1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hình Ảnh Lịch sử về Ải Nam Quan - có bàn tới Thác Bản Giốc

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi thanhnam6, 17/09/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Ionesome

    Ionesome Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/06/2003
    Bài viết:
    1.195
    Đã được thích:
    1
    Thêm vài cái ảnh tìm trên Gúc cho bà con kiểm chứng vụ "thác phun từ hang ra"
    [​IMG]
    http://gallery.photo.net/photo/474881-md.jpg
    http://www.yangshuoholiday.com/image/story/Detian03.jpg (hình lớn nên chỉ post link.
    Link sau có ghi toạ độ: http://www.panoramio.com/photo/4531129 . Theo đó, thác Bản Giốc nằm tại toạ độ 22° 51'''' 24.15" N 106° 43'''' 20.43" E , không biết có ích gì cho cuộc tranh lụân của các bác không
    Bác Mr.Hoang vào đây mà đối chiếu với bản đồ của bác: http://www.panoramio.com/map/#lt=22.856708&ln=106.722342&z=4&k=2
    Hình lớn tuyệt đẹp ở đây
    Mời các bác còn hứng thú ảo địa tiếp tục ...
    Được Ionesome sửa chữa / chuyển vào 01:02 ngày 07/01/2009
  2. phanboboaiai

    phanboboaiai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/11/2004
    Bài viết:
    5.867
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
  3. espn08

    espn08 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/07/2008
    Bài viết:
    713
    Đã được thích:
    0
    bác nào giải thích cho em đoạn này với : "Tại thác Bản Giốc, thác cao và là thác phụ hoàn toàn thuộc Việt Nam, với thác chính hai bên thoả thuận đường biên giới đi từ mốc 53 cũ, qua cồn Pò Thoong, đến điểm giữa cuả mặt thác chính, sau đó tiếp tục đi theo dòng chảy chính của sông Quây Sơn.
    Tóm lại, hình nào là thác cao, hình nào là thác chính ạ?
  4. Ionesome

    Ionesome Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/06/2003
    Bài viết:
    1.195
    Đã được thích:
    1
    http://www10.ttvnol.com/uploaded2/FDDinh/tn_chun4.jpg
    Bác nhìn hình này xem, theo đó thì thác BG là 1 TỔ HỢP NHIỀU THÁC, theo tinh thần của đoạn bác trích thì:
    - Phần thác bên trái hình (phần chảy xuống ruông lúa ở dưới): 100% của VN.
    - Phần thác bên phải hình: gồm ít nhất 2 tầng thác , phần trên gọi là thác phụ thuộc về VN, phần phía dưói là thác chính thì "đường biên giới đi từ mốc 53 cũ, qua cồn Pò Thoong, đến điểm giữa cuả mặt thác chính, sau đó tiếp tục đi theo dòng chảy chính của sông Quây Sơn" ---> cột mốc 53 nằm ở đâu?
    Nếu theo cách này thì chúng ta lấy tới ít nhất 2/3 tổ hợp thác. Nhưng có tthể cách chia chính thức lại khác: coi toàn bộ phần thác bên phải là thách chính. Như thế thì chúng ta vẫn có phần lớn hơn.
    http://vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2009/01/3BA0A080/
    Được Ionesome sửa chữa / chuyển vào 01:01 ngày 07/01/2009
  5. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    [​IMG]
  6. Ionesome

    Ionesome Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/06/2003
    Bài viết:
    1.195
    Đã được thích:
    1
    OK bác, vậy là suy luận của em đúng.
  7. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Hình ảnh chụp ở Ải Nam Quan giữa tháng Hai năm 2002
    [​IMG]
    Nhà mái tròn từ chỗ gần cột mốc.
    [​IMG]
    Ải Nam Quan đứng trước cửa của nhà mái tròn.
    [​IMG]
    Ải Nam Quan từ cửa sau nhà mái tròn.
    Giữa sự thật và tin đồn:vấn đề lũng đoạn thông tin ("disinformation")
    Dư luận báo chí Việt ngữ hải ngoại trong ngày gần đây thường hay bàn về vấn đề biên giới Việt Nam ?" Trung Quốc. Theo họ, Chính phủ Việt Nam đã "bán" (hay "dâng," "nhượng") lãnh thổ và lãnh hải cho Trung Quốc qua hiệp ước về biên giới đường bộ và hiệp định về biên giới đường biển. Rất nhiều những con số thống kê về sự "mất mát" lãnh thổ và lãnh hải đó được đưa ra, mà chúng mâu thuẫn với nhau một cách có khi cực kỳ phi lí. Truy tìm nguồn gốc của những thông tin này, người ta sẽ thấy chúng xuất phát từ hai nguồn chính: ở trong nước, và ở nước ngoài.
    Ở trong nước, nguồn tin được xuất phát từ một số nhân vật "li khai". Người lên tiếng đầu tiên là ông Lê Chí Quang, được giới thiệu như là một luật sư trẻ ở Hà Nội. Người thứ hai là ông Đỗ Việt Sơn, được báo chí giới thiệu như là một nhà cách mạng lão hành, một đảng viên lâu đời của Đảng C ộng sản Việt Nam. Theo hai ông, Việt Nam đã mất 720 cây số vuông về phía Trung Quốc. Tiếp theo đó là một bức thư của các nhân vật đã từng phục vụ trong hàng ngũ cao cấp của Đảng, gửi đến các nhân vật lãnh đạo trong Đảng C ộng sản, Nhà nước, và Quốc hội Việt Nam, cũng nêu những con số như trên. (Các bài này có thể đọc trong trang Thông Luận phần tiếng Việt).
    Ở ngoài nước, một trong những người đầu tiên (và có lẽ là nổi tiếng nhất) đưa ra những con số về sự "mất mát" lãnh thổ và lãnh hải là Trần Đại Sỹ (được giới thiệu, và tự giới thiệu, như là một giáo sư bác sĩ y khoa, và Giám đốc Trung Quốc sự vụ, Viện Pháp Á ở Paris, Pháp.). Nguồn gốc của những con số mà Trần Đại Sỹ đưa ra, và được lưu truyền khắp các cộng đồng người Việt hải ngoại, có thể tìm trong bài "điều trần" mang tựa đề "Bí ẩn về việc Đảng CSVN, Lãnh đạo nhà nước cắt lãnh thổ, lãnh hải cho Trung Quốc", trong đó ông cho biết Việt Nam đã mất 789 cây số vuông đường bộ và mất 9% diện tích lãnh hải.
    Xuất phát từ hai nguồn tin này, các tin tức, bình luận, thư phản kháng, bản tuyên bố, tuyên cáo, bản lên tiếng, thư ngỏ, v.v. và v.v. được nhiều cá nhân và hội đoàn, nhân danh đủ thứ tư cách pháp nhân, gửi đi chính phủ các nước Tây phương và Liên Hiệp Quốc yêu cầu can thiệp. Một điều đáng chú ý và thú vị là trước khi có những tuyên cáo như thế, không có ai, ít nhất là trên các phương tiện truyền thanh công c ộng, đặt vấn đề về sự chính xác của hai nguồn thông tin trên! Do đó, vấn đề cần được làm sáng tỏ là hai nguồn tin trên có thể tin được hay không, và cơ sở của những thông tin này có vững vàng hay không?
    Nguồn tài liệu từ các nhân vật li khai trong nước
    Trong tất cả các nguồn tin từ các nhân vật li khai ở trong nước, người ta không tìm ra được bất cứ một bằng chứng nào để cho rằng Việt Nam đã mất 720 cây số vuông đất, hay trên 10.000 cây số vuông đường biển. Chỉ có một "nguồn tin" duy nhất là họ cho rằng xuất phát từ những người trong Đảng C ộng sản Việt Nam, nhưng họ không cho biết đó là những ai. Thực ra, điều này thì có thể hiểu được, vì họ không muốn mang rắc rối, phiền phức pháp luật đến những người đã cho họ tin tức. Nhưng thiết tưởng với một phát biểu hết sức quan trọng như thế, ít ra họ cũng phải kiểm chứng thông tin, và cho biết chút ít chi tiết về những con số trên được tính toán ra sao chứ. Nếu cứ nói "theo tư liệu," hay "theo nguồn tin cá nhân" thì ai làm chả được.
    Thực ra, có thể nói ngay rằng luận điểm của họ là ngụy biện. Cái khác nhau giữa logic và ngụy biện là ở chỗ này. Trong logic học, nương tựa vào những nguồn thông tin nặc danh được gọi là loại "Lợi dụng quyền lực nặc danh" (ad vercecundiam), mà trong đó, người ngụy biện không nêu danh tính người có thẩm quyền, và vì không ai biết tên người có thẩm quyền nên không ai có thể kiểm chứng sự chính xác của lời phát biểu. Một loại ngụy biện khác có quan hệ với loại này là dùng lời đồn đại để làm cơ sở lập luận.
    Cách đây ít lâu, một lá thư được phóng lên internet và đăng báo mà người ta cho là của ông Trần Khuê (Địa chỉ có thể tham khảo trên trên mạng: http://groups.yahoo/group/Hoinghi/message/17582 hay: http://perso.wanadoo.fr/charite vào mục Việt-Hoa.) , một nhà nghiên cứu văn hóa ở trong nước, cũng có nhiều điều bất cập. Bằng một giọng văn đầy cảm tính, ông viết:

    "Tháng 8-2001, chúng tôi có tổ chức một đoàn lên khảo sát thực địa ở Lạng Sơn thì quả thật đã thấy ở cây số 0 nằm trên vạch biên giới Việt Trung không còn nhìn thấy Mục Nam Quan nữa. Phía Trung Quốc đã xây một tòa nhà sừng sững chắn ngang. Rồi người thì nói nó đã nằm sâu trong lãnh thổ Trung Quốc 500 mét, người thì nói 2.000 mét. Diện tích đất nhượng người thì bảo mất 500km2, người thì bảo mất hơn 700km2, có người lại nói mất hẳn 900 km2. Riêng đ/c Lê Thế Nghĩa, nguyên Trưởng ban Biên giới của Chính phủ, thì cho chúng tôi biết Mục Nam Quan hiện nằm cách vạch biên giới là 800 mét và tổng số diện tích địa giới mà Việt Nam phải cắt nhượng cho Trung Quốc chỉ mất 232 km2 Còn vùng hải giới, theo một cán bộ trong Ban biên giới thì tỷ lệ chia lại vùng vịnh Bắc Bộ là: VN: 53,23%, TQ: 46,77%. (Theo hiệp ước ký năm 1895 giữa triều Thanh-Trung Quốc và chính quyền thực dân Pháp ở VN thì tỷ lệ là: VN: 64%, TQ: 36%.), như thế có người tính cụ thể VN mất đứt 112.000km2 lãnh hải."
    Cũng lạ! Ông đã lên tận vùng biên giới để khảo sát, tại sao lại không biết "Mục Nam Quan" cách cột cây số bao xa, thế thì ông khảo sát cái gì? Sự thật khác hẳn những gì ông đã viết. Mấy tấm hình trên đầu bài do một người từ Sài Gòn lên tận khu vực Ải Nam Quan chụp cho thấy, từ cây số 0 người ta vẫn có thể thấy tòa nhà của Ải Nam Quan, cho thấy từ cây số 0 đến Ải Nam Quan không thể cách nhau 2 cây số được. Do đó, phát biểu của ông Lê Công Phụng (khoảng cách từ Ải Nam Quan đến cây số số 0 là 200 mét) là có lí.
    Người từng giữ chức trưởng ban đàm phán các vấn đề biên giới là Đại tá Lê Minh Nghĩa, chứ không phải "Lê Thế Nghĩa" như ông Trần Khuê viết. Ông Lê Minh Nghĩa có nói với ông Nguyễn Ngọc Giao (báo Diễn Đàn, Paris) là đàm phán chỉ xoay quanh con số 227 cây số vuông mà hai bên không đồng ý, chứ ông không có nói Việt Nam mất 232 cây số vuông.
    Còn con số 112.000 cây số vuông lãnh hải bị "mất" mà ông Trần Khuê tính toán là cực kỳ sai. Toàn bộ diện tích Vịnh Bắc bộ là khoảng 123.700 km2. Qua hiệp định năm 2000, Việt Nam làm chủ được 53.23% (tức là 65.846 km2), và Trung Quốc làm chủ 57.854 km2. Thế thì bằng cách tính quái gở nào mà ông cho rằng Việt Nam mất 112.000 km2 ?
    Chỉ một đoạn văn nhỏ như thế mà đã có nhiều dữ kiện sai, thậm chí quá sai. Vậy mà trong khi chưa có thông tin đầy đủ, ông lại dùng những đoạn văn kế tiếp trong lá thư để trích dẫn thơ phú xưa để nhằm chỉ trích nhà cầm quyền Việt Nam là bán đất cho Trung Quốc. Nói cho đúng hơn, toàn bộ lá thư là những ngụy biện. Ngụy biện vì dựa vào những nguồn thông tin nặc danh. Ngụy biện vì dùng ngôn từ cảm tính (Prejudicial language). Ngụy biện vì dựa vào đám đông (ad populum). Ngụy biện vì trích dẫn sai thông tin thống kê.
    Thật ra, toàn bộ lá thư này, tác giả không nhắm vào ông Giang Trạch Dân (và tác giả đương nhiên biết rằng ông Giang Trạch Dân chẳng bao giờ đọc lá thư này), mà nhắm vào chính quyền Việt Nam. Chỉ trích chính quyền thì ông hoàn toàn có quyền làm chuyện đó, và có người hoan hô, nếu ông có lí do và lí lẽ logic. Nhưng thiết nghĩ ông không nên, và đừng bao giờ, ngụy biện, xuyên tạc sự thật, hay nói sai sự thật, vì hành động đó phản bội lí tưởng của khoa học và nguyên cứu.
    Trên tờ Diễn Đàn (Paris), số 116, tháng 3 năm 2002, tác giả Nguyễn Ngọc Giao viết, trích đoạn:

    "Tướng Trần Độ, trong cuộc nói chuyện qua điện thoại sáng ngày 22/2/2002, cho chúng tôi biết: cuối tháng 12/2001, ông đã kí bản kiến nghị (nói ở đầu bài) sau khi nghe truyền miệng những thông tin về đất đai và vùng biển bị mất, song từ đó đến nay, ông đã kiểm tra lại, thấy đó là những thông tin sai lệch. Căn cứ vào những thông tin đã kiểm tra, tướng Trần Độ cho rằng những điểm cụ thể mà ông Lê Công Phụng nói là đúng.
    Chúng tôi hỏi ông dựa trên nguồn tin mới nào, tướng Trần Độ đơn cử Đại tá Lê Minh Nghĩa, nguyên trưởng ban biên giới, là người đã tham gia tất cả các vòng đàm phán. Đại tá Nghĩa, theo lời tướng Trần Độ, xác nhận con số 227km2 đất đai tranh chấp và phân chia mà ông Phụng tuyên bố. Chúng tôi đã có dịp gặp Đại tá Nghĩa tại New York mùa hè năm 1998 nhân dịp Hội thảo về Biển Đông tại trường NYU và hỏi chuyện ông nhiều lần trong một tuần lễ ở đó. Ông đã bị bắt giam không xét xử 6 năm và quản chế 3 năm (1967 ?" 1976) trong vụ "Xét lại chống đảng". "Tôi bây giờ tâm niệm không muốn nghĩ đến điều gì khác, chỉ tâm niệm một điều là : gìn giữ từng tấc đất tấc biển của Tổ quốc," tôi còn nhớ rõ lời tâm sự đó của ông. Đối với tôi, Lê Minh Nghĩa là một chứng nhân đáng tin: nói như Malraux, đó là một chứng nhân đã bị "cắt cổ"."
    Như vậy, có thể nói rằng nguồn tin trong nước của các nhân vật "li khai" không chính xác, và sai. Ngoài ra, họ còn dựa vào những "tư liệu," tin đồn mà không ai có thể kiểm tra rà soát được. Ông Trần Độ đã xác nhận những tin đồn mà ông và vài người trong nước dựa vào để kí tên vào bản kiến nghị Đảng C ộng sản và Quốc hội Việt Nam (được lưu truyền hải ngoại) là sai. Ông Trần Độ cũng xác nhận rằng phát biểu của ông Lê Công Phụng, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao và Trưởng phái đoàn đàm phán về biên giới, là đúng.
  8. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Giữa sự thật và tin đồn:vấn đề lũng đoạn thông tin ("disinformation")
    Nguồn tài liệu từ Trần Đại Sỹ
    Trong khi một số người "li khai" trong nước cho rằng Việt Nam mất 720 cây số vuông, thì ông Trần Đại Sỹ cho rằng con số đó là 789 cây số vuông. Con số này được giới truyền thông tiếng Việt ở hải ngoại lặp đi lặp lại nhiều lần để lên án chính quyền Việt Nam đã "dâng đất" cho Trung Quốc. Căn cứ vào đâu mà ông lại khẳng định như thế. Phải trả lời ngay là ông chẳng căn cứ vào đâu cả. Có thể nó chỉ là một con số phịa.
    Trong bài viết "Bí mật vụ hiến đất dâng biển" được lưu truyền trên internet (Có thể nghe Trần Đại Sỹ trả lời phỏng vấn ở đây) Trần Đại Sỹ viết rằng:

     "Việt Nam nhường cho Trung Quốc dọc theo biên giới, 789 cây số vuông (chứ không phải 720 như tin lộ ra từ trong nước), thuộc hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn."
    Diện tích hình vuông hay hình chữ nhật thì còn dễ tính, nhưng một diện tích ngoằn ngoèo như biên giới Việt ?" Trung thì chắc chắn là khó tin hơn, và cần phải có nhiều người cùng thời gian để làm. Do đó, những câu hỏi cơ bản nhất cần được đặt ra là: con số này được tính toán như thế nào? Chiều dài bao nhiêu thước và chiều sâu bao nhiêu thước? Dọc theo làng nào, huyện nào? Ai là người đi đo đạc, và đo bằng cách nào? Tuy nhiên, trong nguyên bài viết (hay tường trình), Trần Đại Sỹ không hề trưng bày một dữ kiện nào để chứng minh cho con số này.
    Trần Đại Sỹ cho biết là nguồn tin "cắt đất" này ông biết được từ hay người bạn của ông là hai kí giả Trung Quốc, nhưng ông không cho biết tên và nơi làm việc của hai người này. Họ ở Trung Quốc hay ở Pháp? Bằng cách gì hai người này biết được nội dung của bản hiệp định? Nói một cách khác, bài viết của Trần Đại Sỹ cũng chỉ là một bản văn ngụy biện, nếu không muốn nói là cố tình tung tin giả tạo. Chứng minh? Chúng ta hãy đọc tiếp một số đoạn sau đây.
    Trong một đoạn khác của bài viết trên, Trần Đại Sỹ cho biết cây số 0 (biên giới Việt ?" Trung) đã dời về phía nam đến 5 cây số:
    "Cái cây số không đó là cây số 5 cũ đấy. Cột cây số 0 bây giờ ở phía Nam cột 0 cũ 5 cây số. Từ cây số 0 đến cây số 5 nay thuộc về Trung Quốc."
    Nói một cách khác, Việt Nam đã mất 5 cây số từ Ải Nam Quan. Ở đây, một lần nữa, Trần Đại Sỹ không đưa ra bất cứ một dữ kiện gì để làm cơ sở cho câu phát biểu cực kỳ quan trọng này. Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy phát biểu này không có lí và sai. Không có lí là vì Thị trấn Đồng Đăng (mà cụ thể hơn là Ga xe lửa Đồng Đăng) cách Ải Nam Quan khoảng 4 cây số; nếu cột mốc cây số 0 đã dời về phía Nam 5 cây số thì thị trấn và ga xe lửa đã thuộc về Trung Quốc! Sự thực là Đồng Đăng vẫn thuộc về Việt Nam.
    Câu phát biểu này rất ư là phi lí và sai sự thật, vì bằng chứng gần đây (ngày 21 tháng Hai, 2002) cho thấy Ải Nam Quan chỉ cách cây số 0 khoảng 200 thước mà thôi. Cây cổ thụ mà ông Phạm Văn Đồng trồng vào giữa thập niên 60s để đánh dấu cây số 0 vẫn còn đó.
    [​IMG]Cây số 0. Phía sau la cây Si do cố thủ tướng Phạm Văn Đồng trồng hồi thập niên 60s. Đàng xa là tòa nhà mái tròn Xuất Nhập cảnh của TQ.
    Bây giờ chúng ta hãy xét qua những đoạn văn mà ông ta tả khá chi tiết về chuyến đi Việt Nam như sau. Sau khi mô tả phía nam và bắc của Ải Nam Quan có nhiều cơ sở nhà nước và thương mại tư nhân, ông viết:

    "Các cơ sở phía nam thuộc Việt Nam, trong chiến tranh Hoa ?" Việt 1978, quân đội Trung Quốc đã san bằng hết. Kể cả cây cột biên giới. Tuy vậy sau chiến tranh đã xây dựng lại khang trang hơn cũ, rộng lớn hơn cũ, và hiện đại hơ cũ. Nhưng từ khi hiệp định 30/12/1999 kí thì toàn bộ khu này thuộc Trung Quốc. Những cơ sở đó giờ này được thay bằng một tòa nhà duy nhất."
    Câu phát biểu này sai hoàn toàn. Sự thực là:


    Tất cả các cơ quan phía nam của Ải Nam Quan (như hải quan, cảnh sát biên phòng, kiểm dịch, và bộ đội biên phòng) vẫn còn nguyên vẹn đó, và dĩ nhiên là thuộc về chủ quyền của Việt Nam. Theo thông tin của một người vừa đến biên giới cho biết mốc biên giới mới (không phải mốc số 0) sẽ được cắm trên ngọn đồi bên cạnh mốc số 0 hiện nay.

