1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hoàng Lê nhất thống chí - Ngô gia văn phái

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Pagan, 22/08/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Pagan

    Pagan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/08/2004
    Bài viết:
    3.118
    Đã được thích:
    1
    Hồi thứ mười 
    Lân dương hầu phò chúa vượt biển đến Yên QuảngBằng công Chỉnh mời vua qua sông đi Lạng Sơn
     
    Lại nói, Chỉnh thấy lời lẽ trong tờ biểu, gọi mình là thằng giặc, thì nổi giận đùng đùng, vung gươm quát to:
    - Cái quân mất nước kia mà chưa biết sợ, còn dám múa bút khua lưỡi để lừa người trong nước! Hôm nay ta thề với hắn một sống một thác. Tướng sĩ các ngươi đều phải trông cờ nghe trống, ra sức xông vào trận mạc, chỉ có tiến không có lùi. Kẻ nào không nghe mệnh lệnh đã có thanh gươm này!
    Rồi Chỉnh vận đồ trận, lên mình voi, cầm lá cờ đỏ vẫy các quân sĩ tiến về phía trước.
    Nguyễn Như Thái tế ngựa vào trận hò reo "giết giặc". Súng nổ, cung bắn, tên đạn bay tới tấp như mưa rào.
    Quân bên tả của chúa chống không nổi cơ hồ sắp vỡ. Chúa bèn sai đội tiền phong hợp với hai đội tả hữu vừa đánh vừa lui vào trong luỹ, rồi chia quân để cố thủ.
    Chỉnh dàn quân giáp liền với luỹ, bốn mặt đánh vào, suốt nửa ngày không lấy được luỹ. Đến tối, mưa dầm rả rích, gió thổi ào ào, trời đất đen ngòm, cách gang tấc không trông thấy gì. Chỉnh hạ lệnh cho quân lính vây sát luỹ của chúa. Chúa bèn chia quân làm ba toán. Những người dũng cảm thì làm hai cánh quân trước và sau, do Toại và Châu đốc suất. Những người già yếu thì cho làm cánh giữa, chúa tự dẫn đi.
    Đêm đã yên lặng, chiêng trống im bặt, đèn lửa tắt hết. Ngoài luỹ súng bắn liên thanh không ngớt, mà trong luỹ im lặng như tờ. Chỉnh sai quân do thám ngầm đến dưới luỹ nghe ngóng, hình như trong luỹ không có người, nhưng cũng không lường được hư thực ra sao.
    Đến canh tư, mưa và sấm sét lại nổi lên dữ dội.
    Chúa sai mở rộng cửa luỹ, bảo Toại, Châu ra trước, mỗi người đem năm mươi tên dũng sĩ, đánh thẳng vào doanh của Chỉnh; Toại đánh mặt tả, Châu đánh mặt hữu, mở một đường ở giữa. Tiếp đó chúa dồn quân ra, nhằm phía đông mà chạy, để Toại và Châu làm đội chặn hậu.
    Đêm ấy, quân của Chỉnh không phân biệt ai với ai, bắn nhau đâm nhau lộn bậy. Sáng ra mới biết rõ sự thật, thì đuổi theo không kịp nữa rồi. Chỉnh dồn quân vào luỹ, chỉ thấy nhà cửa rỗng không, sai quân tìm kiếm khí giới lương thực, chẳng được gì hết. Chỉnh rầu rầu không vui, liền rút quân về kinh.
    Chúa Trịnh chạy đến Hàm Giang, nương tựa vào Đinh Tích Nhưỡng. Bao nhiêu quân lính già yếu, chúa đều cho về, chỉ để hai tướng Châu, Toại và hơn một trăm thủ hạ ở lại với mình. Nhưỡng sai dọn riêng một trại để cho chúa ở.
    Tính Nhưỡng nóng nảy, lại không thông thạo nghề làm tướng, và cũng không phải thật thà có lòng trung nghĩa. Lời nói, việc làm thường ngày của Nhưỡng cũng đều là giả dối, cốt lấy tiếng mà thôi. Từ khi xuất thân tới nay, Nhưỡng chỉ quen thuỷ chiến, chứ chưa từng đốc suất lính bộ. Sau trận thua ở huyện Kim Động, Nhưỡng bỏ hết thuyền bè, thất thểu chạy về miền đông, giữ trấn thành Hải Dương. May nhờ ở đấy sẵn có quân lương, nhưng Nhưỡng không khéo vỗ về trăm họ, lại thả lỏng cho bộ hạ cướp bóc xóm làng, nên dân chúng hai phủ Thượng Hồng, Hạ Hồng đều căm giận. Hào mục các nơi hùa nhau nổi lên đánh lại, Nhưỡng phải bỏ chạy về Hàm Giang. Khi nghe tin Tây Sơn đã về Nam, Nhưỡng lại kéo quân vào kinh, định mưu lập quận Thuỵ để chống vua Lê. Đến khi quận Thuỵ thua chạy. Nhưỡng bất đắc dĩ lại phải bám vào chúa Trịnh Bồng. Lúc nghe tin Chỉnh lại ra Bắc, sợ Chỉnh không dong mình, Nhưỡng bèn dẫn quân về đông, xin lĩnh hai trấn Hải Dương, Yên Quảng để tránh tai vạ. Khi chúa chạy về Quế Ổ, Nhưỡng vẫn vẫy vùng ở phía đông, chưa hề lần nào đến thăm chúa. Đến lúc này, chúa đến Hàm Giang, Nhưỡng luôn luôn tỏ vẻ nhạt nhẽo, lễ ý xem chừng cũng đơn bạc. Toại và Châu đêm ngày ở bên cạnh chúa. Đối với Toại thì Nhưỡng ghen ghét là con nhà tướng; đối với Châu thì Nhưỡng khinh rẻ là kẻ bạch đinh. Hai người dò biết ý Nhưỡng, sợ có điều gì bất trắc, nên đều từ giã chúa và ra đi cùng một ngày.
