1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hình ảnh Văn Hóa - Nghệ thuật Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi netwalker, 25/06/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. FaMaS

    FaMaS Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    28/02/2002
    Bài viết:
    222
    Đã được thích:
    0
    Âm điệu
    Bài ca Cải lương đặt theo bản đờn, nên kịch sỹ phải tùy âm nhạc, không được tự do phô diễn hết tài năng của mình như trong điệu hát Bội. Ca dư hơi thì trễ đờn, còn thiếu hơi dứt trước đờn. Kịch sỹ bị bó buộc trong khuôn khổ nhịp đờn, dầu có hơi hám nhiều cũng không thể vượt ra ngoài nhịp vì sợ ca lỗi nhịp.Lúc sau này, trong điệu Cải lương có bản Vọng cổ thêm nhiều nhịp. Bài ca vọng cổ đặt không ăn sát câu đờn, miễn vô đầu và dứt câu đờn, ca cho trúng hơi, trúng nhịp. Nhờ vậy, có nhiều kịch sỹ được tự do phô bày hết khả năng của mình
    Một khuyết điểm thứ hai là đương nói chuyện kế bắt qua ca. Trừ một ít danh ca biết cách "mở hơi" cho câu ca của mình có hứng thú, còn phần đông vô ca nghe khô khan lã chã lắm, không có mùi vị chút nào. Lỗi ấy một phần do ban âm nhạc thờ ơ, không thuộc chỗ nào sắp ca đặng giao đờn trước hầu gợi ý cho khán giả có cảm giác vui buồn trước khi nghe ca, như bên âm nhạc hát Bội.
    Cải lương được chỗ ưu điểm là nhờ âm nhạc biết tùy hơi cao thấp của kịch sĩ để lên dây Hò, nên kịch sỹ ca đúng hơi "thiên phú" của mình không rán hơi quá như bên hát Bội.
    Thế nào là một giọng ca cải lương hay?
    Yếu tố hàng đầu cho một giọng ca cải lương hay chính là sức mạnh truyền cảm. Một giọng ca hời hợt, chỉ thấy lời mà không thấy lòng người, không phải là giọng ca hay. Ngay cả một giọng ca điêu luyện về kỹ thuật mà không có linh cảm, có cái "hồn" thì cũng chỉ là một giọng ca chết, không sinh khí.
    Một giọng ca hay là giọng ca lột tả đến cùng tình cảm của câu hát, của tâm trạng nhân vật bằng tất cả rung động của trái tim người hát và bằng cả quá trình khổ luyện, tìm ra được cách biểu hiện tốt nhất. Khi nội dung bài hát đã thấm vào lòng diễn viên, đã biến thành máu thịt, thì các kỹ thuật gieo câu, nhả chữ, ngừng lặng, luyến láy, đều là kết quả sự xúc động tình cảm sâu sắc của người hát. Một người rất ít nghe cải lương, thậm chí chưa nghe bao giờ, cũng có thể xúc động khi nghe một giọng ca truyền đạt chính xác sắc độ tình cảm của lời bài hát, của nhân vật như: yêu thương, nhớ nhung, buồn bã hoặc căm uất, giận hờn...
    Tùy cách chế ngự điều khiển của từng diễn viên với bài bản cải lương, sẽ quyết định từng màu sắc riêng biệt của mỗi giọng ca.
    Mỗi người sẽ tạo ra một chất giọng riêng, không lẫn vào đâu được. Và người ta dễ dàng nhận ra một Lệ Thủy, Bạch Tuyết, Mỹ Châu... hay út Trà ôn, Minh Vương, Minh Phụng, Minh Cảnh... trên sân khấu phía NAm.
    Một giọng ca hay trên sân khấu chỉ có thể được coi là hoàn hảo nếu không tách rời nghệ thuật sân khấu biểu diễn. Vì vậy, tiêu chuẩn thứ hai của giọng ca hay là biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa ca và diễn. Nếu diễn viên chỉ chú ý đến lời hát mà không quan tâm đến nhân vật thì khán giả chỉ có thể nhớ đến con người thật của anh ta chứ hoàn toàn không gắn với một hình tượng nhân vật nào cả. Ðiều đó giống như là nghe hát những bài vọng cổ hơn là một vai diễn ca hay. Ngược lại, nếu diễn viên diễn xuất thật hay mà ca dở thì mọi người lại không nghĩ mình đang xem cải lương! Cần thiết phải có sự kết hợp hài hòa, nếu không xem như thất bại.
    Trong cải lương, giọng ca là vô cùng quan trọng nhưng không phải là tất cả. Vì thế, có được một giọng ca "trời phú" thì cần phải rèn luyện, trau dồi để ngày càng tiến bộ hơn với những vai diễn thật sự có "hồn".
    Vì sao cải lương được nhiều người đón nhận?
    Hát Bội là lối diễn xuất cho một lớp người biết thưởng thức xem, còn Cải lương là lối diễn cho mọi thành phần xem. Từ giới thượng lưu đến những người bình dân đều có thể là khán giả của cải lương. Nghệ thuật cải lương rất dễ hiểu. Lời văn giản dị, gần gũi với đời sống hàng ngày.
    Nội dung các vở cải lương thường đi sát với quần chúng. Khi xem tuồng xã hội, khán giả có cảm tưởng hoàn cảnh của các vai tuồng có thể xảy đến cho mình và do đó sự cảm xúc càng thêm mạnh và in sâu vào trí não.
    Ngoài ra, cải lương có đủ các thú tiêu khiển "cầm ca thi họa" để cho khán giả thưởng thức. Trước hết có âm nhạc cổ điển, nhạc Âu và ca ngân nhiều bản tân và cổ. Kế đó có những lời văn và câu thơ soạn theo lối dễ hiểu... Cải lương còn cho xem những tranh cảnh hội họa và gợi khiếu thẩm mỹ về kiến trúc và xây dựng vở kịch, từ hình thức đến nội dung.
    Sau hết là cách sử dụng ánh sáng trên nhiều màu sắc tươi đẹp của y trang và tranh cảnh.
  2. kieuphong

