1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hồ Tây (Hà nội) và các danh thắng quanh hồ??????

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi KINGOFSEA, 19/03/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. metamodel

    metamodel Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/12/2004
    Bài viết:
    283
    Đã được thích:
    2
    Hình như bạn nhầm tên chùa Vạn Ngọc thành Vạn Hoa. Còn chùa mà có cổng to nhìn từ đường Quảng Bá qua dòng nước là chùa Tứ Tổng. Tớ mới trèo lên cái cổng đó hôm Tết. Bên cạnh đó còn có đình Tứ Liên mới dọn từ ngoài đê vào, khung cảnh rất đẹp, cũng nhìn ra dòng nước. Tiếc là dòng nước đang bị người ta lấp dần.
    Đúng là ở HN chẳng đâu có mật độ đền chùa dày đặc như Hồ Tây. Ở trên bạn còn kể thiếu 2 nơi rất nhiều người biết là đình Nhật Tân và đền Voi Phục trên phố Thuỵ Khuê, gần dốc Tam Đa. Ngoài ra trên phố Thuỵ Khuê còn nhiều đình đền chùa trong ngõ mà đi đường không thấy được.
    Chùa Tảo Sách bạn nói chắc là chùa đối diện UBND quận Tây Hồ nhỉ. Còn chùa Ức, Vạn, Thiên Niên thì tớ không biết ở đâu.
  2. metamodel

    metamodel Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/12/2004
    Bài viết:
    283
    Đã được thích:
    2
    Ngôi chùa cạnh Phủ Tây Hồ bạn nói chắc là chùa này.
    Tây Hồ có chùa Phổ Linh (đời Tây Sơn đổi thành chùa Địa Linh), một chùa nổi tiếng ven Hồ Tây. Chùa có kết cấu ?~?Tnội Công, ngoại Quốc?T?T. Khu Tam bảo gồm bảy gian, ở vị trí cao nhìn ra Hồ Tây. Theo văn bia còn lưu thì chùa được xây từ đời Vua Lý Thần Tông (1128 - 1138), được tu bổ lớn vào các năm : Vĩnh Tộ thứ tư (1622), Chính Hòa thứ 17 - 1696 (tập trung vào gác chuông), thành một thắng cảnh ven Hồ Tây, bên dòng sông Nhị uốn quanh. Đến năm cuối cùng niên hiêu Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn (1801), chùa đúc quả chuông lớn, hiện còn lưu giữ được, cao 1, 5 mét, đường klính miệng rộng 0, 8 mét.
    Cuối năm 1823, đầu năm 1824, Minh Mạng tuần du ra Bắc, đã đến thăm chùa Địa Linh và cấp cho chùa 30 lạng bạc để tu bổ.
  3. metamodel

    metamodel Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/12/2004
    Bài viết:
    283
    Đã được thích:
    2
    Lại có thêm thông tin hơi khác 1 chút về chùa Phổ Linh :
    Gần Phủ Tây Hồ còn có chùa Phổ Linh là thắng cảnh nổi tiếng, trong chùa còn có hai tấm bia cổ dựng năm 1622 (đời vua Lê Thần Tông) và năm 1678 (đời vua Lê Hy Tông), qua đó cho thấy chùa được xây dựng từ đời Lý Nhân Tông (1097).
    Trong các DTLS quanh Hồ Tây, tớ rất thích chùa Kim Liên, kiến trúc rất đẹp, so sánh thấy hơi giống chùa Tây Phương. Một vài thông tin :
    Làng Nghi Tàm nguyên là đất thuộc tổng Thượng, huyện Vĩnh Thuận là làng có nghề nuôi tằm, trồng hoa, nuôi cá vàng, cá chọi, cá cảnh, đặc biệt có nghề trồng quất nổi tiếng. Ở đây còn có giống trúc rất đẹp được người dân trong cả nước ưa thích và đến tìm mua.
    Làng cổ Nghi Tàm có chùa Kim Liên (Bông sen vàng) nằm trên một đảo nhỏ nổi trên mặt nước Hồ Tây. Tương truyền công chúa Từ Hoa, con vua Lý Thần Tông (thế kỷ XIII) ra đây ở. Cổng chùa có một tấm bia có chạm đôi rồng mang đậm phong cách thời Lý. Gần chùa là đình làng Nghi Tàm thờ Quỳnh Hoa công chúa, cùng chồng là Liễu Nghị đã có công đánh giặc ngoại xâm phương Nam đã dám xâm phạm đến cả kinh thành Thăng Long thời Lê.
