1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hình Ảnh Lịch sử về Ải Nam Quan - có bàn tới Thác Bản Giốc

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi thanhnam6, 17/09/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. dukoon

    dukoon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2005
    Bài viết:
    346
    Đã được thích:
    0
    Hỏi về lộ trình đi từ NQ sang BG thì chịu khó 1 chút sẽ "phịa" được ra hết .
    Tớ vẫn xem chú chữ to này post bài đều đều đợt gần đây. Lí luận về bán với dâng đất thì nghe liên tục, nhưng vụ đi thực nghiệm thì chỉ mới nghe thấy nhắc đến trong đợt khẩu chiến căng thẳng này.
    Nếu theo logic bình thường khi đã có chuyến thực nghiệm người ta sẽ lập tức dẫn chứng để chứng minh nhưng thanhnam nhà ta thì đến khi lí lẽ bắt đầu bí thì mới thấy xuất hiện chuyến thực nghiệm "vất vả cất công đi để tìm hiểu" mà 1 cái ảnh cũng không tự chụp được.
    Nhắn luôn chú chữ to rằng nếu chính bản thân chú thấy rằng các dẫn chứng của chú chưa thuyết phục thì chú nên ngậm mồm lại. Đừng có đi đâu cũng ra rả bán đất với dâng đất nữa. Nói thì phải chứng minh được, còn nếu không chứng minh được thì đừng có há mồm ra . Hi vọng chú không si đần đến mức không hiểu những gì anh nói !!!
    kính chú
  2. co_be_ngay_tho

    co_be_ngay_tho Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/01/2005
    Bài viết:
    248
    Đã được thích:
    0
    Bác thanhnam này chắc bị bọn hải ngoại, nó nhồi sọ nhiều quá đâm ra lú lẫn rồi . Làm sao có chuyện dịch cả một cải Ải to tưóng như thế, những 4km theo lời bác nói vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam mà ko một ai biết cả . Chả hiểu bác đi thực địa kiểu gì , chứ tôi thấy xung quanh ải vẫn còn nguyên cả hai dẫy núi cao sừng sững đấy chứ . Mà bác nên nhớ năm 1979 TQ nó oánh mình , lúc đấy mình với nó căm thù nhau, chẳng nhẽ mình lại để yên không khui ra cái chuyện nó dịch Ải của mính sao ? Mà thực ra từ trưóc đến nay chuyện suối Phi Khanh đều do tương truyền ghi lại hết . chứ xét về mặt địa li, thì chưa có bất cứ tài liệu nào, bức ảnh nào, ghi lại vị trí , nguồn gốc của con suối này . Có lẽ nó chỉ là truyền thuyết .
    - Ải Nam Quan đúng là của TQ , cái gì của Cesar thì trả cho Cesar , bởi theo hiệp định Pháp Thanh thì cách Ải Nam Quan 100m là cột mốc số 18 . Còn theo lịch sử thì đúng là của mình, nhưng quá muộn rồi .Hơn nữa lịch sử ko mang tính pháp lí .Như thế theo cái hiệp định đấy , thì từ cột mốc số 18 trở về phía Bắc là của TQ, (tức Ải Nam Quan là của TQ ) , còn từ cột mốc số 18 trở về phía Nam là lãnh thổ Việt Nam . Thế nhưng chả hiểu sao , khi kí hiệp định biên giới 1999, thì tự nhiên lại mọc ra cột mốc sô 0 . Tất nhiên cột mốc số 0 là cột mốc giao thông bắt đầu quốc lộ 1 , nằm sâu trong lãnh thổ Việt Nam . Theo lời ông Phụng nói thì từ cột mốc số 0 hiện tại là cột mốc biên giới , và từ cột mốc số 0 cách Ải Nam Quan , trên 200m . Như thế so với cột mốc số 18 lịch sử , chúng ta mất trên 100 m đất . Nói thế mới chính xác , chứ bảo rằng mất 5km thì quá bịa đặt . Nhưng đất đai là tài sản vô cùng quý giá , mất trên 100 m ,thì cũng là mất .Hiện tại chưa biết rõ trên 100 m là bao nhiêu ? Có bác nào kiếm đưọc số liệu chắc chắn khoảng cách từ cột mốc số 0 cho đến Ải Nam Quan hay là đến cột mốc số 18 là bao nhiêu ko ? Nhưng nói gì thì nói, chúng ta phải tỉnh táo phân biệt trưóc những lời mị dân, bịa đặt của cả 2 phía . Mấy chú hải ngoại thì cũng to mồm phịa ra con số 5km, còn chính quyền thì cũng phịa ra cái cột mốc số 0 ( theo lời ông Phung là ..dân làng bảo thế ) . Tóm lại trưóc 2 nguồn thông tin trên chúng ta có thể kết luận một cách chắc chắn : Theo hiệp định 1999 chúng ta mất trên 100 m đất ở khu vực Ải Nam Quan,
  3. co_be_ngay_tho

    co_be_ngay_tho Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/01/2005
    Bài viết:
    248
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    post lại cái ảnh của anh thanhnam tí nhỉ . Cá nhân em thì cũng chưa bao giờ có dịp "thực địa" như anh Nam , nên em cũng chả thể đoán chính xác đưọc, khoảng cách từ cột mốc số 0 , đến Ải Nam Quan là bao nhiêu , nhưng nhìn vào bức ảnh anh post thì xa xa trong bức ảnh là dẫy nhà tròn nằm sát Ải Nam Quan, đúng là đứng ở chỗ này ko thể thấy đưọc Ải Nam Quan . Theo em đoán khoảng 300 , bởi nếu trên 200 m 1 chút thì khoảng cách sẽ gần hơn rất nhiều .
  4. Jet_Ace

    Jet_Ace Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/12/2003
    Bài viết:
    830
    Đã được thích:
    0
    Ai bảo em thế? Nó là 1 thằng nhồi sọ, định vào đây nhồi sọ thanh niên Việt Nam đấy.
  5. FPM

