1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hình Ảnh Lịch sử về Ải Nam Quan - có bàn tới Thác Bản Giốc

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi thanhnam6, 17/09/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. starboard_side

    starboard_side Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/05/2003
    Bài viết:
    463
    Đã được thích:
    0
    Ông Tây Dăng Giây Thép Họa Địa Đồ Nước Nam
    Hành động của Tướng de Négrier đánh sập Ải Nam Quan năm 1885 để dằn mặt Trung Quốc như Madrolle kể, gợi lại một thời đen tối tủi nhục mà cũng hào hùng của lịch sử Việt Nam. Pháp chiếm trọn Miền Bắc, quay vào tiến đánh kinh thành Huế, và hoàn thành nền đô hộ Việt Nam. Phong trào Văn Thân ?" Cần Vương nổi lên khắp nơi kéo dài trong ngót 20 năm khởi từ quyết định của vua Hàm Nghi rời bỏ đế đô lên rừng kháng chiến cho đến khi Phan đình Phùng, Hoàng hoa Thám hy sinh. ***g trong phong trào này là phong trào Bình Tây Sát Tả vì sĩ phu toàn quốc và phần đông người đương thời cho rằng "Tây là đạo", "đạo là Tây"(28)."
    Hồi nhỏ Hoàng tôi thường nghe Bà Nội hát ru:
    Kể từ ngày thất thủ kinh đô
    Ông Tây qua dăng dây thép họa địa đồ nước Nam.

    Như vậy, không có "ông Tây" thì cũng không có bản đồ nước Nam - ít nữa cũng như bản đồ mà Hoàng tôi thấy trong sách của Madrolle hay Gourdon(29)? Kinh đô thất thủ năm 1885. Năm 1885 có thể coi là cột mốc thời gian từ đó cái gọi là bản đồ Việt Nam và lãnh thổ-lãnh hải Việt-Hoa được chính thức thành hình. Công chiếm đất của Trung Quốc cho Việt Nam hay tội nhường đất Việt Nam cho Trung Quốc đều một tay do Pháp. Phải chăng cũng vì vậy mà khi nói đến chuyện ranh giới Việt-Hoa trên đất liền hay trên mặt biển thì luôn luôn phải bắt đầu bằng những thỏa hiệp giữa Pháp với nhà Thanh?
    Trong giai đoạn Pháp thiết lập nền đô hộ trên đất Việt Nam, cụ thể là giai đoạn xâm chiếm và bình định Miền Bắc, cả Pháp và Trung Quốc đều lo ngại về vấn đề biên giới. Bởi vì "Bắc Kinh thì đinh ninh rằng Pháp sẽ mở cuộc tấn công trực tiếp vào lãnh thổ của mình, có thể là vào Thiên Tân... Vì vậy nỗi lo lắng giờ đây của chính phủ Trung quốc không còn là vấn đề Bắc Kỳ nữa, mà là vấn đề quốc phòng của chính mình(30)." Trong khi người Pháp lại không muốn để cho Trung Quốc lợi dụng vấn đề biên giới để can thiệp vào Việt Nam. Cũng vì những lo sợ ngấm ngầm đó nên cả hai đều nghiêm túc đàm phán về biên giới trên căn bản Pháp không xâm phạm chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của Trung Quốc và Trung Quốc thì từ bỏ quyền bảo hộ Việt Nam và công nhận một vùng trung lập trái độn.
    Trong khi thương lượng với Trung Quốc, nếu Pháp không chịu thiệt một tấc đất của Việt Nam hoặc lấn thêm đất thêm biển của Trung Quốc, thì cũng chỉ vì Pháp nghĩ rằng Việt Nam đã là một thứ Pháp quốc hải ngoại của chính quốc rồi(31). Mặt khác, vùng trung lập trái độn Pháp âm mưu thiết lập không chỉ dọc biên giới Việt-Hoa mà chính là một vùng rộng lớn xuống tận Campuchia bao gồm các tỉnh biên giới từ Mong Cáy-Quảng Ninh phía Đông sang Lai Châu phía Tây, và từ Sơn La xuống đến tận Đắc Lắc-Đà Lạt. Vùng trái độn nầy sẽ là nước Việt Nam thứ tư - sau Bắc Kỳ quốc Tonkin, Trung Kỳ quốc Annam và Nam Kỳ quốc Cochinchine - mà Pháp dự định thành lập dưới cái tên Hoàng Triều Cương Thổ, với dân số chủ lực là người Tày-Nùng và người Thượng. Phong trào FULRO được thai nghén từ đó. Đến bây giờ, mưu định đó vẫn chưa hẳn đã chết trong đầu óc ngoại bang.
    Tình Nghĩa Việt-Hoa
    Năm 1876, Rheinart Đặc sứ Pháp bên cạnh triều đình Tự Đức gởi cho Thống Đốc Nam Kỳ Thomson một phúc trình trong đó có đoạn: "Triều đình Huế chắc cũng hối hận bị nội thuộc nước Tàu, nhưng tôi chắc rằng họ muốn trở thành một tỉnh của nước Tàu còn hơn là nhận ta bảo hộ... Người Tàu là chú hoặc anh, chúng ta là mọi rợ. Chế độ Tàu sẽ thay đổi rất ít đến tập tục của các quan, còn phụ thuộc là một điều nhục nhã còn khó chịu hơn là tự tử(32)." Nhận định của Rheinart có lẽ chỉ đúng một phần, đó là mất tự chủ tự quyết là "điều nhục nhã còn khó chịu hơn là tự tử". Và đối với những người Việt có ý thức và ý chí tự chủ tự quyết thì Pháp hay Trung Quốc, Nga hay Mỹ, hay bất cứ nước nào khác đều như nhau thôi.
    Vào giai đoạn chót của Đệ Nhị Thế Chiến, Nhật chính thức mở mặt trận Thái Bình Dương và lấn chiếm Đông Dương. Vì Pháp không tự vệ được mà cũng không bảo vệ được cho Việt Nam nên chế độ bảo hộ mặc nhiên kết thúc. Pháp không chấp nhận thực tế lịch sử đó nên khi Nhật đầu hàng, chiến tranh kết thúc thì Pháp lại mon men trở lại Việt Nam. Năm 1949, trong lúc Pháp đang lủng ca lủng củng tái lập chế độ thực dân và ********* đang vất vả cầm cự bằng du kích chiến thì ở Hoa lục, cuộc vạn lý trường chinh của Mao trạch Đông hoàn thành. Quả thực, Trung Quốc có thể lợi dụng tình thế để rửa cái nhục biên giới cũ bằng cách tràn qua biên giới, buộc Pháp phải xóa bỏ tất cả những điều ước bất công ngày trước. Trung Quốc đã không làm hay chỉ làm nửa chừng đó là "dùng người Việt để chống Pháp" bằng cách thừa nhận ngoại giao ********* và giúp cho ********* đủ sức chống Pháp.
    Cái Giá Của Viện Trợ
    Tưởng giới Thạch chạy ra Đài Loan. Số vũ khí mà bại quân của Tưởng vứt lại giúp trang bị đầy đủ cho *********. Sư Đoàn 308 hay đại đoàn chủ lực đầu tiên được thành lập và ********* bước từ giai đoạn cầm cự chiến lược sang giai đoạn chuẩn bị tổng phản công. Cuối tháng 12.1950, ********* mở đầu Chiến Dịch Trần hưng Đạo, tràn xuống trung du hay đồng bằng Bắc Bộ khởi sự tổng phản công(33) và kết thúc cuộc chiến ở Điện Biên Phủ năm 1954.
