà và các nhà văn nhà thơ. Ám ảnh lắm.
    Có một đêm tôi mơ. Giấc mơ lạ lắm. Tôi mơ thấy mình được đàm đạo với thần Văn Xương Đế Quân. Các vị thần quả là uyên bác tuyệt đỉnh. Chứng tỏ xưa kia Nguyễn Văn Siêu được phong Thần và Cao Bá Quát được phong Thánh thì đủ biết văn chương các Ngài phải phi phàm như thế nào. Chính Thần Siêu đã dựng Tháp Bút uy nghi và bệ vệ để làm biểu tượng cho cái sự học và nền văn chương nước nhà như người ta nói. Lạ là có một nhà Việt Nam học người Mỹ đã thắc mắc với tôi không biết bút gì mà trông cứ như hình sinh thực khí đàn ông. Chẳng biết ông ta hỏi đùa hay thật. Cũng không hiểu Thần Siêu thật hay đùa. Còn Thánh Quát thì đã kiêu khinh kinh liệt thẳng thắn bảo thơ ca của cái "Hội Nhà văn" đương thời do đích thân Hoàng Thượng làm "chủ tịch" như một cái thuyền chở nước mắm: "Câu thơ Thi Xã con thuyền Nghệ An". Khẩu khí của các bậc thánh thần thật kinh người, đến vua chúa còn chả coi ra gì.
    Giữa giờ Tý tôi nghe văng vẳng tiếng Văn Xương Đế Quân thẽ thọt: "Có lời vì ý. Văn dĩ tải đạo. Trời sinh ra văn chương là để diễn đạt tư tưởng. Mà con người các ngươi chỉ là một cây sậy nhưng là một cây sậy có tư tưởng như các ông Tây bảo. Cũng như các người nói ngôn ngữ là vỏ của tư duy. Tư duy phong phú thì ngôn ngữ phải đa dạng mới truyền tải được. Vì thế mà văn chương và triết học Đông Tây kim cổ có đủ thứ chủ nghĩa, cũng để mong nói được hết ý mà thôi. Ý thì vô bờ, thời gian vô bến nên chẳng chủ nghĩa nào là tuyệt đích. Vì vậy những kẻ chỉ nói đi nói lại mãi được mỗi một "giọng", chưa kể lại còn cà lắp cà lăm ngọng líu ngọng lô thì ắt là tư duy thấp mạt và chẳng có một sợi tư tưởng nào, còn mong gì đem lại ánh sáng văn hóa cho ai".
    Tôi bật hỏi chen ngang: "Vậy thưa Thần, ý mà vô bờ thì biết làm sao mà lĩnh hội?"
    "Ý dù vô bờ nhưng cũng chỉ nằm trong dòng chảy của Duy Vãng, Duy Hiện và Duy Lai. Duy Vãng là nêu cái hay, cái đẹp, cái nên của thời xưa để cho thời nay làm theo. Như các ông Khổng, Mạnh và các đệ tử đã cố gắng làm chuyện ấy. Vì thế mà con người mới có Tứ Thư - Ngũ Kinh mà xem. Các người cũng xem việc này là hệ trọng nên mới "uống nước nhớ nguồn" nhớ tới truyền thống và lịch sử. Nhưng nếu chỉ "chuyên môn hóa" mỗi cái việc ấy thì khác nào suốt ngày chỉ chăm chăm đào bới các bộ xương khô lên mà ngửi. Vì cái hồn của các cụ đã đi cả rồi, vả lại mỗi thời mỗi khác. Duy Hiện là hãy sống cho và vì từng khoảnh khắc này. Làm mọi điều có thể nhất cho nó. Như xưa kia Mặc Tử đã chủ trương, rồi Pháp Gia, rồi cả các ông Hiện sinh, Thực dụng nữa. Tuy trước mắt là được việc đấy mà vượt sao được vòng Nhân Quả. Duy Lai là bất chấp hoàn cảnh vượt lên phía trước vì một ngày mai tươi sáng. Như Phật Tổ Như Lai hay Karl Marx đã vẽ ra một viễn cảnh tuyệt đích cho con người đi tới, và con người cũng đã làm được biết bao chuyện trên con đường này. Phật thì lấy Tâm thẳng tiến theo trục tung của Tâm linh tới Niết Bàn, Marx thì dùng Trí theo trục hoành của Thời - Không Vật chất ba chiều mà tiến tới một Thế giới Đại đồng. Tất cả những bậc ấy đều là sứ giả của Trời. Con người có một cái rất hay gọi là cái Tâm, nó vừa cụ thể vừa mông lung, vừa trần tục vừa gần với Thượng Đế. Người ta yêu nhất cái gì hợp với Tâm mình, vì thế Lão - Trang với chủ trương "Thuận Tự nhiên" mà được bao đời lúc thì yêu công khai, khi thì phải yêu thầm nhớ vụng. Vì ai cũng muốn được sống bản nhiên."