    FPM Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/09/2005
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    0
    NAM QUAN : Ải, cửa ải và biên giới
    Nguyễn Ngọc Giao
    Cuộc luận chiến về Hiệp định biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc (kí kết ngày 30.12.1999) đã gây xôn xao trong dư luận từ đầu năm 2002 sau khi cột mốc quốc giới đầu tiên được cắm tại vùng Móng Cái - Đông Hưng : lễ cắm mốc này (cuối năm 2001) cụ thể hoá một hiệp định song phương tuy đã được quốc hội Việt Nam và Trung Quốc thông qua và về nguyên tắc đã có hiệu lực từ ngày 1.7.2000, nhưng cho đến lúc ấy, vẫn chưa được công bố.
    Dư luận xôn xao và phẫn khích vì khi những người phản kháng ở trong nước (phần đông là cán bộ và đảng viên lão thành) lên tiếng tố cáo Hiệp định, thì chính quyền đã phản ứng bằng sự im lặng và trấn áp (bắt đầu bằng việc bắt giữ nhà thơ Bùi Minh Quốc rồi quản chế ông ở Đà Lạt, sau đó quản chế ông Trần Khuê... ). Chính phản ứng này mang lại " độ đáng tin " cho những lời tố cáo mà nội dung chính gồm hai điểm :
    * Với Hiệp định 1999, Việt Nam đã mất đi 700 km2 dọc theo biên giới phía bắc (ở đây, chúng tôi tạm không đề cập tới Hiệp định phân định vùng biển ở Vịnh Bắc Bộ, sẽ bàn trong một bài sau)
    * Trong những vùng đất bị mất, có Hữu Nghị Quan tức là Nam Quan và thác Bản Giốc, là những địa danh gắn liền với lịch sử quốc gia và khắc sâu vào tâm khảm tập thể của dân tộc.
    Khi những lá thư cảnh báo và kiến nghị phản đối từ Hà Nội truyền ra nước ngoài qua mạng internet, dấy lên làn sóng dư luận ở nước ngoài, rồi từ nước ngoài dội về nước, chính quyền mới phản ứng bằng một vài lời giải thích của thứ trưởng ngoại giao Lê Công Phụng (trả lời phỏng vấn công khai, nhưng hạn chế trên mạng internet, và theo chúng tôi biết, không được đăng lại trên báo chí quốc nội). Tuyên bố của ông Phụng có những điểm không rõ ràng, nên khi ông khẳng định dứt khoát không hề có việc nước ta mất đi 700 km2 đất đai, diện tích tranh chấp chỉ thu hẹp ở mức 227 km2 và " trong 227 km2 đó (...) chúng ta được khoảng trên dưới 113 km2 và Trung Quốc được trên dưới 114 km2 " (trả lời phỏng vấn của mạng VASCOrient, 28.1.2002), thì sự hoài nghi của dư luận vẫn chưa được giải toả.
    Cho đến đầu hè năm 2002, trong các chuyến công du ở nước ngoài, các nhà lãnh đạo chính quyền Việt Nam, khi được hỏi tại sao Nhà nước không công bố bản Hiệp định, đều trả lời theo kiểu " các nước đều có thông lệ không nhất thiết phải công bố mọi hiệp định ", mà không giải thích tại sao Hiệp định biên giới lại nằm trong số những văn bản " không công bố ". Đến tháng 8.02, báo Nhân Dân điện tử công bố toàn văn bản hiệp định, nhưng không có các bản đồ kèm theo. Cho đến nay, theo chỗ chúng tôi biết, không có tờ báo in nào (kể cả báo Nhân Dân) đã đăng văn kiện này. Tại sao báo Nhân Dân đưa lên mạng, khi báo chí quốc tế đặt câu hỏi, thì người phát ngôn Bộ ngoại giao trả lời " điều này phải hỏi Ban biên tập báo Nhân Dân " (!).
    Dẫu sao, việc công bố (một cách khá kì lạ) văn bản hiệp định cũng chứng tỏ nhà cầm quyền mặc nhiên thừa nhận sức mạnh của dư luận, và rõ ràng nó đã làm xẹp bớt những tiếng nói phản đối (nhất là những khẳng định vô căn cứ). Tuy nhiên, văn bản không bản đồ đính kèm chưa cho phép xác định đường biên giới đã được thoả thuận, và càng không thể so sánh nó với đường biên giới đã được định hình từ năm 1896 theo Hiệp ước Pháp Thanh. Mặt khác, sự im lặng kéo dài, rồi sự trả lời nhỏ giọt, công bố nửa kín nửa hở (không kể sự trấn áp và bỏ tù những người lên tiếng phản đối) không những làm cho dư luận vẫn hoài nghi mà còn đặt ra thêm nhiều câu hỏi :
    * Từ đâu, những người phản kháng đã có được thông tin theo đó Việt Nam đã " mất hơn 700 km2 đất đai ", vì rõ ràng bản thân họ không có phương tiện để thu thập và kiểm chứng thông tin ?
    * Nếu từ nội bộ chính quyền, thì điều này phản ánh một cuộc tranh giành quyền bính, và nếu thế, thì thực chất và quy mô cuộc đấu đá này như thế nào ?
    Với những thông tin thu thập được và dựa trên kết quả nghiên cứu của những người quan tâm cũng như của bản thân, trong một loạt bài, chúng tôi sẽ trình bày một số điểm, phần nào trả lời những câu hỏi nêu trên.
    Mở đầu cho loạt bài, bài này tập trung nói về ải Nam Quan.
    Ải và cửa ải
    Trước tiên, cần đả thông một ngộ nhận xuất phát từ ngữ nghĩa của hai chữ : ải và cửa ải. Trong cảm nhận thông thường, có sự lẫn lộn giữa hai từ này.
    Ải (từ gốc Hán, tiếng Pháp là défilé, tiếng Anh defile) có nghĩa là chỗ/dải đất hẹp nằm giữa hai dãy núi/đồi cao. Lạng Sơn có ải Chi Lăng nằm trong lãnh thổ Việt Nam, nơi Liễu Thăng đã bị chém đầu (thế kỉ 15) và đạo quân của Liễu Thăng bị nghĩa quân của Lê Lợi phục kích ở hai ngọn núi hai bên đánh tan.