  4. metamodel

    metamodel Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/12/2004
    Bài viết:
    283
    Đã được thích:
    2
    Đây là các DTLS thuộc vùng Xuân La ngay bên Hồ Tây :
    Phía tây của Hồ Tây có một vùng đất rất cổ, thuở xưa xa gọi là động Dà La. Theo Hùng triều kỷ thì, từ thời cổ, Hồ Tây bên làng Long Đỗ, động Lâm ẤP, phía tây đến động Dà La, phía đông đến động Nha Lâm, phía nam đến động Bình Sa...Động Dà La là vùng đất cao, khá bằng phẳng, có sông Dà La (tức sông Thiên Phù) chảy qua, nên rất thuận tiện cho canh tác và giao thông, buôn bán.
    Thời thuộc Đường, nơi đây đã là một trung tâm phồn thịnh, trước khi có La Thành và đạo Giáo khá thịnh hành. Lý Uyên khởi nghĩa đánh nhà Tuỳ, đã được sự giúp đỡ to lớn của các đạo sĩ, nên khi trở thành vua, khai lập nhà Đường, đã rất mực tôn sùng đạo Giáo. Ông vua này tự coi mình là con cháu Lão Tử và tự tay chú giải Đạo đức kinh ban phát cho thiên hạ. Vương triều Đường đã cho xây đến hai nghìn quán, cả nước có hơn 15 ngàn đạo sĩ xuất gia tu trì. Đời vua sau, là Đường Huyền Tông (tức Đường Minh Hoàng), cũng là một đạo sĩ. Ông lấy niên hiệu là Khai Nguyên (713 - 740). Vào những năm Khai Nguyên đó, Thứ sử Quảng Châu là Lư Hoán sang làm đô hộ Giao Châu, đóng phủ trị ở động Dà La, và cho đổi gọi thành thôn An Viễn. Lư Hoán đã cho dựng trên gò đất lớn ở vùng núi gồm bảy ngọn tên là Thất Diệu, một quán thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, đặt tên là quán Khai Nguyên. Do phía sau quán này có sông Dà La (Thiên Phù) chảy qua, nên còn có tên gọi là quán Dà La.
    Về sau, dân ta cứ dùng tên quán mà gọi tên làng, mà gọi tắt là làng Quán La. Đến thời Lý, quán Dà La vẫn còn, các vua Lý hay đến du ngoạn. Thấy chân núi Thất Diệu có một hang lớn và dài sâu vào lòng núi, vua Lý Thần Tôn đã sai xây gạch làm thành cái động, gọi là động Thông Thiền. Gạch xây động có kẻ triện quả trám kiểu rất cổ, vẫn còn đến ngày nay, dẫu động Thông Thiền chỉ còn một hang chính, các ngách đã bị lấp. Đến năm đầu niên hiệu Khai Hựu đời Trần Hiến Tông, có đạo sĩ Trần An Quốc, hiệu là Tự Lạc tiên sinh, tu trì tại quán Dà La. Quan tư đồ Trần Quang Triều và Thái học sinh Nguyễn Sưởng, là những nhà thơ rất nổi tiếng đương thời với giọng thơ rất da diết về thân phận con người, thường đến đây thù tạc, ngâm vịnh. Đến đời Trần Dụ Tông, có nhà sư Vân Thao đã cho trùng tu quán đổi thành chùa, lấy tên là chùa An Dưỡng. Nhưng sau, sư Vân Thao không chịu nổi sự tạp nhiễu, đã rời đến làng Bộ Đầu, tổng Đa Lộc. Chùa thành hoang phế, người đời sau dùng làm miếu thờ thần núi...Đến đời Lê, vùng quê này đã được gọi là Quán La Xã. Năm Hồng Đức 12 đời Lê Thánh Tông, 1481, vua hạ chiếu cho lập 43 sở đồn điền trong cả nước. Việt sử thông giám cương mục có ghi về việc này:"...là cốt để dồn hết sức cho việc làm ruộng để cho sự tích trữ (lương thực) trong nước được dồi dào...". Trong 43 sở đồn điền đó, có Quán La Sở và Minh Cảo Sở kề bên (sau đổi thành Xuân Tảo Sở). Theo thời gian, sở đồn điền thành những làng quê. Rồi ba làng Quán La Xã, Quán La Sở và Xuân Tảo Sở được nhập thành một xã lớn, xã Xuân La. Đến khi lập quận Tây Hồ, 1995, xã Xuân La thành phường Xuân La.
