1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hồ Tây (Hà nội) và các danh thắng quanh hồ??????

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi KINGOFSEA, 19/03/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. KINGOFSEA

    KINGOFSEA Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/02/2004
    Bài viết:
    367
    Đã được thích:
    0
    Hồ Tây (Hà nội) và các danh thắng quanh hồ??????

    Em đang rất ít tư liệu về hồ tây cho 1 bài viết,em đã đi tìm hiểu thực tế nhưng ko đc nhiều
    Đến chùa Kim liên,chùa Võng Thị thậm chí Phủ Tây Hồ nhưng cũng chẳng thể hỏi ai hoặc chí ít là 1 cái bảng tóm tắt lịch sử,sách vở thì quá ít
    Vậy bác nào có lịch sử về Hồ tây và các danh thắng quanh hồ thì cho em biết nhé
    THanks much!!!!!!!!
    sẽ vote 5* cho bất cứ bác nào tham gia
  2. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0

    CHÙA TRẤN QUỐC ​
    Chùa tọa lạc phía Nam hồ Tây, đường Thanh Niên, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Sách Từ điển di tích văn hóa Việt Nam (Hà Nội, 1993) giới thiệu chùa nguyên là chùa Khai Quốc, dựng từ thời Tiền Lý Nam Đế (541-547) tại thôn Yên Hoa, gần bờ sông Hồng. Đến đời Lê Trung Hưng (1615), chùa được dời vào trong đê Yên Phụ, dựng trên nền cũ cung Thúy Hoa (thời Lý) và điện Hàn Nguyên (thời Trần). Trong các năm 1624, 1628 và 1639, chùa được tiếp tục trùng tu, mở rộng. Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng ở chùa vào năm 1637 về công việc tôn tạo này. Đầu đời Nguyễn, chùa lại được trùng tu, đúc chuông, đắp tượng. Năm 1821, Vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1824, Vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc từ đời Vua Lê Hy Tông đã được nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.,Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.

    [​IMG]
    Chùa Trấn Quốc
    Hà Nội ​
    --------------------------------------------------------------------------------
    Chùa Trấn Quốc là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nằm cạnh Hồ Tây, ở cuối đường Thanh Niên, quận Ba Đình, Hà Nội. Chùa được xây từ thời Lý Nam Đế (541-547) ở gần sông Hồng, đến năm 1615, được dời vào vị trí ngày nay. Chùa có vườn tháp cổ u tịch, có nhiều tượng Phật giá trị, đặc biệt là tượng Thích Ca nhập Niết Bàn. Chùa là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.
    [​IMG]
    Theo Từ điển di tích văn hóa Việt Nam (Hà Nội, 1993), thì chùa Trấn Quốc nguyên là chùa Khai Quốc, dựng từ thời Tiền Lý (Lý Nam Đế, 541-547), tại thôn Y Hoa, gần bờ sông Hồng. Đến đời Lê Trung Hưng (1615), chùa được dời vào trong đê Yên Phụ, dựng trên nền cũ cung Thúy Hoa (thời Lý) và điện Hàn Nguyên (thời Trần). Trong các năm 1624, 1628 và 1639,chùa tiếp tục được trùng tu, mở rộng. Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng ở chùa vào năm 1639 về công việc tôn tạo này. Đầu đời Nguyễn, chùa lại được trùng tu, đúc chuông, đắp tượng. Năm 1821, Vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, Vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời Vua Lê Hy Tông đã đễợc nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.
    [​IMG]
    Vườn Tháp Tổ.