    kieuphong Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/01/2002
    Bài viết:
    5.781
    Đã được thích:
    0
    Có vài thắc mắc nhỏ nhờ các bác giải đáp:
    1. Đàn Cò/Nhị có nguồn gốc từ TQ phải kô? Đúng ra là của các tộc dân phía Bắc TQ? Đọc sách thì thấy thường được nhắc đến với cái tên hồ cầm.
    2. Guitare còn gọi là Lục huyền cầm à? Gọi thế sợ lẫn lộn với 1 loại Lục huyền cầm của TQ (1 dạng như Thất huyền cầm).
    3. Nước mình, ngoài những điệu nhạc hò, chèo, cải lương, v.v..., có những bản nhạc nào nổi tiếng dùng riêng cho 1 loại nhạc cụ (VD như đàn Tranh, đàn tì bà, sáo) hay kô? Dạng như TQ nếu nhắc tới Thất huyền cầm thì lại nói tới khúc Quảng Lăng tấn của Kê Khang. VN mình có những bản nhạc như thế kô, nếu có thì tên gì, vào thời nào?

    Xuân tàm đáo tử ty phương tận
    Lạp chúc thành hôi lệ thủy can
  3. FaMaS

    FaMaS Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    28/02/2002
    Bài viết:
    222
    Đã được thích:
    0
  4. FaMaS

    FaMaS Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    28/02/2002
    Bài viết:
    222
    Đã được thích:
    0
    huhu coi phin tèo mà có mấy cảnh kéo đờn cò ỉ e râù thúi guột" như cây này nè :
    - oé hình không post đuợc, tí post
    Ngoài ra còn các dụng cụ khác trong cải luơng vọng cổ như :
    Ðàn Nguyệt: có nhiều tên gọI khác nhau, như Ðàn Kìm,Nguyệt Cầm, quân tử cầm..GọI là Ðàn Nguyệt bởI vì có thùng đàn tròn như mặt trăng hay mặt nguyệt. Ðàn này là 1 nhạc cụ chính trong nghệ thuật hát Chầu văn của 3 miền Bắc Trung nam. Ngày nay hầu như mọI dàn nhạc dân tộc như Chèo ,tuồng, ca Huế, Cải Lương đều có .Ở trung Hoa cũng có cây đàn này nhưng phím đàn Nguyệt cao ,cần đàn nhỏ nên Ðàn Nguyệt nhấn tung nhiều hơn và nó rất hợp vớI ngôn ngữ đơn âm đa thanh của người Việt

    Ðàn Tranh: Nhiều nước á châu có loại đàn này Ðàn Tranh còn gọi là Ðàn thập lục, (vì có 16 dây)để nhấn rung được nhiều các nghệ nhân thường lắp dây nhỏ, mềm hơn các nước khác. Vật liệu chế tác tốt nhất vẫn là mặt đàn bằng gỗ Ngô đồng , thành đàn bằng gỗ trắc
    Ðàn Bầu: còn có 1 vài tên gọI khác như Ðàn Ðộc huyền , hay đôc huyền cầm, nhất huyền cầm...Nói tóm lại đây là cây đàn 1 dây, VớI tên gọI Ðàn Bầu vì trái Bầu làm phần cộng hưởng cho âm thanh từ cần đàn( hay Vòi đàn ) phát ra .Ðây là cây đàn có nguồn gốc từ Việt nam, Ðàn rất độc đáo, rất đáng tự hào cho xứ Việt mình, Ðàn tuy chỉ có 1 dây nhưng cách chơi đàn lại rất đặc biệt.
    Gảy đàn phải chặn đúng những vị trí chia 2 chia 3, 4, 5 , 6, 8mớI ra những âm thanh chính. muốn tạo thêm những nốt khác ta phải dung cần đàn kéo căng , hay chùng dây thêm.Do vậy ngườI chơi đàn phải nghe tốt mớI đàn hay. (qúy vị có thể mua Video tự học sẽ hiểu nhiều hơn). Ngày nay ngoài sự có mặt hầu hết các dàn nhạc dân tộc Việt nam, Ðàn Bầu có thể đàn rất nhiều những thể lọai âm nhạc của các giai điệu trên thế giới.
    Ðàn Ðáy: Ðây là 1 trong nhửng cây đàn dài nhất do ngườI Việt nam chế tácvào thờI Lê (thế kỷ XV-XVIII ) Ngày xưa nó còn có tên Vô để cầm( đàn không đáy) hay có ngườI gọI là ÐớI cầm...Trong lối hát Ả đào hay ca trù ,đàn đáy lá 1 nhạc cụ duy nhất cùng vớI phách và trống đế.Ðàn đáy rất hợp vớI loại thơ cổ âm thanh nỉ non buồn mát. VớI hệ thống gắn phím 7 cung chia đều nhau, do vậy khi ngườI hát lên cao , xuống thấp 1 chút thì ngườI nghệ sỹ không phải vặn dây lại mà chỉ cần đổI thế bấm 1 cách nhanh chóng.
    Ðàn Ðáy còn có 1 độc đáo hơn những cây đàn gảy khác là có thể tạo nên những ngón chùn khi bấm phím(Những đàn gảy khác chỉ có nhấn cao mà thôi.Nên Ðàn Ðáy bắt chước giọng nói rất hay và rất đa dạng trong cách đàn.
  5. FaMaS

