1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hồ Tây (Hà nội) và các danh thắng quanh hồ??????

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi KINGOFSEA, 19/03/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    VIỆT ĐIỆN U LINH TẬP
    LÝ TẾ XUYÊN
    bản dịch của Lê Hữu Mục
    THÁI UÝ TRUNG TUỆ VÕ LƯỢNG CÔNG

    (Chuyện Mục Thận)

    Xét Sử ký và đời truyền: Ông họ Mục tên Thận, lấy việc chài lưới bắt cá làm nghề sinh nhai.
    Thời xưa Lý Thái Tông có quan Thái sư Lê Văn Thịnh nuôi được một người gia nô người Đại Lý, giỏi về thuật chú ảo, hay biến hóa mây mù, khiến người thực hóa ra hình beo, cọp. Văn Thịnh dỗ dành nó mà học được thuật ấy rồi thiết kế giết đứa ở ấy đi, mưu tính viêc tiếm ngôi vua.
    Một hôm vua Nhân Tông ngự ra Dâm Đàm xem cá; thuyền rồng thung dung, mái chéo khoan nhặt, lượn chơi trên hồ rất vui vẻ, hốt nhiên thấy mây ù kéo đến trên mặt hồ mù mịt, đối diện không trông thấy nhau, vẳng nghe tiếng cọc chèo vùn vụt lướt mù tiến đến, thấp thoáng có một con hổ lớn đang há mồm nhe răng như muốn cắn, vua trông thấy cả kinh. Lúc bấy giờ Mục Thận đang vung lưới bắt cá, trông thấy rõ ràng mới nói ?oviệc gấp rồi?, lập tức vung lưới chụp bắt được con hổ lớn, lại hóa ra là Lê Văn Thinh. Vua truyền lấy giây sắt trói lại, cũi gỗ giam vào, rồi đẩy lên thượng lưu sông Thao.
    Vua khen Mục Thận có đại công bảo hộ, phong ông làm Đô Uý Tướng Quân, quan giai lần lần tới Phụ Quốc Tướng Quân. Ông mất, vua tặng chức Thái Uý, dựng từ đường và tạc tượng ông mà phụng sự.
    Đền thờ ông rất linh dị, có con mãng xà ở trong lỗ cột đền, mỗi khi đến ngày sóc vọng có kỳ tế lễ, nó từ dưới đá tảng bò lên, khoanh tròn mà nằm; nhân dân vãng lai chẳng lấy gì làm kinh hãi, nhưng người nào tà uế mà vào trong đền thì liền bị nó cắn; đêm tối, nó lại chui xuống lỗ cột mà ở. Đến nay, từ vũ thêm trang nghiêm, thôn dân phụng làm Phúc thần.
    Niên hiệu Trùng Hưng năm thứ tư, sắc phong Trung Tuệ Công. Năm Hưng Long thứ hai mươi mốt, gia phong hai chữ Võ Lượng.
    Tiếm bình
    Hồ này ở đời nhà Hán gọi là hồ Lãng Bạc; đời nhà Lý, nhà Trần gọi là hồ Dâm Đàm. Triều Lê tránh tên huý vua đổi ra là Tây Hồ, một đầm nước lớn ở thành Đại La vậy. mỗi khi đến mùa thu, nước lụt đã rút thì nước hồ trong xanh, cùng với trời một sắc; rải các triều đều lấy hồ ấy làm nơi du ngoạn. Đang khi mù phép đầy trời, long nhan thất sắc, dầu cho có nghìn cỗ xe, muôn thớt ngựa, cũng khó bề đối phó. Mục Lang chỉ là một người kẻ chài, đối với quốc gia chưa từng được hưởng một chức quan nhỏ, một hột lương kho, mà đến khi Thiên tử lâm nạn thì hăng hái chẳng nghĩ đến mình, bắt hồ mạnh giữa sóng to, quét mù yêu ở mờ tối, khiến cho ông vua có dị tướng, dưới trán có hai chữ ?othất tinh?, được dũ áo trở mặt phương nam bảy mươi năm, thì công khó của ông biết chừng nào vậy.

    Lấy tư cách một kẻ giang hồ nhàn tản, sinh sống bằng nghề chài lưới, một mai từ chỗ thôn quê lên chỗ miếu đường, ông cởi tơi nón mà đội mão hiên miễn. Sống thì làm quan Thái Uý, chết thì được phong Phúc Thần, há chẳng phải rồng mây gặp hội, cá nước vầy duyên, nghìn năm một thưở, vua sáng tôi ngay hay sao? Nên chi khuất phục được con mãng xà lớn ở gốc đại thụ, sáng chầu tối nghỉ thì cũng chẳng lấy gì làm lạ vậy.
    Nay miếu ở trong hạt huyện Quảng Đức, phường Võng Thị, đền thờ chính túc, đồ thờ sum nghiêm, cùng với đền Kim Ngưu phường Tây Hồ đối diện.
    Triều nhà Lê vẫn để quốc tế, gần đây có Phạm Tiến Sỹ ở Đông Bình, soạn thảo lời Sắc gia phong, có câu: ?oVãi lưới dày ở trong hồ, hóa hổ, kẻ gian thần nát óc. Quét mây mù ở trên đỉnh, cỡi rồng, vị thiên tử mở mày?, truyền nhau lấy làm một câu hay, nhưng đó cũng chỉ chép việc thực mà thôi.
    Lê Văn Thịnh tội nên xử trảm, vua lại tha mà chỉ phạt lưu, chính hình như thế thật là lầm lỗi. Người đời sau có bài thơ rằng:
    Quăng lưới rồi hay bắt hổ thần.
    Trong người chẳng sợ đứa gian nhân.
    Nghìn tầng mù đặc ngang thuyền quét;
    Một chú hùm yêu dọc mái vần.
    Tiếng sóng muôn đời hào dũng khái;
    Công đầu một thưở vọng minh quân.
    Đến nay di miếu còn oanh liệt.
    Hương hỏa nghìn thu thượng đẳng thần.