    "Thưa Thần, ý đã vậy thì nên dùng Lời thế nào cho "tới"?", tôi liền hỏi.
    "Văn chương là để biểu đạt tư tưởng nên cái thứ Lời không có ý ắt là vô nghĩa, nên có người mới bảo đó là sản phẩm của những kẻ "?Tvô học?T, chập cheng, hâm hấp và lưu manh". Muốn có tư tưởng phải đọc triết học. Văn không có triết là văn nhảm mà triết không có văn là triết khô. Nói Lời như thế nào thì cứ tự xét lòng mình thì rõ. Lòng người-lãng-mạn thì muốn được nghe những Lời bay bổng, bâng khuâng, đâu muốn nghe Lời thô trọc, thẳng thừng. Lòng người-thực-tế thì thích những Lời đi thẳng vào vấn đề, ý chính phải nằm ở ngay câu thứ nhất. Tuy nhiên, cũng có những người phải xài cái thứ lời "văn cục, văn hòn" thì mới thủng tai vì "màng nhĩ" hơi bị dày. Vì thế mà Văn chương có biết bao trường phái, thể loại và phương pháp để diễn tả cái tâm tưởng đa đoan của loài người: ngụ ngôn, trùng ngôn, cách ngôn; ẩn dụ, so sánh, điệp ngữ; Hiện thực, Lãng mạn, Tự nhiên; ấn tượng, Trừu tượng, Tượng trưng; Hiện đại, Hậu hiện đại, Siêu thực, Hiện thực Huyền bí,vv. Phức tạp thế mà người ta không "động khẩu" thì mới là lạ. Vả chăng Tư duy của con người cũng thực là "đa hệ". Ngày nay người ta chỉ quen với thứ tư duy Biện chứng logic, hợp lý mà quên đi rằng người xưa còn có các kiểu thức tư duy khác như Duy tâm chủ quan, Duy tâm khách quan, Tư duy trực giác, rồi Hướng nội, Hướng ngoại,vv. Có Lời là vì ý nên cũng nên sáng tạo ra được cách để "tới" được ý của người, nhưng được ý hãy quên Lời."
    Dứt lời, Thần tặng tôi một cây bút máy tuyệt đẹp màu đỏ tím thật vi diệu.
    2.
    Tỉnh giấc mộng "Du tiên kinh quốc quá Dương Châu" tôi bèn ngồi dậy lấy giấy bút, mạo muội viết những dòng này cốt được tỏ tấm lòng yêu quý các nhà văn, nhà thơ của một kẻ xa lạ. Trong những giấc mơ tôi được nghe rất nhiều điều nên đầu óc tôi ù đặc cái hiểu cái không, điều nhớ điều quên. Tuy nhiên tôi cũng có được một nhận thức riêng xin được kể ra đây. Đó là bất luận văn chương thế nào thì cũng phải đạt tới chữ "sướng", phải thăng hoa.