    Cũng ở Lạng Sơn, về phía bắc, giữa Đồng Đăng (đất Việt Nam) và Bằng Tường (đất Trung Quốc), có một dải đất hẹp chạy giữa hai dãy núi. Ải này không có tên riêng biệt, thường được gọi bằng tên của cái cửa ải nằm ở đó : Nam Quan.
    Cửa ải này, dưới các triều đại phong kiến Trung Quốc, mang nhiều tên khác nhau : Trấn Nam quan (cửa trấn giữ phương Nam), Đại Nam quan, Nam quan. Sau 1949, để tỏ tình hữu nghị, Mao Trạch Đông đề nghị gọi là Mục Nam quan (hoà mục với phương Nam), phía Việt Nam thì gọi là Hữu Nghị quan.
    Ải Nam Quan như vậy là dải đất giáp ranh giữa hai nước, phần phía nam thuộc lãnh thổ Việt Nam, phần phía bắc thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Câu nói nhập tâm " đất nước ta chạy dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau " vẫn giữ nguyên giá trị tinh thần và ý nghĩa địa lí nếu ta hiểu chữ ải theo đúng nghĩa của nó.
    Ngược lại, nếu ta hiểu ải là cửa ải, hay chính xác hơn, là cái toà nhà có cổng lớn trên đó có khắc hai chữ Nam Quan (người Pháp gọi là Porte de Chine), thì phải nói : cái cổng ấy chưa bao giờ thuộc về Việt Nam cả.
    Về mặt ngôn ngữ, điều đó hiển nhiên : tên gọi (Trấn/Mục) Nam Quan hàm ý cái cổng (quan) đó là của Trung Quốc, nếu nó là của Việt Nam thì tên gọi của nó phải là Bắc Quan (hay Trấn Bắc Quan, Bắc Bình Quan gì đó).
    Về mặt lịch sử, Lê Quý Đôn (trong Vân đài loại ngữ) đã chép lại bài kí Trùng tu Trấn Nam quan của Lý Công Phất (tuần phủ Quảng Tây, đời Ung Chính nhà Thanh) cho biết cổng này đã được Cam Nhữ Lai, án sát Quảng Tây, tu bổ năm Ất Tị 1725 (1). Theo Đại Nam nhất thống chí, của Quốc sử quán nhà Nguyễn, thì đối diện với Trấn Nam quan, phía Việt Nam có Ngưỡng Đức đài : " Phía bắc cửa có Chiêu đức đài, đằng sau đài có Đình tham đường của nước Thanh, phía nam có Ngưỡng đức đài của nước ta ", và nói rõ thêm về Ngưỡng đức đài : " bên tả bên hữu đài có hai dãy hành lang, mỗi khi sứ bộ đến cửa quan thì dùng chỗ này làm nơi tạm nghỉ " (2).
    Theo Nguyễn Văn Siêu (trong Phương đình địa dư chí), năm Giáp Thân 1784 (năm Cảnh Hưng thứ 45, đời vua Lê Hiển Tông), đốc trấn Lạng Sơn là Nguyễn Trọng Đang đã cho trùng tu Ngưỡng Đức đài (3).
    Sử sách ghi Ngưỡng Đức đài ở phía nam Trấn Nam quan, nhưng không nói cách bao xa. Do đó, ta chỉ có thể nói : biên giới Việt Trung tại khu vực ải Nam Quan nằm ở phía nam cửa Nam Quan của Trung Quốc, giữa Ngưỡng Đức đài và Nam Quan, nhưng không thể xác định ở khoảng cách nào. Ngày nay trên mặt đất không còn dấu vết Ngưỡng Đức đài, song có thể nghĩ nếu đào xuống sâu sẽ tìm ra di tích. Tuy nhiên điều này thuộc về lịch sử. Đứng về mặt pháp lí, văn kiện có giá trị là Hiệp ước Pháp Thanh 1885, hay đúng hơn, một bộ phận của Hiệp định này là Công ước Constans 1887 với những bản đồ xác định biên giới giữa Bắc Kì và tỉnh Quảng Tây đã được hai bên thoả thuận năm 1886 (4).
    150, 200 hay 500 mét ?
    Một số bài báo Việt ngữ vừa qua thường vạch rõ sự khác biệt giữa tuyên bố của Thứ trưởng Lê Công Phụng và chứng từ của bác sĩ Paul Néis. Trong bài trả lời phỏng vấn của VASCOrient nói trên, ông Lê Công Phụng nói " chúng ta công nhận Mục Nam Quan là của Trung Quốc, cách cột mốc số 0 trên 200m. Tính cột mốc số 0 trở về phía Nam là lãnh thổ của Việt Nam. Từ cột mốc số 0 trở về phía Bắc là của Trung Quốc ". Còn bác sĩ Paul Néis lại nói năm 1886, đường biên giới đã được quy định " khoảng 150m " phía nam " Porte de Chine " (tức là cửa ải Nam Quan). Bác sĩ Néis là một bác sĩ quân y, tham gia phái đoàn Chaffray, đã chứng kiến cuộc đàm phán hoạch định biên giới Lạng Sơn - Quảng Tây (5).
    Câu nói của thứ trưởng Lê Công Phụng quả là thiếu chính xác : " trên 200m " là bao nhiêu ? Và so sánh với chứng từ đã công bố của bác sĩ Néis, như một số tác giả ở nước ngoài đã viết trong thời gian qua, thì lãnh thổ Việt Nam ở ải Nam Quan đã bị thụt lùi ít nhất 50m.
    Tuy nhiên, chứng từ của Néis không có giá trị pháp lí. Tài liệu có giá trị pháp lí là bản đồ biên giới mang chữ kí của đại diện chính quyền Pháp và chính quyền nhà Thanh. Tại Trung tâm Văn khố Hải ngoại của Pháp (CAOM, Aix en Provence), chúng tôi đã tìm ra hai bản đồ liên quan tới biên giới Việt Trung ở Nam Quan (phía tây và phía đông), nhưng đó chỉ là những bản sao. Cuối cùng, chúng tôi đã được phép xem và chụp bộ bản đồ chính thức còn lưu trữ tại Phòng bản đồ Bộ ngoại giao Pháp. Trên hai bản đồ (I và II) vẽ theo tỉ lệ 1/50000, đường biên giới cách cửa ải Nam Quan khoảng 1cm, nghĩa là khoảng 500m.