    __________
    http://www.dunglac.net/thuvien/vietdien-02-mucthan.htm
  2. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Tớ bị đắm vào lòng Hồ Tây rồi.
    Mang vào đây cho các bạn một đề tài thú vị nè, nhất là cho bác nào hôm trước nói người Việt không biết thờ thần ...
    Nghĩ về tín ngưỡng trong dân gian Việt
    ĐỀN THẦN CẨU NHI ​
    Cuộc tranh luận bùng nổ sau gần 20 năm tạm lắng với 4 lần hội thảo. Ý kiến của:
    - UBND quận Ba Đình định phá bỏ Đền Thần Cẩu Nhi hoang phế bằng việc xây dựng một nhà hàng.
    - UBND TP. Hà Nội và đồng bào phường Trúc Bạch muốn giữ kiến tạo lại Đền Cẩu Nhi .
    [​IMG]
    - Các nhà sử học còn đang bàn cãi.
    Lần này, Sở Văn Hóa Thông Tin Hà Nội, Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam và UBND quận Ba Đình phối hợp tổ chức hội thảo về đề tài: có hay không truyền thuyết một con chó được phong Thần (Thần Cẩu Nhi), có hay không đền Cẩu Nhi giữa Hồ Trúc Bạch với thành phần tham dự gồm hàng chục học giả, nhà nghiên cứu đầu ngành sử học. Qua 4 lần hội thảo thế mà vẫn chưa tìm được tiếng nói đồng nhất giữa UBND TP. Hà Nội và đồng bào phường Trúc Bạch với UBND quận Ba Đình, các học giả, sử gia. Điều đó đủ phản ảnh tầm quan trọng của vấn đề.
    Lâu nay những người có quan tâm đến lịch sử và đức tin của nước nhà đều biết rằng nước Văn Lang của Vua Hùng trước kia đã có nhiều miếu, đình, đền, hương linh ấy tỏa khắp cõi trời đất Việt và cho đến ngày nay các di tích này luôn là nơi để đồng bào lễ bái, tôn thờ các thần linh bao gồm:
    - Thờ Huyền Thiện Thượng Đế - vị minh chủ thượng đẳng của việc sinh hóa vũ trụ - Thần Trời, Thần Lúa, Thần Biển, Thần Đất, Thần Sấm Sét, Thần Núi, Thần Mưa, Thần Lửa, Thần Gió...
    - Thờ các vị thần trong các thần thoại, huyền sử học như: Lạc Long Quân - Âu Cơ, Phù Đổng Thiên Vương, Chữ Đồng Tử - Tiên Dung, Sơn Tinh - Thủy Tinh, Thánh Mẫu và Thần Núi Tản Viên, Bà Tồ Cô, Bà Áo The, Thần âm nhạc Trương Chi - Mỵ Nương...
    - Thờ nhân vật lịch sử, danh nhân, những vị hiền đức hiền tài như: Hùng Vương (18 đời vua) Thần Đồng Cổ, Thục Phán, Bố Cái Đại Vương, Hai Bà Trưng, Bà Lê Chân, Bà Triệu, Ông Lữ Gia, Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Thái Tôn, Hưng Đạo Đại Vương, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tôn, Bà Thiếu Phụ Nam Xương, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Lê Quí Đôn, Quang Trung, Bùi Thị Xuân, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Trung Trực, Đồ Chiểu, Phan Châu Trinh, các đài tưởng niệm Anh Hùng Liệt Sĩ...
    -Thờ thần vật linh hoặc sông núi hiển linh như: Đền Long Đổ, Đền Bạch Mã, Thần Học Quốc (Thần Kim Qui), Tổ Sơn Tam Đảo, Đền Trấn Võ, Động Hồ Công, Nam Hải Tướng Quân, Chiếu Tà Niên, Đền Voi Ré, Cây Đa Thần, Thần Hoa, Đền Đông Cổ...
    - Không những thế mà trong thập nhị vật linh thần được tôn thờ còn có thú linh với những sử tiết hết sức kỳ bí. Khi nhắc Hồng Long dân gian nhớ ngay đến Thần Long Đổ cưỡi Rồng Đỏ hiển linh phá bùa trấn yểm của Cao Biền làm cho Cao Biền khiếp vía phải tự xây đền thờ Long Đổ ở Đại La Thành. Việt tộc ngưỡng mộ xem như một vị Thần giữ nước chống giặc ngoại xâm.
    Đến đời nhà Lý, Bạch Mã Thần lại xuất hiện giúp cho vua Lý xây lại Thành Đại La và đặt tên là Thăng Long Thành rồi lập đền Bạch Mã để thờ công đức hiển linh đến ngày nay. Còn ở Tây Ninh lại có chim Hồng Hoàng (Hoàng Cao Cát) một loại chim rất quí hiếm. Tương truyền khi nào gặp chim Hồng Hoàng thì sẽ gặp được điều lành việc tốt. Trong số có một con, người dân ở đây coi là Thần Điểu coi giữ núi Bà Đen. Sử sách còn ghi thần Bạch Tượng và 100 con voi chầu Vua Hùng (mới dựng nước). Khi Bạch Tượng xuất hiện thì đất nước có chơn Chúa ra đời. Hơn nữa văn minh Việt coi màu trắng là màu tinh khiết, màu tượng trưng cho sự lãnh đạo cho nên Bạch Tượng, Bạch Hổ, Bạch Tri là chúa của các loài vật. Khi nói đến chim Trĩ Trắng người ta nghĩ ngay đó là một vị Thần có công về việc ngoại giao, Thần sứ giả hòa bình giữa bộ tộc Việt Thường và vua Đường Nghiêu của Trung Quốc đời Thượng cổ. Hay Bạch Long Mã - hình tượng Long Mã Phụ Đồ của Hà Đồ. Lạc Thư đã nêu lên văn hóa Đông Phương giữa Trung Quốc và Việt Nam, hình tượng này có trong cả hai nền văn hóa và hỗ tương lẫn nhau từ thượng cổ đến nay đã tạo nên vũ trụ quan Đông Phương thể hiện ở Kinh Dịch. Lại nhớ thời Vua Trần Nhân Tông khi giặc Nguyên xâm lược, Trần Hưng Đạo Đại Vương trong lúc phản công quân Nguyên tiến qua sông Hóa để đánh giặc Ô Mã Nhi, con voi của Người bị sa lầy không lên bờ được. Vì tiến quân gấp nên ông đành phải bỏ lại con voi thân yêu, con Thần Vật rơi nước mắt. Khi đánh xong giặc Nguyên, Trần Hưng Đạo nhớ đến con vật có nghĩa, có công bị chết trên sông Hóa, ông bèn cho xây một pho Thần Tượng bên bờ sông để tưởng niệm. Ngày nay bến sông ấy gọi là bến Voi, khi làm lễ tế ở đền, dân làng đem hương hoa ra bờ sông cúng trên tượng Voi (Tự Điển di tích Văn Hóa Việt Nam ?" Ngô Đức Thọ - NXB Văn Học 2003 )? từ nhiều thần tích hiển linh đó, đền Cẩu Nhi không vượt ra khỏi phạm trù văn hóa dân gian, huyền tích mà Đại Việt Toàn Thư và Tây Hồ Chí đã nói. Như thế hàm chứa cả yếu tố thần thú linh như đã trình bày.
    Chúng ta thử nhìn qua nước Tàu để biết rằng con chó Thần - Hạo Thiên Khuyển cùng Dương Tiễn rượt theo để bắt Tề Thiên Đại Thánh trong truyện Tây Du Ký thì sao! Và theo quan niệm của nhà Phật con Chó còn có cả Phật tính nữa kia mà, với cách nhìn của Việt Tộc Thần Đạo thì trong vật thú như đã nói có tánh linh.
    Như thế thì ngại gì mà phải phá bỏ đền và cũng không nhất thiết phải đổi tên Đền Cẩu Nhi.
    Thiết nghĩ sự do dự suốt mấy mươi năm qua không nên kéo dài. Quyết định của UBND thành phố Hà Nội cùng ý nguyện của đồng bào phường Trúc Bạch đã nói lên cái nhìn của một sử gia.
    Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau giữa các nhà sử học, nhưng cuối cuộc hội thảo giáo sư tiến sĩ Phan Huy Lê đã đưa ra một số ý kiến khái quát hóa một số vấn đề đang tranh cãi và với quan điểm này, giáo sư Phan Huy Lê một lần nữa đã làm sáng tỏ nguyện vọng của đồng bào phường Trúc Bạch.
    Những giai thoại, truyền thuyết, huyền sử, lịch sử, công nghiệp ấy ở khắp làng nước Việt Nam từ xưa nay đâu đâu cũng có. Điều đó chứng tỏ rằng tín ngưỡng thần linh trong dân gian Việt đã có từ rất sớm trước khi có các tôn giáo khác đang truyền giáo tại Việt Nam, và vì thế mà tôn lập, xây dựng điện, đền đài, đình miếu để ghi công tưởng niệm thì đâu có gì là dị đoan mê tín. Không những thế mà làm cho hết thảy thấy rõ ý nghĩa đặc biệt của các kỳ tích này mà hệ thống lại, tạo các kiến trúc cho thích hợp mang tính lịch sử văn hóa và sắc thái siêu hình của Việt tín. Chính cái nôi vật chất ấy chứa đựng nền tảng tinh thần tín ngưỡng của dân tộc. Công cuộc xây dựng kiến tạo, di tu bảo tồn cần thận trọng hơn trong một nghệ thuật có chọn lọc.
    Đền Cẩu Nhi là một trong những trường hợp đó.
    Phạm Tường