    FaMaS Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    28/02/2002
    Bài viết:
    222
    Đã được thích:
    0
    NGUỒN GỐC BÀI VỌNG CỔ
    Khi nói đến cải lương, chúng ta nghĩ đến ngay Vọng Cổ. Tại sao ít khi chúng ta nghe ai nói là "hát vọng cổ", mà đa số chúng ta nghe những câu nói như: "vô vọng cổ, lên vọng cổ, xuống vọng cổ?" ,T chỉ có thể giải thích theo suy nghĩ của mình. Khi nói: "vô vọng cổ" là chuẩn bị nín thở lấy hơi để "vô", không gian là một chuỗi im lặng, không tiếng đàn; "lên vọng cổ" là vì câu đầu phải hát với giọng cao rất thánh thót như tiếng chim hót ríu rít buổi ban mai; rồi "xuống vọng cổ" thì phải ngân hơi chữ kế cuối của câu, để rồi "xuống" chữ cuối, và tiếng đàn guitar bắt đầu vô dây hòa thành một điệu hát với cái tên gọi thật là mộc mạc, "Vọng Cổ".
    Nói theo cách phát âm của người miền Nam thì là "giọng cổ", có ai trong chúng ta đã từng hiểu lầm ba chữ "hát giọng cổ" có nghĩa là hát với cái "giọng" ở trong cái "cổ" ? Mà nghĩ lại cũng có lý đó chứ. Chúng tôi cũng như các bạn, yêu thích cải lương, nhưng sự hiểu biết về bộ môn này rất là ít ỏi. Đọc qua nhiều bài báo và tài liệu nói về cải lương, đa số người ta nói đến bài "Dạ Cổ Hoài Lang" của ông Cao Văn Lầu. Ý nghĩ được truyền từ năm này qua năm khác, không ai phủ nhận điều này, thế là bài "Dạ Cổ Hoài Lang" này nghiễm nhiên được công nhận là bài "vọng cổ" đầu tiên của bộ môn cải lương.

    Trich : /NguonGocVongCo1.
  6. thosan

    thosan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    914
    Đã được thích:
    0
    Đàn Nhị còn có tên gọi khác là Cò Líu, Cò Lòn hoặc Nhị Líu, Nhị Lòn, là nhạc khí dây, chi kéo cung vĩ.
    Theo tài liệu khảo cổ đã phát hiện ở chùa Vạn Phúc (Phật Tích - Thanh Sơn - Hà Bắc) có khắc chạm một dàn nhạc ở bệ đá kê chân cột chùa Phật Tích, với những nhạc cụ có xuất xứ từ ấn Độ và Trung Hoa. Dàn nhạc đó gồm 10 nhạc công Zn mặc giống như người ChZm và chơi các loại nhạc cụ trong đó có một nhạc cụ gần giống như Đàn Hồ 2 dây và là tiền thân của cây đàn Nhị bây giờ. CZn cứ vào đó người ta đã ước đoán Đàn Nhị có thể du nhập vào Việt Nam theo con đường của người ChZm và cũng có thể du nhập theo con đường Trung Hoa tùy theo từng thời gian địa điểm khác nhau. (Theo lịch sử âm nhạc của giáo sư Trần VZn Khê và VZn Thương)
    Đàn Nhị làm bằng gỗ gụ hay trắc. Bầu cộng hưởng gọi là bát nhị. Bát nhị hình ống rỗng lòng, dài khoảng 13,8 cm, một đầu bịt da trZn hay da kỳ đà. Cần đàn tròn không có phím, đầu dưới cắm xuyên qua bầu đàn, đầu trên gọi là Thủ đàn. Thủ đàn hình đầu con cò, có gắn hai trục gỗ tròn để lên dây, có khi trục đàn được chạm khắc cầu kỳ.
    Ngựa đàn làm bằng tre hay gỗ dài 1 cm đặt khoảng giữa mặt da. Khuyết đàn còn gọi là "Cữ đàn" là một sợi tơ xe néo vào 2 dây đàn. Cữ đàn có tác dụng điều chỉnh độ cao thấp của âm thanh. Khi đưa cữ đàn xuống là làm ngắn quãng dây phát âm, đàn có giọng cao. Khi đẩy cữ đàn lên, làm dài quãng dây phát âm, đàn có giọng trầm.
    Cung vĩ làm bằng tre, hoặc gỗ được uốn cong hình cánh cung, người ta mắc vĩ như dây cung. Vĩ đàn đặt giữa hai dây, khi đàn vĩ cọ xát vào dây phát ra âm thanh.
    Đàn Nhị có 2 dây bằng tơ xe, gần đây đã thay bằng dây kim khí, được lên theo quãng 5 đúng. Ví dụ muốn đánh những bài Bắc (có tính chất vui) tương ứng với hai âm G1 - D2, bài Nam (tính chất buồn) F1 - C2, bài Chèo C1 - G1...
    Đàn Nhị thường tham gia trong dàn Nhã Nhạc, phường Bát Âm, ban nhạc Tài Tử, ban nhạc Chầu VZn, dàn nhạc sân khấu Tuồng, Chèo...
    Ngày nay nhiều nhạc sĩ đã sáng tác các tác phẩm cho cây Đàn Nhị. Nhờ những tác phẩm ấy, Đàn Nhị đang dần trở thành cây đàn độc tấu có chất lượng nghệ thuật cao.
    Hello,anh sờ tí sao em không đồng ý!!!! (Lionel Richie)
  7. thosan