    Bản đồ I : biên giới phía tây ải Nam Quan (Bộ ngoại giao Pháp)

    Bản đồ II : biên giới phía đông ải Nam Quan (Bộ ngoại giao Pháp)
    Như vậy, chứng từ của bác sĩ Néis không phù hợp với tài liệu chính thức. Mặt khác, phải nói là các bản đồ chính thức cũng không được vẽ một cách chính xác, các điểm cao không được xác định để làm quy chiếu cho " lưới toạ độ ", do đó đường biên giới không được định vị một cách rõ ràng.
    Tài liệu mật
    Về phía Việt Nam, như đã nói trên, vào tháng 8.02, chính quyền đã "kín đáo" công bố toàn văn bản hiệp định 1999. Các điều khoản của hiệp định đã định vị khá chính xác các cột mốc và mô tả hướng đi của các đoạn đường biên giới nối liền các cột mốc. Tuy nhiên, các cột mốc được định vị không phải bằng toạ độ, mà bằng vị trí của chúng đối với 3 điểm cao xung quanh. Do đó, trong khi chờ đợi bộ bản đồ chính thức được công bố, người ta chỉ có thể phác thảo đường biên giới nếu có bản đồ địa hình của vùng biên giới.

    Bản đồ III : (được cho là) đường biên giới ở khu vực ải Nam Quan theo Hiệp định Việt Trung 1999
    Riêng về khu vực ải Nam Quan (và khu vực Bản Giốc sẽ đề cập trong một bài sau), hiện nay chúng ta có thêm một số thông tin từ một tài liệu mật của **********************. Đó là THÔNG BÁO về đàm phán và ký kết Hiệp ước Biên giới trên đất liền, Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá giữa Việt Nam và Trung Quốc mang số 56-TB/TW của Ban chấp hành Trung ương, đề ngày 31.3.2002, mang chữ kí của ông PD.

    Bản thông báo này có đính kèm bản đồ Khu vực 249C, nghĩa là khu vực ải Nam Quan (xem hình chụp ở trên). Đoạn nói về khu vực này trong Thông báo (trang 8) viết như sau (trích toàn văn) :
    " Đối với khu vực 249C (khu vực Hữu Nghị Quan), có 2 vấn đề :
    Một là, đối với đoạn đường bộ thì Hữu Nghị Quan nằm ở phía bắc cột cây số 0 (từ trước tới nay, cột cây số 0 vẫn nằm ở nơi hiện nay nó đang tồn tại) ; trong biên bản hoạch định biên giới thời Pháp-Thanh năm 1886 và Bản đồ cắm mốc năm 1894, hướng đi của đường biên giới đều không đi qua Hữu Nghị Quan mà là lùi xuống phía nam Hữu Nghị Quan. Căn cứ lời văn và bản đồ Công ước Pháp-Thanh cũng như các nguyên tắc hai bên thoả thuận trong quá trình đàm phán thì đường biên giới được xác định ở khu vực này là thoả đáng.
    Hai là, đối với đoạn nối ray đường sắt thì do kết quả đàm phán đã đưa được đường biên giới lui lên phía bắc 148m, chứ không phải ở điểm nối ray như Trung Quốc đòi hỏi ".
    Dưới đây là một vài nhận xét và bình luận sơ bộ :
    1. Nguyên bản ba bản đồ là hình màu. Vì lí do kĩ thuật, chúng tôi phải in đen trắng, nhưng không vẽ lại mà sao chụp để bảo đảm tính trung thực.
    2. Trên bản đồ III, đường biên giới " đã thống nhất " (nghĩa là đã được hai bên thoả thuận) in màu tím, trên hình đen trắng, nó đậm hơn hai đường kia : đường biên giới chủ trương của Việt Nam (màu cam), đường biên giới chủ trương của Trung Quốc (màu xanh lá cây).
    3. Ngay trên bản chụp đen trắng, nhìn kĩ, có thể thấy đường biên giới thoả thuận có đoạn đi theo đường chủ trương của Việt Nam, có đoạn đi theo đường chủ trương của Trung Quốc, các đoạn ở giữa có tính chất thoả hiệp, nhân nhượng lẫn nhau (đại thể theo tỉ lệ 50-50).
    4. Riêng khu vực nhỏ nằm giữa đường bộ (km0) và đường sắt (chỗ nối ray), đường chủ trương của Việt Nam dường như theo đúng hướng trên Bản đồ II (hiệp đinh Pháp-Thanh), còn phía Trung Quốc đòi lấy điểm nối ray làm biên giới.
    (còn nữa)
    Nguyễn Ngọc Giao
    (1) Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, q.3, Phạm Vũ & Lê Hiền dịch và chú giải, Sài Gòn, 1973, trang 160-162 (3).
    (2) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí : tỉnh Lạng sơn. Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Huế, Nxb Thuận Hoá, 1997), trang 384-385 (3).
    (3) Theo Từ Mai, Một số sử liệu liên quan tới biên giới Việt-Hoa, bài phổ biến trên internet.
    (4) Ở đây chưa nói tới Công ước Gérard 1895 cũng nằm trong Hiệp định Pháp Thanh, liên quan tới các đoạn biên giới khác, đặc biệt từ Hà Giang đến Lai Châu (giáp giới tỉnh Vân Nam của Trung Quốc).
    (5) Docteur P. NEIS, Sur les frontières du Tonkin, tạp chí Le Tour du Monde, 1888, pp.321-416. Chứng từ này đã được Walter E. J. Trips dịch ra tiếng Anh : The Sino-Vietnamese Border Demarcation, 1885-1887 (Bangkok : White Lotus , 1998). Bản Anh ngữ này được Sông Hồng dịch ra tiếng Việt : Nhật ký trên biên giới Việt-Trung (1885-1887), Viettrade.net, 1999-2002 (POBox 59039, San José, CA 95159-0039).
  6. 9635741

