1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hình Ảnh Lịch sử về Ải Nam Quan - có bàn tới Thác Bản Giốc

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi thanhnam6, 17/09/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thanhnam7

    thanhnam7 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/09/2005
    Bài viết:
    44
    Đã được thích:
    0
    Cuốn sách còn ghi lại văn bia của Đốc Trấn Lạng Sơn Nguyễn Trọng Đang, trong đó có câu mở đầu như sau:
    "Khi nước ta có cả Đất Ngũ Lĩnh, cửa quan ở nơi nào không xét vào đâu được, sau này thay đổi thế nào không rõ, gần đây lấy châu Văn Uyên làm cửa quan, có Đài là Vọng Đức..." (Phương Đình Dư Địa Chí, trang 452 )
    Đoạn này có ba điểm đáng chú ý:
    a.- Khi xưa nước ta có cả đất Ngũ Lĩnh, nhưng nay vùng núi Ngũ Lĩnh đã nằm trong địa phận Bằng Tường của Trung Quốc rồi.
    b.- Ải Nam Quan là đường rãnh hẹp giữa hai rặng núi phía nam của vùng Ngũ Lĩnh. Như vậy cửa quan vào đời Lý, Trần ngày xưa có thể nằm ở phía bắc hai rặng núi đó, nhờ vậy mà việc phục kích phòng thủ của dân tộc ta đã hữu hiệu từ cả ngàn năm trước.
    c.- Các chữ "lấy đất Văn Uyên làm cửa quan" chứng tỏ quyền chọn lựa, chủ quyền lãnh thổ toàn ải, và công trình xây cất nguyên thủy cửa ải rõ ràng là do người Việt Nam chứ không phải người Tàu.
    Cũng theo cuốn "Dư Địa Chí", 5 năm sau khi được bổ về làm Tổng Trấn Lạng Sơn, ông Nguyễn Trọng Đang đã cho người xây dựng lại cửa ải và đài canh gác ở trên cổng, tất cả đều làm bằng gạch. Vật dụng được cung cấp bởi 22 đơn vị dưới quyền. Nhiều công nhân xây cất được tuyển mộ và giao cho 4 trưởng toán chỉ huy. Việc xây cất mất hơn nửa năm trời mới xong. Tòa công sự được dùng làm nơi canh gác và nơi tạm trú cho các quan sứ giả của triều đình.
    ( Còn rất nhiều dữ kiện lịch sử để chứng minh Ải Nam Quan là của Việt Nam ) , đặc biệt trong cuốn sách sau :
    [​IMG]
    [​IMG]
    Chú ý đọc kĩ trong trang 10 , chính quyền ta đã tố cáo TQ "muợn gió bẻ măng" ủi sập cột mốc số 0 nằm trên Hữu Nghĩ Quan ( Tức Ải Nam Quan "new" )ra sao và tự tạo ra một cột mốc số 0 mới nằm sâu trong lãnh thổ ra sao . Các bạn đọc kĩ để thấy . Đó là minh chứng hùng hồn nhất . Và cũng là câu trả lời cho apple _k3 về câu nói buồn cuời vô căn cứ về cái cột mốc số 0 do TQ nguỵ tạo .
    Được thanhnam7 sửa chữa / chuyển vào 15:10 ngày 18/09/2005
    Được thanhnam7 sửa chữa / chuyển vào 15:13 ngày 18/09/2005
    Được thanhnam7 sửa chữa / chuyển vào 15:14 ngày 18/09/2005
  2. thanhnam7

    thanhnam7 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/09/2005
    Bài viết:
    44
    Đã được thích:
    0