    Điều bi hài lịch sử là kể từ khi Pháp đô hộ Việt Nam, triều đình Trung Quốc ba lần đổi chủ với nhà Thanh, Trung Quốc Dân Quốc và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, nhưng chủ trương của Trung Quốc dùng Việt Nam như một trái độn thì vẫn không thay đổi - trước là với Pháp và sau với Mỹ. Vì chủ trương chiến lược đó nên khi cần, Trung Quốc chỉ giúp Việt Nam đủ sức cầm cự chiến đấu chứ không đủ sức chiến thắng. Trung Quốc cũng thừa biết vì thế kẹt "sanh dựa thần, thần dựa cây đa", Việt Nam phải cam phận làm đòn kê trái độn. Cái giá của viện trợ này đã được chính Bộ Ngoại Giao Việt Nam CHXHCNVN xác nhận trong bạch thư nhan đề Sự Thật Về Quan Hệ Việt Nam - Trung Quốc Trong 30 Năm Qua, phổ biến hồi tháng 10.1979(34).
    Bằng chứng về chủ trương dùng viện trợ để làm áp lực đó đã lộ rõ trong hội nghị Genève 1954. Trong hội nghị này, "lập trường của Việt Nam là đi tới một giải pháp hoàn chỉnh: đình chỉ chiến sự trên toàn bán đảo Đông Dương đi đôi với một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia..." thì Trung Quốc lại chỉ muốn "một giải pháp theo kiểu Triều Tiên, nghĩa là đình chỉ chiến sự mà không có giải pháp chính trị." Nói thế khác, Trung Quốc chủ trương chia cắt Việt Nam, duy trì chế độ bảo hộ của Pháp ở Miền Nam với thâm ý dùng Pháp ngăn Mỹ nhảy vào Việt Nam, và giữ Miền Nam như một trái độn chặn Mỹ xâm nhập và hăm dọa Trung Quốc từ phía Nam(35).
    Đối với cả ********* và Trung Quốc, nếu Điện Biên Phủ là một toàn thắng quân sự thì Hội nghị Genève chỉ là một chiến thắng chính trị nửa vời. ********* chỉ chiếm được nửa Việt Nam và trở thành Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Pháp đã bị Mỹ hất cẳng chứ không bám trụ ở Miền Nam như Trung Quốc mong ước. Sau này, khi bị Trung Quốc thúc ép phải nhượng bộ Mỹ, Miền Bắc nói thẳng là sẽ không nghe Trung Quốc nữa vì Trung Quốc đã sai lầm trong hội nghị Genève năm 1954(36).
    Khi Miền Nam biến thành nước Việt Nam Cộng Hòa như Miền Bắc và Mỹ thực sự thế chân Pháp, lo ngại vì Miền Bắc mà mình có thể trực tiếp đụng đầu với Mỹ nên Trung Quốc cố thuyết phục Miền Bắc đừng quấy động ở Miền Nam và duy trì nguyên trạng hai chế độ. Bằng chứng là năm 1964, vụ Vịnh Bắc Việt xảy ra thì Trung Quốc một mặt cho Mỹ biết "anh không đánh tôi thì tôi không đánh anh" và mặt khác chỉ viện trợ cho Việt Nam vũ khí nhẹ, đạn dược và trang bị hậu cần đủ để bảo trì một cái bẫy cho Mỹ sa vào(37). Cũng vì tránh đụng độ trực tiếp với Mỹ như thế nên Trung Quốc đã làm lơ một hiệp định quân sự bí mật giữa Việt-Hoa theo đó đến tháng 6.1965, Trung Quốc sẽ gửi phi công sang giúp(38).
    Trung Quốc không muốn cho Miền Bắc thắng mà cũng không muốn chiến tranh sớm kết thúc. Sau Tết Mậu Thân 1968, Mỹ và Hà Nội đồng ý thương thuyết thì Trung Quốc lại chống lấy lý do nhận thương thuyết là "nhân nhượng một cách vội vã". Đây là điều mà Tướng Taylor gọi là âm mưu của Trung Quốc đánh Mỹ đến người Việt cuối cùng. Đến khi không ngăn cản được Miền Bắc ngồi vào bàn hội nghị với Mỹ thì Trung Quốc làm áp lực bằng cách cắt viện trợ, cụ thể là giảm kim ngạch viện trợ năm 1970 hơn 50% so với năm 1968(39).
    Trung Quốc cũng lợi dụng tình hình Việt Nam để cải thiện bang giao với Mỹ trên căn bản trao đổi: Trung Quốc giúp Mỹ giải quyết vấn đề Việt Nam thì Mỹ sẽ giải quyết vấn đề Đài Loan cho Trung Quốc. Để gia tăng áp lực với Miền Bắc, Trung Quốc lại dùng viện trợ. Năm 1971, 1972 Trung Quốc đã dành cho Miền Bắc viện trợ cao nhất so với những năm trước(40) để cố thuyết phục Miền Bắc chấp nhận đề nghị 4 điểm của Mỹ: - rút quân và thả tù binh trong vòng 12 tháng, - ngưng bắn kiểu Genève 1954, - nhận cho Mỹ để lại một số cố vấn kỹ thuật và - duy trì Nguyễn Văn Thiệu(41). Miền Bắc không chịu. Nixon đến Bắc Kinh tháng 3.1972 và cụ thể hóa những cam kết Hoa-Mỹ bằng Thông cáo Thượng Hải. Hai chỗ dựa chính của Miền Bắc là Trung Quốc và Nga Sô. "Đả thông" với Trung Quốc rồi thì Mỹ chỉ còn "thông cảm" với Moscow là tha hồ nghiền nát Việt Nam"(42). Nixon và Kissinger lại lục tục đi Nga vào tháng 5. Liên minh Hoa-Mỹ thất bại trong việc ngăn Miền Bắc tiến công Miền Nam thống nhất đất nước năm 1975, nhưng quả thật đã phần nào giúp Mỹ rảnh tay thúc ép Nga đến chỗ phải giải thể chế độ Sô Viết và giải tỏa gọng kềm khống chế Đông Âu năm 1989 vậy.
    Được sự mặc nhiên đồng thuận với Trung Quốc rồi, Nixon phát động chiến dịch "già đòn non nhẽ" thả mìn phong tỏa các hải cảng Miền Bắc, ồ ạt tấn công hai miền Nam Bắc(43) hầu như suốt cả năm 1972 mà vẫn không ép được Miền Bắc phải nhượng bộ thêm điều gì thiết thực trong khi Nixon đang bị Quốc Hội còng tay vì vụ Watergate. Nixon phải gánh trên vai hai thất bại Watergate và Đông Dương. Ngày 27.1.1973 Hiệp định Paris được hai phe bốn phía ký kết với những điều cam kết: Mỹ rút quân, trao trả tù binh, Miền Nam có hai vùng, hai chính quyền, hai quân đội và ba lực lượng chính trị, các lực lượng này sẽ thành lập một chính phủ liên hiệp ba thành phần.