    Các nhà khoa học tranh cãi kịch liệt về đền Cẩu Nhi
    19:20'''''''''''''''' 27/07/2005 (GMT+7)
    (VietNamNet) - Đền Cẩu Nhi có từng tồn tại? việc thờ Thần Cẩu Nhi có còn dấu vết trong dân gian quanh vùng? Nếu có truyền thuyết về Cẩu Nhi thì liệu có thể coi nó có ý nghĩa đối với việc định đô Thăng Long? vv... Bởi vì, rõ ràng, cái mục tiêu dễ nhìn thấy nhất của dự án này chính là gắn cho ngôi đền sắp phục dựng một ý nghĩa đối với Thăng Long

    (Hình: Gò nổi "Đền Cẩu Nhi" gây tranh cãi trong giới khoa học)
    Đây không phải là lần đầu tiên ngôi Đền Cẩu Nhi gây nên sóng gió trong giới khoa học và cả những người quản lý. Năm 1987, với "Vụ án phá đền Cẩu Nhi", có vị quan chức đã mang tai vạ khi quyết định thay Cẩu Nhi đền bằng một Khách sạn. Từ sau sự việc này, gò đất để không giữa hồ cũng là nơi nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp.

    Trước tình hình đó, một công đôi việc, TP Hà Nội được sự đồng tình của một số nhà khoa học về truyền thuyết Thần Cẩu Nhi đã quyết định phục hồi lại ngôi đền này, vừa tạo ra một không gian văn hoá mới, lại vừa có ý nghĩa với dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
    Tuy nhiên, trong khuôn khổ những bài viết này, chúng tôi không bàn đến việc nên xây cái gì trên cái gò này mà chỉ giới hạn ở cuộc tranh luận trong giới khoa học, đặc biệt là khía cạnh văn hoá học. Trước hết các nhà khoa học phải trả lời những câu hỏi sau: Đền Cẩu Nhi có từng tồn tại? việc thờ Thần Cẩu Nhi có còn dấu vết trong dân gian quanh vùng? Nếu có truyền thuyết về Cẩu Nhi thì liệu có thể coi nó có ý nghĩa đối với việc định đô Thăng Long? vv... Bởi vì, rõ ràng, cái mục tiêu dễ nhìn thấy nhất của dự án này chính là gắn cho ngôi đền sắp phục dựng một ý nghĩa đối với Thăng Long. Sau bài viết Đền Cẩu Nhi là một sự bịa đặt lịch sử...? đề cập đến quan điểm của PGS.TS Đỗ Văn Ninh, nhiều nhà khoa học trong nước đã có những ý kiến khác nhau. Để rộng đường dư luận, chúng tôi xin đăng một số ý kiến.
    GS. Trần Lâm Biền: Đền Cẩu Nhi thờ cả cá lẫn chó!
    Trên cái gò ở hồ Trúc Bạch vốn dĩ đã có một ngôi đền. Theo quan điểm của tôi, nó là ngôi đền thờ cả Thần Cá lẫn thần Cẩu Nhi cùng một lúc! Không có gì lạ khi có hai thần được thờ trong cùng một ngôi đền. Trong các kiến trúc cổ của Việt Nam có ngôi đình thờ đến 21 Thành Hoàng thì sao?
    Ông Đỗ Văn Ninh không thích câu chuyện về Cẩu Nhi một phần có lẽ vì ông cho rằng chuyện đó hạ thấp uy tín của Nhà Lý và có phần không được... sạch sẽ nếu gắn với Thăng Long. Nhưng phải biết rằng có rất nhiều câu chuyện gắn liền với tổ tiên các tộc người thiểu số ở nước ta lấy con chó làm ông tổ. Người ta không làm tượng con chó đặt lên bàn thờ chính, nhưng làm bài vị thì có.
    Từ xưa tôi đã thấy trong đền gò Trúc Bạch có cái bài vị bằng gỗ cổ, trên đó có những chữ đề nhắc đến Thần Cẩu Nhi. Phục hồi đền Cẩu Nhi có thể coi là để phục hồi một tín ngưỡng cổ của dân gian là tín ngưỡng thờ chó. Tất nhiên, nói như thế thì vừa phải hơn. Còn nói rằng Cẩu Nhi gắn với sự định đô Thăng Long thì cũng hơi quá.

    Vả lại, hòn đảo trên hồ Trúc Bạch từ khi đền bị phá đã bị rêu rác bẩn thỉu; nếu nay có một công trình kiến trúc thì sẽ tạo nên một cảnh quan đẹp đẽ. Thêm vào đó, di tích ít nhất có từ thế kỷ XIX, vậy nó đã có niên đại tối thiểu là 150 năm và theo luật di sản nó đã xứng đáng trở thành di tích lịch sử văn hoá.
    [​IMG]
    (Hình: Nhà bia được xây dựng sau vụ án phá đền Cẩu Nhi năm 1987)
    Tuy nhiên, nếu ông Đỗ Văn Ninh cứ đem những chứng cớ ngày tháng ra mà tính toán, thì ông sẽ bỏ cả thời đại Hùng Vương đi mất. Vì thời Hùng Vương mấy nghìn năm thế mà lại chỉ có 18 đời vua Hùng, thế ra mỗi vua sống trên một trăm năm cơ à, ai mà tin được!? Rõ ràng câu chuyện về Cẩu Nhi được phong thần và có đền thờ là câu chuyện không có trong sách sử, mà chỉ là truyền thuyết. Nhưng tôi gần 50 năm nghiên cứu lịch sử và nghệ thuật, đi thực địa tìm thấy có nhiều điều hiển nhiên tồn tại sâu sắc, bén rễ trong dân gian nhưng hoàn toàn không được ghi trong chính sử. Ý niệm về Thần Cẩu Nhi rõ ràng tồn tại trong dân gian quanh vùng Tây Hồ và ta có thể gọi đền Cẩu Nhi là di tích lịch sử trong không gian của tín ngưỡng.
    Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc: Trong truyền thuyến luôn có cốt lõi hiện thực!
    Chuyện đó không ai bịa đặt ra cả vì nó đã được chép trong Tây Hồ chí. Tác phẩm này ra đời từ giữa thế kỷ XIX. Tây Hồ chí khẳng định đúng là trên gò hồ Trúc Bạch có một đền gọi là đền Cẩu Nhi thờ Thần Chó con. Về sau, tín ngưỡng thờ chó của người Việt phai nhạt đi nên cái đền đó, hoặc một cái đền mới xây trên vị trí đó lại được dân đổi qua gọi là Thủy Trung Tiên tự, tức là thờ Mẫu.
    Nếu người nào bác bỏ cả sách Tây Hồ chí thì những sách về truyền thuyết của VN như Việt Điện u linh, Lĩnh Nam chích quái cũng theo phong cách đó, chẳng lẽ cũng vứt đi hết!? Tây Hồ chí sưu tầm các truyện dân gian, nó cũng giống như hai tác phẩm vừa nói đến, có những câu chuyện cổ có phần hoang đường nhưng phải hiểu là bên trong nó có cái cốt lõi hiện thực nào đó.
    Ông Ninh bảo quốc sử Đại Việt sử ký toàn thư không ghi chuyện con chó từ Bắc Ninh đi sang Hà Nội, Cẩu Mẫu chết chôn trên núi Khán, Cẩu Nhi chết chôn trên gò hồ Trúc Bạch... nhưng đâu phải việc gì, nhất là những việc có tính truyền thuyết cuốn này cũng chép hết. Nếu mà tính thế thì có đến một nghìn chi tiết Đại Việt sử ký toàn thư không chép! Lại bảo rằng vì bản đồ thời Pháp vẽ năm 1873 không có đền Cẩu Nhi mà kết luận là đền Cẩu Nhi không tồn tại thì cũng sai lầm theo kiểu tương tự. Vì biết đâu cái đền này quá nhỏ tới nỗi chỉ là một cái chấm nên người ta không ghi vào, hay là anh làm bản đồ lại sai thì sao?