    thosan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    914
    Đã được thích:
    0
    Guitare cũng gọi Lục huyền cầm hay Tây ban cầm(vì có xuất xứ từ Tây Ban Nha)nó cũng đã được xuất hiện từ khá lâu.đàn có sáu dây kim, nhưng thường đàn có năm dây. Tiếng thanh như đàn Tranh
    gọi thế theo em thì cũng chẳng nhầm được vì Thất Huyền Cầm là 1 kiểu đàn cổ của Trung Quốc.Theo truyền thuyết, cây đàn cổ cầm được sáng chế vào thời Nghiêu Thuấn, và chỉ có 5 dây thôi, nên được gọi là "ngũ huyền cầm". Về sau, hai vị hoàng đế Văn và Võ, mỗi người thêm vào một dây làm thành cây đàn 7 dây hay "thất huyền cầm". Hai dây thứ 6 và thứ 7 được gọi là dây Văn và dây Võ.
    Thất Huyền Cầm gồm có một âm bảng bằng cây ngô đồng dài độ một thước được sơn đen bóng nhoáng. Trên mặt âm bảng, ngoài 13 chấm tròn nạm xa cừ dùng làm dấu để người đàn coi theo đó mà bấm dây, có 7 sợi dây căng dài từ đầu tới cuối âm bảng. Ðàn này không có trục và nhạn như đàn tranh thường thấy.
    Thất Huyền Cầm hầu như là xuất hiện trong các truyện kiếm hiệp.bác Kiều Phong này chắc lại nghiên cứu truyện đây
    Hello,anh sờ tí sao em không đồng ý!!!! (Lionel Richie)
  8. AK_M