    Tháng 6.1973, tức nửa năm sau Hiệp định Paris, trong khi một mặt Mao trạch Đông khuyên các nhà lãnh đạo Miền Bắc nên ngưng nghỉ một thời gian "nửa năm, một năm, một năm rưỡi, hai năm" càng tốt ở Miền Nam và Chu Ân Lai lại nhấn mạnh thêm là thời gian nghỉ ngơi đó chưa thể dứt khoát là 5 hay 10 năm để thực hiện "hòa bình, trung lập"(44) thì mặt khác Trung Quốc cũng khuyên Mỹ là "đừng thua ở Việt Nam và đừng rút lui khỏi Đông Nam Á" như lời tiết lộ của A. Haig với tờ Christian Science Monitor ngày 20.6.1979(45). Để tăng mức độ thuyết phục Miền Bắc, Trung Quốc hứa duy trì mức viện trợ của năm 1973 cho 5 năm tới, nhưng "sự thật là họ đã ngừng hoàn toàn viện trợ về quân sự, còn về viện trợ kinh tế họ nhận chủ yếu phục hồi các cơ sở do Trung Quốc giúp trước đây và đã bị Mỹ đánh phá, nhưng họ kéo dài việc thực hiện, có nơi không thực hiện(46). Đây cũng chính là thời gian Trung Quốc bất thần ra tay chiếm Hoàng Sa.
  2. starboard_side

    starboard_side Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/05/2003
    Bài viết:
    463
    Đã được thích:
    0
    Hoàng Sa Và Bài Học Của Đặng tiểu Bình
    Năm 1958, ban chấp hành trung ương của hai Đảng đồng ý tôn trọng ranh giới do Pháp và nhà Thanh đã thỏa thuận trong thế kỷ trước(47). Ngày 26.12.1973 Hà Nội đề nghị Bắc Kinh nói chuyện về hải phận trong Vịnh Bắc Bộ. Gần một tháng sau, ngày 18.1.1974 Bắc Kinh mới thông báo chấp nhận đề nghị đó. Nhưng ngay ngày hôm sau - ngày 19.1.1974 - Trung Quốc bất thần tung hải và không quân đánh chiếm Hoàng Sa với sự đồng thuận của Mỹ. Bằng chứng là Mỹ không những làm ngơ lời cầu viện của Sài Gòn mà còn ra lệnh cho Hạm Đội 7 tránh xa vùng Hoàng Sa Trường Sa cho Trung Quốc rộng đường hành động. Từ tháng 8 đến tháng 11.1974, Hà Nội lại cố tái tục các cuộc thương thuyết về biên giới trên bộ và dưới biển nhưng chẳng đi đến đâu. Sau khi chiến tranh chấm dứt, đến tháng 10.1977, Việt Nam lại cố gắng nữa(48). Nhưng vấn đề trở thành trầm trọng hết thuốc chữa vì lần này Trung Quốc không những không muốn thương thuyết mà còn muốn lấy chuyện biên giới làm cái cớ để "dạy" cho Việt Nam một vài bài học về cái tội... cứng đầu.
    Lịch sử có những điều lặp lại trớ trêu. Sau 1945, nhân loại bắt đầu hưởng hòa bình thì Việt Nam phải bắt đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau 1975, chiến tranh Việt-Mỹ kết thúc thì xung đột Việt-Hoa bắt đầu. Có thể nói, việc Việt Nam ký hiệp ước an ninh Việt-Nga và gia nhập khối COMECON, cũng như chiến dịch cải tạo công thương nghiệp hay đánh tư sản mại bản và chương trình Xuất Ngoại Bán Chính Thức ở Miền Nam và phong trào hồi hương Hoa Kiều ở Miền Bắc là những giọt nước làm cho ly nước xung khắc Hoa-Việt đầy tràn. Điều đáng nói là điểm nóng của cuộc xung đột này không phải chỉ biên giới Việt-Hoa, mà cả biên giới Việt-Miên.
    Vì đã ngoéo tay với Trung Quốc để thực hiện chiến dịch "dương Tây kích Bắc" nên Pol Pot không những chối từ đề nghị hai bên Miên-Việt ký một hiệp ước bất tương xâm và lập khu phi quân sự giữa hai nước, mà còn tập trung 19 sư đoàn bộ binh cơ hữu dọc biên giới Việt-Miên chuẩn bị gây hấn(49). Ngày 22.12.1978, Pol Pot phát động chiến dịch Cáp-duồng mới đánh vào Bến Sỏi với ý định chiếm Tây Ninh mở đường tiến về Sài Gòn. Việt Nam chỉ còn một đường phải giải quyết gấp vấn đề Campuchia để còn ứng phó với tình hình nóng bỏng ở biên giới Việt-Hoa. Ngày 10.1.1979, Việt Nam tiến quân vào Nam Vang và chế độ Pol Pot cáo chung.
    Để chuẩn bị dạy cho Việt Nam một bài học về tội cứng đầu, ngày 17.2.1979 Đặng tiểu Bình đã "huy động 60 vạn quân, gồm nhiều quân đoàn và nhiều sư đoàn độc lập, nhiều đơn vị binh chủng kỹ thuật với gần 800 xe tăng và xe bọc thép, hàng ngàn khẩu pháo, hàng trăm máy bay các loại"(50) để phát động tấn công trên một mặt trận dài 1.000km(51). Bài học Đặng tiểu Bình nhắm bốn mục tiêu rõ rệt: triệt hạ một phần quân lực, phá hoại tiềm lực kinh tế và quốc phòng của Việt Nam, lấn chiếm đất đai và kích động bạo loạn(52). Cuộc chiến biên giới chấm dứt sau hơn nửa tháng. Ngày 5.3.1979, Trung Quốc tuyên bố đơn phương ngưng bắn, rút quân và chấp nhận đàm phán.
    Hiểm Họa Biên Giới
    Trong một liên hệ cơm không lành canh không ngọt giữa hai nước, biên giới là mối họa chính. Nước lớn bao giờ cũng khai thác điểm này để gây hấn với luận điệu đối phương quấy phá chiếm đất nên gia chủ phải ra tay tự vệ dành lại. Nhưng biên giới của Trung Quốc với Việt Nam xuống tận đâu?