    Chúa khóc lóc tiễn đưa hai người và nói:
    - Tục ngữ có câu "chết đuối vớ phải bọt", bám cũng không được, chẳng bao lâu nữa ta cũng đi thôi, giữ các ngươi lại làm gì cho nhục!
    Chúa ở lại hơn 10 ngày. Nhưỡng không hề nói đến việc quân, việc nước. Chợt một đêm, Nhưỡng tới chỗ chúa ở mà nói:
    - Trời thanh trăng sáng, vẻ thu rất đẹp, thần đã đem rượu lên thuyền chờ đợi, xin chúa đi chơi một lúc, ngắm xem phong cảnh, cho khuây nỗi buồn.
    Chúa tỏ vẻ sầu não mà rằng:
    - Phong cảnh vẫn như thường mà ngước mắt thấy non sông khác lạ. Ta chưa giết được quân thù, không nên quên ngồi trên áo giáp. Bơi thuyền uống rượu không phải là việc của ta ngày nay. Tướng quân hãy đi mà chơi!
    Sau khi Nhưỡng đi, chúa rầu rầu tựa ghế, bảo bọn người hầu:
    - Quan võ đều không thể trông cậy, hoặc giả bọn quan văn có khá hơn chăng? Chúa bèn viết bức thư, sai người ngấm ngầm đưa cho quan bình chương là Trương Đăng Quỹ. Thư nói rằng:
    "Kiếp này sinh ra lỗi thời, gặp lúc nhà nước lắm nạn; lạm dự vào dòng đích nhà chúa, rất lo cho việc tôn miếu xã tắc. Dâng biểu trần tình, may được hoàng thượng cho về triều kiến. Lúc mới về, chỉ muốn giữ lấy việc thờ phụng tổ tiên cho tròn đạo hiếu, thực không có bụng chuyên quyền giữ nước. Sự thế đổi thay, lại bị chư tướng ép buộc, thành ra trái ý hoàng thượng. Lúc Chỉnh vào kinh, cung khuyết liền bị tiêu huỷ. Con chim bị cháy tổ, bay quanh không biết nương nhờ vào đâu. Vì thế phải phiêu bạt giang hồ, không dám về nơi kinh khuyết. Nay Quế Ổ, mai Hàm Giang, chỉ vì lo tìm nơi trú ngụ, bèn vướng lấy hình tích chống chế triều đình, khiến kẻ ghét mình có cớ mà nói. Mảnh lòng kính thuận, không có cách nào thấu đến bề trên. Ông hãy dùng lời lẽ khéo léo, tâu bày giúp cho. Lần này, dù tiến dù lui, tuỳ theo mệnh lệnh của hoàng thượng".
    Quỹ tiếp thư ấy, liền đem tâu vua. Vua ngậm ngùi mà rằng:
    - Tấm lòng thật thà của chúa, trẫm đã lường biết. Chỉ vì không khéo xử sự trong lúc gặp biến cố nên mới đến nỗi như thế. Nếu đã nghĩ lại và biết hối lỗi, trẫm sẽ có cách đỗi đãi, chẳng những giữ được dòng dõi, mà cũng không mất địa vị giàu sang.
    Luôn dịp, vua Lê bèn sai Quỹ làm sứ thần đi nghênh tiếp, đón chúa về triều.
    Lúc đó, chúa ở Hàm Giang, nghe nói Nhưỡng và Chỉnh ngấm ngầm thông tin tức với nhau, ngỡ rằng bọn chúng có mưu đồ gì khác, liền than rằng:
    - Đây không phải là chỗ yên lành có thể ở được. Ta thà vượt biển vào núi còn hơn là ngồi lại mà chịu nhục.
    Rồi chúa sai người hầu bí mật mượn mấy chiếc thuyền buôn, đang đêm đem cả đồ đảng, thuận gió giương buồm chạy thẳng tới Sơn Nam. Sáng ngày Nhưỡng mới biết, rất lấy làm kinh sợ mà nói:
    - Chúa đi sang nam mà không bảo cho ta biết trước, phải chăng là có ý ngờ ta? Nếu không theo chúa, lòng này không sao bộc bạch ra được, thiên hạ sẽ cho ta là người thế nào?
    Tức thì, Nhưỡng cũng cưỡi chiếc thuyền binh chạy theo chúa.
    Chúa đến huyện Chân Định thì có Phạm Tôn Lân (Cương mục chép là Phạm Đình Thiện) lên thuyền yết kiến.
    Lân quê ở làng Bác Trạch, huyện Chân Định (nay là huyện Kiến Xương, thuộc Thái Bình), vốn dòng dõi thế phiệt; ông tổ đời trước là Phạm Tôn Nhậm, một danh tướng của Trịnh Doanh, khoảng đầu niên hiệu Cảnh hưng từng lập được nhiều chiến công, trong quận ấp ai cũng kính phục. Tính Lân hào hiệp, khách ăn trong nhà thường có hàng trăm, khí giới cất giấu đầy đủ. Trong đám thổ hào của trấn Sơn Nam hạ, Lân là bậc nhất.