    AK_M Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/03/2003
    Bài viết:
    2.948
    Đã được thích:
    0
    Ðờn Ca Tài Tử Nam Bộ
    Ở Nam Bộ, kể cả dân gốc gác tại chỗ hoặc những người từ xứ xa "tới đây thì ở lại đây" đều nằm lòng câu tán dương khi nghe đờn ca tài tử vọng cổ sáu câu: Ca xuống xề nghe "ngọt" quá! Đờn nghe "muồi" quá! Hai tính từ biểu cảm mang đặc thù Nam Bộ này được chuyển hóa từ trạng thái vị giác sang trạng thái thính giác ở cấp độ cao, nói lên sự khoái cảm đến say mê, cái "đã" của người thưởng thức, cái tài nghệ của nghệ sĩ và chỉ xuất hiện khoảng 80 năm nay, tức sau khi bài Dạ Cổ Hoài Lang (nay là Vọng cổ) - bài nòng cốt trong 20 bàiTổ của đờn ca tài tử ca nhạc Cải lương: Nhạc sĩ tài hòa Cao Văn Lầu sáng tác bài Dạ Cổ Hoài Lang tại quê hương Bạc Liêu (1919) - lan nhanh ra ở Nam Bộ, nay phổ biến cả nước. Nghệ sĩ nhân dân út Trà Ôn được tôn vinh là "Đệ nhất danh ca miền Nam", "Vua vọng cổ" nổi danh từ nửa thế kỷ nay từ bài Vọng cổ.
    Tại sao người ta mê Vọng cổ, Cải lương? Về lịch sử, vào khoảng năm 1885, khi Vua Hàm Nghi xuất bôn, một nhạc quan của triều đình Huế là Nguyễn Quang Đại (Nam Bộ gọi là Ba Đợi) vào Nam Kỳ ở vùng Đa Kao, Sài Gòn, rồi xuống miệt Cần Đước, Cần Giuộc (tỉnh Chợ Lớn) rồi lại trở lên sống và qua đời tại Hộ 16 (quận 8, TP.HCM) ngày nay. Ôn dạy, phổ biến nhạc lễ, nhạc tài tử, có cải biên. Các thế hệ học trò của ông rất đông ở nhiều nơi, nhiều người nổi danh như: Sáu Thới (thầy giáo của Giáo Thinh), Năm Xem (ông ngoại nhạc sĩ Hai Biểu), Ba Đồng (Chợ Lớn), út Lăng (Bình Dương), lớp sau đó: Tư Huyện, Bảy Hàm, Tự Tụi, Văn Vĩ, Sáu Thoàn...
    Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, ở Nam Bộ đã hình thành 2 nhóm ca nhạc tài tử và tranh đua với nhau về nghệ thuật, ra sức cải tiến, nâng cao sáng tác thêm nhiều bài bản mới bổ sung vào. Trưởng nhóm miền Tây là ông Trần Quan Quờn (Ký Quờn), trưởng nhóm miền Đông là ông Ba Đợi (Nguyễn Quang Đại). Ông Ba Đợi có công lớn, đã cùng các văn nhân và học trò giỏi ra sức nghiên cứu, cải biên các bài bản gốc của ca nhạc Cung đình huế, bằng cách giản dị hóa lối ấn nhịp (nhịp hội, nhịp ngoại, nhịp lơi) song vẫn tôn trọng lòng bản, để tạo một nhịp điệu hòa hợp với ngôn ngữ, phong cách của dân Nam Bộ, dễ thâm nhập vào quần chúng. Ông Ba Đợi thường nhắc nhở học trò:"Lễ phải có Nghi. Nhạc phải có Hòa. Tiếng đàn phải đủ trầm, bổng, nhặt, khoan".
    Nếu nhạc lễ Cung đình biểu trưng cho nền văn minh, văn hóa Phú Xuân, thi ca nhạc tài tử, cải lương biểu hiện cho văn minh, văn hóa Nam Bộ. Các nhà nghiên cứu: Sơn Nam, Giáo sư Huỳnh Minh Đức, nhạc sĩ Vũy Chỗ, luật sư nhạc sĩ Tấn Nhì... đều cho rằng nhạc tài tử Nam Bộ dựa theo học thuyến Âm - Dương ngũ hành với ngũ cung: Giốc: Hò (Mộc), Chủy: Xự (Hỏa), Cung: Xang (Thổ), dựa trên nền tảng lễ nghĩa, đạo đức phương Đông mang trong mình cái gốc luân lý, mục tiêu đào tạo cung cách làm người. Nó vừa mang nét trang trọng cung kính của nhạc lễ vừa dịu êm ngọt ngào dễ hòa vào tâm hồn những con người vừa định cư ở vùng đất mới mà lòng không nguôi thương nhớ quê cũ làng xưa. Nó phù hợp vì rất đa dạng đáp ứng được mọi khía cạnh tình cảm con người, hoàn cảnh cuộc đời. Có đủ 4 điệu: Bắc, Hạ, Nam, Oán, 4 hơi: Xuân, Ai, Đào, Ngự, chia ra 3 Nam, 6 Bắc, 4 Oán, 7 Bài (Ngự)... Vẫn bản nhạc đó, người ta chỉ cần thay lời mới là sát hợp trong mọi hoàn cảnh: quan, hôn, tang, tế, biệt ly, thất tình, thất sủng... nên rất đắc dụng, nên tồn tại và phát triển hàng thế kỷ nay và sẽ lưu truyền mãi mãi. Vì nó là tiếng lòng.
    Mục đích của các bạn đờn ca tài tử là phục vụ vô tư cho các lễ hội, đình ám, đám cưới, đám giỗ, buổi tiễn đưa tân binh, đơn vị bộ đội lên đường đánh giặc... không vụ lợi, không cần thù lao, gọi là "giúp vui", mang tính cộng đồng sâu sắc, bình đẳng giữa mọi người. Ai biết đờn thì đờn, biết ca thì ca, một bài cũng được, thậm chí đờn ca có lỡ "rớt" nhịp cũng chẳng ai chê cười mà còn động viên cố gắng. Những người không biết đờn ca, đủ cả trẻ già trai gái, cả người đi đường thích thì tham gia, cũng tự nhiên đến ngồi nghe với thái độ chăm chú thưởng thức càng động viên các tài tử ca đời càng hay hơn, nếu lâu lâu có bánh trái, trà lá bồi dưỡng cho ban tài tử càng tốt. Ban tài tử nào, ở ấp, xã nào cũng có đông đảo khán, thính giả trung thành. Cuộc chơi không hạn định giờ giấc. Đến khuya, khi mọi người cảm thẩy thỏa mãn thì chia tay ra về, hẹn lại vào buổi tối hôm sau.
    Cứ như vậy thành lệ. Không ai bảo ai, hàng ngày làm lụng vất vả trên đồng ruộng, hoặc có chuyện đi xa, đến chiều phải tranh thủ về để kịp có mặt tham gia hoặc thưởng thức buổi đờn ca tài tử. Năm này tháng nọ cũng lặp lại những bài bản củ - lâu lâu mới có lời ca mới - nhưng người đờn lẫn người nghe vẫn không ai thấy chán, mà trái lại họ như bị ghiền (nghiện) không có không được. Thỉnh thoảng, để "thay đổi không khí" vài người giỏi chữ nghĩa, nắm vững bài bản vừa sáng tác vừa ca, gọi là "Văn sống" rất được hoan nghênh. Nhiều nam, nữ thanh niên sáng dạ nghe riết thuộc lời, thuộc giọng, được vào ca, được truyền nghề. Ông Trượng - Tiên Bửu, Bùi Kiệm - Nguyệt Nga, Lan - Điệp, Tôn Tẫn giả điên... là những bài vỡ lòng. Mỗi người tự giác rèn luyện tiếng đờn, lời ca cho thêm trau chuốt ngọt ngào.