    Xuân La của Tây Hồ, Hà Nội là vùng đất có nhiều di tích rất cổ kính. Ngoài quán Khai Nguyên sau thành chùa An Dưỡng và sau nữa thành miếu thờ thần núi, ở đây còn có đình Quán La và chùa Khai Nguyên. Đình Quán La toạ lạc trên một gò đất thuộc núi Thất Diệu xưa, nay đã ở vào vị trí giữa làng. Đình gồm ba gian thờ, hai gian tiền tế và một gian mật cung. Theo sách Tây Hồ chí thì đình thờ bà Duệ Trang, một liệt nữ có công đánh giặc, bảo vệ kinh thành Thăng Long, được dân địa phương phụng thờ từ cuối triều Trần. Còn chùa Khai Nguyên, toạ lạc gần đình Quán La, hiện còn lưu giữ cuốn mộc thư có ba chữ ?oKhai Nguyên Tự? (chùa Khai Nguyên). Quả chuông chùa cũng có khắc tên ?oKhai Nguyên Tự chung? (chuông chùa Khai Nguyên). Ngoài hệ thống tượng Phật, tượng Mẫu, tượng Hộ pháp, ở chùa này còn một pho tượng nữa mà người ta vẫn cho đó là tượng Đường Minh Hoàng. Nếu đúng là tượng Đường Minh Hoàng, thì có thể đặt vấn đề:"chùa được khởi dựng từ niên hiệu Khai Nguyên?!...". Có thể nói cụm di tích tôn giáo tín ngưỡng gồm đình, chùa, miếu và hang ở vùng quê này là một chiều dài lịch sử rất đặc biệt và rất hiếm thấy ở nước Việt Nam ta. Cụm di tích này còn lưu giữ được 18 đạo sắc phong, trong đó sắc phong năm Thịnh Đức thứ nhất đời Lê Thần Tông, 1635, và còn lưu giữ được 11 bia đá cổ ghi chép việc tu sửa, tôn tạo đình, chùa, trong đó có tấm bia dựng năm 1745 đời Lê Hiển Tông và tấm bia dựng năm Thái Đức 1788, đời Nguyễn Nhạc, là tấm bia quý hiếm thời Tây Sơn còn lại được! Các cố lão ở địa phương cho biết, thời trước năm 1945, cái hang (tức động Thông Thiền xưa) rất rộng, nhiều người hiếu kỳ đã xuống thăm dò các ngách hang, và các nhà nghiên cứu ở viện Bác Cổ cũng đã đến nghiên cứu. Về sau, chính quyền thực dân và tay sai, do muốn ngăn chặn những hoạt động của *********, nên đã lấp mất mấy ngách dài sâu vào lòng núi...Ngày nay, toàn bộ cụm di tích hầu như nằm dưới bóng rợp của những tán cây cổ thụ. Ngay sau tam quan đình là một cây thị cổ thụ, vòng thân gốc đến gần 5 mét, với những múi thân trông rất mạnh mẽ. Các cố lão ở địa phương nói rằng, cây thị đã gần nghìn tuổi, mỗi năm chỉ cho đôi ba quả nho nhỏ, nhưng hương thơm bay khắp làng, hàng tháng mới rụng. ? mé tây đình, có cây đa đại thụ, rễ buông chằng chịt, thân gốc đến 10 người ôm mới xuể. Thân gốc đa không có chỗ nào nứt toác, nhưng lại có khoảng rỗng lớn bên trong. Muốn vào bụng cây đa, phải trèo lên một cành cụt khá cao rồi mới tụt xuống. Thời chống Pháp, cán bộ hoạt động bí mật và du kích lấy đây làm nơi náu mình, rất an toàn.