    Ta hoài niệm cùng vườn tháp nhấp nhô cao thấp, nhỏ to lời vang vọng giữa hư vô, nghe rõ tiếng ngọn chua me, cỏ ấu đang phập phồng hơi thở dưới chân tháp đầy hơi ẩm sương hồ, nghe lao xao trong gió tiếng mõ cầu kinh đang luận bàn Sắc Sắc Không Không. Ra phía trước sân chùa, thả tầm nhìn vào mênh mông sóng biếc, ta đứng dưới gốc bồ đề nguyên sinh ra từ Tây Trúc, được Tổng thống ấn Độ mang đến đây cho cây bén rễ, mang theo mầu Thiền. Mỗi chiếc lá đề có hình tim, cuống nhỏ nên mỏng mảnh, chỉ phơ phất gió đã rung rinh rào rạt.
    [​IMG]
    Cũng giống như hầu hết những ngôi chùa khác trên đất nước Việt, chùa Trấn Quốc có nhiều lớp, có nhà bái đường, nhiều tượng Phật từ thấp đến cao, từ to đến nhỏ, vàng son lấp lánh, hương khói quanh năm... Đặc biệt có pho tượng Thích Ca nhập Niết Bàn bằng gỗ thếp vàng lộng lẫy.
    Chùa còn có 14 tấm bia, trong đó có bia của Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính, tiến sĩ Phạm Quý Thích dựng năm 1639 và 1015...
    Chùa Trấn Quốc nằm trên bán đảo phía đông của Hồ Tây, nên thuộc đất làng Yên Phụ, nơi có ngôi đình thờ thánh. Vào mùa xuân hằng năm dân làng tổ chức đám rước từ đình sang chùa rồi từ chùa về làng bằng cả một đoàn thuyền nối nhau cờ reo trống thúc tưng bừng.
    Người vào chùa Trấn Quốc, ngoài việc thành tâm lễ Phật còn là để có một chút ngao du ngắn, được thăm một danh lam nổi lên thanh bình giữa phố phường ồn ào, tất bật. Tịch mịch ngay giữa lòng thành phố, cái đáng quý còn đáng được bình phương lên nữa.
    Chiều Trấn Quốc. Trời bình lặng. Hồ như một lão tăng chân tu, ngồi thiền trong hoàng hôn, lắng nghe câu kệ giữa bốn bề mây nước, dù phế hưng vẫn rộn rã những nẻo nào...
    Hà Nội vẫn may mắn còn rất nhiều chùa chiền đền miếu. Nào Kim Liên, Một Cột, Liên Phái, Quán Sứ, Thái Cam... Nào đền Quán Thánh, Bích Câu đạo quán, nào đền Bạch Mã, đền Lý Quốc Sư...
    Riêng Trấn Quốc vẫn thuộc loại chùa cổ nhất, như đã đắc đạo trên đường tu luyện mà mặt nước Hồ Tây đầy huyền thoại làm chứng quả. Chùa không nhiều bậc đá rêu phong, hay núi non trùng điệp, nhưng thật yên bình cùng sóng nước ngân nga, vẫn có thể cho hồn ta giọt nước cành dương, rửa đi một phần thế tục, để làm Lành làm Thiện với nhân gian...


    Băng Sơn
    http://www.thuvienhoasen.org/cvn-hn-tranquoc.htm
  3. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Hồ Tây
    Theo thudo.gov.vn ​

    Nói về Hồ Tây, nhà thơ Cao Bá Quát đã từng ví "Hồ Tây chân cá thị Tây Thi" (Hồ Tây đích thực là nàng Tây Thi). Có lẽ chưa một người nào yêu Hồ Tây và mê say Hồ Tây đến thế!
    Hồ Tây, mặt gư­ơng của Hà Nội, lá phổi của chốn Long thành có diện tích rộng hơn 500 hecta với một bề dày lịch sử mấy nghìn năm. Nơi đây đã từng đọng lại và xếp lớp biết bao huyền thoại, in dấu biết bao tao nhân mặc khách của chốn phồn hoa thứ nhất Long thành. Đã, vẫn và sẽ còn là đề tài của thơ ca, nhạc họa...