    Nhà nghiên cứu Bùi Thiết: Xây đền Cẩu Nhi là vi phạm Luật DSVH!
    (Hình: Bia "Di tích Cẩu Nhi", nhưng không phải bia cổ, mà là bia mới có từ năm 1987)
    Tôi đồng ý với quan điểm của ông Đỗ Văn Ninh là không có cái gì gọi là đền Cẩu Nhi trên gò hồ Trúc Bạch. Về mặt khoa học, những người có quan điểm về sự tồn tại của đền này không đưa ra được chứng cớ gì cả.
    Trong khi đó, để một di tích được công nhận là di tích lịch sử thì cần phải có cả chục yếu tố như niên đại, các nhân vật được thờ phụng, sự công nhận (bằng sắc) của chính quyền nhà nước qua các thời, ghi nhận về ảnh hưởng của di tích trong lòng nhân dân...
    Nhưng những năm 30 thế kỷ trước, khi Viện Viễn Đông bác cổ ra thông báo các làng kê khai các di tích trong địa bàn mình để làm tư liệu thì không hề có làng nào quanh khu vực Tây Hồ hiện nay kể tên đền Cẩu Nhi.

    Tấm bản đồ Hà Nội do Pháp vẽ năm 1873 ghi đầy đủ các di tích quanh Hồ Tây cũng không thấy có một ghi chú nhỏ nào về đền Cẩu Nhi. Còn Thuỷ Trung Tiên tự là ngôi miếu mãi về sau mới được xây dựng, do một người Hoa bỏ tiền ra xây, và thờ Mẫu Thoải, chứ không liên quan gì đến Cẩu Nhi cả. Cái gọi là đền Cẩu Nhi đã gây nên một vụ án khoa học cách đây gần 20 năm, và gần đây nó lại dấy lên.
    Tôi nghĩ rằng, cái sự "sống trong lòng dân" của Đền Cẩu Nhi chỉ bắt đầu hiện diện từ sau vụ án đó, tức là năm 1987, khi ngôi đền không có thật đó trở nên "nổi tiếng" và làm cho người ta... sợ mà nhớ! Tôi nhấn mạnh rằng người Việt không có tục thờ Chó, mà chỉ sử dụng chó hoặc tượng chó làm vật canh nhà, chứ không khi nào đưa con chó lên bàn thờ cả. Dựng một ngôi đền không hề tồn tại là Cẩu Nhi lên theo tôi là vi phạm Luật Di sản Văn hoá!

    D.Diễm (thực hiện)

    Quan điểm của bạn về vấn đề này? Bạn nghĩ sao khi huyền thoại đụng hàng với lịch sử? Hãy bày tỏ quan điểm riêng của bạn.