    ở Cần Giuộc, xóm ấp nào cũng có ban đờn ca tài tử, nòng cốt từ những người giỏi đờn ca tập hợp lớp trẻ làm thầy truyền nghề trực tiếp. Khi có lực lượng đờn ca khá, ai cũng muốn thi thố tài năng bằng cách mở rộn giao lưu với ban nhạc các ấp, xã khác. Bí quyết chắc thắng là phải vững nhịp mới tránh được "nhịp lọt" khỏi bị rớt khi gặp đối thủ có bản lĩnh đờn nhử, đờn phá. ở Cần Đước có Sáu Nữa nổi tiếng đờn nhịp lọt.
    Thú chơi đờn ca tài tử còn vì phong cảnh hữu tình, gợi cảm, gần với thiên nhiên. Ngoài số cuộc chơi ở các lễ hội đình đám ngồi bộ ván trải chiều bông nghiêm trang, phần nhiều các ban ca nhạc tài tử thích chơi giữa cảnh trời trăng mây nước. Có thể dưới bóng mát gốc me, gốc xoài, gió lộng, trên gò đất cao cạnh ao làng được bao bọc bốn bề là đồng lúa xanh tươi, vàng rực. Hay trên chiếc thuyền trôi xuôi êm ả theo dòng nước ***g lộng trăng rằm, nên thơ tĩnh mịch, tiếng lá dừa nước hai bên bờ rì rào dịu êm như nền nhạc đệm làm tăng vẻ hữu tình cho buổi đờn ca tài tử trên sông.
    Hò ơi!... Gió đưa con buồn ngủ lên bờ, Mùng ai có trống (xin) cho ngủ nhờ một đêm!
    Câu hò huê tình nhẹ nhàng có ý trêu chọc bâng quơ của chàng thanh niên nào đó thường cũng là câu mở đầu đánh giá cho bài ca Văn Thiên Đường, Trường Tương Tư, hay vọng cổ Tình anh bán chiếu... Tiếng đời, lời ca ngân nga hòa quyện vào làn gió lan tỏa mãi trên mặt sông đầy.
    ở nông thôn Nam Bộ, việc biết đờn ca tài tử như là lẽ đương nhiên. Trên đường đi càu, đi cấy gặt lúa, nhất là khi chèo xuồng một mình trên sông rộng, hay chống cuồng ba lá thanh thoát giữa rừng rậm U Minh hoặc trong mênh mông đồng nước Tháp Mười, không ai giấu nổi tình cảm trắc ẩn riêng tư. Những bài ca vọng cổ nằm lòng, bài ruột sẽ được trào dâng, thậm chí có bài nội dung không dính dáng gì với hoàn cảnh thực tại vẫn ca "chay" (không có đệm đờn) vẫn phóng khoáng lời ca có sức truyền cảm lạ lùng. Không có ai nghe thì ca cho "mình ên" nghe cho đã. Vì "nghệ sĩ" trước tiên là người thưởng thức sản phẩm của chính mình.
    "Nhìn trời hiu quạnh rừng đêm sương gió lạnh; hướng quê nhà lòng thêm chạnh nỗi niền riêng"... Sầu vương Biên ái, nói lên tâm trạng người chiến binh đồn trú nơi biên cương nhớ quê nhà. "Hận sông Gianh" rất được thường dùng khi đất nước còn nỗi đau chia cắt hai miền Nam - Bắc. Lãng mạn cách mạng không gì qua bài "Dệt chặng đường Xuân" ca ngợi anh chị giao liên liên lạc quan trong gian khổ hy sinh, ngày đêm như con thoi khắp sông rạch, đồng bưng của khu Tây Nam Bộ kiên cường hết lòng đánh giặc. Thời đánh Mỹ, nhiều cán bộ, chiến sĩ Giải phóng quân súng đạn oằn vai trên đường hành quân ra trận vẫn mở radio bỏ túi nghe 6 câu vọng cổ "Long An xanh màu lá mạ" trong cảnh bom đạn Mỹ tàn phá quê hương, "Bài ca Trường Sơn" nỗi lòng người con người con An Gian Nam Bộ đang đứng trên đỉnh Trường Sơn thương nhớ về Bảy Núi quê nhà mà khắc ghi mối căm thù, tự động viên mình, động viên đồng đội quyết chiến quyết thắng.
    Lời ca của bản Vọng cổ cũng được trau chuốt, súc tích trữ tình như thơ. Cô giao liên đưa "chiến sỉ qua sông Sài Gòn như chở trăng mây trời" sang sông. Chị du kích "sau đợt chống càn, bầu sữa căng, về nhà cho con bú không quên hái bông sen hồng mọc lên trong hố bom đìa" giành tặng con yêu. Anh hùng đến độ lạ thường. Coi việc đánh giặc như nhổ cỏ bắt sâu hàng ngày ở vườn cà, ruộng lúa... Vọng cổ tài tình như vậy, chính trị, triết lý, đạo lý nhân bản sâu sắc thời đại.
    Bởi vậy, không chỉ giới công, nông, binh mà cả giới trí thức gần thế kỷ nay ở Nam Bộ rất yêu thích và tham gia học đời ca tài tử, cải lương. Những học trò nổi danh của thầy Ba Đợi, thầy Sáu Lầu có nhiều thầy thông, thầy ký, đốc học, hương chức hội tề. Vì đờn ca tài tử vừa bình dân, vừa cao cấp, vừa gần gũi, vừa thâm sâu, lời ca nguyện chặt tiếng đờn, tiếng nâng bổ lời ca mang theo cả tâm hồn nghệ sĩ, người thưởng thức. Tôi đã được nghe các ban, các CLB đờn ca tài tử của các huyện, thị ở Long An, CLB đờn ca tài tử thị xã Cà Mau, CLB đờn ca tài tử Cao Văn Lầu - thị xã Bạc Liêu... cây đờn ghi ta điện phím lõm có xôm tụ, nhưng không thay được các cây đờn: Cò, Kìm, Tranh, Sến cổ truyền vẫn luôn là chủ đạo.
    Giáo sư Trần Văn Khê đã có nhận xét rất chính xác: "... chân phương hoa lá trong bài vọng cổ đã được áp dụng một cách thần tình. Hoa chẳng những đẹp mà còn thơm. Lá chẳng những xanh mà còn tươi. Thành ra bản Vọng cổ có cái tươi máy, cái đẹp đẽ, có cái phong phú, cái dồn dào mà sức sống, sức đóng góp của tất cả những người nghệ sĩ, từ đứa con của bác Sáu Lầu sáng tạo, nuôi dưỡng cho nó lớn lên mạnh mẽ, nó đẹp đẽ..." Đó chính là ma lực, sức hấp dẫn, làm say mê lòng người, ai biết qua rồi khó lòng bỏ được. Vì nó là bản sắc văn hóa Nam Bộ, văn hóa Việt Nam.