    Trước hết là về tác giả của Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn: Anh thật lận đận vì làm gì cũng bị người ta "có ý kiến" ầm ĩ. Đó phải chăng là định mệnh của văn tài? Nhưng chính những sự kiện đó như những hạt cát làm con trai đau mà kết ngọc. Tôi thấy phần lớn những người yêu anh và ủng hộ anh đều là những người có kiến văn rộng rãi. Văn anh đạt tới chữ "sướng" vì hội tụ đủ tính lãng mạn, chất thực tế và cả "văn cục, văn hòn" của một ngòi bút thâm trầm mà đạt độ bản nhiên. Thế mới thành chuyện. Vì văn anh thâm trầm mà người ta thường là nông nổi. Vì những nhà làm văn học kiểu mô phạm thấy những đền đài miếu mạo sơn son thếp vàng của họ có nguy cơ bị xâm phạm vì bị dính "cục, hòn". Vì dàn hợp xướng có quá nhiều "Đông Quách tiên sinh". Văn anh nhiều ý mà cũng nhiều Lời với đủ các phong cách đến mức có người phải thốt lên "Văn chương đến thế thì thôi!". Nhưng, thú thực là đọc văn anh tôi có cảm tưởng như cảnh một gia đình có thằng con độc vậy, mọi người thường phải lo lắng vì có thể "đứt phim" bất cứ lúc nào. Cụ già cho tôi mượn mấy tờ Ngày nay thì bảo: "Văn ông Thiệp có cái gì đó không lối thoát vì khí độ mãi không mất được vẻ hằn học, chẳng hiểu ông ấy đắp tượng Phật trong nhà để làm gì?" Tôi bỗng thấy buồn cười cho cái hình ảnh của Phật trong tâm trí khá đông người. Ngài là biểu tượng của "từ bi hỷ xả", của "chí nhân, chí thiện". Nhưng, theo chuẩn mực của người đời thì chưa chắc đức Đại Hùng Thị đã đủ dũng cảm để nhận những lời xưng tụng ấy. Còn về thơ thì tôi chưa được đọc bài thơ nào anh viết riêng nhưng các truyện ngắn của anh đều có thơ. Theo tôi đó là một thành tựu tuyệt vời trong thơ ca. Thơ anh là Thơ ý. Có Lời là vì ý, được ý là quên Lời, thật "sướng".
    Không kể những bài trả lời phỏng vấn thì có thể nói đây là lần đầu tiên anh trình bày quan điểm cụ thể của mình. Thực tình đó là một bài viết đầy tâm huyết mong muốn cải cách nền văn học nước nhà. Những ý kiến của anh về một thế hệ mới của các nhà văn chuyên nghiệp là xác đáng. Những người đại diện cho tiếng nói và văn hóa dân tộc cần phải có kiến thức, phải được đào tạo và cung cấp mọi hiểu biết cao nhất về văn hóa dân tộc và văn hóa thế giới, nếu không thì bao nhiêu thế hệ độc giả nữa còn phải chịu đựng những cơn bão lụt chữ nhạt nhẽo ẩm ương vô hồn và đầy khí độ sỹ diện hão. Thật tội nghiệp cho độc giả, nhất là các thế hệ con cháu non nớt đầu óc như tờ giấy trắng. Nhưng đây cũng thể hiện sự đáng thương của anh, vì anh chỉ làm văn chứ đâu làm nhà quản lý. Công cuộc cải cách chủ yếu nằm trong tay họ. Anh đáng thương vì bất lực như chính lời anh viết trong một truyện ngắn khi mượn lời một ông vua mà bảo rằng các kẻ sỹ "toàn bọn ốm o giòi chồ" và "rặt một lũ bất đắc chí" cả. Cho nên nhiều nhà đạo đức, nhà mô phạm và bao văn nhân lịch lãm đã phải nghe thứ "văn cục" của anh. Hình như vấn đề cốt tử là các anh và tất cả mọi người phải tập trung năng lượng để cùng nhau làm gì ngay từ lúc này cho nền Văn học nước nhà. Bây giờ tôi không phải đang nằm mơ mà là đang mơ ước tới một ngày dân tộc ta có một nền Văn học tràn trề sinh lực của thời đại với một thân thể có đủ mọi tế bào của Văn chương thế giới.