    Lúc ấy gặp chúa, Lân bàn việc binh cùng chúa, và vạch chước tiến thủ. Chúa rất mừng và nói:
    - Tiếc rằng ta gặp ngươi muộn quá! Ngươi hãy gắng giúp ta để nối công đức của tổ tiên ngày xưa.
    Lân nói:
    - Thần vốn không có tài gì. May được nhờ oai linh của chúa, dám đâu không hết lòng hết sức.
    Rồi đó, Lân mời chúa về nhà, nhóm họp đồ đảng, hộ vệ cho chúa.
    Hôm sau, Nhưỡng cũng đã theo đến nơi. Trước hết. Nhưỡng sai người đưa một tờ khải cho chúa, trong nói:
    "Nhà thần bao đời được đội ơn dày, một lòng với nhà chúa. Nay thần với Chỉnh, nói về tình tuy có quen thuộc, nhưng nói về thế thì không thể nào đứng đôi. Cả nước ai cũng biết điều đó, thần dám có lòng nào để nhục đến tổ tiên đời trước, xin chúa soi xét cho, khiến thần có thể lập được chút công, bù lại lỗi trước...".
    Chúa xem khải rồi hỏi ý Lân, Lân vốn nghe tiếng tăm của Nhưỡng, thường coi là tay cự phách xứ đông, nay may được chung sức làm việc thì rất lấy làm mừng, nên cố khuyên chúa đem lòng thành thực mà dùng Nhưỡng để thêm thế lực. Chúa nghe lời, Lân lập tức tự mình ra đón Nhưỡng cùng vào gặp chúa. Do đó, hai người rất là tương đắc. Họ liền đưa hịch đi các phủ Thái Bình, Kiến Xương, Thiên Trường (Thái Bình, Kiến Xương sau đều thuộc tỉnh Thái Bình. Thiên Trường sau là Xuân Trường thuộc Nam Định (Hà Nam Ninh)), hẹn cùng dấy quân đánh Chỉnh. Trong khoảng mười ngày, người theo về có đến vài vạn. Họ định ngày cùng tiến quân, thuyền bè đầy sông, thanh thế lừng lẫy xa gần đều hưởng ứng. Nhiều người cho rằng, nghiệp chúa có thể tính ngày mà khôi phục. Con em nhà quan lúc trước, như bọn Đoàn Nguyễn Tuấn, Phạm Giáp, Nhữ Công Liêu, Đào Nhữ Toản cũng đều chiêu mộ người làng đến họp. Các xứ đông tây cùng nổi dậy trong một lúc.
  2. Pagan

    Pagan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/08/2004
    Bài viết:
    3.118
    Đã được thích:
    1
    Bấy giờ Trương Đăng Quỹ vâng mệnh đi đón chúa, đến huyện Tiên Hưng, đường bị nghẽn, phải trở lại.
    Vừa lúc ấy có người từ kinh thành tới yết kiến chúa, nói rõ việc Chỉnh chuyên quyền kiêu ngạo, lòng người không phục, vua cũng nghi kỵ, và khuyên chúa nên kíp tiến binh đánh Chỉnh. Chúa nói:
    - Ta có viên tướng cũ là Bùi Nhuận, hiện ở kinh thành, coi quân Kim-ngô, lĩnh chức tứ thành đề lĩnh, có thể bảo y làm nội ứng. Chức trách của Nhuận là việc tuần phòng, chắc không ai nghi ngờ.
    Rồi chúa bèn sai người đưa tờ chỉ bí mật cho Nhuận, nói về việc ấy.
    Tiếp chỉ, Nhuận liền bàn với người thân tín. Đổi hết các quân canh giữ cửa ô. Con Hữu Chỉnh là Bái xuyên hầu dò biết việc đó, lập tức sai quân bắt Nhuận; rồi sai tướng của Chỉnh là Nguyễn Viết Tuyển hiện làm chức trấn thủ Sơn Nam đem quân đánh chúa.
    Lúc lính thuỷ của Tuyển tới sông Ngô Đồng (thuộc huyện Giao Thuỷ, Nam Định (Hà Nam Ninh)), mà lính bộ chưa đến cửa Đại Hoàng (thuộc huyện Yên Mô, Ninh Bình (Hà Nam Ninh)), có người dò biết về báo với chúa. Nhưỡng đem hai chục thuyền biển lớn nhất, dàn ngang sông thành trận chữ "nhất", trên đầu thuyền bày đặt các thứ súng, trông như bức thành. Quân Tuyển đến đánh, vì thuyền nhỏ không thể chống cự, nhiều chiếc bị súng Bảo-long bắn chìm xuống sông, Tuyển sợ, định lui giữ Hoàng-giang (tên sông, thuộc phủ Lý Nhân, Hà Nam (Hà Nam Ninh)) để cùng bộ binh nương tựa lẫn nhau.
    Thình lình có gió đông nam nổi lên, Nhưỡng liền sai các hải thuyền tản ra, ghé sát vào hai bờ, rồi buộc thuyền lại mà lên bộ. Tiếp đó Nhưỡng chỉ huy quân lính từ trên bờ theo chiều gió bắn xuống thuyền quân của Tuyển. Nhưng quân của Nhưỡng toàn là quân ô hợp, đứng, ngồi, tiến, lui chưa quen hiệu lệnh, lại hờ hững không có chí chiến đấu; nên sau khi lên bộ, hàng ngũ lộn xộn, chẳng ra sao. Tuyển ở dưới sông trông thấy vậy, liền hô to:
    - Quân Nhưỡng thua rồi!