    Theo giải thích của các nhà khoa học thì Hồ Tây vốn là một khúc của con sông Hồng. Hồ xưa kia rộng và dài từ Tây qua Bắc sang Đông, như­ng đã đ­ược, hay bị ngư­ời Thăng Long - Đông Đô - Đông Kinh cùng với thời gian đắp và lấp thành từng đoạn. Vì thế mà thành hồ Cổ Ngựa (khoảng phố Phạm Hồng Thái sang Hàng Than, nay cũng đã bị lấp nốt), rồi hồ Trúc Bạch (hồ Giặt lụa) và Hồ Tây của ngày hôm nay. Đê Cố Ngự qua văn bia chùa Trấn Quốc cho biết đ­ược đắp ngăn hồ khoảng năm 1620, có tên là Cố Ngự Yển, nghĩa đen là đập ngăn nư­ớc, về sau đọc chệch là Cổ Ngư và nay là đư­ờng Thanh Niên.
    Vẻ đẹp của Hồ Tây còn đư­ợc điểm tô thêm bởi những di tích, cảnh đẹp của các làng nghề xung quanh hồ như­ Bến Trúc, Đồng Bông (Nghi Tàm), đàn thề Đồng Cổ, chợ đêm Khán Xuân và những câu chuyện về tiếng đàn hành cung thời chúa Trịnh cũng nh­ư những cánh Sâm Cầm thường về rợp bóng mặt hồ những ngày tháng Giêng... Thần thoại dẫn ta trở về với một Hồ Tây huyền thoại với những cái tên khác nhau, mỗi tên hoặc là lư­u giữ một sự tích về nguồn cội hoặc sự tạo lập của hồ, song rất lạ là tên nào cũng đẹp.
    Một trong những cái tên như­ thế là hồ Trâu Vàng (Kim Ngưu hồ). Chuyện kể rằng trên núi Tiên Du có trâu vàng, nhà sư lấy tích trư­ợng yểm trán trâu, trâu bỏ chạy, húc đất thành thôn Húc, quần đất thành vũng Trâu Đằm (Văn Giang, Hưng Yên), chạy ngư­ợc lên thành sông Kim Ngư­u. Cuối cùng Trâu Vàng ẩn xuống; Lại có chuyện nhà sư­ Không Lộ (tức Lý Quốc Sư­) dùng phép thuật thu hết đồng của ph­ơng Bắc, đúc thành quả chuông, chuông đánh lên ngân nga, trâu vàng ph­ương Bắc ngỡ tiếng mẹ gọi bèn chạy sang ta, quần mãi đất sụp thành hồ, rồi ẩn xuống đó luôn. Từ đó hồ thành tên hồ Trâu Vàng. Sư­ Không Lộ đư­ợc đồng nhất với ông Khổng lồ của huyền thoại thợ đúc đồng Hà Nội và được thờ làm ***** nghề đúc đồng. Chùa Thần Quang bên bờ Hồ Tây trong vùng Ngũ Xã đúc đồng thờ vị *****­ Không Lộ đó.
    Mù Sương cũng là một tên khác của hồ, còn gọi là Dâm Đàm, gắn liền với số phận người dân chài Mục Thận và Thái sư đầu triều Lý Lê Văn Thịnh. Ngoài ra hồ còn có tên khác nh­ư Đầm Xác Cáo, gắn với câu chuyện cuộc chiến tranh giữa Long Quân và con cáo chín đuôi thành tinh ở vùng n­ước này. Địa danh "Hồ Khẩu", "Cáo Đỉnh" ngày nay vẫn còn lư­u giữ ở các làng quanh vùng Hồ Tây.