    Trong lúc chiến tranh, những cơ sở vùng này hầu như không bị ảnh hưởng, chỉ có những thị trấn thuộc tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn bị tàn phá mà thôi. Ở phía nam Ải Nam Quan (thuộc chủ quyền Việt Nam) không có nhiều đến "hàng chục cơ quan như Bưu điện, ngân hàng, công ty điện, nước" như ông tả. Có lẽ Trần Đại Sỹ lẫn lộn với khẩu Tân Thanh ở Lạng Sơn, nơi có buôn bán tiểu ngạch, xe cộ, hàng hóa, nhà ngủ, nhà ăn. Còn Hữu Nghị Quan (hay Ải Nam Quan) là cửa khẩu ngoại giao, du lịch thủ tục chính thống hơn, ít buôn bán hơn.

    Chiến tranh biên giới Trung Quốc ?" Việt Nam xảy ra năm 1979, không phải 1978.
    Những sai sót về sự thật này chứng tỏ Trần Đại Sỹ chưa bao giờ đến Ải Nam Quan, mà có thể chỉ đến một cửa khẩu nào đó và pha trộn tin tức từ nhiều nguồn để viết nên bài "tường trình" trên đây, hay tệ hơn nữa, phịa ra một quang cảnh như thế.
    Trần Đại Sỹ viết tiếp:

    "Tuy nhiên với hòa ước 1887, lãnh hải vịnh Bắc Việt được chia như sau: Trung Quốc 38%, Việt Nam 62%. Đối với người Pháp, thời đó họ chưa hiểu rõ tình trạng giữa Trung Hoa và Việt Nam, họ thấy Thanh triều chấp nhận 38% thì cho rằng mình thắng thế. Còn Thanh triều khi đạt được 38% họ coi như một món quà trên trời rơi xuống. Vì trong quá trình lịch sử, Trung Quốc vẫn coi Vịnh Bắc Việt là của Việt Nam.
    Bây giờ đến hiệp định Việt - Hoa 25/12/2000 thì vùng Vịnh Bắc Bộ được chia như sau: Việt Nam 53% Trung Quốc 47%. So với trước 1987 thì Việt Nam chỉ mất có 38%, nay mất thêm 9% nữa!"
    Thật khó mà tin được một giáo sư (nếu Trần Đại Sỹ là một giáo sư thực thụ ngoài đời) lại có thể phát biểu một cách đơn giản như thế. Có gì làm bằng chứng cho câu viết "Vì trong quá trình lịch sử, Trung Quốc vẫn coi Vịnh Bắc Việt là của Việt Nam"? Còn cách phát biểu kiểu như "món quà trên trời rơi xuống" thì quả là ngớ ngẩn đến độ lố bịch. Thực ra, câu phát biểu này thể hiện một loại ngụy biện của những ý tưởng chưa trưởng thành. Sự thật là:


    Theo hiệp định biên giới đường biển do Pháp (đại diện Việt Nam) và Nhà Thanh (Trung Quốc) kí kết năm 1887 và 1895 thì đường kinh tuyến 108 độ được lấy làm lằn ranh biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam. Phía tây của kinh tuyến này thuộc về chủ quyền của Việt Nam, và phía đông thuộc về Trung Quốc. Và vẫn theo đường ranh này thì Việt Nam được khoảng 63% và Trung Quốc được khoảng 37% diện tích Vịnh Bắc Bộ.

    Tuy nhiên, việc chia cắt này không có giá trị pháp lí gì về lãnh hải, thềm lục địa và vùng khai thác kinh tế, vì các khái niệm này chưa hề có hồi cuối thể kỉ 19, phải đợi đến nửa sau thế kỉ 20 mới hình thành và quy định trong các văn bản quốc tế. Pháp chỉ làm như thế để tiện việc quản lí hành chính. (Thực ra, cũng theo cách chia của Pháp, Việt Nam làm chủ toàn bộ vùng biển của Cambodia!) Mãi đến năm 1982 mới có công ước về đường biển do Liên Hiệp Quốc thông qua. Theo ông Lê Công Phụng, đàm phán giữa Việt Nam và Trung Quốc về lãnh hải, một phần lớn, dựa vào công ước quốc tế này.

    Và kết quả đàm phán, vẫn theo ông Lê Công Phụng, Việt Nam được 53.23%, Trung Quốc được 46.77% diện tích biển. Như vậy, không thể phát biểu như Trần Đại Sỹ rằng Việt Nam đã mất 9% diện tích biển. Thực ra, ngay cả những con số mà Trần Đại Sỹ đưa ra (như 47%, 53%, 38%, 62%) đều, hoặc sai, hoặc không chính xác, làm người đọc có lí do chất vấn tác giả có hiểu cách làm gọn những con số lẻ hay không.
    Điều khá khôi hài là trong phần giới thiệu của bài viết trên, tác giả cho biết Trần Đại Sỹ làm việc cho Liên hiệp các viện bào chế châu Âu (CEP) và Ủy ban trao đổi y học Pháp ?" Hoa, và theo giao kèo, ông không được phát biểu với báo chí về Trung Quốc, Việt Nam hiện nay, không được tiết lộ những điều ông thấy và biết trong những lần đi công tác ở Việt Nam và Trung Quốc.
    Người viết bài này không hiểu tại sao một cơ quan bào chế dược phẩm và một cơ quan "trao đổi y học" mà lại không cho nhân viên mình nói chuyện với báo chí về Việt Nam và Trung Quốc. Thực ra, hầu như cơ quan nghiên cứu nào ở các nước Tây phương cũng khuyến khích các nhà nghiên cứu tận dụng hệ thống truyền thông (media) để quảng bá việc làm và các công trình nghiên cứu của mình. Có nhiều viện nghiên cứu có hẳn cả một vài người chuyên phụ trách liên lạc báo chí (gọi là "Public relation") và mỗi khi có thông tin gì mới, những nhân viên này lập tức soạn thảo những thông cáo báo chí để gửi đi các cơ sở truyền thông.
    Tuy nhiên, dù sao đi nữa, Trần Đại Sỹ đã không giữ lời hứa với hai cơ quan này. Bằng chứng là ông ta xuất hiện trên các đài truyền thanh trả lời phỏng vấn, gửi bài đi các báo đăng, và phổ biến bài viết của mình trên hệ thống internet về các vấn đề liên quan đến biên giới Việt Nam và Trung Quốc.
    Cũng trong phần giới thiệu bài viết, Trần Đại Sỹ tuyên bố:

    "Bản văn này phủ nhận các bản băn trước. Vì bảo mật, chúng tôi, cũng như Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ không trả lời bằng thư, bằng điện thoại, bằng E-Mail, cũng như không thể thỏa mãn tất cả những đòi hỏi thêm về chi tiết, nguồn gốc tài liệu, hình ảnh của bất cứ ai (IFA)".
    Hơn thế nữa, Viện Pháp-Á nơi ông Trần Đại Sỹ làm việc cũng ra một thông cáo (Địa chỉ: http://perso.wanadoo.fr/charite, vào mục tin. Bài "Thông cáo của Viện Pháp-Á".) tương tự, trong đó có đoạn viết:

    "Chúng tôi xin nhắc lại, đây là một bài điều trần mật, cho thính chúng đều là những người có trình độ kiến thức rất cao về chính trị Á-châu Thái-bình-dương. Đánh giá về độ chính xác của bản điều trần là các vị cử tọa hôm đó, và viện Pháp-á chịu trách nhiệm trước cơ quan X. Chúng tôi:
    - Không cần thảo luận với bất cứ ai, - Cũng không cần nghe-đọc bất cứ ai công kích, - Chúng tôi không có bổn phận phải cung cấp tài liệu, hình ảnh cho bất cứ đòi hỏi nào. Chúng tôi đã yêu cầu Gs. Trần Đại-Sỹ cũng phải nghiêm chỉnh tuân theo nguyên tắc này."
    Cũng chính trong bản thông cáo lại có đoạn rằng: "Sau khi biết rằng bản điều trần mật bị lộ, chúng tôi xin cơ quan X. cho phổ biến toàn văn." Nhưng kỳ thực là chính ông đã lộ bí mật ra qua cuộc trả lời phỏng vấn của đài Việt nam tự do trước đó (Có thể nghe Trần Đại Sỹ trả lời phỏng vấn ở đây.) vào một buổi tối chủ nhật (ở Pháp) tháng 11 năm 2001. Mà nội dung trả lời phỏng vấn y hệt bản điều trần do Viện Pháp-Á cho là đã bị lộ, nên phổ biến lại vào 10 tháng 1 năm 2002!
    Như vậy, ông ta chỉ phát biểu, không cần dẫn chứng tài liệu và bằng chứng gì cả, không muốn trả lời chất vấn của công chúng, hay nói tóm lại là ông không có trách nhiệm với những phát biểu của mình! Đây là một việc làm cực kỳ phản khoa học và ngụy khoa học, bởi vì người làm khoa học chân chính phải chịu trách nhiệm với phát biểu của mình. Nhà khoa học nghiêm túc phải sẵn sàng trưng bày bằng chứng, dữ kiện liên quan đến những phát biểu của mình, phải sẵn sàng để cho người ngoài (và công chúng), nếu cần, có quyền thẩm định tài liệu gốc của mình.
  9. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Giữa sự thật và tin đồn:vấn đề lũng đoạn thông tin ("disinformation")
    Một số "Nghiên cứu" khác của Trần Đại Sỹ
    Bài viết về biên giới của Trần Đại Sỹ không phải là một bài duy nhất mà trong đó không có một phương pháp làm việc rõ ràng. Trong một "nghiên cứu" được quảng báo khá rầm rộ là việc ông dùng DNA để nghiên cứu nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Trong một bài viết được lưu truyền trên internet (Địa chỉ : http://perso.wanadoo.fr/charite, mục Việt-Hoa. Bài "Thử tìm lại biên giới cổ của Việt nam: bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích, và hệ thống ADN.) ông cho biết:

    "Ông cùng CFMC dùng hệ thống ADN để chứng minh rằng lãnh thổ tộc Việt bao gồm từ sông Trường giang xuống tới Vịnh Thái Lan. Với công cuộc nghiên cứu này, ông làm đảo ngược tất cả những nghiên cứu cổ cho rằng: người Việt gốc từ người Trung Hoa trốn lạnh hay trốn bạo tàn di cư xuống; mà người Trung Quốc do người từ Đông Nam Á đi lên hợp với giống người đi từ Bắc Á đi xuống."
    Nếu quả thật đây là một khám phá thực thì quả là nó làm đảo lộn suy nghĩ của chúng ta bấy lâu nay. Vậy chúng ta hãy đọc xem phương pháp ông nghiên cứu như thế nào.
    Trong phần "Phương pháp nghiên cứu" của bài viết "Thử tìm lại biên giới cổ của Việt-Nam: bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống ADN", Trần Đại Sỹ mô tả phương pháp ông làm như sau:

    "Trong việc đi tìm nguồn gốc tộc Việt, tôi đã dùng phương pháp y-khoa nhiều nhất, và phương pháp khoa học mới đâỵ Tôi đã được giáo sư Tarentino về khoa Anatomie của Ý và giáo sư sinh vật Vareilla Pascale của Pháp tích cực giúp đỡ. Tôi chỉ muốn chứng minh rằng trong khoảng 5000 trước Tây-lịch, lãnh thổ tộc Việt nằm từ phía Nam sông Trường-giang tới vịnh Thái-lan. Phía Tây tới tỉnh Tứ-xuyên Trung-quốc , phía Đông tới biển Nam-hảị Nghĩa là bao gồm toàn bộ Hoa-Nam, và Đông-dương.
    Dùng biện chứng y-khoa vào khảo cổ.
    Biện chứng căn bản của người nghiên cứu y-khoa là: "Khi có chứng trạng, ắt có nguyên do". Biện chứng này đã giúp tôi rất nhiều trong khi nghiên cứu về nguồn gốc tộc Việt. Khi nghiên cứu, những tài liệu cổ, dù là huyền thoại, dù là huyền sử, dù là triết học, tôi cũng coi là chất liệu quan trọng.
    Như tôi đã trình bày, nước tôi có một tôn giáo, mà toàn dân đều theo đó là thờ các anh hùng dân tộc. Tại những đền thờ chư vị anh hùng, thường có một cuốn phổ kể sự tích các ngài. Vì theo thời gian, tiểu sử các ngài bị dân chúng huyền thoại hóa đi, riết rồi thành hoang đường. Cho nên những học giả đi tiên phong, nghiên cứu về sử học Việt thường bỏ qua. Tôi lại suy nghĩ khác: "Không có nguyên do , sao có chứng trạng?"
    Vì vậy tôi đã tìm ra rất nhiều điều lý thú. Tỷ dụ : Bất cứ một nhà nghiên cứu nào, khi khảo về thời vua An-Dương cũng cho rằng chuyện thần Kim-quy do vua móng làm nỏ bắn một lúc hàng nghìn mũi tên khiến Triệu-Đà bị bại là hoang đường, là ma trâu đầu rắn. Nhưng tôi lại tin và cuối cùng tôi tìm ra sự thật. (chú thích: phân khoa khảo cổ Trường Đại Học Hà Nội cùng một số nhà khảo cổ của Trường Đại Học Hawaii và New Zeand đã tìm thấy những di chỉ của triều đại vua An Dương Vương như thành Cổ Loa, các mũi tên đồng ... trong cuộc khai quật vùng vòng đai cách Hà Nội 15 km vào năm 1980)
    Hồi ấy Cao Cảnh hầu Cao Nỗ đã chế ra nỏ liên châu, như súng liên thanh ngày naỵ Tôi cũng tìm ra kích thước của ba mũi tên đồng của nỏ nàỵ (Có thể nghe Trần Đại Sỹ trả lời phỏng vấn ở đây.)
    Trước tôi đã có các nhà khảo cổ căn cứ vào xương sọ tìm được tại Trung và Bắc-phần (70 cái). Trong đó có 38 cái do người Pháp sưu tầm thuộc thời đại Đồ-đá, thì 29/38 cái được kết luận là thuộc chủng loại Malanésien, Indonésien, Australoide hay Nam-á. Với 29 cái thì không thể kết luận rằng đó là toàn thể. Gần đây các học giả Việt-Nam lại tìm ra 32 xương sọ, thuộc thời đại Đồ-sắt (1.000 năm trước Tây-lịch đến 300 sau Tây-lịch), thì 22/27 thuộc chủng loại Mongoide. Với 32 cái thì không thể kết luận rằng đó là toàn thể tộc Việt thuộc chủng loại Mongoide.
    Những tác giả trên đã căn cứ vào chỉ số xương sọ để kết luận. Nhưng y học đã tiến bộ, căn cứ vào chỉ số xương sọ để định nguồn gốc đã bị đánh đổ. Nguyên do: Khi con người di cư đến vùng khác, bị khí hậu, bị nước uống, bị thực phẩm làm thay đổi xương sọ. Chúng tôi dùng hệ thống ADN, hệ thống sinh học mới nhất thử nghiệm ngay những người đang sống của 35 dòng họ tại Hoa Nam với Việt-Nam, rồi với những dòng họ khác tại Hoa Bắc. Lại cũng thử nghiệm những bộ xương của ba vùng trên, không phân biệt thời gian. Cuối cùng chúng tôi tìm ra sự khác biệt của những tộc Hoa Nam, Việt Nam với những tộc Hoa Bắc, và đi đến kết luận: lãnh thổ Văn-lang, tới hồ Động-đình."
    Thực ra, những mô tả trên đây của Trần Đại Sỹ không thể cho là "phương pháp nghiên cứu", vì nó chỉ là những phát biểu lan man, linh tinh, chẳng có liên hệ hay kết cấu có hệ thống gì với nhau. Người viết bài này cũng từng làm nghiên cứu về di truyền học, nên có thể khẳng định rằng Trần Đại Sỹ chưa bao giờ làm nghiên cứu khoa học. Để quí độc giả biết chút ít về phương pháp truy tìm xu hướng di dân của các chủng tộc, tôi xin mô tả một cách ngắn gọn như sau:

    Thứ nhất, nhà nghiên cứu phải chọn ra nhiều bộ tộc (hay dân tộc) khác nhau ở các nước và vùng khác nhau; trong mỗi bộ tộc, nhà nghiên cứu chọn ra một số lượng người cần thiết cho việc nghiên cứu. Thông thường, một nghiên cứu có giá trị, tức có thể cho kết quả đáng tin cậy, cần phải có ít nhất là 500 người đến vài ngàn người tình nguyện.
    Thứ hai, sau khi đã chọn được đối tượng nghiên cứu, các nhà nghiên cứu phải lấy mẫu máu. Những mẫu máu này phải được bảo tồn và xử lí trong một phòng thí nghiệm được chính phủ công nhận. Việc xử lí máu bao gồm cả việc chiết DNA để dùng cho phân tích di truyền.
    Thứ ba, nhà nghiên cứu sẽ cân nhắc số lượng genes (hay "genetic markers") cần phải phân tích để có kết quả khả quan. Sau khi đã quyết định số lượng genes (thông thường là 20 genes trở lên, có khi cả 400 genes), cần phân tích, giai đoạn kế tiếp là dùng công nghệ sinh học để tìm sự biến thiên của genes (genetic variations).
    Thứ tư, sau khi đã phân tích genes, nhà nghiên cứu phải xác định "tần số allele" (allelic frequency) trong mỗi gene cho mỗi bộ tộc. Từ tần số này, họ dùng các phương pháp toán học khá phức tạp để ước tính khoảng cách di truyền (genetic distance) giữa các bộ tộc.
    Thứ năm, sau khi đã ước tính tất cả khoảng cách di truyền giữa các bộ tộc, nhà nghiên cứu sẽ dùng computer để xây dựng một cây di truyền (phylogenetic tree), và từ cây di truyền, nguồn gốc dân tộc sẽ được phỏng đoán. Dĩ nhiên, các yếu tố khác như lịch sử và bằng chứng khảo cổ học cũng phải được xem xét để kết luận về các xu hướng di dân giữa các bộ tộc.
    Một nghiên cứu như thế thường tốn khoảng 1 triệu Mỹ kim, và cần cả năm mới hoàn thành được. Do đó, đọc xong doạn văn "phương pháp nghiên cứu" trên đây của Trần Đại Sỹ, người ta phải kết luận rằng hoặc là ông ta không biết mình đang nói gì, hoặc ông ta chỉ phịa ra để lòe người không rành về nghiên cứu di truyền học. Những loại "nghiên cứu" mà Trần Đại Sỹ mô tả không phải là nghiên cứu, và dù có đi nữa thì chúng cũng chẳng có một ý nghĩa khoa học gì cả, nó là một loại "ngụy khoa học". Vả lại, cơ quan nào đã tài trợ cho ông làm một nghiên cứu như thế, khi mà ông không hề có một thành tích nghiên cứu khoa học nào được công nhận cả. Trong thực tế, như đã nói trên, Trần Đại Sỹ không có một công trình khoa học nào được công bố trên các tập san chuyên môn được công nhận. Hoặc có thể ông đăng dưới một tên nào khác, mà chúng tôi chưa được biết..
    Vấn đề người Việt di dân từ Trung Quốc, hay người Trung Quốc di dân từ Đông Nam Á là một vấn đề khoa học rất "nóng" hiện nay. Những ai muốn theo dõi các nghiên cứu liên quan đến câu hỏi này có thể tham khảo các bài báo nghiên cứu khoa học (thứ thiệt) sau đây: "Genetic relationship of populations in China", của Bài báo của Giáo sư J. Y. Chu và đồng nghiệp thuộc Trường Đại học Texas, đăng trên Tập san Proceedings of the National Academy of Science (USA) 1998; số 95, trang 11763-11768; (ii) "Y-chromosome evidence for a northward migration of modern humans into Eastern Asia during the last Ice age" của B. Su và đồng nghiệp, đăng trên Tạp san American Journal of Human Genetics, năm 1999, số 65, trang 1718-1724. Đặc biệt là nghiên cứu của Giáo sư Li và đồng nghiệp, thuộc Trường Đại học Texas (Mỹ) và Viện Nghiên cứu Di truyền học Trung Quốc cho thấy nguồn gốc của người Trung Hoa (và cả người Đông Á) rất có thể là do người từ Đông Nam Á di dân lên. Công trình của Giáo sư Li và đồng nghiệp được công bố năm 1998.
    Một số thành tích "nghiên cứu" của Trần Đại Sỹ được mô tả như sau:

    "Tìm lại được cây phản phì. Năm 1982, YTCS cùng phái đoàn CMFC, đã tìm lại được cây Phản phì, tưởng đã tuyệt chủng. Loại cây này thuộc họ trà, rút bỏ một vài độc chất, chế biến thành thuốc uống vào có khả năng giảm béo, hạ thấp cholesterol, triglyceride trong máu, mà không bị phó tác dụng như các loại thuốc hóa học. Sau đó cây này được gây giống, trồng, chế thành thuốc. Năm 1984 bắt đầu bán trên thị trường châu Âu."
    Trong thế giới nghiên cứu y khoa, trung bình, một loại thuốc, tính từ khi mới phát hiện công thức hóa học đến giai đoạn thử nghiệm và cuối cùng đến tay người tiêu thụ, tốn khoảng 25 năm, và hàng tỉ Mỹ kim. Việc thử nghiệm phải qua các kiểm duyệt rất gắt gao về phương pháp khoa học và y đức, chứ không đơn giản chỉ thử trên vài đối tượng là xong và đem ra thị trường. Ấy thế mà thuốc dùng "cây phản phì" của ông Trần Đại Sỹ chỉ cần 2 năm là ra thị trường tiêu thụ! Thật là phi lí. Đối với người viết bài này, câu chuyện, thú thật, nghe cứ như là một loại "lang băm" sáng chế thuốc chữa béo phì. Giả như có thật thì thuốc đó tên gì, có thể liên hệ để tìm hiểu thông tin ở Viện bào chế Dược liệu nào, xin ông chỉ giúp.
    Và sau đây là một thành tích khác về phương pháp "điện phân mỡ":

    "Tìm ra phương pháp điện phân mỡ. Khởi đầu từ năm 1978, trong một dịp vô tình, YTCS cùng một số học trò, đã tìm ra phương pháp điện phân mỡ, mà tiếng Pháp gọi là Lypo-électrolyse. Sau đó mười năm, một trong các học trò của ông là Bác sĩ Nguyễn Thị Dung (hay Đặng Vũ Dung), đem ra phổ biến trên báo, nên người ta tưởng bà là tác giả. Hiện nay trên thế giới có khoảng 60.000 bác sĩ sử dụng. Phương pháp này có thể làm mất mỡ tại bất cứ khu vực nào trên cơ thể, mà không phải dùng thuốc, hay giải phẫu."
    Người làm việc trong nghiên cứu y khoa ắt phải lắc đầu về câu phát biểu này. Không hiểu cái "phát minh" này ông Trần Đại Sỹ đã đăng kí bản quyền (patent) ở đâu hay chưa, và tên máy là gì, nhưng một điều cực kỳ phi lí là "Phương pháp này có thể làm mất mỡ tại bất cứ khu vực nào trên cơ thể, mà không phải dùng thuốc, hay giải phẫu". Chứng béo phì (obesity) đang là một trong những vấn đề y khoa lớn nhất trong các nước Tây phương, và nhiều chính phủ đã chi tiêu hàng trăm tỉ Mỹ kim để nghiên cứu nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả gì khả quan. Ấy thế mà ông Trần Đại Sỹ dám tuyên bố như trên, thì phải nói là cực kỳ lố bịch.
  10. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Giữa sự thật và tin đồn:vấn đề lũng đoạn thông tin ("disinformation")
    Trần Đại Sỹ: một con người "phi thường"
    Đến đây thì người đọc ắt sẽ không khỏi thắc mắc ông Trần Đại Sỹ là ai? Thực ra, ông là ai không quan trọng, vì vấn đề ở đây là những phát biểu của ông, chứ không phải cá nhân ông. Tuy nhiên, để trả lời câu hỏi này, chúng ta có thể tham khảo một vài tài liệu được lưu truyền trong báo chí và internet ở hải ngoại.
    Ông Trần Đại Sỹ được người Việt hải ngoại biết đến như là một giáo sư, bác sĩ y khoa. Trong một bài viết (cũng trong trang trên), Trần Đại Sỹ tự nói về chính ông như sau:

    "Năm 5 tuổi bắt đầu học Á học ngũ ngôn thi. Sáu tuổi học Bắc sử, Nam sử. Bẩy tuổi học tứ thư, ngũ kinh. Tám tuổi đã học làm câu đối, văn sách, văn tế, chế, chiếu, biểu. Dù phải học nhiều, song nhờ được luyện Thiền tuệ nên vẫn thu thái dễ dàng. Chín tuổi phải học thuật tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Mười tuổi học 24 bộ chính sử Trung Quốc, Đại Việt sử ký toàn thư, Việt ngữ lược, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam chính biên liệt truyện, và hằng trăm thứ sách khác. Thành ra cả thời thơ ấu, tôi sống với sách vở, với Thiền, chưa từng biết chơi bi, đánh đáo. Bất cứ ai cũng đặt câu hỏi: Làm thế nào tiền nhân tôi lại có thể nhét vào đầu tôi những thứ khô khan như vậy? Sau này lớn lên vào đại học y khoa tôi mới biết là nhờ Thiền tuệ."
    "Năm 15 tuổi, YTCS (Yên tử Cư sĩ) đổ Trung học, rồi ông ngoại qua đời, một người trong gia đình gây ra thảm cảnh không thể tưởng tượng nổi, kiến YTCS phải rời tổ ấm. Song cơ may đưa đến, ông được nhập học một trường có truyền thống giáo dục cực kỳ chu đáo. Tuy gặp thảm họa, nhưng những gì bản sư, ông cha đã hoạch định cho cuộc đời, YTCS vẫn cương quyết theo đuổi. Sống xa gia đình, YTCS phẫn uất dồn hết tâm tư vào việc học. Mười bẩy tuổi ông đỗ tú tài 1, mười tám tuổi đỗ tú tài toàn phần. Vào đại học. Năm 25 tuổi ra trường (1964). Đã có chỗ đứng vững chắc về danh vọng, về tài chánh. Bấy giờ ông mới trở về với gia đình trong vinh quang. Mà ... cái người gây ra đau khổ cho YTCS, than ôi, y trở thành một tên lêu bêu, vô học bất thuật, và cho đến bây giờ (2000), y đã đi vào tuổi 66, vẫn là một tên ma cô, ma cạo."
    Người đọc có thể, một cách không ngoa, cho rằng ông là một người rất thông minh, nếu không muốn nói là một người phi thường (prodigy), vì chỉ mười tuổi mà ông đã làu thông kinh sử Trung Quốc và Việt Nam. Từ việc học những cổ văn, kinh sử, ông chuyển sang Tây học một cách dễ dàng, đỗ tú tài và vào đại học không có gì khó khăn. Tuy nhiên, một điều hết sức lạ lùng là Trần Đại Sỹ không cho người ta biết một chi tiết thối thiểu là ông đã học trường trung học nào và ở đâu.
    Trong phần kế tiếp, sau khi đã khoe viết được 12.709 trang sách tiểu thuyết giả sử, tác giả viết:

    "Nếu so sánh với sự nghiệp văn học, thì sự nghiệp y học của YTCS rất khiêm tốn. Tốt nghiệp:


    Đại học Y khoa Cohin Port Royral (Pháp) với luận án "Contribution à la bio-bibliographie de quelques Stomatologistes et dentistes francais."