    Thế là quân lính của Nhưỡng đâm nghi hoặc, rồi hoảng sợ, tan vỡ, đua nhau cướp đường mà chạy, giày xéo lẫn nhau, không sao ngăn cấm được nữa. Thuyền bè bỏ bừa ven sông, đều bị quân Tuyển bắt được.
    Quân Lân ở sau, trông thấy quân của Nhưỡng thua chạy tan tác, lại nghe nói Nhưỡng đã bị giặc giết rồi, nên đều kinh ngạc run sợ. Riêng Lân cũng không thể kiềm thúc được nữa, thế là cùng lúc ấy, đám quân tan vỡ luôn. Lân bèn hộ vệ chúa, cưỡi một chiếc thuyền, xuôi dòng chạy sang phủ Thái Bình. Chừng nửa đêm, đến huyện Đông Quan, chợt nghe tiếng súng đùng đùng, giống như hiệu lệnh hành quân. Có người bảo quân Tuyển đuổi theo. Có người ngờ là bọn kẻ cướp. Sau Lân sai người đi dò, mới biết đó là quân của Trần Mạnh Khuông.
    Trần Mạnh Khuông là một người hào mục ở huyện Đông Quan, gia tư giàu có, lại có nghĩa khí. Khi mới tiếp được tờ hịch, lập tức tụ tập quân lính trong huyện để hưởng ứng việc nghĩa, hẹn ngày hôm ấy xuất quân ra đi. Lúc này quân Khuông đóng ở Bái Hạ, cách đấy không xa.
    Nghe nói, chúa bèn vội vàng sai người đến gọi Khuông. Khuông theo sứ giả tới yết kiến, chúa nói:
    - Quả nhân tài hèn, đức kém, không biết tự lượng sức mình, hễ hành động gì liền bị vấp ngã. Bây giờ nên làm thế nào?
    Khuông nói:
    - Thua được là sự thường của nhà binh, dù là đạo quân thắng trận luôn, cũng phải có một lúc thua trận. Cho nên tướng giỏi đời xưa trước hết phải xem hình thế, đắp doanh luỹ, chứa lương thực, phòng bị sẵn những khi xảy ra việc cần kíp, làm cho khi tiến có thể đánh, khi lui có thể giữ. Đó chính là cái chước vạn toàn, không làm gì đến nỗi thua một trận mà đã phải bẹp hẳn. ở huyện tôi có làng Bái Hạ, bốn mặt đều là đồng lầy, phía trước có sông lớn chặn ngang, chỉ có một lối ra vào, lại có khe nhỏ quanh co thông với con sông, có thể dùng để chuyển vận quân lương. Cuộc loạn lạc năm trước, địa phương đây ở vào chỗ xung yếu của hai vùng đông và nam, nên tôi đã cho sửa sang lại, nay hào rãnh đều đã bền vững. Chỉ hiềm luôn mấy năm mất mùa, thóc lúa tích trữ chưa được đầy đủ mà thôi. Xin chúa hãy tạm dời xa giá về đó, rồi thong thả sẽ tính chuyện sau.
    Chúa Trịnh nghe theo, bèn phong cho Lân làm quân phủ trưởng sử. Khuông làm chức hành doanh sứ, dẫn quân vào đóng ở ấp Bái Hạ.
    Ở đó mới được vài đêm, Khuông sai người đi trưng thu lương thực chưa về, thì Chỉnh đã lại sai Nguyễn Như Thái đem lính bộ đến, hợp với quân của Tuyển, hai đường thuỷ bộ tiếp nhau, hai mặt trước sau đánh dồn lại. Trong đồn dựa vào tình thế hiểm yếu mà giữ, quân Chỉnh đánh luôn mười ngày không hạ được. Tuyển bèn đắp luỹ dài để tuyệt đường lương thực của quân chúa. Quân chúa hết lương đến nỗi phải đào cả củ chuối mà ăn, tình thế rất là khốn quẫn.
    Lân và Khuông vội gọi các thủ hạ mà bảo rằng:
    - Ngồi đây để làm con ma chết đói của làng Bái Hạ, sao bằng quyết một trận tử chiến, giết lấy vài trăm tên giặc cho sướng tay? Các ngươi ai là người có thể chung lòng góp sức với ta, để ta khỏi mang tiếng phụ chúa mà các ngươi cũng không mang tiếng phụ ta. Dẫu có chết còn được làm con ma trung nghĩa. May mà không chết, rồi đây công lao sự nghiệp sẽ không biết đến đâu mà lường!
    Mọi người nghe nói đều cảm động, có hơn trăm người xin theo. Đêm đến, bốn bề đã vắng lặng, họ bèn cưỡi thuyền nan, theo đường khe mà đi ra. Nhân lúc Tuyển và Thái sơ ý, họ liền phóng hoả đốt doanh trại. Hai người hoang mang không kịp chống cự. Lân và Khuông tức thì phá vỡ vòng vây, đem chúa ra, cướp mấy chiếc thuyền, rồi theo cửa biển chạy thẳng về phía đông. Tuyển đem quân đuổi theo, nhưng không kịp. Thái thả quân vào làng Bái Hạ, chém giết lung tung, trai, gái, già, trẻ, không sót lại một người. Từ khi dấy cuộc binh đao tới lúc này, không chỗ nào không có nạn chém giết, nhưng chưa có đâu bị chém giết thảm hại như ở đây.
    Lại nói, sau trận thua ở sông Ngô Đồng, Nhưỡng một mình chạy về phía đông, thuyền bè và đồ quân dụng bỏ mất gần hết.