    Hồ Tây, Đầm Xác Cáo - hồ Trâu Vàng - hồ Mù S­ương, mỗi cái tên gắn liền với một truyền kỳ. Ta bắt gặp ở đây nơi lắng hồn núi sông ngàn năm, lắng đọng đủ mọi chủ đề thần thoại Việt Nam, giàu chất thơ và mộng!
    http://www.vtv.vn/vi-vn/VTV2/datnuoc/2004/12/31264.vtv
    Được nguyenlytk21 sửa chữa / chuyển vào 13:34 ngày 19/03/2006
  4. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    HỒ TÂY ​
    [​IMG]
    Hồ Tây, lá phổi của Hà Nội, nằm ở phía tây bắc thành phố, hồ rất rộng lớn, có diện tích hơn 500 ha với một bề dày lịch sử hàng ngh́n năm. Đường ṿng quanh hồ dài tới 17km. Ngành địa lư lịch sử đă chứng minh rằng hồ là một đoạn sông Hồng cũ c̣n rớt lại sau khi sông đă đổi ḍng.
    Hồ có rất nhiều tên gọi: Hồ Tây, hồ Mù Sương (Dâm Đàm), hồ Trâu Vàng (Kim Ngưu hồ), Đầm Xác Cáo. Mỗi tên gọi lưu giữ một sự tích về nguồn cội của hồ Tây huyền thoại.
    Hồ là một thắng cảnh nổi tiếng của thủ đô. Những ngày

    sóng yên gió lặng, du thuyền trên Hồ Tây là một thú tao nhă.
    Hồ là một thắng cảnh nổi tiếng của thủ đô. Những ngày sóng yên gió lặng, du thuyền trên Hồ Tây là một thú tao nhă. Nếu làm một cuộc đi dạo quanh hồ th́ đồng thời cũng được thăm khá nhiều di tích và thắng cảnh. Làng Nghi Tàm, quê hương nhà thơ "Bà huyện Thanh Quan" với chùa Kim Liên có kiến trúc độc đáo; làng Nhật Tân nguồn hoa đào mỗi độ xuân về, rồi làng Xuân Tảo với đền Sóc thờ Thánh Gióng, làng Trích Sài có chùa Thiên Niên thờ bà tổ nghề dệt lĩnh, sang làng Kẻ Bưởi có nghề làm giấy cổ truyền và đền Đồng Cổ nơi bách quan hội thề thời Lư, làng Thụy Khuê có chùa Bà Đanh nổi tiếng một thời... Và đặc sắc nhất là đền Quán Thánh, chùa Trấn Quốc.


    Hiện nay, Hồ Tây và khu vực xung quanh được chú trọng phát triển thành khu du lịch, các khách sạn lớn lần lượt mọc lên, biến Hồ Tây thành chỗ nghỉ ngơi, thưởng lăm lư tưởng. Hồ c̣n là nơi nuôi trai lấy ngọc và nuôi cá mang lại lợi ích kinh tế cao cho thủ đô.
    Cùng với hồ Trúc Bạch, Hồ Tây làm giàu thêm chất thơ ở nội thành Hà Nội.
    [​IMG]
    _________
    http://www.nhungtrangvang.com.vn/Thongtin_hanoi/Danh_thang/yp_hotay.asp
    Được nguyenlytk21 sửa chữa / chuyển vào 13:40 ngày 19/03/2006
  5. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Sen Hồ Tây​
    [​IMG]
    Mộng Đắc Thái Liên
    Nguyễn Du​
    1-
    Khẩn thúc giáp điệp quần
    Thái liên trạo tiểu đỉnh
    Hồ thủy hà xung dung
    Thủy trung hữu nhân ảnh
    2-
    Thái thái Tây Hồ liên
    Hoa thực câu thướng thuyền
    Hoa dĩ tặng sở úy
    Thực dĩ tặng sở liên
    3-
    Kim thần khứ thái liên
    Nãi ước đông lân nữ
    Bất tri lai bất tri
    Cách hoa văn tiếu ngữ
    4-
    Cọng tri liên liên hoa
    Thùy giả liên liên cán
    Kỳ trung hữu chân ty
    Khiên liên bất khả đoạn
    5-
    Liên diệp hà thanh thanh
    Liên hoa kiều doanh doanh
    Thái chi vật thương ngẫu