  9. AK_M

    AK_M Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/03/2003
    Bài viết:
    2.948
    Đã được thích:
    0
    Có nhiêù , nhất là các bản đàn vọng cổ, bài bản cho nhạc sinh học đàn tranh :
    Theo truyền thống miền Trung, dây Bắc có 10 bài ngự
    1. Phẩm tuyết2. Nguyên tiêu
    3. Hồ quảng
    4. Liên hoàn
    5. Bình nguyên
    6. Tây mai
    7. Kim tiền
    8. Xuân phong
    9. Long hổ
    10.Tẩu mã
    Về bài bản theo dây Nam thì có :
    1 Nam ai (còn gọi là ai giang)
    2. Hành vân
    3. Nam xuân (còn gọi là Hạ giang hay Nam chiến)
    4. Nam bình (còn gọi là vọng giang)
    5. Chinh phụ
    6. Tứ đại cảnh
    7. Tương tư khúc
    Truyền thống miền Nam trong nhạc đàn tài tử gồm có một số bài dây Bắc:bài nhỏ:
    1. Lưu thủy đoản
    2. Bình bán
    3. Kim tiền Huế4. Tây thi vắn5. Khổng Minh tọa lầu6. Mẫu tầm tử
    7. Long Hổ hội
    8. Thu hồ
    6 bài lớn:
    1. Lưu thủy trường
    2. Phú lục
    3. Bình bán chấn
    4. Xuân Tình
    5. Tây thi
    6. Cổ bản
    7 bài lớn trong nhạc lễ :
    1. Xàng xê
    2. Ngũ đối thượng
    3. Ngũ đối hạ
    4. Long đăng
    5. Long ngâm
    6. Vạn giá
    7. Ðiệu khúc
    Các bài điệu Quảng gồm có:
    1. Ngũ điểm
    2. Bài tạ
    3. Khốc hoàng thiên
    4. Xang xừ líu
    Dây Nam gồm có:
    1. Nam ai
    2. Nam xuân
    3. Ðảo ngũ cung
    4. Tứ đại oán
    5. Văn Thiên Tường
    6. Vọng cổ
  10. AK_M

    AK_M Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/03/2003
    Bài viết:
    2.948
    Đã được thích:
    0
    Sưc Hấp Dẫn Của Những Ðiệu Lý Việt Nam
    Thương nhau trường đoạn đoạn trường
    Lụy lưu lưu lụy dạ dường kim châm
    (Lý thương nhau)