    Trả lời về sự khác nhau giữa 3 tấm ảnh :
    Tấm hình đen trắng hình 1 được tìm thấy trong một thư viện của Pháp trên hình có ghi chú bằng chữ "La rivière de Nam Quan à la frontière". Tấm hình này cho thấy công sự cổng hình cầu vòng bằng đá nằm giữa thung lũng hẹp. Trên cổng là một tầng lầu có tường vôi trắng với 3 cửa chính diện và một cửa hông nằm chính giữa vách. Trên tầng lầu vôi trắng này là một tầng lầu nữa, có mái ngói nhưng không có vách, có vẻ là một chòi canh gác. Từ hai bên hông cổng có tường đá xây hướng thẳng góc với vách tường lên đến đỉnh đồi hai bên. Trên đồi bên phải là một số nhà, có vẻ là đồn trại canh phòng. Đằng sau là núi non trùng điệp với thung lũng hẹp kéo dài. Tấm hình đen trắng là hình chụp của cổng Nam Quan hơn 100 năm về trước, với hình thể giống như sự diễn tả trong hai bộ sách Phương Đình Dư Địa Chí và Đại Nam Nhất Thống Chí. Có thể đó là toà công sự được Tổng Đốc Nguyễn Trọng Đang xây cất lại vào năm 1774, và Pháp trùng tu lại 117 năm sau đó theo HĐ 1887.
    [​IMG]
    b.- Tấm hình thứ hai là hình màu , được đăng trên National Geographic Magazine, không rõ năm nào, có ghi chú phía dưới: "The Porte de Chine stands at the Indo-China''s Northern Frontier"; và tiếp theo với dòng chữ nhỏ hơn: "Where the old Mandarin Road enters China, it passes through the archway of the China Gate. Stone walls extend from the gate on each side to meet the hills which gird the narrow valley". Tấm hình này cho thấy công sự cũng có cổng hình cầu vòng và tường đá. Nhưng phía trên cổng chỉ có một tầng lầu thay vì hai tầng như tấm hình đen trắng. Tầng lầu này có mái ngói, tường sơn màu vàng, có một cửa hông nằm lệch qua một bên. Bức tường đá chạy lên đỉnh đồi theo sống núi, vùng đất trên đỉnh đồi chật hẹp, không có nhà cửa như tấm hình đen trắng. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, dọc các tỉnh biên giới Việt Trung có nhiều cửa ải. Riêng vùng biên giới dọc tỉnh Lạng Sơn có tới 12 cửa ải, các cửa quan trọng gồm có Binh Nhì, Cảm Môn, Nguyệt Hoa, Du Thôn, Quỷ Môn, v.v..., có vài cửa ải ghi rõ là thuộc "địa phận nước Thanh", đa số cửa khác trong đó có cửa Ải Nam Quan ghi rõ là ở địa phận nước ta. Vì không giống với tấm hình đen trắng, nên tấm hình màu đăng trên National Geographic Magazine có thể là cửa ải Du Thôn hay cửa Tân Thanh hoặc cửa ải nào khác, chứ không phải là cổng Nam Quan. Theo cả hai sách Dư Địa Chí và Nhất Thống Chí thì ải Du Thôn:
    "Cách tỉnh thành (Lạng Sơn) 30 dặm về phía bắc, ở địa phận Du Thôn xã Bảo Lâm châu Văn Uyên, phía bắc giáp thôn Điếu -sách, châu Thượng Thạch nước Thanh, từ ải này đến Trấn Nam Quan đi theo đường núi, ước hết hai trống canh rưỡi, phàm việc giao tống công văn và khách buôn đi lại, đều do cửa ải này." (Đại Nam Nhất Thống Chí, trang 367 )
    [​IMG]
    Tấm hình thứ ba cũng là một hình màu (hình 14), có vẻ mới nhất và rõ nhất, được phổ biến trên internet, có lẽ là Mục Nam Quan mà ông Lê Công Phụng đã nhiều lần nhắc đến trong các bài phỏng vấn ông ấy. Nhiều người lầm tưởng đó là cổng Nam Quan hiện nay. Sự thật không phải thế. Nếu quan sát kỹ, người ta sẽ nhận ra sự khác biệt nhau về kiến trúc và vị trí xây cất của công sự này đối với các công sự ở hai tấm hình kia. Toà công sự này có ba tầng lầu xây trên một quảng trường bằng phẳng, có cổng hình cầu vòng bằng ô xi-măng (cement blocks). Ba tầng lầu trên cổng được kiến trúc theo kiểu của người Tàu, với hành lang bên ngoài và hàng rào có chạm trổ mỹ thuật. Khác với hai tấm hình trước, cổng cầu vòng không có cánh cửa, người ta có thể nhìn thấy xuyên qua cổng cầu vòng, đàng sau là một toà nhà mái ngói đỏ tọa lạc trên một khoảng trống bằng phẳng, chứ không có núi non trùng điệp như vùng thung lũng chật hẹp của Ải Nam Quan. Trước mặt cổng cầu vòng là ba chữ "Mục Nam Quan" và trên mái là cột ang-ten, chứng tỏ một công sự thời hiện đại. Đây là công sự mới do Trung Quốc xây lên vào giữa thập niên 1960. So với vị trí đích thực nguyên thủy của cổng Nam Quan và căn cứ vào địa thế bằng phẳng không núi non, thì Mục Nam Quan nằm cách xa phía nam cửa ải, trong bình nguyên sông Kỳ Cùng. Đường biên giới mới bị lùi lại gần Đồng Đăng, chỉ còn cách Đồng Đăng vài cây số mà thôi. Đó là hậu quả của sự đồng thuận của CSVN bằng lòng nhượng toàn vùng các ải hiểm trở trong tỉnh Lạng Sơn, để đổi lấy tiếp liệu và quân trang vũ khí cho cuộc chiến tranh 1950-1975 vào đầu thập niên 1960. ( tất nhiên ko có chuyện dời vào sâu trong TQ )
    [​IMG]
  3. Bundeswehr

    Bundeswehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/11/2004
    Bài viết:
    453
    Đã được thích:
    0
    Thế cậu thanhnam có nguồn tin nào chứng minh được nhận định này của cậu ko?
  4. thanhnam7

    thanhnam7 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/09/2005
    Bài viết:
    44
    Đã được thích:
    0
    Về kiến trúc của Old Gate Nam Quan , tôi đã nêu rõ ràng thông qua việc mô tả hình dáng qua các dẫn chứng lịch sử để anh hiểu kiến trúc New Gate nó khác với sự mô tả của lịch sử . Ngoài ra anh nên chú ý theo mô tả của sử sách và bức hình số 1 xung quang ải Nam Quan là nơi hoang vắng , nhỏ hẹp , gập ghềnh, bức ảnh số 1 đã nói rõ lên điều đấy . Còn địa thế xung quanh của New Gate thì sao ? Bằng phẳng ko nhỏ hẹp như Odl Gate .Ngoài ra trong lịch sử còn tương truyền suối Phi Khanh , ở ngay truớc Old Gate hiện nay cái Suối Phi Khanh đấy nó nằm trong địa phận TQ, dựa vào vị trí cái suối đấy ta có thể ưóc lưọng đưọc vị trí của Olde Gate, và thẫy rõ ràng New Gate bị lùi rất sâu vào trong lãnh thổ VN . Hiện nay tại trưó cái New Gate (đã thuộc TQ rồi ) ko thấy suối phi khanh đâu cả .
    - Hơn nữa anh nên nhớ năm 1960 Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh bắt tay nhau , cùng đổi tên cái New Gate đấy từ Trấn Nam Quan thành Mục Nam Quan , hay Hữu Nghị Quan , để thể hiện tình hữu nghị Việt Trung, coi đó như là biên giới giữa 2 nưóc . Nhưng đến năm 2001 thì từ Cột mốc số 0 cho đến cái New Gate đó là 500 m . Như thế ko phải là mình dâng đất cho nó thêm 1 lần nữa sao ? Còn biện hộ gì ở đây nữa . Anh nên xem lại trang sách scan em post ở trên để thấy VN khẳng định chủ quyền với cái New Gate đấy , và tố cáo TQ nó lấn chiếm ra sao ? Sách của NXB Sự thật nhé . Ko lại bảo là *********
    - Nói tóm lại : chúng ta đã 2 lần mất Ải Nam Quan đó là một sự thật hùng hồn , nhưng ko hiểu vì lí do gì, thế hệ trẻ lại cứ cố gắng bằng mọi cách chối bỏ . Thật là đáng hổ thẹn với những vong linh liệt sĩ đã ngã xuống năm 1979 và biết bao anh hùng, tổ tiên trong lịch sử VN đã ngã xuống để gìn giữ từng tấc đất biên cưong của tổ quốc .
    Được thanhnam7 sửa chữa / chuyển vào 16:16 ngày 18/09/2005
  5. Bundeswehr

    Bundeswehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/11/2004
    Bài viết:
    453
    Đã được thích:
    0
    Cái ảnh số 3 của cậu thanhnam tớ có thấy được 2 bên sườn thế nào đâu. Có gì để đảm bảo được 2 bên sườn của của nó là bằng phẳng, ko có vách núi. Mà tớ đọc mấy nguồn tin từ mấy trang web chống + cứ thấy mâu thuẫn với nhau chan chat. Hay như của ông GS tự phong Trần Đại Sỹ thì nói đến 5 km, quá choáng.
    Mà suối Phi Khanh cách cửa ải Nam Quan từ 100 - 150 m. Đấy là từ nguồn tin của các cậu CC đấy nhé.
  6. bigapple_k33