    Đại học Y khoa Thượng hải, với luận án Trung y dương ủy biện chứng luận trị (Điều trị chứng bất lực sinh lí bằng y học Trung Quốc).

    Trung y học viện Bắc Kinh, với luận án Cổ Trung dược.
    Thực ra, ở Pháp không có trường "Đại học Y khoa Cohin Port Royal", mà có Trường Đại học Paris 5 (tức René Descartes), và trường này có một phân khoa y tên là "Cochin Port-Royal". Còn các trường "Đại học Y khoa Thượng Hải" và "Trung Y học Viện Bắc Kinh" thì tôi không biết chúng có thật hay không, và do ai quản lí hay được công nhận là những đại học chính qui của Trung Quốc hay không. Độc giả nào biết xin cho ý kiến.
    Nhưng ngay cả tên của luận án (tạm dịch: "Cống hiến vào thư mục về nghiên cứu miệng và răng") cũng rất đáng nghi ngờ. Xin độc giả nào đã và đang học tại trường này (Paris V, hay René Descartes, Phân khoa y Cohin Port Royal) kiểm tra xem có phải Trần Đại Sỹ đã tốt nghiệp với luận án trên. Cứ theo cái tựa đề này thì Trần Đại Sỹ học về nha khoa, chứ không hẳn y khoa. Điều thú vị là sau khi tốt nghiệp Tây y, ông ta lại theo học Đông y ở Trung Quốc.

    "Năm 1977, ông làm việc cho Ủy ban trao đổi y học Pháp ?" Hoa (Comité Médical Franco ?" Chinois, viết tắt là CMFC) với chức vụ khiêm tốn là thông dịch viên. Nhờ vào vị trí này, ông đã học thêm, đỗ Tiến sĩ y khoa Trung Quốc, rồi lại tốt nghiệp Trung y học viện Bắc Kinh. Dần dần ông trở thành giảng viên, rồi tổng thứ ký, và cuối cùng là trưởng đoàn từ 1995 đến nay (2000)."
    Cũng lạ! Tại sao đã tốt nghiệp đại học y khoa (tức bác sĩ) mà lại đi làm thông dịch viên cho CMFC? Tại sao một Ủy ban trao đổi y học mà lại có quyền phong chức "Giảng viên," một chức vụ khoa bảng trong các trường đại học.
    Ở một đoạn khác, ông viết rằng cũng năm 1977, ông bắt đầu đào tạo học trò:

    "Đào tạo học trò. Năm 1977, YTCS bắt đầu đào tạo học trò. Nhận thấy y học Tây phương thường bó tay trước một số bệnh, mà y học Trung Quốc lại có thể điều trị dễ dàng. Trong khi đó tại Pháp cũng như Châu Âu, lại ít người biết đến. Bấy giờ tại Pháp có trường vài trường (sic), dạy cho những bác sĩ đã tốt nghiệp đại học y khoa, học thêm 3 năm về khoa Châm cứu, chương trình rất giản lược. Ông âm thầm đào tạo 9 bác sĩ người Âu, và 5 bác sĩ người Việt, và một tu sĩ Phật giáo về khoa Châm cứu, bốc dược, khí công rất sâu, đúng như chương trình của đại học y khoa Thượng hải. Chính đám đệ tử đầu tiên này, sau khi học xong, đều mở trường dạy học, hồm hai trường ở (sic) Pháp một trường ở Tây Ban Nha. Chương trình dạy tổng hợp y học Âu Á bắt đầu. YTCS dạy tại các trường này, vừa làm cố vấn cho các giám đốc trường. Cho đến nay (2000), ông đã đào tạo được 1.422 bác sĩ, đang hành nghề khắp Âu châu. Trong đó có 136 bác sĩ Việt Nam."
    Từ năm 1977 đến năm 2000 là một thời gian khoảng 23 năm. Trong thời gian đó mà ông Trần Đại Sỹ đã đào tạo được 1.422 bác sĩ thì quả là một thành tích phi thường. Thật ra phải nói là một thành tích khó tin thì chính xác hơn, bởi vì tính trung bình, mỗi năm ông đào tạo được 54 bác sĩ! Thật là khó tin, nếu không muốn nói là vô lí.
    Bài báo cho biết Trần Đại Sỹ "Hiện là giám đốc Trung Quốc sự vụ tại Viện Pháp ?" Á (Institut Franco ?" Asiatique) và Giáo sư trường Y khoa Arma (Paris)." Tuy nhiên, qua kiểm tra danh bạ các trường đại học Pháp, tôi không thấy "Trường Y khoa Arma" ở đâu cả! Ngay cả Viện Pháp Á cũng không có trong danh bạ điện thoại ở Paris!
    Giáo sư là một chức vụ cao trong hệ thống khoa bảng thuộc các đại học Tây phương. Theo tác giả Nguyễn Văn Tuấn (Thế Kỷ 21, 2001), trong các trường đại học Tây phương, có ba cấp học hàm giáo sư: Assistant Professor (hay Lecturer ở một vài nước theo hệ thống Anh Quốc), Associate Professor (hay Reader), và Professor. Phần lớn những người được đề bạt vào chức vụ Professor là những nhà nghiên cứu có quá trình nghiên cứu khoa học lâu năm, và có uy tín cao trên trường quốc tế. Tiêu chuẩn để được đề bạt vào các chức vụ này thường dựa vào ba cống hiến chính: nghiên cứu, giảng dạy, và phục vụ cộng đồng. Về nghiên cứu, mức độ cống hiến cho kiến thức nhân loại được "đo lường" bằng số lượng và chất lượng các bằng sáng chế (patents) hay các bài báo khoa học (papers) được công bố trong các tạp chí khoa học chuyên môn. Tùy theo trường đại học, một Assistant Professor phải có ít nhất là 5 bài báo khoa học; một Associate Professor thường phải có tối thiểu là 30 bài báo khoa học; và một Professor phải có tối thiểu là 50 (thường là 100) bài báo khoa học.
    Qua kiểm tra hệ thống thư viện y học thế giới, tôi có thể khẳng định rằng ông Trần Đại Sỹ chưa hề công bố một công trình nghiên cứu khoa học nào trong các tập san chuyên môn về y học. Do đó, có thể nói tóm lại, là cái danh hiệu "Giáo sư" mà ông dùng là không do một trường đại học nào của Pháp phong cho cả; có thể ông chỉ tự phong mà thôi.

Chia sẻ trang này