    Minh niên bất phục sinh
    Nguyễn Du
    MỘNG HÁI SEN (bản dịch I)
    1-
    Vén cao quần cánh ****
    Bơi thuyền hái sen tươi
    Mặt hồ rung rinh nước
    Lung linh in bóng người
    2-
    Sen hồ Tây mãi hái
    Gương, hoa chất khoan nhiều
    Hoa tặng người ta kính
    Gương gửi người ta yêu
    3-
    Hái sen từ khi sớm
    Hẹn cùng cô láng giềng
    Chẳng hay khi nào đến
    Cách hoa tiếng cười duyên
    4-
    Hoa sen người thương mến
    Cọng sen kẻ thiết tha
    Thân tơ hoài vương vấn
    Khó mà chia cách xa
    5-
    Lá sen màu xanh biếc
    Hoa sen đẹp nõn nà
    Hái sen mà chạm ngó
    Sang năm khó nở hoa
    Hải Đà phỏng dịch
    MỘNG HÁI SEN (bản dịch II)
    1-
    Quần thêu cánh **** vén lên
    Thuyền con bơi nhẹ hái sen giữa trời
    Nước hồ lai láng khôn vơi
    In sâu đáy nước bóng người lung linh
    2-
    Sen hồ Tây hái liền tay
    Hạt thơm hoa ngát khoan đầy thuyền trôi
    Người kính nể, tặng hoa tươi
    Hạt thơm dành tặng cho người mến thương
    3-
    Sáng nay dậy sớm hái sen
    Hẹn cô hàng xóm nhà bên đi cùng
    Chẳng hay lúc gặp nhau chung
    Tiếng người cười nói chập chùng bóng hoa
    4-
    Muôn người yêu thích hoa sen
    Lắm người lại mến thân sen lạ thường
    Thân mềm vấn sợi tơ vương
    Quấn quanh đâu thể biết đường lìa ra
    5-
    Lá sen biếc ngọc xinh xinh
    Hoa sen mơn mởn hữu tình làm sao
    Ngó sen vô ý chạm vào
    Sang năm sen chẳng thể nào nở hoa
    Hải Đà phỏng dịch

    _________
    http://www.vuonghaida.com/Thailienkhuc/Mongdacthailien_nguyendu.htm
    Được nguyenlytk21 sửa chữa / chuyển vào 13:51 ngày 19/03/2006
  6. KINGOFSEA

    KINGOFSEA Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/02/2004
    Bài viết:
    367
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn các bác đã tham gia,nhưng những thông tin đó em đã search bằng google hết rùi,bác nào còn thông tin nào độc ko?
    Kiểu như về phủ tây hồ,chùa võng thị,chùa Kim liên,các làng nghề ấy????
    Em đã vote cho mọi người rồi
    Các bác thật nhiệt tình ,cảm ơn các bác nhé
    THANks much!!!!!!!!!!
    Mọi người cùng tìm hiểu về hồ tây nào,người HN cũng nên biết chút về hồ tây để mai sau có đi đâu cũng tự hào mà kể cho mọi người HN có hồ tây đẹp và huyền bí thế nào
    EM xin góp vào ne`:Kim nguu
    Suốt tháng Giêng, từ mùng Một Tết, không lúc nào là không có người đến dâng lễ ở phủ Tây Hồ bên bờ Hồ Tây, Hà Nội. Đã tới phủ là tới cả đền Kim Ngưu ở bên cạnh phủ, song có lẽ ít người tìm hiểu nguồn gốc di tích này?
    Đền Kim Ngưu ở làng Tây Hồ. Làng này nay thuộc phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội, đang rất nổi tiếng với ngôi phủ thờ Mẫu. Điều không phải vô cớ khi xung quanh hồ có tới 13 làng mà chỉ có làng này được mang tên của hồ. Có lẽ là do làng nằm trên một dọi đất dài nhất ăn sâu vào tới nửa lòng hồ.