    9635741 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/09/2005
    Bài viết:
    1.067
    Đã được thích:
    0
    -100m hay 500m có gì khác nhau mà ko ai trả lời mình thế nhỉ? chán (:| [​IMG] [​IMG]
  7. ngocthanh17

    ngocthanh17 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/07/2005
    Bài viết:
    50
    Đã được thích:
    0
    Trên link TRƯƠNG NHÂN TUẤN ở trên,có tất cả bài PHẢN BIỆN
    quan điểm " BỒI BÚT" của NGUYỄN NGỌC GIAO!!!
  8. ngocthanh17

    ngocthanh17 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/07/2005
    Bài viết:
    50
    Đã được thích:
    0
  9. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Bài này đúng ở đâu thì không rõ, nhưng đoạn trích trên thì không.
    1- Thứ nhất, Mục Nam Quan do TQ đặt, có nghĩa cửa quan nhìn
    về phương nam, có ý canh chừng dòm dỏ.
    2- Thứ hai, Hữu Nghị Quan cũng do TQ đặt, để nói lên thái độ
    mới của TQ, không còn thù địch nữa.
    3- Thứ ba, câu trích "đất nước ta chạy dài từ ải Nam Quan đến
    mũi Cà Mau" không đúng nguyên văn. Nguyên văn là "đất nước
    ta chạy dài từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau." Câu này trong
    sách Tập Đọc cấp I khi cửa quan chưa đổi tên.
    Tôi sống ngoài bắc những năm cửa quan giữ tên cũ, và sau khi
    nó đổi tên mới, và đã học cấp I, đọc câu văn trên. Lúc đó, tôi
    không cần nhớ rõ ngày tháng, tên người, và tên sách, nên không
    kể ra được. Tuy vậy, những điều tôi biết còn hơn 2 đoạn văn
    trích trên đây. Người viết 2 đoạn văn này có đáng tin không?
    Qua tranh luận cúa các bạn, tôi có ý nghĩ rằng, 1)Mục Nam Quan
    của TQ và Ải Nam Quan của VN là hai cửa quan khác nhau.
    Mục Nam Quan vẫn tồn tại trước và không đi đâu. Ải Nam Quan
    thì qua năm tháng đã dời đi và dựng lại nhiều lân. 2)Dù vậy, biên
    giới quãng quan ải này không dời đi xa lắm, và không rõ dời
    về phía nào. 3)Xưa nay, trên giấy tờ cũng như trong trí nhớ
    người, biên giới Việt Trung theo hiệp nghị Pháp - Thanh, đều
    không có đủ bằng chứng đáng tin cậy là rõ ràng và không thể
    thay đổi.
    Bạn nào còn khác ý về điểm nào tôi nêu trên?
  10. FPM

    FPM Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/09/2005
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    0
    Lại góp ý cùng Ông Nguyễn Ngọc Giao về vấn-đề biên-giới.
    Hay là nghiên-cứu các bản-đồ khu-vực Nam-Quan 249 C và thác Bản-Giốc 186 C
    Trương Nhân Tuấn