    Quyển Sơ Lược Lịch Sử Trung Quốc Hiện Đại, xuất bản ở Bắc Kinh năm 1954 cho rằng vùng Đông Nam Á - cụ thể là Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan là những vùng đất của Trung Quốc bị nước ngoài chiếm mất. Thực tình, với quan niệm biên giới đó, Trung Quốc muốn phát động chiến tranh đòi lại đất đai bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào ở Đông Nam Á mà chẳng được. Thế nên, trước khi bùng nổ cuộc chiến Việt-Hoa ngày 17.2.1979, Trung Quốc đã "đưa thêm quân ra vùng biên giới Việt-Hoa, tăng cường những vụ khiêu khích vũ trang chiếm lãnh thổ Việt Nam... tạo nên tình hình thường xuyên căng thẳng... (cho nên) nếu vụ khiêu khích lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam của Trung Quốc năm 1975 là 234 vụ, gấp rưỡi năm 1974, thì năm 1978 tăng vọt lên 2.175 vụ, gấp mười lần(53). Nhưng mối nguy không phải chỉ ở đó thôi. Vì cũng theo lời than thở của Bộ Ngoại Giao Việt Nam thì cuộc chiến biên giới chính thức chấm dứt ngày 5.3.1979, nhưng mãi cho đến tháng 10.1979 - nghĩa là bảy tháng sau ngày ngưng chiến rút quân, Trung Quốc vẫn "tiếp tục chiếm đóng hơn mười điểm trên lãnh thổ Việt Nam, xây dựng thêm công sự ở các nơi đó, vi phạm trắng trợn đường biên giới do lịch sử để lại mà cả hai bên đã thỏa thuận tôn trọng. Suốt dọc biên giới Việt-Hoa, họ tiếp tục bố trí nhiều quân đoàn có pháo binh và thiết giáp yểm trợ, tăng cường các phương tiện chiến tranh, ra sức xây dựng các công trình quân sự, thường xuyên diễn tập quân sự, tung các đội thám báo, biệt kích xâm nhập nhiều khu vực của Việt Nam. Không ngày nào họ không gây những vụ khiêu khích vũ trang, nổ súng, gài mìn, bắn giết nhân dân địa phương. Có nơi họ cho bắn súng cối hạng nặng suốt ngày, có nơi họ cho một tiểu đoàn quân chính quy tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam hơn 4km, bắn giết dân thường, đốt phá nhà cửa và phá hoại hoa màu. Có nơi từng tốp máy bay Trung Quốc bay sâu vào vùng trời Việt Nam từ 8 đến 10km... nhiều lần đe dọa "cho Việt Nam một bài học thứ hai", thậm chí "nhiều bài học nữa"(54).
    Dọc ranh giới đất liền đã thế, còn lãnh hải thì sao? Tài liệu chính thức là quyển Bản Đồ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa do Bắc Kinh ấn hành năm 1973, xác định lãnh hải của Trung Quốc ở phía Nam chạy dọc bờ biển Việt Nam, vùng Bắc Calimantan của Mã Lai, và Phi Luật Tân(55). Việt Nam không thể không biết rằng vì quan điểm lãnh hải đó mà "Trung Quốc thường nhắc đến "chủ quyền" của họ đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đầu năm 1974, với sự đồng tình của Mỹ, họ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, bộ phận lãnh thổ của Việt Nam, để từng bước kiểm soát biển Đông, khống chế Việt Nam và toàn bộ Đông Nam Á, đồng thời khai thác tài nguyên phong phú ở vùng biển Đông(56)."
    Những điều vừa kể chứng tỏ cho đến bây giờ giữa Việt Nam và Trung Quốc chỉ có những đường biên giới do lịch sử để lại mà cả hai bên đã thỏa thuận tôn trọng", nghĩa là những quy định về ranh giới giữa nhà Thanh và Pháp như Bộ Ngoại giao Việt Nam nói(57). Những đường biên giới đó cả Trung Quốc và Việt Nam hôm nay đều có thể phớt lờ nếu thấy có lợi cho mình. Cho nên, Việt Nam thực sự cần có một ranh giới Việt-Hoa rạch ròi trên đất liền cũng như trên biển cả để chính thức thay thế "đường biên giới do lịch sử để lại" đó. Đạt đến những hiệp định về một đường biên giới mới trên bộ cũng như trên biển giữa hai quốc gia có chủ quyền, giữa hai chính quyền có tự quyết - chứ không phải như quan hệ Pháp-Hoa hồi cuối thế kỷ 19 - là điều cốt tử cho Việt Nam. Muốn đạt đến điều đó, Việt Nam không thể "cả vú lấp miệng em" như thực dân Pháp mà cũng không thể "nhũn như con chi chi" như triều đình nhà Thanh ngày trước. Nếu đã lấy lại đất nước từ tay Pháp Mỹ được, đã giữ được đất nước trong trận chiến biên giới Miên-Việt và Hoa-Việt được, thì đương nhiên cũng phải cố giữ và giữ được đất nước trên bàn hội nghị về biên giới.
    Cho đến bây giờ Việt Nam chỉ mới đạt được thỏa thuận với Trung Quốc về biên giới trên bộ bằng cách chia đôi 227km2 đang tranh chấp tại 164 điểm trải dài trên khoảng 400km biên giới, theo tỷ lệ VN: 113km2 và TQ: 114km2. Điều này được hai bên thỏa thuận ngày 30.12.1999 như chính quyền Việt Nam xác nhận(58).
    Vấn đề lãnh hải thì vẫn còn lòng thòng. Hoàng tôi đã lầm khi trộm nghĩ vấn đề lãnh hải có thể được giải quyết trong chuyến viếng thăm Việt Nam của Chủ Tịch Giang trạch Dân hồi cuối tháng 2. 2002. Sau khi Chủ Tịch Giang trạch Dân ra về hơn tháng rưỡi thì Ngoại Trưởng Nguyễn di Niên cho Quốc Hội biết là vấn đề vẫn chưa xong. Chủ Tịch Giang trạch Dân phải ra về tay không như vậy cũng là một điều vừa bối rối vừa gay cấn cho cả Trung Quốc và Việt Nam. Và phải chăng vì gay go như vậy nên chính quyền Việt Nam mới cần đến một thứ tinh thần Diên Hồng mặc nhiên của dân chúng cả trong nước lẫn ngoài nước? Ngay cả số người chẳng thích gì Nhà Nước Việt Nam vì một lý do nào đó.
    Thật vậy, chưa có một vấn đề nào đã vận dụng được thế nhất trí của người Việt bằng vấn đề bảo vệ lãnh thổ. Đề tài bảo vệ lãnh thổ là một quang phổ biểu hiện mọi màu sắc chính trị. Từ những cây viết nghiêm túc kẹt nhưng vẫn cố lách như Nguyễn ngọc Bích, Ngô nhân Dụng, Phạm xuân Đài, Trần bình Nam đến những chính khách lẩm cẩm ham nói như Nguyễn chí Thiện hay Tôn thất Thiện, Lâm lễ Trinh và công ty "Phù Chí sĩ". Từ những bậc chân tu thượng thủ chuyện chuông mõ nhưng lơ là chuyện thế trị để cho sư tử trùng và những kẻ nằm vùng mượn tên mượn báo của mình làm chuyện mượn Sư cúng... Đấng Tạo Hóa, đến những người từng chủ trương chia cắt đất nước vĩnh viễn, từng hô hào Mỹ oanh tạc Miền Bắc, từng to tiếng phản đối Mỹ ngưng oanh tạc. Từ những kẻ từng vổ tay hoan hô Mỹ siết chặt cấm vận đến những người từng vui mừng hồi hộp chuẩn bị chờ "đất nước sạch bóng quân thù" để trở về khi trận chiến biên giới Hoa-Việt bùng nổ. Từ những kẻ không còn muốn biết mình cắt rốn chôn nhau ở đâu đến những người từng hân hoan reo hò "Đó! thấy chưa!..." mỗi khi nghe tin thiên tai nhân họa giáng xuống trên đầu trên cổ đồng bào mình trong nước. Từ những người quyết làm chuyện đội đá vá trời ngót 20 năm không biết lãnh tụ của mình sống hay chết như Trần xuân Ninh(63) đến những người trước nay vẫn quen với lối suy nghĩ kiểu "thà mất nước không thà mất... Đấng Tối Cao" như Nguyễn gia Kiểng(61), Nguyễn văn Chức và đồng bạn(62)... Phải chăng ý thức bảo vệ lãnh thổ có tác dụng tổng động viên như thế nên tin Trung Quốc ép buộc Việt Nam nhượng đất nhượng biển được tung ra trước khi Chủ Tịch Giang trạch Dân đến, và tại sao Trần Khuê và đồng bạn chỉ nhắm đến Bộ Chính Trị Lê khả Phiêu chứ không trực tiếp tấn công những nhà lãnh đạo Việt Nam hiện tại?