    Ở đây ngoài ngôi phủ còn có có ngôi đền thờ Trâu vàng - Kim Ngưu - cái tên đã gắn với một huyền thoại suy nguyên giải thích nguồn gốc của Hồ Tây mà một thuở còn có tên là hồ Kim Ngưu. Thơ cổ có câu:
    Ngưu hồ dĩ biên tam triều cục
    Long Đỗ nhưng lưu bách chiến thành
    Nghĩa là:
    Hồ Trâu (vàng) đã thay đổi qua ba triều đại
    Long Đỗ vẫn còn toà thành bách chiến
    Sách Lĩnh Nam chích quái có hai lần nói tới lai lịch Trâu vàng. Lần thứ nhất là ở ?oTruyện Hồ Tinh?. Sau khi kể về việc Lạc Long Quân diệt cáo chín đuôi, truyện có câu kết: ?oSau lập đền Kim Ngưu để trấn áp yêu quái?. Lần thứ hai là ở ?oTruyện con Trâu vàng huyện Tiên Du?. Xin nhắc lại vài ý chính:
    ?oNúi Tiên Du có tinh Trâu vàng Kim Ngưu nửa đêm thường toả sáng. Có nhà sư lấy tích thượng yểm lên trán trâu. Trâu bỏ chạy húc vào đất làm sụp thành cái hồ. Nơi đó là thôn Húc sau này. Trâu chạy qua địa phận Văn Giang, qua các xã Như Phượng, Như Loan, Đại Lan, Đa Ngưu? Trâu lại từ trong bến ra sông Cái, đến Ninh Giang, đi men phủ Lý Nhân, theo ven sông Cái tới sông Tô Lịch, chỗ ấy chính là Tây Hồ. Thuở đó Cao Biền hay cưỡi diều bay trên không để yểm các thắng cảnh. Biền thấy trâu đi vào Dâm Đàm, nay là Tây Hồ rồi không thấy trâu đâu nữa. Người xưa đã có thơ rằng:
    Kim Ngưu do ẩn tại hồ trung
    Thuỷ hạt nan tầm bất kiến tung
    Đại Việt Nam an tồn thánh chủ
    Cao Biền hạ bút hận vô cùng
    Tạm dịch:
    Trâu vàng còn ẩn tại hồ sâu,
    Nước cạn mong tìm chẳng thấy đâu
    Đại Việt bình yên nhờ thánh chúa,
    Cao Biền hạ bút hận muôn thu.
    Như vậy theo Lĩnh Nam chích quái thì con Trâu vàng từ núi Thiên Du chạy sang, tới Hồ Tây thì biến xuống hồ (tức là khi đã có Hồ Tây) và thời gian được xác định là đời Cao Biền tức thế kỷ thứ IX.
    Ở sách Thăng Long cổ tích khảo thì sự tích Trâu vàng có khác chút ít. Mục ?oĐền Kim Ngưu? của sách nay đã chép rằng:
    ?oTương truyền đời Đường, Cao Biền làm Tiết độ sứ An Nam đô hộ phủ, đi các nơi có núi sông danh thắng của ta để yếm diệt long mạch. Khi Biền đào sông yểm mạch núi Long Đội, Sơn Thần núi ấy biến thành hình con trâu toả ánh vàng bơi theo sông Đường Giang lên phía Bắc, ẩn ở vùng Hồ Tây thành Đại La?.
    Có khác chút ít về tình tiết nhưng cốt lõi vẫn là có con Trâu vàng từ phía Nam chạy lên phía Bắc và ẩn trong Hồ Tây.
    Sách Tây Hồ chí, mục ?oCác đền chùa? thì dẫn lời Phạm Đan Phong (tức Phạm Đình Hổ): ?oCuối đời Đường, An Quận công Cao Biền ngàn dặm qua Nam đến châu Duy Tân (nay là Duy Tiên) khai sông chặn long mạch núi Phục Tượng nay thuộc xã Đọi Sơn: Thần núi hoá thành trâu phóng ánh sáng vàng, ngược Đường Giang lên ẩn náu tại Hồ Tây, người quanh vùng dựng miếu thờ, thực là dấu thiêng vậy?.