    Thời xưa, dân chúng Quán La Sở sống chủ yếu ngoài bãi, bên ngoài đê mới, sau mới chuyên về địa điểm bây giờ. Nơi địa điểm cũ, nay vẫn còn dấu vết nền đình, nền chùa cổ xưa. Làng Xuân Tảo Sở gồm hai thôn, là Xuân Tảo và Vệ Hồ. Xuân Tảo Sở nằm ven hồ Tây, xưa kia vốn có cả đình và chùa. Đình đã bị cháy trong thời Pháp chiếm Hà Nội, chỉ còn chùa Vạn Niên toạ lạc bên hồ Tây, rất đẹp. Sách Thăng Long cổ tích khảo có ghi về chùa này:"? cạnh Hồ Tây, xưa gọi là chùa Vạn Tuế, sau gọi là chùa Vạn Niên, thuộc địa phận ấp Quán La, Lý Thuận Thiên năm thứ năm, 1014, Hữu nhai Tăng thống tâu xin lập giới đàn tại đây, thụ giới cho các tăng đồ. Vua xuống chiếu ban cho, bấy giờ danh tăng Tuệ Sinh, và rồi Thảo Đường kế thừa trụ trì tại đây...?. Thiền sư Thảo Đường là tăng nhân tông Vân Môn, Phật phái Bắc Tống, được vua Lý đưa về Thăng Long, rồi sáng lập Thiền phái Thảo Đường ở Việt Nam ta. Thiền phái này được các vua Lý rất hâm mộ, như Thánh Tông, Anh Tông, Cao Tông...dù không xuất gia nhưng người đời ghi nhận họ là đệ tử của Thiền phái Thảo Đường. Nhiều chùa ở các làng quanh hồ Tây chịu ảnh hưởng rất lớn của Thiền phái này, đặc biệt hai chùa Khai Quốc (sau đổi gọi là Trấn Quốc) và chùa Vạn Niên là nơi Quốc sư Thảo Đường từng trụ trì, với tư tưởng Thiền ?" Tịnh hợp nhất thật sâu sắc. Ngay từ thời Lý, chùa Vạn Niên đã là một chốn tùng lâm thụ giới cho các tăng đồ. Đến nay, chùa còn lưu giữ 46 pho tượng, hai quả chuông đồng, 11 đạo sắc phong, và nhiều đồ thờ tự có giá trị văn hoá - lịch sử. Ngày xưa, thôn Vệ Hồ có tục thi bơi chải vào ngày 3 tháng 3 âm lịch hàng năm, trên vùng Hồ Tây trước cửa chùa Vạn Niên. Thường có 10 thuyền vào cuộc thi, mỗi thuyền có hai người dự thi. Vệ Hồ còn có tục thi cơm mới vào tháng 10 hàng năm, một tục hội của niềm vui no ấm.
    Cả vùng quê Xuân La, đã từ lâu, là vùng làng thôn trù phú, người dân sống thuần hậu, cày cấy trên đồng ruộng, đánh bắt cá trên sông Hồng và hồ Tây. Bên Xuân Tảo Sở còn có nghề trồng cây thuốc lá. Bên Quán La Sở còn thạo việc đánh bắt chim dẽ...Sau 9 năm kháng chiến chống Pháp, hoà bình lập lại, ngày 23 tháng 11 năm 1958, Hồ Chủ Tịch đã về thăm xã Xuân La. Đứng dưới gốc đa cổ thụ, Bác nói với nhân dân: "Cây đa cổ thụ này, cũng như ngôi đình, là di tích lịch sử, kiến trúc có giá trị cao, các cụ phụ lão và toàn dân phải giữ gìn, bảo vệ cho tốt". Đúng 7 năm sau, ngày 23 tháng 11 năm 1965, Hồ Chủ Tịch lại về thăm Xuân La lần thứ hai. Và, Người đã hài lòng vì toàn dân Xuân La đã giữ gìn chăm sóc những di tích ở quê hương mình. Nhờ vậy, tới nay Xuân La đã thành phố phường đông vui, những danh lam cổ kính vẫn được bảo toàn, khiến mỗi ai đến đây vẫn có được cảm xúc như đang được đi trên một vùng đất cổ kính. Dường như, mỗi bước đi, bàn chân đang áp lên những dấu tích ngàn xưa.
    Thông tin này chắc khá độc nhỉ.