    Có dư luận cho rằng Trung Quốc đã dùng vấn đề mà Trung Quốc từng gọi là "nạn kiều" - hay vấn đề "đánh" tư sản mại bản Chợ Lớn và "đuổi" Hoa kiều ở ngoài Bắc về nước - để làm áp lực với Việt Nam trong các quan hệ với Việt Nam, kể cả thương lượng về biên giới. Nhưng chuyện Chủ Tịch Giang trạch Dân ra về mà chưa giải quyết xong vấn đề lãnh hải phải chăng đã chứng tỏ lo như vậy là lo hơi... xa? Mặt khác, trước khi Chủ Tịch Giang trạch Dân đến, Việt Nam đã nhắc đi nhắc lại sẽ không tái tục hợp đồng Cam Ranh với Nga mà cũng không cho Mỹ thuê Cam Ranh. Trung Quốc có muốn thuê Cam Ranh không? Không ai biết, nhưng một vài chi tiết tưởng cũng đáng ghi nhận. Thứ nhất, ngày nào Mỹ còn xử dụng con tẩy "bảo vệ Đài Loan" bằng Đệ Thất Hạm Đội thì ngày ấy cạnh sườn phía Đông và phía Nam của Trung Quốc vẫn còn bị hăm dọa, trầm trọng hơn nữa là nếu Mỹ được quyền sử dụng Cam Ranh hay các bến cảng khác của Việt Nam như Hải Phòng, Vinh, Đà Nẵng. Thứ hai, trong chuyến viếng thăm Việt Nam, Chủ Tịch Giang trạch Dân đã ra thăm Hội An, đi tắm biển và tuyên bố ông cảm thấy "an toàn" ở đây. Hội An là một trong những trung tâm định cư đầu tiên của Hoa kiều, Hội An không xa Hoàng Sa và cũng không xa Chu Lai là nơi Mỹ từng đổ quân lên Việt Nam đầu tiên. Phải chăng Chủ Tịch Giang trạch Dân muốn nhắn gởi rằng ông đã không muốn dùng chuyện nạn kiều để làm khó Việt Nam thì Việt Nam cũng đừng dùng Cam Ranh Hoàng Sa như những con bài tẩy trong ván bài "biên giới" để làm khó Trung Quốc?
  3. starboard_side

    starboard_side Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/05/2003
    Bài viết:
    463
    Đã được thích:
    0
    Làm Sao Cắt Nghĩa Được Tình Yêu?
    Hoàng tôi đã trích dẫn khá nhiều những thông tin và nhận định về vụ xung đột biên giới theo quan điểm của Nhà Nước Việt Nam. Bởi vì Nhà Nước Việt Nam là người trong cuộc, có chuyện gì xảy ra thì Nhà Nước này - và đồng bào trong nước, phải trực tiếp đối phó và lãnh đủ trước tiên như trong trận chiến biên giới năm 1979 chẳng hạn. Những điều trích dẫn đó có bao nhiêu phần sự thật?
    Vốn không có thái độ sô-vanh hay dân tộc quá khích đối với Trung Quốc, Hoàng tôi ước mong những điều Việt Nam than thở chỉ là quá khứ của "5 năm qua" - 1975-80(58) như lời bạch thư xác nhận. Hoàng tôi cũng ước mong vụ biên giới năm 1979 chỉ là một quá khứ oan khiên giữa Đặng tiểu Bình và Lê Duẩn. Rằng quá khứ đó đã theo hai nhân vật lịch sử này về bên kia thế giới. Tuy nhiên, vạn bất đắc dĩ quá khứ đó lại tái diễn cách này cách khác thì tất nhiên Hoàng tôi phải "thấy" người Việt đúng trước cái đã. Dù đó có thể là "thấy mù". Ý thức dân tộc lắm khi nếu không là một bản năng thì ít ra cũng là một xung động hữu kiện, tương tự như ý thức tư hữu của con chó. Với ý thức tư hữu đó, con người thương gốc đa đầu làng thế nào thì con chó nhớ gốc cây mà nó đã đái vào để "đánh dấu" thế ấy, con người bảo vệ quê cha đất tổ thế nào thì con chó cũng sủa cắn người lạ để giữ nhà thế ấy. Ít ra là như thế...
    Tình yêu nước không chỉ là lý trí, không phát xuất từ một nhận định khách quan khoa học. Cái lý của con tim thường phấn kích đam mê hoan lạc hay chịu đựng khổ đau hy sinh hơn là những chân lý hiển nhiên phổ biến. Galileo biết rõ trái đất quay nhưng khi bị Tòa Thánh dọa đem lên giàn hỏa là nói ngược ngay cái rụp! Trong những thời kỳ đất nước bị đọa đày ngoại thuộc, không thiếu gì trí thức khoa bảng Việt Nam lần lữa cả đời để chứng minh cho được tội ác của ngoại nhân là hiển nhiên khách quan khoa học như 2+2=4 rồi mới bắt đầu yêu nước - nghĩa là bắt đầu nghĩ đến chống lại ách ngoại thuộc... Những người này thường bình nhiên tọa thị khi nghĩ bàn đến những chuyện như Trung Quốc đô hộ Việt Nam, Pháp thống trị Việt Nam, Mỹ khống chế Miền Nam oanh tạc Miền Bắc... một cách khách quan lạnh lùng hay bàng quan khoa học như khi nói chuyện Hitler khởi động Đại Chiến thứ hai, hay Tần Thủy Hoàng xây vạn lý trường thành, các vua Ai Cập xây kim tự tháp. Thế nên, phần đông số đó đã trễ tàu yêu nước để vừa an nhiên với cuộc sống phúc lợi an toàn, hạnh phúc êm ấm, vừa được tiếng là khách quan, ôn hòa, đề huề, không cực đoan quá khích, vừa khỏi lao vào đường nhục nhằn tù tội đọa đày. Ai chết mặc ai, ai ngu ráng chịu. Những người lính VNCH phải xâm trên cánh tay mấy chữ TQLC Sát Cộng, ND Sát Cộng, BĐQ Sát Cộng... Có ông Úy, ông Tá, ông Tướng nào chỉ huy các binh chủng đó, có ông Tổng Thống, Thủ Tướng, Bộ Trưởng, Tổng Giám Đốc, Nghị Sĩ, Dân Biểu nào xâm mấy chữ đó trên cánh tay hay ngay cả nơi những... chỗ kín, để gọi là ta đây quyết sống chết như những người đang hạnh phúc vì yêu hay đang khổ đau vì dang dở?