    Như vậy sách Tây Hồ chí chép chẳng khác Thăng Long cổ tích khảo, có thêm chi tiết đáng chú ý là: ?oNgười quanh vùng dựng miếu thờ?. Sách Tây Hồ chí được soạn giữa thời Tự Đức tức giữa thế kỷ XIX. Như vậy là vào thời điểm này đã có đền Kim Ngưu ở bên bờ Hồ Tây. Vì sách có ghi chú cụ thể: Trên gò đất tại bến ấp Tây Hồ có đền thờ, nay còn?.
    Tuy nhiên, theo truyền thuyết Khổng Minh Không, tổ nghề đúc đồng thì sự tích Trâu vàng lại khác.
    ?oVị cao tăng Minh Không sang chữa bệnh cho con vua. Để tạ ơn hoàng tử khỏi bệnh, vua cho Minh Không vào kho, muốn lấy gì và bao nhiêu cũng được. Minh Không hoá phép lấy tất cả đồng đen cho vào tay nải rồi ra bờ bể thả nón tu lờ làm thuyền chở về nước, đem đúc chuông. Chuông đúc xong, đánh thử mấy tiếng, bỗng Trâu vàng từ phương Bắc chạy sang ***g lộn tìm mẹ vì ?ođồng đen là mẹ vàng?, dẫm nát cả đất sụp xuống thành hồ. Phải ném quả chuông xuống hồ cho trâu khỏi ***g lên. Từ đó Trâu vàng ẩn dưới đáy hồ?.
    Xét sâu xa thì có lẽ truyền thuyết Trâu vàng có gốc là sự giao thoa văn hoá giữa các tộc bách Việt và các tộc phi Hán thuở xa xưa. Bởi tại những vùng đất mà ngày xưa là địa bàn cư trú của những tộc Ba Thục, Bách Việt ở phía Nam sông Hoàng Hà (phía Bắc là địa bàn tộc Hán) có phong tục đúc hình con trâu bằng kim khí để trấn yểm. Theo sách Từ nguyên thì vì lẽ đó mà nhiều nơi ở Trung Quốc có tên Kim Ngưu. Tỉnh Tứ Xuyên có một kém núi tên là eo Kim Ngưu hiệp, ở thành phố Vũ Xương có gò Kim Ngưu Cương, ở Thường Châu có đầm Kim Ngưu đàm, ở Hàng Châu có Tây Hồ (cực kỳ đẹp) cũng gọi là Kim Ngưu hồ. Tất cả các tỉnh thành này đều ứng với vùng thuở trước là đất Bách Việt, Ba Thục tức vùng phi Hán tộc. Tất không phải do ngẫu nhiên.
    Có thể nghĩ là ở khu vực từ Trường Giang đổ xuôi xuống Nam thời cổ sơ có tục đúc Trâu vàng (đồng) để trấn yểm. Tục đó ở mỗi địa phương được giải thích theo mỹ cảm của từng dân tộc cũng như theo điều kiện lịch sử của từng thời điểm. Như ở Hồ Tây của chúng ta, Trâu vàng được coi là thần trấn áp cáo chín đuôi từ thời Lạc Long Quân, rồi tử thành có quê quán cụ thể là núi Tiên Du, sau mới ?odi cư? sang Hà Nội, hoặc có gốc từ bên Tàu nhưng sau tìm mẹ ở đất Việt.