    Được metamodel sửa chữa / chuyển vào 21:48 ngày 22/03/2006
  5. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Các bạn chỉ bàn về Hồ Tây cổ ngày xưa .
    Hồ Tây bây giờ đang bị lấp dần lấy đất bán để xây nhà rồi .
    Các đây khoảng chục năm tôi về thăm lại Hà Nội,
    thấy ồn ào, bụi bặm, chật chội hơn xưa .
    Hồ Tây cũng không còn yên tĩnh nữa .
    Chùa Trấn Quốc thì tô vẽ loè loẹt, và xây kè bờ hồ, trồng cây mới,
    khó mà nhận ra chùa ngày xưa.
    Phía đông bắc Hồ Tây hàng quán xây tràn ra hồ,
    không nhận được đây là đâu ngày xưa.
    Không biết bây giờ hồ Tây như thế nào nữa.
  6. metamodel

    metamodel Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/12/2004
    Bài viết:
    283
    Đã được thích:
    2
    Bác có thể yên tâm là Hồ Tây không thể bị lấp thêm nữa, chuyện lấp mặt nước xây nhà là cách đây độ chục năm. Chính cái công viên nước Hồ Tây lấn chiếm mặt nước nhiều nhất, để xây nó người ta lấp hàng chục hecta mặt hồ đoạn đình Nhật Tân, nơi trồng rất nhiều sen.
    Còn đoạn đường thanh niên thì rất nhiều nhà hàng nổi trông mất mỹ quan.
    Thời buổi mới phát triển kinh tế thị trường người ta đua nhau xây nhà một cách xô bồ thiếu quy hoạch dẫn đến việc làm mất nhiều giá trị cảnh quan của hồ. Chứ ngày xưa quanh hồ cây cối rậm rạp và nhiều nơi rất hoang vắng, thơ mộng. Ngay đến vườn đào Nhật Tân bây giờ UBND HN cũng lấy đất để xây khu đô thị mới, chắc Hoàng Văn Nghiên phải ăn được khối tiền từ vụ này. Bây giờ người dân trồng đào ở đây phải di dời ra ngoài đê với số tiền đền bù rẻ mạt theo thời giá 1997.
    Tớ cũng thấy mấy ông sư chùa Trấn Quốc có tư duy kiến trúc rất tầm thường, xây thêm cái bức tường ở lối vào chẳng ra Tây chẳng ra Ta, tô vẽ loè loẹt theo kiểu miền nam, xấu ơi là xấu. Lại mặt chính diện chùa thì xây cả 1 nhà bia để ghi công đức hàng trăm người có công đóng tiền xây vòng twờng bao quanh cây bồ đề !!!??? Thật chẳng hiểu mấy ông sư này nghĩ gì nữa.
    Lại đến chùa Tảo Sách mới trùng tu năm ngoái, trùng tu lại thấy xấu hẳn đi. Xây thêm mấy cái nhà kiến trúc khô cứng diêm dúa cực xấu.
  7. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Hầu các bác ít ảnh về chùa chiền Hồ Tây em mới chụp
    Chùa Võng Thị đang được xây mới rất lòe loẹt, cái cổng chùa này sắp bị phá
    [​IMG]
  8. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Chùa Kim Liên nổi tiếng với cổng Tam quan gỗ lim nhưng cũng bị bủa vây bởi các công trình mới.
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
  9. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Những mái ngói rêu phong ngày càng ít đi, bị phá đi.
    [​IMG]
    Phật có buồn ko?
    [​IMG]
    Những người muôn năm cũ....
    [​IMG]
  10. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn các Thầy đã cho đọc nhiều điều thú vị.
    Nhân dịp Bác Phù Thủy Bay đi chụp ảnh, bác có thể nào chụp hình đền thờ Cẩu Nhi và các mái ngói được không?
    Tôi đọc trên mạng thấy tài liệu về Con Nghê, một linh vật thuần Việt, nên thắc mắc không biết đền thờ Cẩu Nhi tại Hồ Tây có phải là đền thờ Con Nghê không?
    Hiện nay chúng ta còn di tích Con Nghê ở những đâu?