    Người viết bài nầy năm ngoái đã có lần góp ý với ông Nguyễn Ngọc Giao về vấn-đề biên-giới. Hôm nay lần nữa lại phải góp ý với ông cũng cùng một vấn đề nầy. Lần trước người viết có chỉ-trích rằng ông Giao đã thiếu nghiêm-chỉnh khi viết về một vấn-đề nghiêm-trọng của đất nước. Thiếu nghiêm-chỉnh vì ông Giao đã viết chỉ-trích người khác trong lúc chính ông cũng không thông-hiểu vấn-đề hơn họ. Thói thường, ít khi một người nào phạm cùng một lỗi-lầm đến hai lần. Ông Nguyễn Ngọc Giao vừa qua trên trang Web của ông và báo Diễn-Ðàn (số 128 và 129) có viết hai bài: ?oNam-Quan: ải, cửa ải và biên-giới? và bài ?oTừ Nam-Quan đến thác Bản-Giốc?. Qua hai bài viết nầy ông Giao lại phạm phải lỗi-lầm mà ông đã phạm.
    Ðáng lẽ với những tài-liệu, mà ông Giao cho là ?otài-liệu mật của đảng CSVN?, là ?obản-đồ khu-vực 249 C? (Nam-Quan) và ?obản-đồ 186 C (thác Bản-Giốc), ông Giao phải khai-thác chúng một cách đứng-đắn hơn để ?ochân-lý? không luôn luôn là nạn-nhân như ông đã viết trong bài của mình. Bởi vì chân-lý đã và đang bị chà-đạp thô-bỉ bởi đảng CSVN, những người đang lãnh-đạo đất nước. Không hiểu sao ông Giao lại a-tòng với những người lãnh-đạo độc-tài kia để bóp cổ ?ochân-lý?. Tuy-nhiên, chân-lý thường-xuyên bị chết rất tức-tưởi tại nước ta, cho nên lần nầy nếu nó có chết oan thì cũng không phải là ngoại-lệ để quan-trọng hóa vấn-đề. Nhưng ác-độc là ông Giao ?oqua nhiều nguồn tin đáng tin-cậy?, đã ?ohình-dung nguyên-thủy câu chuyện?, cho rằng những người lên tiếng về vấn-đề biên-giới thì có liên-quan đến các phe thuộc đảng CSVN (sic!). Ông Giao ?ohình-dung? như thế, thì người viết đây cũng như nhiều vị khác ở hải-ngoại, khi viết về biên-giới Việt-Trung, đều thuộc một trong các phe đang tranh-chấp quyền-lực trong đảng CSVN. LS Lê Chí Quang trong nước, đang gỡ 4 cuốn lịch vì dám lên tiếng ?oCảnh Giác Bắc Triều?, vì vậy cũng thuộc một nhóm của đảng nầy. Ông Bùi Minh Quốc lò-mò lên Nam-Quan để tìm hiểu sự thật liền bị quản-chế tại-gia, cũng thuộc đảng nầy luôn. Ông Trần-Khuê, ông Phạm Quế Dương v.v.. hiện đang bóc lịch trong lao, hay đang bị quản-chế ở một nơi nào đó, vì có quan-điểm về lãnh-thổ, họ cũng thuộc đảng CSVN đấy. Thưa ông Nguyễn Ngọc Giao, ông hình-dung vậy, thì ai sẽ ?ohình-dung? ra ông đang thuộc phe nào ? Ông cũng đang viết về vấn-đề biên-giới đấy!
    Hai tài-liệu ?omật?, một là tấm bản-đồ khu-vực Nam-Quan, có bí-số 249 C, hai là tấm bản-đồ khu-vực thác Bản-Giốc, có bí-số 186 C. Ông Giao gọi đây là ?ochụp từ tài-liệu mật của đảng CSVN?. Ông Giao có được những tài-liệu ?omật? nầy, chắc hẵn ông Giao phải có mối tương-quan thân-thiết với đảng CSVN, còn không, chỉ có... điệp-viên 007 mới có thể giúp ông chụp lén được những bức hình nầy. Ông Giao gọi những tài-liệu nầy là của đảng CSVN. Nhưng nhiều người đã có nhật-xét là các bản-đồ nầy nguyên-thủy của Tàu, và người viết có cùng nhận-xét nầy. Các chữ Việt ghi trên bản-đồ 249 C rõ-ràng là chữ viết thêm vào sau nầy bằng các thảo-chương tin-học. Các nét viết những ghi-chú bằng chữ Tàu và nét vẽ các chi-tiết đường-xá, núi-non có cùng chung một tính-chất nguyên-thủy. Ông Giao nghĩ sao khi người ta cũng có thể ?ohình-dung?, như ông Giao đã ?ohình-dung? mọi người, là ông đang ở phe Tàu ?