    Giả Dược Quốc Gia
    Một số người tự nhận là "quốc gia" thường nhìn Nhà Nước Việt Nam như cái đòn kê, như tấm thớt để tỏ bày hờn giận hận thù. Vì trước tiên, ồn ào tỏ ra hận thù kiểu đó nhiều khi chẳng mất vốn mà lại rất nhiều lời. Vụ Trần Trường là một ví dụ. Thứ nữa, không ồn ào tỏ ra hận thù như vậy thì không đúng "mốt" Quốc Gia. Nhưng muốn cho đúng mốt thì lại trở thành càm ràm, bắng nhắng, lẩm cẩm. Chuyện biên giới là một ví dụ. Qua chiến tranh biên giới đã qua và cuộc thương lượng gay go về vùng trời vùng biển hôm nay, nếu những người Mác-xít thân Trung Quốc đã thấy rõ được điểm tương đồng giữa Đặng tiểu Bình và chủ trương sô-vanh nước lớn của một số triều đình thời Hán, Nguyên, Minh, Thanh đối với Việt Nam thì tại sao một số người quốc gia Bốn Không lại không thấy được những điểm tương đồng lịch sử giữa Pháp và Mỹ đối với Việt Nam? Lại không thấy được rằng cái gọi là Ý Thức Hệ Quốc Gia chỉ là một giả dược - placebo - chính quyền Pháp dùng để phấn kích những người lính "lê dương" bản xứ trong chiến dịch tái chiếm Đông Dương sau năm 1945, và chính quyền Mỹ thế chân Pháp lại tiếp tục sử dụng lại giả dược đó cho những chiến sĩ Tiền Đồn Thế Giới Tự Do mà thôi? Thật vậy...
    Một, Pháp dùng giả dược đó 9 năm -1946-1954, Hoa Kỳ cũng thực sự dùng giả dược đó được 9 năm - 1964-1972.
    Hai, lực lượng viễn chinh Pháp dùng những Giám Mục Pigneau de Béhaine, Puginier, Lê hữu Từ, Linh Mục Trần Lục, Linh Mục kiêm Đô Đốc d''Argenlieu... Mỹ dùng Giám Mục Phạm ngọc Chi, Linh Mục Hoàng Quỳnh, Linh Mục Nguyễn lạc Hóa... Hồng Y Spellman ban phép lành cho những người lính Mỹ sang diệt quỷ đỏ ở Việt Nam, Giám Mục Pellerin là tuyên úy, cố vấn chính trị quân sự - nghĩa là một thứ chính ủy - cho hạm đội 14 chiến thuyền của Đô Đốc Rigaul de Genouilly tấn công Đà Nẵng(59).
    Ba, Pháp khởi sự chiến dịch xâm lược Việt Nam bằng "Vụ Đà Nẵng" năm 1856 với chiến thuyền Catinat(60). Mỹ khởi sự chiến dịch Mỹ hóa chiến tranh bằng "Vụ Vịnh Bắc Việt" với chiếc Maddox năm 1964. Để phát động cuộc chiến, Pháp đổ bộ Đà Nẵng năm 1858, Mỹ đổ bộ Chu Lai-Đà Nẵng năm 1965.
    Bốn, năm 1947, Pháp dùng chiến thuật Lùng-Diệt để khủng bố và trừng trị những ai theo "*********" và thanh lọc bạn thù bằng câu hỏi: "*********? Việt Nam?" Năm 1968 Mỹ dùng chiến dịch Phụng Hoàng để khủng bố và trừng trị những ai theo "*********"và thanh lọc bạn thù bằng câu hỏi: "*********? Quốc gia?" Khối người chết oan vì cái giọng Việt Nam lơ lớ của mấy ông Tây, ông Mỹ cũng như vì cái tật gật đầu nói "vâng dạ" trước khi lắc đầu nói "không" của chính người Việt!
    Năm, Tướng Navarre của Pháp chủ trương dùng chính trị để chiến thắng, nghĩa là dùng người Việt trị người Việt. Đại Tá Lansdale của Mỹ là người đầu tiên thực hiện Việt hóa chiến tranh. Cuối cùng, cả Pháp và Mỹ đều từ bỏ chính trị, dùng Lùng-Diệt để Việt hóa chiến tranh và dọn đường tháo chạy.
    Sáu, Pháp chủ trương dùng không lực - kể cả lực lượng Nhảy Dù - để chiến thắng ở Điện Biên Phủ. Mỹ cũng chủ trương dùng phi pháo để bẻ gãy xương sống của đối phương.
    Bảy, năm 1954, ********* lấy đại pháo chống lại không lực của Pháp. Năm 1970, Miền Bắc dùng đại pháo và hỏa tiễn để chống lại phi pháo của Mỹ.
    Tám, cả Pháp và Mỹ cuối cùng đã phải bỏ cuộc đầu hàng trong những trận Điện Biên Phủ chính trị ngay tại hậu phương của mình. Sau 9 năm tự tung tự tác (1946-1954) Pháp bỏ Miền Bắc, nhảy lên tàu há mồm vào Nam. Mỹ sau 9 năm tự tung tự tác (1964-1973) leo lên nóc nhà bỏ đi. Pháp dùng hải quân để di tản những người trung thành với mình vào Nam, Mỹ dùng Hạm Đội 7 để di tản những đồng minh nhỏ của mình đến bến bờ an toàn trước cơn đại hồng thủy 30.4.1975.
    Trước những tái hồi lịch sử bi hài đó, một số nạn nhân của giả dược Quốc Gia hẳn phải tỉnh người ra. Đáng nói là tỉnh ra để đi tới, để thấy rằng điều cần thiết cho Việt Nam là ý thức hệ Dân Tộc thì đàng này những người đã ghiền giả dược này chỉ đi thụt lùi, biến ý thức hệ Quốc Gia trở thành ý thức hệ Tuyệt Vọng của những kẻ bị chứng loạn thị. Vì vậy, cuộc chiến biên giới năm 1979 và cuộc tranh chấp biên giới hiện nay lý đáng là cuộc chiến và tranh chấp Việt-Hoa thì lại trở thành cuộc chiến và tranh chấp Quốc-Cộng giữa người Việt với người Việt. Số người tự nhận là quốc gia này đã yêu nước bằng cách theo Pháp, theo Mỹ, bây giờ họ yêu nước bằng cách theo Trung Quốc, ước mong Trung Quốc "dạy" cho Việt Nam thêm vài bài học nữa.
    Một điều bi hài nữa của chiến dịch tố khổ tội "dâng đất" là những chuyên viên đối kháng hải ngoại bảo rằng họ có được những người đối kháng trong nước tiết lộ những chi tiết dâng đất đó thì các chuyên viên đối kháng trong nước lại bảo là họ biết được những tin tức đó nhờ theo dõi các website của đồng bào hải ngoại. Trong khi một số người nước ngoài đối kháng như một nghề - cựu Đại Tướng Nguyễn Khánh mới đây gọi là những kẻ làm nghề chống Cộng - thì một số người trong nước lại đối kháng như một thời trang. Trước sau họ sẽ thấy rằng mẫu số chung của cái nghề và cái thời trang này là ý thức vọng ngoại thỏa hiệp và ý hướng biện minh cho hành động bán nước từ hai trăm năm nay của một số người.