    Tôi chép lại bài viết vào đây cho tất cả chúng ta cùng đọc nhé:
    Bùi Ngọc Tuấn
    Con Nghê - linh vật thuần Việt

    Hai linh vật đặc thù của văn hóa Việt Nam là chim Hạc và con Nghê, thế nhưng trong khoảng hai trăm năm gần đây, ta thường thấy rồng và lân được dùng trang trí trong các đền chùa, dinh thự lớn. Như tượng hai con lân trắng ở ngay trước sân chùa Vĩnh Nghiêm, Sài gòn chẳng hạn. Những ngôi nhà lớn của người Việt ở hải ngoại hay ở trong nước cũng trang trí bằng tượng con lân. Chim hạc là linh vật từ thời các vua Hùng dựng nên nước Văn Lang ta, còn con Nghê xuất hiện từ bao giờ? (Phải chăng từ đời Lý, khi nền văn hóa thuần Việt được phục hồi và phát triển sau một ngàn năm Bắc thuộc?). Dù là biểu tượng thuần túy Việt Nam nhưng con Nghê lại được ít người biết đến.
    Con Nghê là gì?
    Trong đời sống của người dân Việt, hai con thú được coi như những người bạn thân thiết, gần gũi và quan trọng nhất là con trâu và con chó. Trâu để cầy ruộng, giúp sản xuất lúa gạo, chó để giữ nhà, phòng kẻ gian, phòng thú dữ. Đời sống thực tế có chó giữ nhà, còn đời sống tinh thần thì sao? Ông cha ta cũng cần một linh vật để chống lại các tà ma ác quỷ nữa chứ. Chó đá được dựng lên vì thế. Ở làng quê miền Bắc Việt Nam, trước cổng làng bao giờ cũng có một con chó đá để bảo vệ cả làng, trước cổng đình bao giờ cũng có chó đá, và trước cổng nhà hay ở ngoài đầu hồi, ngoài cửa nhà cũng thường có chó đá ngồi trước canh giữ cho gia chủ. Những con chó đá này hình dạng thay đổi, cao khoảng từ nửa thước tới một thước, thường là những tảng đá được khắc đẽo rõ ràng oai vệ, nhưng có khi chỉ là một khối đá đặt nghiêng theo dáng một con chó đang ở thế ngồi canh giữ. (Truyện cổ cũng thường nhắc đến chó đá, như chuyện ?oCậu học trò và con chó đá?, chuyện ?oHai anh em và con chó đá? ?" Xin đọc: Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc,Truyện cổ nước Nam)
    Rồi để bầy trước điện thờ, hay bàn thờ của những nhà giàu có, ở các đình chùa, đền miếu, chó đá hoá linh. Chó đá được khắc đẽo với những chi tiết oai vệ, đầu chó, mặt chó đầy những nét oai nghiêm. Vì linh thiêng như thế, nên được gọi là con Nghê.
    Con Nghê còn được dùng để trang trí trong các ngôi đình cổ ở Việt Nam. Nghê được chạm trên cốn (xà ngang từ cột ra để đỡ xà dọc ở mái ngoài), hay được đạt trên đầu đao (sống mái chạy từ đỉnh nóc nhà xuống, cong lên như hình cây đại đao (mã tấu) nên gọi là đầu đao), như trên cốn đình làng An Hoà (Hà Nam), Phất Lộc (Thái Bình), cột đình làng Hội Thống (Hà Tĩnh) đầu đao đình làng Phù Lão (Bắc Giang), làng Trung Cần (Nghệ An), làng Tây Đằng (Sơn Tây)? chẳng hạn. Thuở nhỏ, vào khoảng đầu thập niên 1950 ở Thái Bình, còn thấy ở nhà cụ Hà Ngọc Huyền, ông ngoại chúng tôi có chưng tượng con Nghê cao gần một thước ngay lối vào phòng khách cùng với những bình, những chóe đời Khang Hy nhà Thanh, đời Minh? Con Nghê này không biết nay đã lưu lạc về đâu?
    Vậy con Nghê là một linh vật thuần Việt, được sáng tạo để bảo vệ đời sống tâm linh của người Việt. Con Nghê thường được thấy qua các món đồ gốm, mà có thể được giới thiệu tiêu biểu dưới đây.