    Đến khi đồn Bái Hạ bị vỡ, chúa chạy về Hải Dương, lại cùng bọn Lân vượt biển tới đất Quảng Yên, giả làm khách buôn, chia nhau ở trọ trong các nhà dân ở châu Vạn Ninh (nay là đất Móng Cái (Quảng Ninh)). Chẳng bao lâu, Lân vì có việc nhà, cáo từ xin về, người theo hầu chúa chỉ còn lại Mạnh Khuông mà thôi. Sau đó hơn một tháng, Khuông lại mắc bệnh, rồi chết. Lúc bấy giờ, bên cạnh chúa không còn có ai, chúa một mình sống lẩn lút ở vùng ven biển, tình cảnh rất là điêu đứng.
    Chúa nghĩ bụng: "Giầu sang ở kiếp phù sinh, đều là cảnh mộng. Bởi vậy, ngày xưa đã có người xin thề đời đời đừng sinh vào nhà đế vương... Phật thương hết thảy chúng sinh bị chìm đắm trong biển khổ. Óc Người thông suốt, ý kiến Người thông suốt, thật như gương sáng muôn đời. Từ lúc ta ở trọ đất Chương Đức đã có ý nghĩ như thế. Bây giờ nên quay đầu lại là hơn".
    Thế rồi chúa Trịnh gột sạch ma chướng ở đời, tự xưng là Hải đạt thiền sư, dạo khắp các chùa ở vùng Lạng Sơn, Cao Bằng.
  3. Pagan

    Pagan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/08/2004
    Bài viết:
    3.118
    Đã được thích:
    1
    Bấy giờ có người học trò đất Kinh Bắc tên là Vũ Kiền, chạy loạn lên ở Lạng Sơn. Một hôm Kiền gặp Hải đạt thiền sư ở chùa Tam Giáo, nhân trong lúc đàm kinh thuyết pháp, Kiền ngầm biết đó là chúa, bèn báo với bọn phiên thần ở đó là Hà Quốc Ký, và Nguyễn Khắc Trần (có bản chép là Nguyễn Khắc Lâm).
    Hai người bèn vờ nói là có việc làm chay, đón Hải đạt thiền sư về nhà, rồi đuổi hết người nhà ra mà bảo với nhà sư rằng:
    - Chúng tôi nối đời làm bề tôi ở chốn biên cương. ở xa vẫn mến oai đức của triều đình, thường chỉ nghe người ta nói vua Lê chúa Trịnh như ở trên trời. Nếu như thiên hạ vô sự, bọn chúng tôi làm gì được trông thấy chúa. Chẳng may nhà nước có nạn, xe chúa phải tới nơi biên ải, thần dân ai chẳng đau lòng. Lúc này chính là dịp cho kẻ trung thần nghĩa sĩ ra tài linh luân. Vậy chúng tôi xin rước chúa về ở Đoàn Thành (tức thành trấn Lạng Sơn), xướng nghĩa cả, để lo việc hưng phục. Trông nhờ vào phúc hồng của chúa, thành được công lớn thì may chăng lũ tù trưởng nhỏ mọn ở xứ mọi rợ này được dự vào hàng cuối ở vân đài (Vân Đài: Đài cao chạm mây, nơi vua Minh-đế nhà Hán sai vẽ hình 28 người công thần), ấy là ý nguyện của chúng tôi.
    Nhà sư nhắm mắt chắp tay, khoan thai trả lời:
    - Sư già này xuất gia theo Phật, không can dự gì đến việc đời. Các ông chớ có nhận lầm, khiến cho đương lúc yên lặng, lại sinh ra bao nhiêu nỗi phiền não. Trong thiên hạ, ai là vua, ai là chúa, đã có mệnh trời; sư già này chỉ biết một lọ một bát, tu hành ở cửa thiền, làm môn đồ đức Phật Như lai mà thôi.
    Vũ Kiền lúc ấy cũng thưa rằng:
    - Thần tuy chưa được vào chầu phủ chúa, nhưng khi du học ở kinh sư cũng đã từng trông trộm dung nhan của chúa. Người trong nước còn có lòng ấy, chúa cũng không nên từ chối. Thần nghe nói, nghiệp vương phải khó nhọc, không thể ngồi yên mà làm nên được. Bởi vậy, Quang Võ đã phải bạc cả tóc đầu, Tiên chúa (Quang Võ là vua đầu nhà Đông-Hán. Tiên chúa tức Lưu Bị, là vua nhà Thục đời Tam-quốc) thì phải mòn hết thịt vế. Những cơn nguy hiểm ở Quế Ổ và Bái Hạ gần đây, cũng giống việc Tuy Thuỷ, Hô Đà đời Hán (theo Hán thư, sau khi Hán vương là Lưu Bang vào chiếm Bành Thành, Sở vương là Hạng Võ đem quân trở về, phá tan quân Hán trên sông Tuy Thuỷ và vây Hán vương ba vòng, may gặp có gió lớn nổi lên, thổi tan quân Sở, Hán vương mới chạy thoát. Cũng theo Hán thư: Khi vua Quang Võ đi đến trạm Khúc-Dương, phía sau có quân Lương Vang theo đuổi, mọi người đều kinh sợ, Quang Võ cho người đi dò đường thì họ nói, trước mặt có sông Hô Đà nước chảy mạnh lắm, không thể qua được. Quang Võ lại bảo Vương Bá đi xem lại. Vương Bá e quân lính hoảng sợ, bèn nói dối là ở sông băng giá đóng rất chắc, có thể đi qua được. Quang Võ bèn bảo Bá hộ vệ mình qua sông, nhưng mới qua được mấy người thì băng đã tan. ở đây, mượn hai điển này để nói làm nên nghiệp lớn thế nào cũng phải trải qua nhiều gian nan, nguy hiểm thì mới đi tới thành công), chỉ vì không nản chí, không ngã lòng, rốt cuộc họ đã làm nên nghiệp lớn. Thần chưa từng bao giờ thấy ai đường đường là một vị vương giả mà lại lui về làm nhà sư nhàn hạ. Xin chúa hãy nghĩ lại!