    bigapple_k33 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/04/2004
    Bài viết:
    1.035
    Đã được thích:
    1
    Sau đây là một số trích dẫn trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ, Quyển số 5, Triều đại nhà Trần nói về cửa ải Nam Quan. Trích đoạn [trang 167]
    "Nhâm Dần, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 11 [1242], (Tống Thuần Hựu năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2, chia nước làm 12 lộ1. Đặt chức an phủ, trấn phủ, có 2 viên chánh, phó để cai trị. Các xã, sách thì đặt chức đại, tiểu tư xã. Từ ngũ phẩm trở lên là đại tư xã, từ lục phẩm trở xuống là tiểu tư xã. Có người làm kiêm cả 2, 3, 4, xã, cùng xã chính, xã sử, xã giám gọi là xã quan.
    Làm đơn số2 hộ khẩu. Con trai lớn gọi là đại hoàng nam, con trai nhỏ gọi là tiểu hoàng nam, 60 tuổi gọi là lão, già lắm thì gọi là long lão. Nhân đinh có ruộng đất thì nộp tiền thóc, người không có ruộng đất thì miễn cả. Có 1, 2 mẫu ruộng thì nộp 1 quan tiền, có 3, 3 mẫu thì nộp 2 quan tiền, có từ 5 mẫu trở lên thì nộp 3 quan tiền. Tô ruộng mỗi mẫu nộp 100 thăng thóc.
    Mùa hạ, tháng 4, sai [13b] Thân vệ tướng quân Trần Khuê Kình đem quân trấn giữ biên giới phía bắc, đánh lấy các đất thuộc lộ Bằng Trường.
    Trước kia, từ sau khi Nguyên Thái Tông mất, thì cửa ải thường không thông. Nếu có sứ mệnh thì chỉ có hai viên chánh phó sứ và hai bọn người đi theo, còn sản vật tiến cống có bao nhiêu thì gói bọc đưa đến địa đầu biên giới, quan địa phương nhận giữ và chuyển nộp. Sứ thần đến kinh, chỉ dâng biểu tâu thôi, các vật tiến cống không đến nơi cả được. Đến nay, sai tướng chống giữ, đánh chiếm mới thông hiếu được với nước Tống."
    Theo ý của đoạn trích dẫn nói trên thì cửa ải không nằm trong sự kiểm soát của vua tôi nhà Trần. Nói cách khác, đó là đất của nhà Tống do quan địa phương Bằng Tường trấn giữ.
    Trích đoạn [trang 182] - "Nhâm Thân, [Thiệu Long] năm thứ 15 [1272], (Tống Hàm Thuần năm thứ 8, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 9) .Mùa Xuân, tháng giêng, Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc Sử viện giám tu Lê Văn Hưu vâng sắc chỉ soạn xong bộ Đại việt sử ký từ Triệu Vũ [33b] đế đến Lý Chiêu Hoàng, gồm 30 quyển, dâng lên. Vua xuống chiếu khen ngợi.
    Mùa hạ, tháng 4, sứ Nguyên Ngột Lương2 sang dụ, hỏi giới hạn cột đồng cũ. Vua sai Viên ngoại lang Lê Kính Phu đi hội khám. [Phu] trở về nói rằng, cột đồng Mã Viện dựng lâu năm đã bị mai một, không còn tung tích gì nữa."
    Đoạn trích dẫn này xác nhận sự mai một của cột mốc biên giới giữa TQ và VN phân định thời Mã Viện. Trong Sử Ký Tư Mã Thiên của TQ cũng có nói về cột đồng thời Mã Viện.
    Trích dẫn [trang 190] - "Ngày 26, giặc đánh vào các ải Vĩn Châu, Nội Bàng, Thiết Lược, Chi Lăng, Quan quân đánh bất lợi lui về đóng ở bến Vạn Kiếp." Chú giải về Ải Chi Lăng - Ải Chi Lăng: thuộc huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn ngày nay.
    Đoạn này cho thấy rằng nhà Trần coi Chi Lăng là tên một ải thì sẽ không có một "Ải Nam" nào ở chung một vị trí với Ải Chi Lăng nữa. Phải chăng câu thơ "Ải Nam" ám chỉ các cửa ải biên giới của nước nam . Theo tôi nghĩ hiểu như vậy mới đúng vì khi biên cương không còn giặc, chắc chắn giấc ngủ sẽ ngon lành. Lưu ý một điều, quân Nguyên qua VN không chỉ qua ải Chi lăng mà còn nhiều ải khác nữa. Có thể Thành Nam đã hiểu sai ý của 2 câu thơ của Trần Quang Khải.
    Tóm lại, đến thời nhà Trần thì Ải Nam Quan vẫn thuộc nhà Tống. Khi nhà Nguyên diệt Tống thu phục Trung Quốc và có hỏi đến biên giới VN - TQ (cột đồng Mã Viện), sau khi xác định cho thấy đã mất dấu tích (?). Điều này đồng nghĩa với việc vẫn thừa nhận những gì đang tồn tại lúc đó và không có sự phân định gì mới về biên giới.
    Nếu theo kết luận của Thanh Nam là Ải Nam Quan thuộc nhà Trần thì phải chăng Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết sai??
    ATB,
  7. 9635741

    9635741 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/09/2005
    Bài viết:
    1.067
    Đã được thích:
    0
    tôi không cho là vậy, ngày trước Hưng Đạo Vương đánh Thoát Hoan cũng chỉ đến trước đó khá xa, sao không đóng ngay ải Nam Quan?
    "lấy đất làm cửa quan", tức là hoàn toàn không có biên giới đấy bác thanhnam à
    Nên biết cung cách thiên triều hợm hĩnh của các triều đại phong kiến Trung Quốc không chấp nhận cái gọi là "đường biên giới chung" với các nước bọn họ coi là "man di", tức là các dân tộc phương Bắc, Triều Tiên và cả Việt Nam ta. Thế nên lúc nào cũng tồn tại một vùng đất trống làm "giới tuyến trắng" phân lãnh thổ ra.
    Còn chuyện cái tên "Nam Quan" thì quá rõ, tức là "Nhìn về phương Nam"!
    Ngay trong cuốn sách của NXB Sự Thật cũng không công nhận ải Nam Quan chính là biên giới?
    Thêm vài chứng cứ của ông bạn bigapple siêng đọc sách thì chắc là đủ rồi hé, thanhnam?
  8. bigapple_k33