    _________
    http://www.viet.no/modules.php?name=News&file=print&sid=1312
    Được nguyenlytk21 sửa chữa / chuyển vào 09:47 ngày 20/03/2006
  3. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Liễu Hạnh là một trong tứ Bất tử của Việt Nam
    Thánh Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Chúa Liễu Hạnh.
    Sự tích thì có nhiều:
    Tục lệ thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh
    Hương Nghiêm (Tổng hợp)
    Như nhiều dân tộc khác ở vùng Đông Nam Á, người Việt nguyên sơ theo chế độ mẫu hệ, vì vậy có tục thờ Mẹ. Mẹ Việt Nam - đó là người mẹ của gia đình, người mẹ của sông nước, người mẹ của núi rừng, người mẹ của đất đai, mẹ của dân tộc Việt Nam. Hầu như ngôi chùa nào cũng dành một ban thờ Mẫu. Dường như ai cũng thấy thiêng liêng, gần gũi và ấm lòng mỗi khi thắp một nén hương lên bàn thờ Mẫu khi về dự hội lễ Mẹ ở Phủ Giầy - Nam Định. Từ thời Hùng Vương người Bắc Việt thờ công chúa Mỵ Nương, bà được coi là ?oBà mẹ của cây lúa nước?, thờ nữ thần Man Nương, đó là vị nữ thần ngự trị các già lam như Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Người miền Trung thờ nữ thần Đầm, Ao, Hồ. Người Chăm thờ nữ thần Thiên Yana.
    Ngoài ra, người Việt còn thờ cúng các vị anh hùng liệt nữ khác như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Nguyệt Nga, Dương Thái Hậu, Ỷ Lan Nguyên Phi, bà Chúa Kho, bà Chúa Đất...
    Riêng Thánh mẫu Liễu Hạnh là vị nữ thánh trẻ nhất về niên đại nhưng lại được nhân dân ta xếp vào hàng ?oTứ bất tử? trong lĩnh vực thần quyền của nước ta. Bà ngự trị phương Nam, được sánh ngang cùng Phù Đổng Thiên Vương ở phương Bắc, Tản Viên Sơn thánh phương Tây và Chử Đồng Tử Tiên Dung ở phương Đông của đất nước, bốn hướng Nam, Bắc, Tây, Đông thiêng liêng của trời đất. Đây là sự chọn lọc rất hệ trọng của người xưa. Tục thờ mẫu Liễu Hạnh dù chỉ mới có từ năm 1434, hình tượng của bà được các nhà Nho thế kỷ XV dựng lên đến nay chỉ khoảng 570 năm vẫn mang đậm tín ngưỡng nguyên thủy của người Việt. Tục lệ thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh hay còn gọi Tam Tòa Thánh Mẫu tuy mờ mờ ảo ảo vẫn mang hương sắc về một sử thi văn hóa rất huyền diệu của dân tộc ta.
    Có học giả cho rằng Thánh mẫu Liễu Hạnh chính là hóa thân của Thiên Yana (Po Nagar) của người Chăm. Sau khi trở thành Hậu Thổ Nguyên Quân lại Việt hóa cao hơn nữa để đi vào các điện thờ. Vị nữ thần này được thờ ngay ở Thăng Long, trong một ngôi đền vốn là nơi thờ tự một vị ***** của đạo Giáo (Theo Tang thương Ngẫu Lục). Đó là đình Ứng Thiên - Yên Lãng xưa. Nay thuộc phường Láng Hạ - quận Đống Đa - Hà Nội. Ngôi đền này rất có uy thế. Liễu Hạnh được xếp vào hàng Thượng đẳng Thần theo lệnh của chúa Trịnh từ năm 1767 trước khi Tây Sơn nổi dậy 10 năm.
    Người Việt ở đàng Trong vốn đã thoát khỏi sự ràng buộc của Nho giáo liền tiếp thu tín ngưỡng mang tính tự nhiên và phồn thực của cư dân bản địa. Thánh mẫu Po Nagar của người Chăm đã đồng hóa với người Việt. Ngài được Việt hóa với tên gọi mới là Thiên Yana, và tên gọi khác là Bà Chúa Ngọc. Tại Nha Trang có ngôi đền tên là ?oChùa Ngọc Tháp?, tại Huế cũng có rất nhiều đền thờ Thiên Yana. Trung tâm quyền lực của chúa Nguyễn dường như đắm chìm trong không khí tinh thần Thánh mẫu. Chùa Thiên Mụ được xây vào năm 1601 tại Huế, là nơi mà 5 năm trước đó một vị nữ thần áo đỏ quần lam hiện lên tuyên bố ?oThời đại của chúa Nguyễn chính thức trị vì phương Nam?. Thiên Mụ nói ở đây không ai khác chính là bà chúa phương Nam - Thiên Yana - vị nữ thần Chăm vĩ đại và bất diệt.
    Đền thờ Thiên Yana được xây trên đồi Ngọc Trản (còn gọi là điện Hòn Chén) cách thành phố Huế 6km về phía Tây Nam. Điều đó chứng tỏ giữa người Chăm và người Việt có những tác động về văn hóa và tín ngưỡng hỗ tương cho nhau đã có từ rất xa xưa trong quá khứ, nó tồn tại và sống động vĩnh hằng mà ta còn thấy dấu tích ở tháp Bà (Nha Trang). Ngôi đền được xây từ năm 591 bởi một vị vua huyền thoại là Vicitrasagara. Đền Po Nagar là một trung tâm tôn giáo rất được trọng thị, đó là nơi bắt mạch được nhịp đập trái tim Chămpa cổ đại - một tín ngưỡng rất cổ xưa trước khi họ được Ấn Độ hóa. Trong bài kinh xưng tụng Po Yan Ino Nagar nói rằng: Vị nữ thần này được sinh ra từ mây trên bầu trời và giọt nước ở nơi biển cả, được vật thể hóa dưới dạng một khúc gỗ trầm hương trôi nổi lênh đênh nay đây mai đó trên mặt biển. Nữ thần là người sáng tạo nên đất đai, gỗ trầm hương và lúa gạo, là vị thần của cỏ cây. Po Nagar được người Chăm nhân cách hóa như là vị thần của đất mẹ. Po Nagar được người Việt đổi thành Thiên Yana. Sức sống và niềm tin cuồng nhiệt đối với bà tiếp tục lan tỏa khiến bà nhanh chóng hóa thân vào một Thánh mẫu mới đó là công chúa Liễu Hạnh. Truyền thuyết nói rằng, bà giáng sinh vào một gia đình quan lại quý phái họ Lê ở Phủ Giầy - xã Kim Thái - huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định (xưa là xã Yên Thái, huyện Thiên Bản thuộc phủ Kiến Bình). Đây là mảnh đất linh dị với nhiều huyền tích kỳ lạ, cũng là miền đất sơn thủy hữu tình có sông Ba Sắt, núi An Thái, núi Ngăm, núi Báng... tạo nên một quang cảnh đẹp, chứa nhiều chứng tích thời cổ đại, miền quê lâu đời mà người Việt đã cư trú từ 7.000 năm nay, có văn hóa, tín ngưỡng nguyên thủy, thờ cúng tổ tiên, ông bà, rất coi trọng chữ hiếu, uống nước nhớ nguồn. Đạo Tứ mẫu thờ mẫu Liễu Hạnh, đó là vị Thánh mẫu đầy uy lực, có lòng từ bi, luôn nêu cao tấm gương ?oHiếu trinh?, bà dạy con người biết yêu thương, kính trọng cha mẹ, biết đối xử tốt với họ hàng, làng xóm, coi hôn nhân là một đạo lý... Tấm gương đó thể hiện qua những lần giáng sinh của bà.
    Theo truyền thuyết, lần thứ nhất bà giáng sinh ở Quảng Nạp, Ý Yên - Nam Định, làm con nhà họ Phạm, nêu cao tấm gương về một người con gái hiếu thảo, không lấy chồng để phụng dưỡng cha mẹ, hết hạn về trời.
    Giáng sinh lần thứ hai ở Vân Cát - Vụ Bản - Nam Định, làm con gia đình quan lại họ Lê vào năm 1557 là Lê Thái Công sau làm dâu Trần Công, kết duyên cùng chàng Trần Đào Lang. Nàng nêu cao gương sáng về một người vợ hiền, dâu thảo, yêu thương con cái, giữ gìn đức hòa thuận, giữ trọn đạo nghĩa vợ chồng, ?oDĩ thuận vi chính, thiếp chi đạo dã? (Đạo làm vợ lấy thuận hòa làm chính). Bà là người yêu quê hương đất nước, hay giúp đỡ người nghèo khổ, chăm lo tu sửa đình chùa, danh lam thắng cảnh để tô đẹp cho non sông đất nước, luôn âm phù cho đất nước đánh giặc trừ nạn ngoại xâm.
    Lần giáng sinh thứ ba vào năm 1578, bà trở lại trần thế, đầu thai làm Thánh mẫu Liễu Hạnh, cùng 2 vị nữ tì là Quế Hoa công chúa (là cháu Mẫu mặc áo trắng) và Thụy Hoa công chúa mặc áo xanh (là em dâu Mẫu) hạ trần xuống vùng núi đồi Đèo Ngang (Ninh Bình - Thanh Hóa), lần này bà là bà mẹ Tiên tài năng, tao nhã, vô cùng xinh đẹp, am hiểu nghệ thuật, biết đủ cả cầm, kỳ, thi, họa, một vị Thánh mẫu có tâm hồn nghệ sĩ, một nhà thơ có tài năng thực sự, nhân hậu, coi trọng lẽ phải, luôn đấu tranh cho chính nghĩa, ghét những thói hư tật xấu, chống lại những lễ giáo bất công, lạc hậu của Nho giáo vốn coi thường, khinh miệt phụ nữ. Đó là vị Thánh mẫu rất mẫu mực, tròn đầy trong đời sống gia đình và xã hội. Bà đại diện cho tinh hoa cốt cách của người phụ nữ Việt Nam, cho tinh thần bất tử của dân tộc Việt. Vì vậy bà tồn tại vĩnh hằng trong tâm thức dân gian.
    Hương Nghiêm (Tổng hợp)
  4. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Thánh Mẫu là tên của một trong những vị thánh trong tín ngưỡng Việt Nam. Thánh Mẫu còn có các tên gọi khác: Bà Chúa Liễu, Liễu Hạnh, Mẫu Liễu Hạnh, Phật Mẫu Man Nương. Bà sinh năm 1557 tại Vụ Bản, Nam Định. Truyền thuyết về Bà Chúa Liễu thể hiện ước nguyện của nhân dân về vai trò truyền thống của người phụ nữ bị xâm phạm nghiêm trọng dưới thời kỳ Nho giáo độc tôn ở thời Hậu Lê. Nhà vua đại diện cho giai cấp cầm quyền (Nho giáo) phải lùi bước trước quần chúng nhân dân (Phật giáo).
    Thánh Mẫu được thờ ở rất nhiều nơi như phủ Giày (Nam Hà), phủ Tây Hồ (Hà Nội), đền Sòng và đền Phú Cát (Thanh Hóa), đền Phủ Giày (Thành phố Hồ Chí Minh),... Bà được tôn vinh trong hệ thống tứ bất tử. Bà thường được thờ cùng với hệ thống tam phủ và tứ phủ. Mẫu Liễu Hạnh còn được thờ trong một tín ngưỡng riêng gọi là Tam Tòa Thánh Mẫu. Vai trò của bà còn lớn đến nỗi vua Đồng Khánh còn tự nguyện xin làm đệ tử thứ bảy của bà tại điện Hòn Chén, Huế.
  5. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0