    Ông Giao viết rằng:
    « Một số bài báo Việt ngữ vừa qua thường vạch rõ sự khác biệt giữa tuyên bố của Thứ trưởng Lê Công Phụng và chứng từ của bác sĩ Paul Néis. Trong bài trả lời phỏng vấn của VASCOrient nói trên, ông Lê Công Phụng nói " chúng ta công nhận Mục Nam Quan là của Trung Quốc, cách cột mốc số 0 trên 200m. Tính cột mốc số 0 trở về phía Nam là lãnh thổ của Việt Nam. Từ cột mốc số 0 trở về phía Bắc là của Trung Quốc ". Còn bác sĩ Paul Néis lại nói năm 1886, đường biên giới đã được quy định " khoảng 150m " phía nam " Porte de Chine " (tức là cửa ải Nam Quan). Bác sĩ Néis là một bác sĩ quân y, tham gia phái đoàn Chaffray, đã chứng kiến cuộc đàm phán hoạch định biên giới Lạng Sơn - Quảng Tây .
    Câu nói của thứ trưởng Lê Công Phụng quả là thiếu chính xác : " trên 200m " là bao nhiêu ? Và so sánh với chứng từ đã công bố của bác sĩ Néis, như một số tác giả ở nước ngoài đã viết trong thời gian qua, thì lãnh thổ Việt Nam ở ải Nam Quan đã bị thụt lùi ít nhất 50m.
    Tuy nhiên, chứng từ của Néis không có giá trị pháp lí. Tài liệu có giá trị pháp lí là bản đồ biên giới mang chữ kí của đại diện chính quyền Pháp và chính quyền nhà Thanh. Tại Trung tâm Văn khố Hải ngoại của Pháp (CAOM, Aix en Provence), chúng tôi đã tìm ra hai bản đồ liên quan tới biên giới Việt Trung ở Nam Quan (phía tây và phía đông), nhưng đó chỉ là những bản sao. Cuối cùng, chúng tôi đã được phép xem và chụp bộ bản đồ chính thức còn lưu trữ tại Phòng bản đồ Bộ ngoại giao Pháp. Trên hai bản đồ (I và II) vẽ theo tỉ lệ 1/50000, đường biên giới cách cửa ải Nam Quan khoảng 1cm, nghĩa là khoảng 500m. »
    Ông Giao, viết như là khoe, là ông đã vào CAOM, Aix-en-Provence, thấy hai bản-đồ liên-quan đến Nam-Quan, nhưng vì là bản sao nên không sử-dụng. Ông phải đi vào bộ Ngoại-Giao Pháp tại Paris, cách Aix-En-Provence 900 cây-số, để tìm ra được hai bản đồ nguyên-bản, có chữ ký của các ủy-viên phụ-trách việc phân-định biên-giới, và chụp hình hai tấm bản-đồ nầy (từ nay sẽ gọi các tấm bản-đồ nầy là bản-đồ phân-định ?" carte de délimitation ?" 1887). Ông Giao quả có quan-niệm khác người về việc thẩm-định giá-trị của các hồ-sơ lịch-sử. Ðúng vậy, tại CAOM, một phần hồ-sơ mà các nghiên-cứu sinh nghiên-cứu tại đây là bản sao. Hồ-sơ về biên-giới Việt-Trung theo các Công-Ước 1887 và 1895 thì chứa trong 10 thùng cartons. Mỗi thùng tương-ứng cho 1 năm. Hồ-sơ biên-giới Vân-Nam, phân-giới năm 1897, thì được chứa vào một phần-mục khác. Các hồ-sơ nầy có bản chính lẫn bản sao. Người viết đã từng chụp hình các bản chánh bản-đồ phân-định 1887, có chữ ký của các vị phụ-trách phân-định biên-giới, như bản-đồ vùng Cao-Bằng, thác Bản-Giốc, cũng như hình các biên-bản cắm mốc vùng Nam-Quan, để gởi lên Net. Bản chính hay bản sao, hình-thức có tầm quan-trọng khác, nhưng nếu nội-dung của các bản nầy không khác gì nhau, thì giá-trị lịch-sử của các tài-liệu đó cũng như nhau. Phân-biệt và có tính « kỳ-thị » lạ-lùng như ông Giao, cho rằng các bản sao không có giá-trị, thì các tác-phẩm của các sử-gia, nhà báo, nhà nghiên-cứu... lấy dữ-kiện tại đây cũng không giá-trị. Các luận-án hậu đại-học được nghiên-cứu bằng hồ-sơ ở CAOM cũng không có giá-trị. Vì thế, các bằng Tiến-Sĩ hay Cao-Học, nói như ông Giao cũng không có giá-trị luôn ! Thật là một lối thẩm-định ngộ-nghĩnh !
    Ông Giao viết bài nghiên-cứu về biên-giới nhưng ông không đưa ra một văn-bản để xác-định vị-trí của một cột mốc nào, kể cả tại Nam-Quan, vùng mà ông đang nghiên-cứu. Bản-đồ phân-định 1887 của ông chụp được từ bộ Ngoại-Giao Pháp, không hề ghi-chú cột mốc biên-giới. Như vậy, lấy tiêu-chuẩn nào để xác-định một vùng đất thuộc nước nầy hay nước kia, ở đây là vùng Nam-Quan, nếu không có danh-sách vị-trí hay tọa-độ các cột mốc ? Ông cho rằng bản-đồ phân-định 1887 có tính pháp-lý. Không ai phản-bác việc nầy, nhưng đó chỉ là các bản-đồ tượng-trưng, cũng như tất-cả các bản-đồ phân-định 1887. Ông Giao đo trên bản-đồ nầy rồi cho rằng đường biên-giới cách cửa ải Nam-Quan là 500 thước. Ông Giao cũng cho rằng lời của bác-sĩ Néis thì không có giá-trị pháp-lý. Như vậy thì con số 500 thước của ông Giao đo trên bản đồ thì liệu nó có ?ogiá-trị pháp-lý? hay không ?
    Người viết bài nầy có thu-thập được một số tài-liệu về biên-giới Việt-Trung, công-bố trên Web site www.ifrance.com/truongnhantuan , mọi người có thể tham-khảo. Xin ghi lại một vài chi-tiết để thẩm-định tính chính-xác của bản-đồ mà ông Giao đã chụp từ bộ Ngoại-Giao Pháp. Trước tiên là tài-liệu ?oRapport de M. Dureau de Vaulcompte, député, fait au nom de la Commission parlementaire chargée d?Texaminer la convention du 26 Juin 1887 relative à la frontière?, Bản Tường-Trình của Dân-Biểu Dureau de Vaulcompte thực-hiện dưới danh-nghĩa của Ủy-Ban Quốc-Hội Kiểm-Soát Công-Ước 26 tháng 6 năm 1887 Liên-quan về Biên-Giới có kết-luận như sau: ?oEn somme, deux ans après signature du traité de paix, on avait tout juste reconnu 120 Kilomètres de frontière; tout le reste, plus de 1.000 kilomètres figurait sur des cartes fantaisistes. La Convention n?Tétait pratiquement qu?Tun chiffron de papier et tout reste à faire?. ?oTóm lại, hai năm sau ngày ký Hiệp-Ước Hòa-bình, người ta chỉ nhìn-nhận được có 120 cây-số biên-giới; phần còn lại, hơn 1.000 cây-số được vẽ trên những tấm bản-đồ không đúng. Công-Ước thực-tế chỉ là một mãnh giấy vụn và mọi việc vẫn còn nguyên?. Toàn-bộ các bản-đồ và các biên-bản phân-định 1887, tức là Công-Ước 1887, được ông Dân-Biểu nầy xem là ?omãnh giấy vụn?. 120 cây-số đường biên-giới được đề-cập trong đoạn văn là vùng Nam-Quan. Nhưng dầu vậy, so với thực-tế thì nó không hoàn-toàn đúng. Nó cũng không khác chi nhiều những tấm bản-đồ vẽ các vùng khác.