    bigapple_k33 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/04/2004
    Bài viết:
    1.035
    Đã được thích:
    1
    Có một điều Thành Nam nhầm lẫn nghiêm trọng giữa cột mốc và cột cây số (km). Cái cột cây số số 0 (0km) là cột đánh mốc chiều dài đường (không có liên quan gì đến biên giới cả). Còn nói về cột mốc biên giới xác định theo hiệp định Pháp - Thanh thì số cột mốc là 18. Nếu muốn xác định đường biên giới qua khu vực đó thì nên căn cứ vào 3 cột mốc số 17, 18, và 19. Còn nếu căn cứ vào tài liệu cổ nhất thì phải đi tìm dấu vết của các cột đồng Mã Viện.
    Hy vọng bạn Thành Nam nên đọc kỹ tài liệu và hiểu thật rõ các loại cột mốc. Trên mỗi tuyến đường quốc lộ của VN bao giờ cũng xuất phát từ 0km và kết thúc ở điểm cuối của con đường. Nếu bạn xem kỹ một cột cây số bạn sẽ thấy ghi rất rõ cột km số mấy, cách thành phố gần nhất bao xa. Ở VN có rất nhiều cột km số 0. Nếu hiểu như bạn thì rất phiền cho việc xác định biên giới của VN .
    Vì cột km số 0 nằm sâu trong lãnh thổ VN nên khi VN tố cáo TQ ủi cột mốc đó và rời vào sâu, điều này chứng tỏ TQ đã lấn chiếm trái phép lãnh thổ VN. Đây chính là bằng chứng thuyết phục nhất bởi vì cột mốc biên giới phân định đường biên cách xa cột 0 km đến 200 m, khi quân TQ ủi cột 0km chứng tỏ họ đã vào sâu trong lãnh thổ VN ít nhất là 200m. Nếu bạn coi cột 0 km là mốc biên giới thì bạn căn cứ vào đâu để nói TQ xâm lược VN?? Thêm nữa, khi bạn coi 0km là cột mốc biên giới thì vô hình chung bạn đã (1) thừa nhận Ải Nam Quan của TQ; (2) Phủ nhận sự tồn tại của cột mốc số 18 cách đó về phía Bắc 200m; và (3) bạn đã "dâng" cho TQ nhiều đất hơn là số đất mà bạn cho là ĐCS dâng cho TQ đó. Nếu quả thật bạn vẫn cố gắng bảo lưu ý kiến của mình thì (1) xin đừng nói ĐCS dâng đất mà phải nói là chiếm được đất của TQ; và (2) chịu khó coi thiên hạ vì sự uyên bác của bạn.
    ATB,
  9. thanhnam7