    Về tác giả bài Có thật đa số các nhà văn Việt Nam đều vô học, các nhà thơ đều lưu manh hay là "hội chứng chửi có thưởng" thời nay?: Văn của anh thật cuốn hút người ta vì anh viết như lên đồng. Lời của anh đầy nhiệt huyết, kiến thức của anh thật mênh mông. Chính cái chất bốc đồng như của anh đã làm nên bao văn tài thế giới ở khắp năm châu. Nhưng cái phản ứng của anh trong bài viết xem chừng mãnh liệt quá làm cho người ta dễ liên tưởng tới câu "Có tật giật mình". Có người kể chuyện anh sang Mỹ đọc thơ có câu đại loại: Tôi muốn mình là "cái ấy" ******** với trời xanh, làm tôi nhớ tới thời gian cách đây hơn chục năm đổ lại ở ta có một trào lưu làm thơ kiểu "Chủ nghĩa Hiện đại". Các nhà thơ đó đã đưa ra đủ các hình tượng ngôn từ kiểu "lông lá, tinh dịch, giao hợp,..." và đã nhận được những phản ứng dữ dội. Có Lời là vì ý, vấn đề là những câu chữ ấy có ý nghĩa gì hay ho và có tư tưởng gì không. Tôi nhớ James Joyce và Henry Miller cũng thậm tục, tục đến mức những đất nước sinh ra họ lúc đầu không dám in văn họ. Thế mà sau này trong top ten mười tiểu thuyết hay nhất thế giới thế kỷ XX có tới ba cuốn của James Joyce đứng thứ hạng lần lượt là 1, 3, 6. Còn "cái ấy" trong văn Henry Miller phải xuất hiện cỡ dăm ba lần trong một trang! Thế mà ông được triết gia nổi tiếng thế kỷ XX Krisnamurti phong là một trong vài Thánh văn hiếm hoi của loài người. Gần đây Thư viện Thi ca quốc tế và Nhà xuất bản Watermark bên Mỹ có in bài thơ nghe cũng rất "lông lá" của một tác giả Việt Nam trong tuyển tập Những chân dung bất tử:
    Cú Hýc Về Nguồn
    Nhớ thuở
    Lông chân
    lý còn
    lún phún
    Mà nay
    rậm rì
    cả một
    "tiếu" lâm
    Nhổ tận rễ
    rồi sao
    vẫn mọc
    Gốc ở
    đây à
    gốc ở đâu
    Có một nhà hiền triết phương Đông ngồi suy ngẫm về cội nguồn vũ trụ
    Câu trả lời đã bật ra trong cơn đau khi Ngài nhổ một sợi lông chân
    Cao hứng Ngài hát vang bài ca Huyền học trên đây với những lời mịt mù
    Vạn Vật sinh ra từ Hư Vô, cả hai tạo thành một cặp vĩnh hằng trong cõi "toàn chân"

    Quả thật là "lông lá tít mù", "di - mộng tinh" hay "mông to vú nở - phong nhũ phì đồn" mà đạt được đến "cực khoái" hoàn mỹ của ý thì là thánh thần, là "Báu vật của đời" đấy chứ. Tuy vậy, như trong ngành y thì thuốc độc và ma túy dù trị bệnh hiểm nghèo cực hiệu nghiệm nhưng không phải bác sỹ nào cũng dùng được đâu, có phải không các bác?
    Về dịch giả kiêm nhà thơ Dương Tường: đọc truyện anh dịch thì "sướng" như bản gốc. "Phông" của anh rất dày, ngôn từ anh dùng thật tinh vi và chuẩn xác, xứng đáng là tấm gương sáng chói cho giới ngoại ngữ và dịch thuật. Vừa qua anh có bảo: "Thực ra cỡ như Thiệp ở Úc, Mỹ, Nhật, Pháp... cũng có thể... vơ hàng tá!...". Ô hay! Sao anh lại quên "Mọi so sánh đều khập khiễng!", sao lại đem Thiệp của Việt Nam đặt sang các nước khác hay là đem một ông Tây hay Tàu nào đó đặt vào Việt Nam mà xem xét được nhỉ. Trời cho được làm hoa thì cây nào nở hoa ấy. Đã là hoa thì phải đẹp rồi, nào ai dám bảo hoa *** lợn là xấu hay hoa hồng là đẹp nhất. Chỉ có cố nở ra thứ hoa không phải của mình mới là bất hạnh hay bi kịch mà thôi.