    Nhà sư khóc và nói:
    - Cái cảnh "Thử ly" "Mạch tú" ("Thử ly" là một bài thơ trong Kinh Thi nói về cảnh cung điện nhà Chu bị tan hoang thành ra ruộng lúa. "Mạch Tú" là bài hát của Cơ tử nói về việc nhà Thương mất nước, cung điện thành ruộng cấy lúa mạch. - ở đây chỉ cảnh tang thương của họ Trịnh) ở đâu cũng đều cảm động. Ta không phải là loài gỗ đá, sao không căm hờn. Nhưng đã biết sức của ta, mà vẫn không thể dành được với trời, nên đành phải nín nhịn để giữ lấy mình, đâu còn dám làm càn để lại lầm lẫn lần nữa?
    Chúa đã nói lộ bản tướng, liền bị mọi người vin lấy mà bắt buộc phải truyền sắc lệnh ra để điểm quân, thu lương.
    Bọn Ký và Trần đều là kẻ tầm thường, không nghiêm cấm nổi thủ hạ, để chúng làm bừa những việc phi pháp. Nhân dân không thể chịu đựng được, họ bèn nổi lên làm loạn, giết bọn Ký và Trần, rồi đuổi chúa đi. Chúa chạy về đất Hữu Lũng (nay thuộc Lạng Sơn) rồi từ đó nấp náu trong chốn núi rừng, cả nước không còn thấy mặt chúa ở đâu nữa.
    Họ Trịnh từ Thái vương là Trịnh Kiểm thụ phong, truyền đến Thịnh vương là Trịnh Sâm, vừa được tám đời thì xảy ra biến loạn. Rồi đến Đoan nam vương là Trịnh Khải, Án đô vương là Trịnh Bồng thì nghiệp chúa hết. Tất cả trước sau gồm 243 năm (theo Lịch triều hiến chương lại chí thì tất cả là 248 năm, gồm 11 đời chúa, kể từ Trịnh Kiểm năm Kỷ hợi (1539) đến Trịnh Bồng năm Bính ngọ (1786)).
    Xét trong địa ký chép về đất phát tích của tổ tiên họ Trịnh có lời đoán rằng:
    "Chẳng đế chẳng bá, quyền nghiêng thiên hạ, truyền được tám đời, trong nhà dấy vạ".
    Xem thế đủ biết, cái lý hưng vong tuy là việc của người, mà cũng tự có số mệnh vậy.
    Lại nói sau khi Chỉnh đưa Tây Sơn vào nước, dân chúng oán Chỉnh thấu đến xương tuỷ. Lúc Chỉnh tất tả chạy về Nghệ An, người cả một xứ ai cũng muốn giết Chỉnh cho hả dạ. May được vua Lê có chỉ vời, Chỉnh bèn lấy việc dấy quân ra bảo vệ nhà vua mà thoát khỏi tai nạn. Rồi Chỉnh lại được nhà vua mở lòng tin dùng, cho nên mọi người trong ngoài chỉ dám oán mà không dám nói. Các quan văn võ trước kia chạy trốn ra ngoài, đều dấy quân và lên tiếng giết Chỉnh. Chỉnh mượn nhà vua để sai khiến cả nước, tự tiện làm oai làm phúc, luôn luôn đem quân đi trừ khử những người muốn làm hại mình. Thế rồi, bắt Trọng Tế, giết Phùng Cơ, đem quân đánh mãi Án đô vương, làm cho vương phải chạy trốn lang thang không dám về kinh.
    Việc Chỉnh làm phần nhiều là càn bậy, nhưng đụng đâu là thắng đấy, nên chẳng ai biết làm thế nào. Vì thế, Chỉnh càng ngày càng làm lắm điều bạo ngược, Chỉnh tự cho rằng người đời chẳng ai bằng mình. Thậm chí Chỉnh coi nhà vua như đứa trẻ con, khi bảo làm thế này, khi bảo làm thế kia, không còn kiêng sợ gì cả. Bụng Chỉnh còn e dè, chỉ một Bắc bình vương mà thôi. Chỉnh thường nói riêng với người thân tín rằng:
    - Bắc bình vương là người anh hùng hào kiệt ở miền Nam ta cũng không thua. Hắn quỷ quyệt hơn ta, nhưng ta khôn ngoan hơn hắn. Năm trước ta từng cộng sự với hắn, nên ngày nay hãy nhường hắn một nước cờ, đợi khi trong nước tạm yên, ta sẽ chuyên tâm lo việc phương Nam. Lúc đó ta có thể tập hợp binh mã, cùng hắn giao phong trong một trận lớn lao. Đã trừ khử được vật ngăn trở rồi, thì từ dải đèo Ngang trở về Nam, lại là bờ cõi của nước nhà. Nay Trần bình chương vào Nam bàn việc bờ cõi, dù bất đắc dĩ mà phải nhường đất Nghệ An cho họ, thì cũng như cái mưu khôn xưa nước Tấn đem ngọc bích và ngựa tốt đút cho nước Ngu, Hán Cao tổ đem đất Quan Trung nhường cho Hạng Vũ đấy thôi (thời Xuân thu, nước Tấn lấy ngựa hay và ngọc quý đút lót cho nước Ngu để mượn đường sang đánh nước Quắc; đến khi diệt được nước Quắc rồi, Tấn liền quay lại diệt luôn cả nước Ngu, thu lại ngựa và ngọc đã biếu-việc Hán Cao-tổ cũng tương tự, tạm nhường đất Quan Trung cho Hạng Vũ rồi sau lại lấy lại). Đúng như lời sách xưa đã nói: "Định lấy của nó hãy tạm cho nó" (câu này nguyên văn chữ Hán là "Tương dục thủ chi tất cô dữ chi" Trong Đạo đức kinh của Lão Tử cũng có câu tương tự là: "Tương dục đoạt chi, tất cô dữ chi" (muốn chiếm đoạt của nó, hãy tạm cho nó). Có thể tác giả dẫn câu này là thoát thai từ câu của Lão Tử). Điều đó người thường không thể biết được!