    thanhnam7 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/09/2005
    Bài viết:
    44
    Đã được thích:
    0
    Như em đã nói ở trên , việc dựa vào 2 câu thơ của Trần Quang Khải ko phải là dữ kiện chính . Ải Nam ở đây đúng như anh nói có thể là tất cả các ải, cũng có thể là chính Ải Nam Quang, đúng ko ? chính thế nên ko thể dựa vào 2 câu thơ để kết luận 1 cách chính xác rằng : Liệu Ải Nam Quan thuộc đời Nhà Trần hay ko ? Thậm chí trong Đại Việt Sử Kí Toàn Thư nói cũng ko rõ ràng ,hẳn ra rằng Ải Nam Quan thuộc Trung Quốc . Như thế đâu có nghĩa rằng Ải Nam Quan thuọc TQ . Vậy chúng ta tạm coi nó như một điểm chưa rõ ràng cho tới đời nhà Trần . Nhưng các đời sau , em có đầy đủ tài liệu để chứng minh nó là của Việt Nam bằng cách trích dẫn đầy đủ ở trang trưóc, ko hiểu vì lí gì anh cố tình "bỏ qua " . Để em trích dẫn lại :
    Chủ quyền ải Nam Quan cũng có ghi rõ trong lịch sử thời nhà Lê dấy nghiệp. Năm 1427, đạo quân nhà Minh từ Quảng Tây kéo đến ải Nam Quan định sang giải vây cho Vương Thông đang bị Bình Định Vương Lê Lợi vây khổn ở Thăng Long, nhưng đã bị các tướng giữ ải là Lê Lựu và Lê Bôi phục kích đánh tan (Việt Sử Tân Biên - Quyển 2, Phạm Văn Sơn, NXB Văn Hữu Á Châu, 1958, trang 442 )
    -Những bằng cớ cho thấy Nam Quan là một phần lãnh thổ của Việt Nam có thể được tìm thấy trong bộ sách Phương Đình Dư Địa Chí của Nguyễn Văn Siêu, một danh nho vào thời nhà Nguyễn. Tác giả diễn tả khá chi tiết về Cổng Nam Quan từ trang 451 đến 453 (hình 6, 7, 8). Tác giả viết rằng:
    "Ải Nam Quan ở địa phận 2 xã Đồng Đăng và Bảo Lâm châu Văn Uyên, phía bắc giáp giới châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, 2 bên có núi đá cao ngất, ở giữa mở một cửa quan, có cánh cửa có khóa, chỉ khi có việc sứ mới mở, tên là Nam Quan (một tên là Đại Nam quan, một tên là Trấn Di Quan, lại có tên là Trấn Nam quan." (Phương Đình Dư Địa Chí - Nguyễn Văn Siêu, NXB Sài Gòn, 1959, trang 451 )
    [​IMG][​IMG][​IMG]
    -Bộ sách "Đại Nam Nhất Thống Chí" được Quốc Sử Quán Triều Nguyễn soạn ra bằng chữ Nho, tương tự như chữ Hán của Tàu, gồm 25 quyển, đến năm 1971 đã được dịch ra tiếng Việt (Đại Nam Nhất Thống Chí, Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, NXB Khoa Học Xã Hội, 1971, Tập 3, trang 366-367) . Nhớ là Đào Duy Anh Hiệu Đính nhé !!!
    [​IMG]
    a.- Ải Nam Quan là đất của huyện Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn, từ thời nhà Trần đến thời Lê thịnh vẫn còn như thế.
    b.- Cổng Nam Quan, cách Lạng Sơn 31 dặm (khoảng 19 km) về hướng Bắc của tỉnh lỵ Lạng Sơn. Theo văn bia của Đốc Trấn Lạng Sơn Nguyễn Trọng Đang, thì cổng, cùng với đài canh gác nằm trên cổng, đã được xây đầu tiên bởi người Việt Nam, vào thời Gia Tĩnh nhà Minh tức là cùng thời niên hiệu Nguyên Hòa của vua Lê Trang Tông (1533-1548). Tên nguyên khởi do người Việt đặt cho cổng Nam Quan là "cửa Nam-Giao" hay "Đại-Nam Quan". "Đại Nam" là tên của nước ta từ thời xưa mà về sau triều Nguyễn Minh Mạng đã dùng lại.
    c.- Trong thời gian cổng Nam Quan được xây, Việt Nam có tới hai triều đại: Bắc Triều do Mạc Đăng Dung soán ngôi Lê Cung Hoàng lập ra nhà Mạc từ năm 1527. Nam Triều của vua Lê Trang Tông được Nguyễn Kim phò tá lập ra chống lại nhà Mạc. Hai bên đánh nhau đến năm 1592 thì nhà Mạc bị đánh bại, vua Mạc Mậu Hợp bị Trịnh Tùng bắt về chém bêu đầu. Tuy nhiên, nhờ có nhà Minh can thiệp nên con cháu Mạc Đăng Dung vẫn được giữ đất Cao Bằng và Lạng Sơn thêm ba đời, cho đến năm 1625 mới dứt hẳn. Như vậy, nếu lời của Nguyễn Trọng Đang chính xác, thì cổng Nam Quan có thể do Mạc Đăng Dung dựng lên tại địa thế hiểm yếu của thiên nhiên, để kiểm soát sự xâm nhập biên giới của thổ phỉ Tàu từ phía bắc.
    d.- Đến đời Nguyên Hoà thứ 8, năm 1541, trước sự uy hiếp của nhà Minh, Mạc Đăng Dung phải tự trói mình cùng bầy tôi đi "qua Trấn Nam Quan đến Mạc phủ của nhà Minh dâng biểu xin hàng. Đến đây mới thấy Sử (Ký) chép tên Trấn Nam Quan." Chi tiết này chứng minh rằng cho dù trong thời bại trận, cả Ải Nam Quan lẫn cổng Nam Quan vẫn còn là lãnh thổ và tài sản của Việt Nam. Như vậy hiển nhiên họ Mạc đã dâng cho Tàu một phần của vùng khe núi Ải Nam Quan phía bắc của cổng, gồm năm động và đất Khâm Châu, còn cái cổng thì vẫn là tài sản của Việt Nam, chỉ bị Tàu đổi tên ở bảng hiệu phía Bắc mà thôi. Nói cách khác, trước khi họ Mạc đầu hàng, nguyên cả hai rặng núi song song dài khoảng 7 km cấu thành Ải Nam Quan và Suối Phi Khanh đều thuộc về Việt Nam. Ngay cả lúc hai bên chiến tranh, quân Tàu cũng không dám khinh xuất xâm phạm ải và cổng Nam Quan của Việt Nam. Sách Sử Ký của Tàu thay vì chép tên cổng là "Đại-Nam Quan", thì đổi thành "Trấn Nam Quan".