    Về cái số đông trong Hội Nhà văn: Những người mà anh Thiệp gọi là "già nua không có khả năng sáng tạo và hầu hết đều "vô học", tự phát mà thành danh", là "những người chỉ dựa vào "cảm hứng" để tùy tiện viết ra những lời lẽ du dương phù phiếm vô nghĩa nhìn chung là lăng nhăng", là "vứt đi cả" hay là "một thứ nhìn chung chỉ là nhăng nhít, hữu danh vô thực, chẳng ai muốn dây vào... , đồng nghĩa với sự chập cheng, hâm hấp, quá khích, vớ vẩn, thậm chí còn lưu manh nữa"; Dương Tường thì bảo là "dốt quá. Không chịu học, không chịu đọc, lại mang cái bệnh ếch ngồi đáy giếng". Thực ra số đông đến đây đa phần là bất đắc dĩ, do hoàn cảnh xô đẩy, do thời cuộc sắp đặt. Vì cái danh "nhà văn", "nhà thơ" ở ta oai quá. Vì thể chế của các hội đều "nhiều cửa" lại chả có ba rem gì thật quy chuẩn, tạo cho người ta suy nghĩ là cứ cố là vào được. Tôi đã gặp một nhà thơ hội viên chính thức mà tác phẩm chỉ toàn loại "xuất bản" thường kỳ trên báo tường cơ quan và ngành, rồi tập hợp lại in thành "tuyển tập". Thực sự phải cảm ơn các anh mới phải. Giả thử nếu không có 800 cục bùn thì 20 cây sen làm sao mà mọc. Cứ thử dọn hết bùn đi xem có còn sen không? Nếu không có cái "phù phiếm, vô nghĩa, lăng nhăng" thì lấy gì để người ta biết tới cái nào là "trầm trọng, ý nghĩa, cao sang" đây? Các anh đã tình nguyện làm vật hy sinh, là con tốt đen, là phông nền cho các danh sỹ. Thật đáng thương! Mà có bao người đoạt Nobel nhờ cái lối viết "phù phiếm,vô nghĩa, lăng nhăng" đấy chứ. Không tin thì quý vị cứ tìm đọc Camus, Proust, Sartre, Whitman hay Henry Miller mà xem. Họ còn sính và sản xuất ra đầy những chuyện thậm lăng nhăng và vô nghĩa ấy chứ. Bất công!
    3.
    Thưa các anh, tôi yêu tất cả các anh!
    Tất cả phải cùng nhau bắt tay ngay vào làm gì đi chứ. Tôi là người rất tin vào sức mạnh tập thể. Tôi đang mơ ước tới một ngày rất gần đây thôi dân tộc ta có một nền văn học tràn trề sinh lực của thời đại với một thân thể lành mạnh có đủ mọi tế bào của văn chương thế giới. Tôi tin chắc như thế vì tôi nhớ tới vế còn lại của Lời Khổng Tử trên kia - "Thế sự như kỳ cục cục tân" (nghĩa là: thế sự như bàn cờ luôn đổi mới không ngừng!). Thế nên tôi xin ngừng lời ở đây kẻo Lão Tử lại hiện lên mà rằng "Biện giả bất thiện" (Người ưa tranh biện không thể đạt tới hoàn thiện).
    Hà Nội 19/04/04
    © 2004 talawas
  8. datrang

    datrang Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    21/03/2002
    Bài viết:
    256
    Đã được thích:
    0
    Theo tôi thì ba cái trò khen nhau để chửi người khác này chán lắm. Tôi thích đọc ông Nguyễn Huy Thiệp hơn! Đọc những người cứ nói leo như thế này, chỉ cảm thấy họ nửa mùa thôi!
  9. am_anh

    am_anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2005
    Bài viết:
    194
    Đã được thích:
    0
    Đọc ý kiến của "em gái ngoan" rất thú vị. Em thích ăn món của ông Thiệp thì cứ ăn vì cũng nhiều người thích. Tuy nhiên trên đời này chắc còn những món em chưa biết như là Tiểu luận, Phê bình, Nhận định hay Phiếm luận, Đàm luận... Và theo em thì trên đời này có hơi bị nhiều các bác nửa mùa đấy. Ở VN thì có Hoàng Ngọc Hiến, Vương Trí Nhàn, Nguyễn Đăng Mạnh, Hoài Thanh, Hoài Chân, Lại Nguyên Ân, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Thanh Sơn... và cả Nguyễn Huy Thiệp nữa. Ở bên Tàu có Mao Tôn Cương, Kim Thánh Thán... Mà "gái ngoan" ơi, món của các bác ấy nấu chưa ăn thì thôi, ăn rồi nhiều người cũng nhớ đến hàng trăm năm cơ đấy. Ôi
    Dao đâm vào thịt thì đau
    Thịt đâm vào thịt nhớ nhau suốt đời ​
  10. greenlily

    greenlily Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/01/2006
    Bài viết:
    319
    Đã được thích:
    0
    Mơ gặp được thần, quả là duyên kỳ ngộ.
    Có thể ngày xưa Lưu, Nguyễn nhập Thiên Thai cũng là thoát thần từ một giấc mơ?
    Dẫu sao, chỉ từ mơ mà viết nên được hiện thực, cũng đã khâm phục lắm rồi.
    Hàng hậu bối, không dám bình phẩm gì nhiều, chỉ tự dưng nhớ đến một câu của người xưa " Thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý "
    Hay nên : "Có lời là để diễn ý, đạt ý hãy quên lời " đây ?

Chia sẻ trang này