  4. starboard_side

    starboard_side Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/05/2003
    Bài viết:
    463
    Đã được thích:
    0
    Tạm Thay Kết Luận
    Dù đứng ở điểm nào đi nữa, cuối cùng cũng phải thấy rằng, đụng đến chuyện tự chủ tự quyết, ngoại quốc nào cũng là ngoại quốc thôi. Cảm nghĩ đó có vẻ ngược với ý thức đại đồng của Khổng, với quan điểm vô sản quốc tế của Marx, với ý niệm cứu rỗi toàn nhân loại của Jesus hay ý niệm Phật tính không có Nam có Bắc của Phật giáo, và với khuynh hướng thời thượng Toàn Cầu Hóa hôm nay. Nhưng một người Việt muốn làm đồ đệ chân chính của Khổng, của Marx, của Jesus, của Phật, của nhà băng thế giới IMF và quỹ tiền tệ quốc tế WTO thì trước tiên người đó phải là một người Việt "thật", ít ra cũng "thật" như con chó ghếch chân tưới vào gốc cây để "giữ" gốc cây, hay sủa để "giữ" nhà?
    Ừ nhỉ! cảm nghĩ đó khiến Hoàng tôi liên tưởng đến một sự cố có thể coi là "định phận". Thật vậy, thời còn học Tiểu học trường Pellerin Huế, Hoàng tôi được bạn bè tặng cho hỗn danh Thằng-N-Chó-Đái chỉ vì một đôi lần tôi bị thầy giáo thân yêu là Frère Maurice "thương cho roi cho vọt" vì tội... viết chữ N như con chó đứng... tè từ sau nhìn tới! Ôi, chuyện nước non thường là nghiêm túc đứng đắn nhưng cũng có khi lẩm cẩm đứng... đái như thế đó!
    Trong bang giao quốc tế, có nhiều thỏa thuận giữa hai nước có thể là những thỏa thuận mật với những điều kiện nào đó. Có phải lý do duy nhất khiến Việt Nam tạm thời giữ kín các thỏa hiệp về lãnh thổ và lãnh hải vì đã nhượng bộ quá nhiều nên sợ dân oán trách tố cáo? Nhưng nếu Việt Nam phải giữ kín những thỏa hiệp đó vì Việt Nam đã "triều cống" quá nhiều đất nhiều biển cho Trung Quốc, thế còn Trung Quốc được "triều cống" quá nhiều, sao Trung Quốc lại cũng dấu kín mà không đem ra khoe để lấy điểm? Hay Trung Quốc không làm vậy vì sợ Việt Nam nổi giận đòi lại, hay nhờ quốc tế đòi lại? Càng hỏi càng thấy băn khoăn. Băn khoăn đó họa may chỉ được giải tỏa khi các thỏa hiệp về lãnh thổ và lãnh hải được giải mật. Bao giờ đây? Cho nên, biết đâu nếu bị Nguyễn văn Đông chận hỏi: Chiều mưa biên giới anh đi về đâu? Không khéo Hoàng tôi lại chỉ có thể cúi đầu thì thầm: Ôi, biết trả lời sao! như ca sĩ Thanh Tuyền hay Hoàng Oanh thường hát mà thôi?
    Phong Trang, tháng Tư 2002.
    Hoàng Nguyên Nhuận
    (Trích PHỒN HOA KINH, Văn Mới, California 2003, tr. 39-70.)
  5. starboard_side

    starboard_side Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/05/2003
    Bài viết:
    463
    Đã được thích:
    0
    GHI CHÚ
    1 - M. de la Bissachère - État Actuel du Tunkin, de la Cochinchine et des Royaumes de Cambodge, Laos et Lac Tho, Galignani, Paris 1812, tr.21: "... on peut estimer que le Tunkin s"étend depuis le 17ème degré de latitude jusqu"au 23ème, et en longitude depuis le 118è jusqu"au 127è trente minutes".
    2 - Stewart, Tabori & Chang - Vietnam - Places and History, New York 1998, tr. 21, 23 và 24.
    3 - Nguyễn Xuân Thọ - Bước Mở Đầu của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam (1858-1897), Mekong Printing, Santa Ana 1995, tr. 324.
    4 - Nguyễn Hữu Thống - Lên Tiếng Về Việc CSVN Cắt Đất Cho Trung Cộng, Góp Gió, Washington 12.2.2002.
    5 - Diệu Vân - Phỏng Vấn Thứ Trưởng Ngoại Giao Lê Công Phụng, Việt Luận, Sydney 8.2.2002.
    6 - Trần Khuê - Thư Ngỏ Gửi Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân, Việt Luận, Sydney 1.3.2002.
    7 - Trần Khuê - sđd.
    9 - Nguyễn Khắc Viện & al. - Đất Nước Việt Nam, Hà Nội 1989, tr. 285- 289.
    10 - Nguyễn Khắc Viện & al. - sđd, tr.286-288.
    11 - Madrolle - Indochina, Hachette, London-Paris 1930, tr.178: From Dong Dang, the road runs uphill to the Port de Chine, 4k. Nam-quan (Nan-Kuan; Chinese), the Southern Toll Gate of China. A wall about 370m. long rises among the chalk cliffs (forming the frontier) and bars the frontier.
    12 - Nguyễn Khắc Viện & al. - sđd, tr.286: Phía Đông là biên giới Việt-Hoa chỉ cách Đồng Đăng 3km, nhìn thấy cửa Hữu nghị nằm trong đất Trung Quốc.
    13 - D. Robinson - R. Storey - Vietnam, Lonely Planet, Victoria 1993, tr. 437 căn dặn du khách muốn quá giang xe để sang Trung Quốc bằng ngã Lạng Sơn: Make sure they take you to Huu Nghi Quan - there are a few other checkpoints but this is the only one where foreigners can cross... There is a walk of 600m from Vietnamese border post to "Friendship Gate" on the Chinese side.
    14 - Diệu Vân - sđd.
    15 - Madrolle - sđd, tr. 177: On Feb. 24, 1885 the day after the fighting at Dong-dang, General de Négrier blew up the Gate at 2"30pm, while near by an inscription was posted in Chinese characters, reading: "It is not stone walls that protect frontiers, but the carrying out of treaties."
    16 - Trần Khuê - sđd.
    17 - Trần Khuê - sđd.
    18 - Web Giaodiem. com - Bàn Tân Định - Giữa Sự Thật và Tin Đồn - Vấn Đề Lũng Đoạn Thông Tin.
    19 - Diệu Vân - sđd.
    20 - Trần Khuê - sđd.
    21 - Bàn Tân Định- sđd
    22 - Trần Khuê - sđd.
    23 - Trần Đại Sỹ - Bí Ẩn của việc Việt Nam hiến đất dâng biển cho Trung Quốc, cắt 789 km2 - lùi 5 km - Dân Việt, Sydney số ngày 24.1.2002.
    Một số người gặp tác giả bài này quả quyết họ không biết Bác sĩ Trần đại Sỹ là ai cả. Chỉ có Trần thế Tùng sống bằng nghề châm cứu và thuốc Nam. Trần thế Tùng ngày xưa là Thiếu sinh quân, lớn lên học Đại học Sư Phạm ban Việt Hán, nhập ngũ học sĩ quan, phục vụ trong ngành Chiến Tranh Chính Trị đến cấp bậc Thiếu Tá. Trần thế Tùng có một người anh là Trần huy Phong tự Quyền, lãnh tụ Vovinam ở Melbourne, Úc Đại Lợi. Đời có thể có sự trùng hợp lạ lùng vậy sao?! Xin nhường cho Bác sĩ Trần đại Sỹ trả lời.