    e.- Đối chiếu với bộ sách Nhất Thống Chí, sách Việt Nam Sử Lược của sử gia Trần Trọng Kim cũng nói đến chủ quyền cửa Nam Quan thuộc Việt Nam như sau:
    "Năm Đinh Dậu (1537) vua nhà Minh sai Cừu Loan làm Đô Đốc đem quân đến đóng gần cửa Nam Quan rồi sai đưa người thư sang bảo Mạc Đăng Dung phải đưa sổ ruộng đất sang nộp và chịu tội thì được tha cho khỏi chết" (Việt Nam Sử Lược, Quyển 2, Trần Trọng Kim, trang 16 )
    Một đoạn khác, khi Quang Trung Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh cũng có ghi:
    "Ngày hôm ấy (mùng năm tết Kỷ Dậu 1789) vua Quang Trung dốc quân đánh giặc, áo ngự bào bị thuốc súng bắn vào đen như mực. Đến trưa thì vào thành Thăng Long, sai tướng đem binh đuổi đánh quân Thanh đến cửa Nam Quan. Những dân Tàu ở gần Lạng Sơn sợ khiếp, đàn ông, đàn bà dắt díu nhau mà chạy, từ cửa ải về mé Bắc hơn mấy trăm dặm, tịnh không nghe thấy một người nào!" (Việt Nam Sử Lược, quyển 2, trang 134 )
    f.- Năm 1792, với sự yêu cầu chính đáng của Quang Trung Hoàng Đế, vua Càn Long nhà Thanh đã chấp thuận trả lại các phần đất thuộc Quảng Tây và Quảng Đông cho Việt Nam trong đó có nguyên vẹn vùng núi Ngũ Lĩnh ở Bằng Tường. Tiếc thay, các vùng đất đó chưa được bàn giao lại cho Việt Nam thì Quang Trung băng hà, và từ đó Việt Nam chưa sản xuất được một vị anh hùng nào đủ hùng tài đại lược để đòi lại phần đất này.
    g.- Vào khoảng tiền bán thế kỷ 17, đời vua Lê Thần Tông (1619-1643) và chúa Trịnh Tráng, thì nhà Minh bị nhà Thanh tiêu diệt. Đến năm Ung Chính thứ 3 thời nhà Thanh, (tức là đời Lê Dụ Tông thứ 20, niên hiệu Bảo Thái thứ 5, năm 1725, gần 200 năm sau khi người Việt xây cổng Nam Quan và đài canh vào thời nhà Minh), thì "án sát tỉnh Quảng Tây là Cam Nhữ Lai tu bổ lại" cổng Nam Quan. Rồi 3 năm sau đó (Ung Chính thứ 6, năm 1728) thì làm bảng để trên mặt bắc của cổng là "Trấn Nam Quan" bằng chữ Tàu. Như vậy, có thể trong thời gian này, nhà Thanh đã đề nghị tình nguyện "tu bổ" lại cổng Nam Quan để rồi sau này người Tàu lấy cớ mà giành giật chủ quyền cổng Nam Quan của người Việt.
    h.- Đến đời Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 33 (năm Giáp Thìn - 1773), thì Đốc Trấn Lạng Sơn Nguyễn Trọng Đang cho khởi công trùng tu lại đài canh gác. Sau trên nửa năm xây cất, sang năm Ất Tỵ, đài mới hoàn tất và được đặt tên là Vọng Đức Đài, với tấm biển đề "Đại-Nam Quan" quay về hướng nam, đối chiếu tương đương với biển đề Trấn-Nam Quan ở mặt bắc ("việc làm phải theo thời thế, không dám làm hơn người trước"). Bấy giờ là "năm Ất Tỵ, mùa Xuân, trước ngày Vọng (vua ta) ba ngày" [Phương Đình Dư Địa Chí, trang 453. ]. Lời chú trên bia của ông hàm ý ngưỡng vọng đức độ của vua Lê Hiển Tông, bấy giờ sắp kỷ niệm sinh nhật 57 tuổi, làm vua đã được 34 năm,
    .- Tuy nhiên, đến đời Càn Long nhà Thanh, năm Tân Sửu, (tức là năm 1781, khoảng 7 năm sau khi Vọng Đức Đài của Việt Nam được xây cất), nhằm vào thời Lê mạt, thì lần đầu tiên đài canh của Tàu mới được xây cất và đặt tên là "Chiêu Đức Đài" ở mặt bắc nằm trên cổng, phía bắc đài có "nhà giữ ngựa" gọi là "đình tham đường". Như vậy, trên cổng có hai đài kiểm soát, phía bắc là Chiêu Đức của Tàu và phía Nam là Vọng Đức của Việt. ( chú ý chỗ này )
    j.- Căn cứ vào các tài liệu trên, thì cho đến hậu bán thế kỷ 18, vẫn còn kiến trúc đồ sộ của cổng Đại-Nam Quan và Ngưỡng (hay Vọng) Đức Đài của Việt Nam nằm trên cổng, với bên tả bên hữu đài có hai dãy hành lang dùng làm nơi nghỉ ngơi mà Đốc Trấn Nguyễn Trọng Đang đã xây lên bằng cả một công trình gạch đá mất trên nửa năm trời. Như vậy, cho đến thời gian đó, cổng Nam Quan vẫn là sở hữu của Việt Nam, và là biên giới của hai nước. Tàu chỉ góp công tu bổ cổng cũng như xây đài ở mặt bắc và sử dụng chung mà thôi, giống như hiện nay Trung Quốc đang được Việt Nam cho sử dụng chung ga xe lửa tại Đồng Đăng để kiểm soát người nhập cảnh vậy. Góp công tu bổ để được cho sử dụng chung, rồi lại lật lọng đòi luôn sở hữu chủ tài sản của lân bang, thái độ của người Tàu ngang ngược như thế đã đành, mà thái độ của đảng CSVN và một vài người Việt ra sức bênh vực cho "chủ quyền" của người Tàu thì thật là cổ kim chưa từng có !!!!