    Vì thế, đối với việc Nghệ An, Chỉnh mới dùng lễ vật nhiều, lời nói ngọt, mong sao cho được vô sự; lại đem hết những điều uỷ khúc trong lòng mà dặn dò Trần Công Xán. Chỉnh cho rằng chuyến đi ấy thế nào cũng dẹp yên được việc binh đao, nên không còn để ý đến việc quân lữ và việc bờ cõi nữa. Không ngờ rằng Bắc bình vương lập tâm bắt Chỉnh đã lâu, nhưng cơ mưu giấu kín quá nên Chỉnh không biết. Hoặc có người nhắc đến việc biên cương thì Chỉnh cũng xem thường, cho là kẻ hiếu sự đoán mò hay cho là tin đồn nhảm ngoài đường sá mà thôi. Tới lúc sứ bộ chết đắm ở biển, nhiều người trong triều bảo đó là do Bắc bình vương sợ lộ việc tranh chấp ở miền Nam mà giết ngầm đi, khi nội biến đã yên, thế nào họ cũng sẽ mưu đồ đánh ta; Chỉnh cũng vẫn không cho là phải...
    Sau khi Bắc bình vương đã hoà với vua Tây Sơn (theo các tài liệu lịch sử, thì hai anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ giảng hoà với nhau ở thành Qui Nhơn (Nghĩa Bình) liền trở về Phú Xuân mở đại hội các tướng mà bảo họ rằng: "Nguyễn Chỉnh là người đã chết, ta lại vẽ mặt vẽ mày cho. Nay hắn bay nhảy ở Bắc Hà, phò vua Lê để sai khiến cả nước. Đã không lo đền đáp ơn ta mà còn định cắn lại, mưu đồ giành đất Nghệ An, đặt làm một trấn quan trọng, để bắt chước việc chúa Trịnh xâm lấn phương Nam ngày xưa. Thằng giặc ấy thật đáng giết. Không biết hắn đã sắp sẵn được bao nhiêu binh mã, có thể đánh nhau với ta được một trận hay không?"
    Tức thì, Bắc bình vương sai bọn Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, kéo quân ra Nghệ An, họp cùng Võ Văn Nhậm tính việc đánh dẹp phương Bắc. Tiếp đó lại cho Võ Văn Nhậm lĩnh ấn tiết chế, các tướng đều phải ở dưới quyền. Khi sắp đặt đã xong, Bắc bình vương hạ lệnh giục họ tiến quân. Bấy giờ đúng vào tháng mười một mùa đông năm Đinh vị (1787).
    Khi Văn Nhậm kéo quân qua Thổ Sơn, trấn thủ Thanh Hoa là Lê Duật không dám chống cự, rút quân lui giữ Trinh Giang (sông Trinh Giang thuộc xã Trinh Sơn, huyện Hoằng Hoá, Thanh Hoá), rồi cho người phi ngựa về kinh cáo cấp. Tin cáo cấp một ngày đến chín lần, làm cho kinh thành nhao lên, nhân tình tan rã, vội vàng mang xách, bồng bế nhau ra ngoài thành để trốn tránh: phố phường đều đóng cửa thôi buôn bán đường sá cũng ít người đi lại, trong chốn đài sảnh chỉ còn người có chức vụ ở lại mà thôi.
  4. Pagan

    Pagan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/08/2004
    Bài viết:
    3.118
    Đã được thích:
    1
    Vua Lê sai các quan cùng họp ở dinh của Chỉnh để bàn cách đánh giữ. Chỉnh nói:
    - Đời nhà Tấn, khi quân nhà Tần ập đến bờ cõi, Tạ An vẫn cười nói như thường; đời Tống, khi quân Khiết Đan vào sâu trong nước, Khấu Chuẩn vẫn điềm nhiên như không. Các vị đại thần, cần phải trấn tĩnh, không nên tự mình bối rối trước, chỉ tổ làm cho lung lay lòng người. Chức trách của Lê Duật là giữ đất đai, thấy giặc đến không thể không báo cáo, nhưng y cũng là một tay tướng giỏi. Võ Văn Nhậm vị tất đã dễ dàng nuốt sống được y. Vả chăng, sông Trinh Giang, sông Thanh Quyết (sông Thanh Quyết tức khúc sông Đáy thuộc huyện Gia Viễn, Ninh Bình (Hà Nam Ninh)), sông sâu nước lạnh, dù có thiên binh vạn mã chưa dễ đã vượt qua được một cách yên ổn. Công việc đánh hay giữ, đã có định cục, làm gì mà phải luống cuống.