    Cám ơn Bác Phù Thủy Bay đã cho nhiều tài liệu hay về Bà Chúa Liễu Hạnh hay Thánh Mẫu.
    Được nguyenlytk21 sửa chữa / chuyển vào 13:56 ngày 20/03/2006
  6. Chitto

    Chitto Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    5.198
    Đã được thích:
    13
    Viết vài dòng, lâu lắm không viết gì.
    Quanh hồ Tây có rất nhiều chùa, di tích.
    Nếu ta bắt đầu từ góc Đông Nam của Hồ Tây, tức chỗ tượng đài Lý Tự Trọng, đầu đường Thanh Niên, đi ngược chiều kim đồng hồ, có thể gặp khá nhiều di tích sau đây: (Tôi không nhớ rõ hết, nếu ai có thời gian, chịu khó đi sẽ thấy). Ở đây chỉ là mấy cái tớ đã vào thôi.
    1. Đầu tiên và rất quan trọng là Quán Thánh, hay Đền Trấn Vũ (Chân Vũ). Cái này ai cũng biết
    2. Chùa Trấn Quốc (quá nổi tiếng).
    3. Gò nhỏ bên kia, cãi nhau mãi về chuyện Cẩu Nhi.
    Nếu lấy hồ Trúc Bạch cũng là hồ Tây cũ (bị ngăn ra mới 300 năm nay) thì còn phải kể bên kia Trúc Bạch, đó là các di tích:
    4. Chùa Châu Long
    5. Chùa Ngũ Xã (có pho tượng đồng rất to, trong lòng nó có cả đồng của tượng Nữ thần Tự do nhỏ của Pháp hồi trước)
    Vòng lên trên, có
    6. Chùa Kim Liên
    7. Chùa Vạn Hoa (đi từ đường Quảng Bá thấy cái cổng to tướng).
    8. Đình Quảng Bá
    9. Phủ Tây Hồ. Thờ Liễu Hạnh, do trạng Bùng lập (sẽ nói sau)
    Cạnh phủ có hai chùa rất đẹp
    10. Chùa ??? (tự nhiên quên tên) trên đường vào Phủ nhìn sang
    11. Chùa Hoằng Ân, trong làng, rất thanh tĩnh. Nơi để xá lị Pháp chủ Thích Đức Nhuận. Giao thừa tớ hay vào đó.
    Sang bên kia hồ, vòng từ trên Lạc Long Quân xuống, có rất nhiều chùa đẹp
    12. Chùa Tảo Sách (hồi trước đẹp hơn bây giờ)
    13. Chùa Ức Niên (100.000 năm)
    14. Chùa Vạn Niên (10.000 năm)
    15. Chùa Thiên Niên (1000 năm)
    Góc Tây Nam có cụm di tích rất đẹp là:
    16. Đình Võng Thị
    17. Chùa Võng Thị
    Dọc đường Thụy Khuê (ngày xưa là phường Thụy Chương), có nhiều di tích
    18. Đền Đồng Cổ
    19. Đình Thụy Chương
    20. Đền ??? (chả nhớ nữa, đi thì thấy)
    Ngòai ra còn hàng loạt cổng làng cổ, mà trong làng thì thế nào cũng có di tích nữa.
    Trên đây là 20 di tích dễ nhận ra. Ngòai ra thì nhiều lắm. Trong sách có nói là có đến hơn 40 di tích kia.
  7. Chitto