    Trên đây là những bằng chứng rõ ràng từ bộ Nhất Thống Chí và một số sách sử khác về chủ quyền VN đối với toàn ải và cổng Nam Quan

  10. thanhnam7

    thanhnam7 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/09/2005
    Bài viết:
    44
    Đã được thích:
    0
    Ô hô anh bạn buồn cuời nhể ! Thế căng mắt mà đọc xem ông Lê Công Phụng nói gì nhé , xem cái cột mốc số 0 đấy là cột mốc Biên Giới hay Cột Mốc Giao Thông Nhé ,
    OK! Đầu tiên là bài phỏng vấn ông Lê Công Phụng Thứ Trưỏng Bộ Ngoại Giao Việt Nam, để cho các đã chính thức khẳng định cái Mục Nam Quan hiện đang nằm ở địa phận TQ .
    <BLOCKQUOTE id=quote><font size=1 face="Arial" id=quote>Trích từ: Còn về mục Nam Quan. Đi bộ từ Hữu nghị quan tới cột mốc số 0 đến vài trăm mét. Thực tế sự sai lệch này là như thế nào?
    - Trong sử sách, trong văn thơ đều nói đất của chúng ta kéo dài từ mục Nam Quan đến mũi Cà Mau. Mục Nam Quan ở đây nếu nói là cái cổng thì cũng là một cách, nhưng nếu nói là khu vực thì cũng là một cách nói. Giống như đại đa số các cửa khẩu biên giới, ''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''cửa khẩu'''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''''' theo nghĩa rộng thường bao gồm hai cửa khẩu.
    - Và thường chúng thường cách nhau bao nhiêu mét?
    - Ví dụ như ở Bắc Luân thì hai cửa khẩu cách nhau khoảng 100m. Còn các khu vực trên đất liền, sát với sông suối, thì tùy địa hình của từng bên. Chúng ta cũng biết là ải Nam Quan là cuối khúc sông. Nếu chúng ta bắt đầu tính biên giới từ chân tường hoặc chia đôi cửa mục Nam Quan thì cũng không được. Còn cột mốc số không - nhân dân Lạng Sơn báo cáo với Trung ương, Chính phủ và các nhà đàm phán rằng cột mốc có từ khi những người già còn chưa ra đời. Chúng ta tôn trọng cơ sở pháp lý đã có, tôn trọng thực tiễn, nhất là vì lâu nay quản lý đã như vậy. Cho nên hiện nay chúng ta công nhận mục Nam Quan là của Trung Quốc, cách cột mốc số 0 trên 200m.
    Tính cột mốc số 0 trở về phía Nam là lãnh thổ của Việt Nam. Từ cột mốc số 0 trở về phía Bắc là của Trung Quốc.
    - Đó là nói về đất. Bây giờ xin nói về biển. Việc phân định Vịnh Bắc Bộ đã được thực hiện thế nào? [/QUOTE]
    Và đây là tấm ảnh chụp , cột mốc số 0 mới tức Hữu Nghị Quan mới , đứng ở vị trí này sẽ ko thấy Mục Nam Quan "new" mà tôi post hình ở trên , bởi từ chỗ này đến cái Mục Nam Quan "new" ít nhất là 400 m (do tôi ưóc lưọng ) . Nên nhớ cột mốc số 0 chinhlá điểm mút của biên giới Ai khẳng định ! Ông Lê Công Phụng ! Miệng nhà quan có gang có thép nhé anh bạn !
    [​IMG]

Chia sẻ trang này