    24 - Nguyễn Khắc Viện & al.- sđd. tr.291.
    25 - Nguyễn Khắc Viện & al., sđd. tr.291-292.
    26 - Madrolle, sđd. tr.179-180: Cao Bang to Ban Gioc, 81k. E.N.E - Downstream, cascade of Tu-tong, the height of which is 25m. The bed of the river here constitutes the frontier between Tonkin and China.
    27 - Diệu Vân - sđd.
    28 - Phan Khoang - Việt Nam Pháp Thuộc Sử 1884-1945, không ghi nơi tái bản, tr.366.
    29 - H. Gourdon - L"Indochine, Larousse, Paris 1931.
    30 - Nguyễn Xuân Thọ - sđd. tr.309.
    31 - Pháp quốc hải ngoại: France d"Outre-mer.
    32 - Phan Khoang - sđd. tr. 255.
    33 - Viện Sử Học - Việt Nam Những Sự Kiện 1945-1986. KHXH, Hà Nội 1990, tr. 44-47 và 58.
    34 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - Sự Thật Về Quan Hệ Việt Nam - Trung Quốc Trong 30 Năm Qua, Sự Thật, Hà Nội 1979.
    35 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. tr.26-27.
    36 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. tr.62.
    37 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. tr. 44-45.
    38 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. tr. 46.
    39- Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. tr. 51.
    40 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. tr. 59.
    41 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. tr. 59.
    42 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. tr. 60.
    43 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. tr. 60.
    44 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. tr. 69.
    45 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. tr. 70.
    46 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. tr. 69.
    47 - Chris Ray - Vietnam Reconsruction and the Chinese Invasion, Australian Radical Publications, Sydney 1979, tr. 74.
    48 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. tr. 71-72.
    49 - Philippe Devillers - Nouvel Observateur ngày 14.1.1979 cho rằng Pol Pot có 22 sư đoàn và 20.000 quân nhân Trung Hoa ngụy trang dưới lốt chuyên viên kỹ thuật.
    50 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. tr. 90-91.
    51- Báo The Australian ngày 26.2.1979 ghi nhận: "Nguồn tin từ giới tình báo Mỹ cho biết là không dưới 17 sư đoàn Trung Hoa với 225.000 người đã được phát hiện dọc biên giới Việt-Hoa.
    52 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. tr. 92.
    53 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. tr. 88-89. Chris Ray trong sđd tr. 69 thì cho rằng: Trong năm 1978, Việt Nam loan báo rằng Trung Quốc đã vi phạm lãnh thổ Việt Nam 583 lần, không phận 100 lần và hải phận 481 lần.
    54 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. tr. 92-93.
    55 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd, tr. 13-14 và phụ lục 2 và 3.
    56 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. tr. 18.
    57 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. 92.
    58 - Diệu Vân - sđd.
    59 - Nguyễn Gia Kiểng - Hận Nam Quan ngày xưa, hận Nam Quan ngày nay (Việt Luận 18.1.2002), Lê Chí Quang một biểu tượng (Việt Luận 5.4.2002)
    60 - Nguyễn Văn Chức - Sứ mạng của chúng ta, người Việt tỵ nạn - Hội Cao Niên VN Colorado, Đặc san xuân Nhâm Ngọ 2002.
    61 - Trần Xuân Ninh - Phỏng vấn đặc biệt của VNN, Dân Việt, Sydney 18.4.2002.
    62 - Bộ Ngoại Giao CHXHCNVN - sđd. tr. 99.
    63 - Nguyễn Thế Anh - Việt Nam Thời Pháp Đô Hộ, Lửa Thiêng, Chợ Lớn 1970, tr. 22.
    64 - Phan Khoang - Việt-Nam Pháp Thuộc Sử, không ghi nơi tái bản, 1961, tr. 109.
  6. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Cám ơn bạn starboard_side nhiều .
    Tôi từng đọc một vài bài viết ở ngoài biên giới, thì đây là lần
    đầu tiên được gặp một tác giả vừa có tài tìm kiếm tài liệu, vừa
    có thái độ nghiêm chỉnh, đàng hoàng.
    Thật cảm phục tác giả Hoàng Nguyên Nhuận ở Cali.
    Rất hân hạnh nếu có dịp gặp được ông.
  7. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    than ôi, lần đầu tiên trong đời nghe 1 người Việt Nam tri thức nói như thế này.
    Thế thì trách gì nữa.
    Than ôi!
  8. gocLe

    gocLe Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2006
    Bài viết:
    183
    Đã được thích:
    0
    Quả là cần có những conngười tỉnh táo và có kiến thức như thế. Tiếc thay có hiếm người như vậy trong các số tác giả người Việt nước ngoài. Hoặc nếu không hiếm thì người ta cũng không thèm dính vào những tranh cãi, tố cáo đầy cảm tính của đa số.
    nix đọc bài này cách đây khá lâu (dường như trên trang chuyenluan.net thì phải), và đồng ý với cái nhìn đó, nên vụ "Nhượng đất nhượng biển cho Tàu" mà bao nhiêu là "học giả", "nhà nghiên cứu", "trí thức" làm ầm ỷ trở thành trò khôi hài.
    p/s Tác giả này đang sống ở Úc. Từng dạy đại học và là dânbiểu hay nghị sĩ gì đó ở miền Nam trước 75. Dân chống cộng rất ghét ông ta :-) Nhưng ông này chẳng theo mà cũng chả chống cộng.
  9. oke_vn

    oke_vn Thành viên rất tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/06/2006
    Bài viết:
    745
    Đã được thích:
    129
    Chết cười vơi mấy chú rân ku X- cafe.org
    Sau 1 thời gian tự sướng bằng cách tiêu diệt ( ban nick) hết các "Hồng vệ binh" trên X-cafe, để khỏi phải nghe các ý kiến trái chiều, nhằm thực thi rân chủ tại X-cafe.
    Các chú rân ku bắt đầu thấy đội ngũ và trình độ ní nuận của mình nhớn mạnh quá, và quyết định tấn công vào sào huyệt của đối thủ.
    Chủ đề về bán đất nhượng biển đã được chiến đấu tại X cafe, và trong khi sự việc chưa ngã ngũ thì minh chủ ( admin) TQVN2004 của phò -rum đã ủng hộ đồng đội là chú rân ku Thanh Nam của mình bằng cách lần lượt ban hết nick của những HVB đang tranh luận với Thanh Nam. Kết quả là chú chim non rân ku Thanh Nam "thừa thắng" vác những thứ vũ khí ní nuận rác rưởi ( cóp nhặt trên net) xông vào ttvnol để tàn sát và diệt tận gốc kẻ thù...
    Thôi buồn cười quá, đêck viết được nữa
  10. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Bạn OK thân mến:
    Bạn ném đá vào bàn chúng tôi như vậy thì có ý coi tôi là HVB
    hay tôi là phe Thanh Nam vậy?
    Tôi đã có làm gì để làm bạn mếch lòng không?

Chia sẻ trang này