    Vài hình tượng con Nghê tiêu biểu
    Tượng con Nghê: dựa trên nước men, màu men, chất đất ta có thể định rằng đây là một tác phẩm đời Lý (thế kỷ XI - XII). Con Nghê này cao độ 36cm, bàng đất nung, phủ men nâu, nét tô đắp cực kỳ tinh xảo, con Nghê trông sống động, oai vệ, tưởng chừng như có thể phóng lên xua đuổi tà ma ngay tức khắc. Mặt Nghê ngắn. Mình Nghê thon dài, rất thanh tú. Cổ Nghê đeo dây lục lạc có tua, cổ ngửng thẳng. Lông trên sống lưng dựng đứng như một hàng kỳ, chạy suốt từ đỉnh đầu xuống đến đuôi. Chân Nghê thanh nhưng thẳng và mạnh, chân sau ở thế ngồi bắp thịt đùi trông rắn chắc mạnh mẽ, hai chân trước chống cao, chỗ đầu gối có lông xoắn cong. Mắt to, miệng lớn, mũi lớn, miệng Nghê hơi hé mở để lộ những răng nanh nhọn hoắt, như sẵn sàng xua đuổi tà ma. Tai Nghê lớn. Lông Nghê mượt sát vào mình với những đường khắc, uốn từ sống lưng xuống phía bụng, trông như vằn chó.
    [​IMG]
    Tượng con Nghê đời Lý (Bộ sưu tập Bùi Ngọc Tuấn)
    Nậm rượu hình con Nghê: chúng tôi xin đưa ra hình hai nậm rượu hình con Nghê, một mầu nâu, một mầu đen. Nghê với hình dáng và thế ngồi cũng như mô tả ở trên, tuy rằng các chi tiết không sắc sảo bằng. Nghê ngồi trên một bầu rượu có dáng trên tròn dưới ống. Mình Nghê rỗng, trên lưng Nghê có vòi loe để chuyên rượu vào (nắp đậy chỗ này không còn, nên ta không biết nắp cũng làm bằng đất sét nung hay bằng gỗ hoặc lá cuộn). Rượu được rót ra từ vòi dài đi từ thân nậm, tựa như cọc với dây xích buộc Nghê.
    [​IMG]
    Hai nậm rượu hình con Nghê đời Lý (Bộ sưu tập Bùi Ngọc Tuấn)
    Bình trầm hương hình Nghê: màu men, nước men, chất đất, độ nung của các bình hương này cho thấy đây là các tác phẩm làm thời Chu Đậu (thế kỷ XVI - XVIII) chứ không phải đồ đời Lý hay đời Trần. Bình hương gồm hai phần, phần dưới là một hộp nhỏ hình chữ nhật, đây là chỗ bỏ trầm vào đốt. Phần trên là nắp. Nắp là con Nghê ngồi trên một mặt phẳng đậy vừa kín phần dưới. Mình Nghê rỗng nên khi đốt trầm khói từ phần hộp phía dưới, luồn trong mình Nghê rồi bay ra từ miệng Nghê đang hơi khẽ mở, trông rất oai nghiêm. Vì trầm được đốt trong hộp kín phía dưới mà chỉ có thể thoát khói ra khỏi miệng Nghê nên cháy rất chậm, vừa toả đủ khói hương để mang đầy vẻ linh thiêng mà vẫn cháy lâu cả buổi.
    [​IMG]
    Bình trầm hương con Nghê (thời Chu Ðậu, thế Kỷ 16 - 17)
    Hình trích từ Vietnam ceramics, A separate tra***ion, John Guy và John Stevensen, Avery Press 1997
    Cũng có một số bát hương làm vào khoảng thế kỷ XIII, XIV với hình chó thay vì hình nghê. Đây là các bát hương có dạng nửa tô, nửa đĩa, với tượng chó ngồi ở chính giữa bát hương. Thẻ hương được đặt ngang thành bát, gác lên đầu chó.

    Bát hương con Nghê
    Hình trích từ Vietnam ceramics, A separate tra***ion, John Guy và John Stevensen, Avery Press 1997
    Loại khác gồm hai phần, phần dưới chắc cũng dùng để đốt trầm, khói bay luồn trong tượng chó ngồi ở giữa rồi tuôn ra miệng chó. Khi không đốt trầm, cây hương cũng được đặt gác lên đầu chó.
    [​IMG]
    (còn tiếp)
    Nguồn: Tạp chí Khởi Hành, Hoa Kỳ

Chia sẻ trang này