    Chitto Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    5.198
    Đã được thích:
    13
    Thánh mẫu là từ chung, chỉ các vị nữ thần ở bậc tối cao. Trung Quốc cũng có khá nhiều Thánh mẫu, nổi tiếng nhất là Thiên Hậu thánh mẫu thờ cực nhiều ở Đài Loan, và ở Hội An, miền Nam cũng nhiều.
    Ở Miền Trung còn Thiên Y A Na thánh mẫu, miền Nam có Linh Sơn thánh mẫu. Như vậy tục thờ Mẫu cũng có rất lâu đời.
    Ở miền núi phía Bắc, người Tày có Mẹ Pựt-Luông, tức Phật Cả, tạo ra thế giới.
    Cầu mưa thì Tứ Pháp đều là Thánh mẫu, trong đó chị cả là Phật Mẫu Man Nương.
  8. Chitto

    Chitto Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    5.198
    Đã được thích:
    13
    Thực ra Tứ Bất tử trước đời Lê không hề có Mẫu Liễu Hạnh, mà thay vào vị trí đó là Thánh tổ Từ Đạo Hạnh, với truyền thuyết 3 kiếp: thánh, vua, phật.
    Từ đời Lê, trong dân gian mới có Mẫu Liễu. Về Mẫu Liễu Hạnh, có nhiều huyền tích khác nhau. Nếu viết ra đây hết thì dài quá (tớ không thích bài dài ngoằng như một số bài copy-paste ở trên)
    1. Giáng sinh lần thứ nhất : Bà sinh ra ở Quảng Nạp, Ý Yên, Nam Định, năm 1434, triều Lê Thái Tông, thánh hóa năm 1473.
    2. Giáng sinh lần thứ hai: Ở Kẻ Dày, Thiên Bản, Nam Định, tức làng Vân Cát ngày nay, nơi có phủ Dày (hoặc Giày) nổi tiếng. Sau khi thánh hóa còn quay lại nơi đây vài lần.
    (Tớ vừa dành 1 ngày đi xem mấy canh đồng cách đây 3 tuần ở đó).
    3. Giáng sinh lần ba: Ở Kẻ Sỏi, Nghệ An, năm 1609. (có người nói là Kẻ Sỏi - Thanh Hóa, hoặc Tây Mỗ - Thanh Hóa)
    Ngòai ra, Mẫu Liễu còn chu du khắp nơi trên đất nước Việt Nam, những nơi đó đều có lập đền thờ. Chẳng hạn:
    - Ở Lạng Sơn. Nơi đây lần đầu gặp Phùng Khắc Khoan khi còn hàn vi
    - Ở Hồ Tây. Chính nơi của Phủ Tây Hồ bây giờ. Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan khi đó đã thành danh, gặp Mẫu Liễu ở quán rượu, sau lập phủ thờ cho đến nay
    - Ở Đèo Ngang, lập quán bán rượu, trừng phạt hoàng tử nhà Lê
    - Ở Phố Cát, Sòng Sơn, Thánh Hóa
    - Ở vùng núi Ninh Bình
  9. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Cao thủ Chitto mai danh ẩn tích đã lâu nay lại quay lại là điều đáng mừng.
    Trên bài em post ở trên cũng nói rõ việc nêu chúa Liễu Hạnh vào tứ bất tử chỉ mới có từ đời nhà Lê ngoài 3 vị kia thì chỉ có mỗi bà là có năm sinh. Tóm lại chúa Liễu Hạnh là sản phẩm của các nhà nho đời Lê, trộn lẫn từ một nhân vật có thật với những huyền tích.
    Còn về Từ Đạo Hạnh thì được thờ ở chùa Thầy. Cuộc đời của Từ Đạo Hạnh cũng li kỳ, ở chùa Thầy hình như còn một bức đại tự đề là Vi sư, Vi Phật, Vi vương. Nghĩa là làm sư làm Phật làm vua nói về mấy lần đầu thai của Từ Đạo Hạnh.
  10. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn Chitto đã viết cho những điều rất thích thú, làm tôi lại muốn tìm dịp đi quanh Hồ Tây vài lần nữa.
    Riêng về Bà Chúa Liễu Hạnh, căn cứ vào đâu mà có thể nói đó là cùng một "thanh khí" trở về qua nhiều lần đầu thai?
    Cám ơn các Thầy rất nhiều, dạy cho tôi nhiều điều thật vui.

Chia sẻ trang này