    Việc cắm mốc tại vùng biên-giới Quảng-Ðông-và Quảng-Tây sau nầy cho ta thấy điều đó. Bắt đầu từ tháng giêng năm 1889 cho đến 14 tháng 6 năm 1894, việc phân-giới và cắm mốc vùng Lưỡng-Quảng đã trải qua các vị chủ-tịch ủy-ban là quí Ông Frandin, Servière, Labastide và Galliéni. Trong phần biên-giới Quảng-Ðông và Quảng-Tây, các bản tường-trình của ông Chiniac de Labastide, cũng như các biên-bản phân-giới và cắm mốc, đã ghi lại tường-tận diễn-tiến công việc. Bản đồ Phân-Ðịnh 1887 từ sông Gia-Long (Ka-Long Hà) cho đến ải Bắc-Cương thì sai hoàn-toàn, không có gì phù-hợp với thực-tế. Ông Chiniac de Labastide yêu-cầu phân-định lại (tức yêu-cầu ký lại công-ước) vì bản-đồ xem qua thì có lợi cho Việt-Nam, nhưng trên thực-tế thì hoàn-toàn ngược lại và nội-dung công-ước vùng nầy lại không rõ ràng. Vùng biên-giới Vân-Nam, phía hữu-ngạn sông Hồng, đã phải phân-định lại và ta gọi đó là Công-Ước 1895. Các bài tường-trình của Ðại-Tá Pennequin, Ðại-Tá Galliéni, De Labastide, Frandin, Servière... nguyên chủ-tịch Ủy-Ban Pháp phụ-trách phân-giới, các bản báo-cáo, các nhật-ký, thư từ... của các viên sĩ-quan phụ trách cắm mốc, các biên-bản cắm mốc... cho phép ta kết-luận, như ông Dân-Biểu Dureau de Vaulcompte đã kết-luận, là các bản-đồ phân-định 1887 đều không có giá-trị hữu-dụng nào. Mọi người có thể đọc các tài-liệu nầy trên web site ghi trên. Các cột mốc được cắm sau nầy không theo bản-đồ mà chỉ theo nội-dung của các công-ước (tức các biên-bản) mà không hề dựa lên bản-đồ. Vùng Nam-Quan cũng thế. Ðọc lại bản tường-trình về công-trình phân-giới của ông Galliéni, chúng ta thấy là việc cắm mốc tại Quảng-Tây khó-khăn tới mức nào. Khi cắm mốc, người ta không biết đường biên-giới vùng Nam-Quan phải đi qua chỗ nào. Riêng vị-trí cột mốc tại Nam-Quan, không tìm thấy một biên-bản nào ghi lại, các vị trách-nhiệm cắm mốc phải đọc lại loạt bài viết của Dr Néis đăng trong ?oLe Tour du Monde? để biết đại-khái là đường biên-giới tại đây là con suối nhỏ, chảy dưới đồi, cách cổng khoảng 150 thước. Nhưng lời kể của Dr Néis cũng không có gì chắc-chắn. Bởi vì người ta không tìm thấy dưới chân đồi, cách cổng Nam-Quan 150 m, một dòng suối nào. Xin ghi lại lá thư của tướng Berguis Desbords, viết ngày 4 tháng 3 năm 1889: ?o... De ce travail (abornement de la frontière), il résulte que la partie de la frontière attenant à la porte de Nam-Quan serait mal tracée sur la carte au 1/100.000 de la région de Lang-Son et de That-Khe, ci joint. D?Taprès l?Tancien chef du canton de Dong-Dang nommé Hoang Mai Trinh, la frontière, au lieu de se diriger de Nam-Quan droit à l?Touest, devait avoir une dirrection Sud, jusqu?Tà un kilomètre de Dong-Dang, puis, prusquement, remonter de ce point au Nord sur la porte de Ki-Lech. Le village de Lang-Nien appartiendrait ainsi à la Chine.
    D?Taprès le Docteur Néis, ?ola frontière devrait suivre le ruisseau qui passe à 150 mètres environ de la porte de Chine?. Je suppose qu?Til s?Tagit toujour de la porte de Nam-Quan, à l?TEst et à l?TOuest de la quelle la carte de la région au 1/100.000 accuse, en effet des cours d?Teau, tandis qu?Til n?Ten existe pas aux portes de Ki-Da et de Ki-Lech. Mais ce ruisseau passe à Dong-Dang, et je ne vois pas, en suivant cette carte, comment il pourrait servir de limite...?. Tạm dịch: ?oTừ việc phân-giới cho thấy phần biên-giới thuộc vùng Nam-Quan có thể vẽ không đúng trên bản-đồ 1/100.000 của vùng Lạng-Sơn và Thất-Khê kèm theo đây. Theo vị cựu tri-huyện Ðồng-Ðăng, tên Hoang Mai Trinh, thì đường biên-giới, thay vì đi thẳng từ Nam-Quan sang hướng Tây, thì phải đi về hướng Nam, cho đến khi cách Ðồng-Ðăng chừng 1 cây-số thì đi ngược lên lại phía Bắc tại cửa ải Ki-Lech (?). Làng có tên Lang-Nien vì thế có thể thuộc về Tàu.
    Theo ông Bác-Sĩ Néis, ?ođường biên-giới phải theo con suối cách cổng Tàu khoảng 150 thước.? Tôi giả-sử cổng nầy là cổng Nam-Quan, phía Ðông và phía Tây cổng nầy, trên bản-đồ 1/100.000 thì cho thấy có sông suối, nhưng tại các cửa Ki-Da và Ki-Lech, theo bản-đồ, thì không có. Nhưng con suối đó chảy qua Ðồng-Ðăng, tôi không hiểu được, theo bản-đồ nầy, thì làm sao mà con suối đó có thể dùng để làm biên-giới...?
    Lời nói của Bác-Sĩ Néis vì thế cũng bị đặt thành vấn-đề. Có thể ông nầy đã lẫn-lộn tên Nam-Quan với tên một cửa ải khác. Bởi vì , ?oPorte de Chine?, tức Cổng Tàu, thì trên biên-giới Việt-Trung, các điểm thông-thương là cửa Quan, cửa Ải hay cửa Khóa ... đều được người Pháp gọi là Porte de Chine!
    Qua những hồ-sơ ghi-nhận được (đã đăng trên Web Site ghi trên), ta thấy việc phân-định biên-giới 1886-1887, do các ông St Chaffray và sau đó là ông Dillon, đã có rất nhiều sai lầm. Những sai lầm nầy đã tạo ra những khó-khăn cho những người phụ-trách phân-giới và cắm mốc (abornement) rất nhiều. Các ủy-ban phân-giới sau nầy chỉ dựa lên nội-dung các biên-bản và hoàn-toàn không dựa lên bản-đồ.
    Như thế, phần quan-trọng nhất và có tính pháp-lý thật-sự là những biên-bản ghi lại vị-trí hay tọa-độ các cột mốc trên đường biên-giới và những bản-đồ phân-giới kèm theo các biên-bản đó. Dựa lên các tài-liệu nầy, sở Ðịa-Dư Ðông-Dương mới vẽ lại các bộ bản đồ 1/100.000 và 1/50.000 sau nầy.

Chia sẻ trang này