    Hoặc điệu "lí năm canh" diễn tả nỗi lòng nhớ nhưng chờ đợi, âu lo:
    Canh một thơ thẩn vào ra
    Chờ trăng lặn chờ ba, ba tàn.
    Những bài hát nói đến tình vợ chồng thường đượm vẻ buồn sâu xa thầm kín khác với những bài hát khắc họa tình yêu trai gái hồn nhiên như Lí xăm xăn, Lí cây bông.
    Bông xanh bông trắng bông vàng
    Bông lê bông lựu đố nàng mấy bông
    Những bài Lý ở miền Nam có đặc điểm là ngắn gọn, mỗi bài chỉ có một lời, giai điệu có những quãng nhảy xa tạo nên sắc thái sâu lắng trầm mặc hơn so với các miền khác (nhất là ở những nốt bán âm giàu tính chất thương cảm). Phần lớn những bài hát đều mang phong cách ca xướng, Lý chiều chiều là mựt trong những bài hát giao duyên tự sự hay nhất trong kho tàng dân ca miền Nam với những câu hát mộc mạc đằm thắm.
    Chiều chiều ra đứng lầu tây
    Thấy cô gánh nước tưới cây ngô đồng
    Xui trong lòng tui thương
    Thương cô tưới cây ngô đồng
    Vài, ai mà không chạnh lòng xao xuyến khi nghe những câu hát thắm đượm ân tình của Lý vọng phu. Âm điệu từ khúc hát vang chứa đựng bao nhiên uẩn khúc của người vợ trông chồng suốt những năm tháng biệt ly cách trở.
    "Cái dạ em trông chàng mà không thấy chàng đâu"
    Nỗi đau chất chứa đến nỗi bật ra câu hát:
    "Chi mà tệ tệ lắm chàng, chi mà bạc, bạc lắm chàng"
    Cùng lới Lí vọng phu làn điệu Lí tàng tít cũng xuất hiện nhiều trên sân khấu tuồng và dân ca kịch bài chòi của những tỉnh miền Trung. Có người cho rằng hai điệu lí ấy được hình thành từ sân khấu truyền thống khu V (Lập luận này thiếu sức thuyết phục vì sân khấu thuộc loại hình nghệ thuật sinh sau đẻ muộn). Có thể những âm điệu này sẵn trong dân gian và sau đó được các tác giả đưa vào sân khấu với những biến dạng cần thiết để phù hợp với nội dung kịch bản, chẳng hạn:
    "Nín mà nghe qua ru qua hát, dạo quanh vòng bót gác xem chơi"
    Tuy vậy phần gốc của câu hát vẫn được giữ nguyên vẹn:
    "Tàng tít tang nòn nang tít tàng tàng"
    Chính vì nắm được thanh âm đặc trưng của làn điệu này mà nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đã vận dụng một cách tài tình khi sáng tác ca khúc nổi tiếng "Quảng Nam yêu thương". Bên cạnh những điệu lí ngân nga như khúc tâm tình của người dân miền Trung còn có nhiều điệu lí âm điệu sinh động, tiết tấu sôi nổi, khắc họa rõ nét những sinh hoạt đời thường. Lí đi chợ dí dỏm, hồn nhiên miêu tả cảnh bán mua:
    Rủ nhau đi chợ sông Hàn
    Trước thời bán vặt, sau là mua ăn.
    Hoặc nhịp điệu dập dồn trong Lí thương:
    Xem lên hòn núi Thiên Thai
    Thấy đôi Chiền Chiện ăn xoài chín cây
    Lí ngựa ô có mặt trên khắp ba miền Bắc - Trung - Nam, nhưng tại Quảng Nam làn điệu này có những nét riêng, kín đáo, sâu sắc.
    Ngựa ở yên thắng kiệu vàng
    Yên tra khớp bạc đưa chàng hồi hương.
    Mỗi làn điệu của lí có phong vị độc đáo, có dáng dấp riêng, rất súc tích và khá uyển chuyển trong sự thể hiện nội dung. Từ các câu ca dao quen thuộc, ông cha ta đã phá vỡ tiết điệu sẵn có của thể thơ sáu tám bằng cách xử lý tài tình hệ thống tiếng đệm, tiếng láy đưa hơi với phong cách điệp từ í a, tình tang, là, mà, trông... để ngâm ngợi thêm tô đậm thêm những chỗ nhấn giàu màu sắc cho làn điệu và làm đa dạng thêm cảm xúc của người hát.
    Chúng ta cũng có thể nhận thấy càng vào phía Nam, các làn điệu dân ca càng có xu hướng bổ sung thêm dạng thang âm có bán cung. Đó là điệu thức oán, dần dà trở thành dạng đặc thù trong ca nhạc truyền thống các tỉnh phía Nam. Các điệu lí cũng vận dụng hầu hết dạng thang âm điệu thức dân tộc, chính vì thế mỗi làn điệu đều có sức hấp dẫn riêng của nó để có thể lưu truyền từ đời này sang đời khác, dù có thay đổi chút ít nhưng vẫn giữ được trực âm chính trong hệ thống ngũ cung nguyên bản, nhờ vậy người nghe khó nhầm lẫn giữa điệu lí của vùng này với vùng khác. Như mạch nước ngầm, những điệu hát lí có sức lan tỏa rộng khắp trong nhân dân và trở thành những viên ngọc quý trong kho tàng dân ca Việt Nam.

Chia sẻ trang này