    Truyền thuyết dân gian biến hoá theo dòng chảy của cuộc đời, tựu trung Trâu được coi là một con vật thiêng có khả năng trừ ma quái, bảo vệ dân lành. Tín ngưỡng thờ Trâu vàng là một tín ngưỡng tích cực phù hợp với nguyện vọng cầu mong một cuộc sống yên ổn của nhân dân ta xưa. Đền thờ Trâu vàng bên bờ Hồ Tây là một biểu hiện vật chất của tín ngưỡng và nguyện vọng đó. Trên bản đồ Hà Nội vẽ năm 1873 vẫn còn ghi địa điểm đền Kim Ngưu, ở chỗ nay là đầu doi đất Tây Hồ.
    Đền này chỉ bị phá huỷ do đại bác quân Pháp vào năm 1947. Nhưng năm 2000 vừa qua, đền đã được Ban quản lý di tích Phủ Tây Hồ đứng ra làm lại khang trang, bề thế, tăng thêm rất nhiều giá trị văn hoá và du lịch cho quần thể di tích Phủ Tây Hồ.
    trích 1 báo nào đó
  7. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Đoạn này thật thích thú.
    Các bác đọc có ý kiến gì không?
    Tôi đi chơi Hà Nội lần đầu tiên cũng lạc ngay vào chùa Trấn Quốc, không khí rất linh thiêng, uy vũ.
    Tôi thấy Hồ Tây đẹp hơn Hồ Hoàn Kiếm rất nhiều.
    Không hiểu sao tại Hồ Tây, tôi có cảm tưởng không khí trong sáng hơn, và có linh khí nhiều hơn tại Hồ Hoàn Kiếm.
    Cũng như tại Đà Lạt, thì tôi thấy Hồ Than Thở đẹp hơn Hồ Xuân Hương. Có lẽ vì sự thanh thản, lặng lẽ và hơi cô tịch của hồ, so với sự tấp nập quanh Hồ Xuân Hương.
  8. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Chả ai ở HN bảo thế cả.
    Đoạn này thật thích thú.
    Các bác đọc có ý kiến gì không?
    Tôi đi chơi Hà Nội lần đầu tiên cũng lạc ngay vào chùa Trấn Quốc, không khí rất linh thiêng, uy vũ.
    Tôi thấy Hồ Tây đẹp hơn Hồ Hoàn Kiếm rất nhiều.
    Không hiểu sao tại Hồ Tây, tôi có cảm tưởng không khí trong sáng hơn, và có linh khí nhiều hơn tại Hồ Hoàn Kiếm.
    Cũng như tại Đà Lạt, thì tôi thấy Hồ Than Thở đẹp hơn Hồ Xuân Hương. Có lẽ vì sự thanh thản, lặng lẽ và hơi cô tịch của hồ, so với sự tấp nập quanh Hồ Xuân Hương.
    [/quote]
  9. simbat1080

    simbat1080 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    16/09/2003
    Bài viết:
    478
    Đã được thích:
    0
    Cho em hóng hớt phát!
    Thằng bạn em làm ở Viện Địa lý bảo rằng Viện nó sau khi so sánh ảnh chụp khảo sát Hồ Tây năm 1930 của Pháp và bây giờ thì thấy hồ... to ra
  10. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0


    Phủ Tây Hồ​
    [​IMG]
    Tây Hồ là một làng cổ của kinh thành Thăng Long nằm ở phiùa đông của Hồ Tây. Ở ngay đầu làng có một ngôi đền thờ bà chúa Liễu Hạnh, một người đàn bà tài hoa, giỏi đàn ca, thơ phú, đức độ nên đã được dân gian thần thánh hóa tôn làm Thánh Mẫu (Thánh Mẹ). Hàng năm vào rằm tháng giêng âm lịch, khách hành hương về đây rất đông, vừa đi lễ Mẫu xin Mẫu ban cho điều lành và mọi sự may mắn, vừa đi thưởng ngoạn cảnh đẹp của thủ đô.
    ______
    http://www.vietshare.com/quehuong/hanoi/***ich.asp
    Các Thầy cho biết thêm về Bà Chúa Liễu Hạnh đi ...

Chia sẻ trang này