    Quan phó đô ngự sử là Nguyễn Đình Giản nói:
    - Thanh Hoa là đất "thang mộc", lăng tẩm mấy triều đều ở đấy. Nay người Tây Sơn tới đánh, cả vùng Tĩnh Gia đã bị chiếm mất, còn các vùng Thiệu Thiên, Hà Trung đều thành chiến trường, xã tắc nguy như treo trên sợi tóc. Ông làm vị quan đầu triều, binh quyền ở trong tay, định cục thế nào, thử nói ra cho rõ ràng, để chúng tôi đều đem hết ý kiến nông cạn, cùng ông lo liệu. Việc thiên hạ không phải là chuyện riêng một nhà, sao không nói cho mọi người đều biết? Ngày xưa người Nguyên cười người Tống rằng: "Đợi khi chúng bay bàn bạc ổn thoả thì ta đã qua sông rồi". Nay không lo liệu cho sớm, chờ khi quân giặc đã đến ô Cầu Dền thì giả sử Tạ An, Khấu Chuẩn (Tạ An, người đời Tấn, làm Đại đô đốc, có tài chỉ huy, đã cứu nguy cho kinh đô trong lúc đang bị hàng trăm vạn quân Bồ Kiên uy hiếp. - Khấu Chuẩn, người đời Tống, khi quân Khiết Đan xâm phạm bờ cõi, được vua Chân Tông giao cho chỉ huy quân sự, ông đã dùng kế buộc địch phải rút về nước) có sống lại, họ cũng không thể trấn tĩnh được!
    Ninh Tốn và Nguyễn Bá Lan (có bản chép Nguyễn Nhuận) cũng đều nói:
    - Quan ngự sử nói rất đúng.
    Ngày thường Chỉnh quen dùng miệng lưỡi để lấn át người ta, người ta cũng sợ khí thế của y, nên không dám tranh cãi lại. Nhưng lúc ấy, tin tức về quân địch gấp rút đưa đến, trong bụng rối beng, lại bị Giản bẻ, nên Chỉnh chưa biết trả lời ra sao. Quan bình chương Phan Lê Phiên nói:
    - Không cần nói nhiều, quân giặc đến chỉ có đánh mà thôi. Bộ hạ của ông, người nào có thể làm tướng, xin tâu với hoàng thượng cho làm tướng; toà Xu mật sẽ cấp binh bài, toà Độ chi sẽ cấp lương thực, ngày nay vào bái mạng, ngày mai tức tốc lên đường, không thể chậm trễ!
    Chỉnh nói:
    - Ý tôi cũng vậy, nói trấn tĩnh là nghĩa như thế!
    Chỉnh liền tâu vua cho Nguyễn Như Thái làm thống lĩnh, Ninh Tốn làm tham tán quân vụ, đem quân cùng họp với Duật, chống địch ở trấn Thanh Hoa.
    Lại nói, Duật đóng quân ở Trinh Giang, Nhậm bèn sai người đến báo rằng:
    - Ngày mai đại quân qua sông, ngươi dám đánh nhau thì bày trận chờ đợi. Nếu không có thể đánh nhau thì mau mau tới đầu hàng.
    Lúc đó Nhậm đóng quân ở phía nam Trinh Giang, trước tiên sai Ngô Văn Sở đem quân men theo chân núi đi về phía tây, cất lẻn qua sông Tất Mã, đánh úp phía sau quân Duật. Duật không hề biết, tối hôm ấy rút quân chạy cả đêm; hôm sau tới Cao Lũng, đã thấy quân Sở ở đấy, quân Duật sợ hãi, chạy tan tác ra tứ phía. Duật bị quân Sở giết chết. Khí giới, lương thực, hết thảy đều bị địch thu lượm.
    Quân Nguyễn Như Thái đi đến Châu Cầu (nay là thị xã Phủ Lý, Hà Nam (Hà Nam Ninh)), nghe tin Duật đã thua và chết, vội gọi Ninh Tốn cùng bàn, Tốn nói:
    - Binh pháp dạy rằng: "Tranh được núi thì thắng, giữ chỗ hiểm thì vững". Giữa Thanh Hoa nội và Thanh Hoa ngoại có núi Tam Điệp (tục gọi là núi Ba Dội, ở chỗ giáp giới giữa Thanh Hoá và Ninh Bình ngày nay) ngăn cách, ấy là chỗ trời đất xây dựng, rất là hiểm yếu. Ta nên tiến quân gấp để giữ lấy, chớ để quân giặc chiếm trước. Được như vậy thì từ Trường Yên (tên phủ, sau đổi là Yên-Khánh, thuộc Ninh Bình (Hà Nam Ninh)) về bắc còn là của mình. Nếu núi Tam Điệp mà mất, thì lộ Nam Sơn thênh thang với những cánh đồng bằng phẳng rộng rãi, e khó tranh nhau với giặc, việc nước sẽ không thể làm thế nào được nữa.
    Thái cho là phải, lập tức chỉnh đốn đội ngũ, đang đêm gấp rút tiến quân. Mờ sáng, quân Thái qua sông Giản Khẩu (tức sông Gián, cũng thuộc Ninh Bình (Hà Nam Ninh)) thì nghe tin quân Nhậm đã vượt qua núi Tam Điệp, Phan Văn Lân đã đem quân tuyển phong đóng ở Hàm Mai (có sách chép là Đa Mai), cách đấy chỉ có vài dặm. Thái vỗ ngực kêu to mấy tiếng, rồi đem quân bày trận trên bờ sông Giản để chờ địch.
    Quân Tây Sơn đến, chia hai ngả đánh kẹp vào. Quân Thái lẻ loi không có quân cứu viện, cố sức đánh nhau từ sáng đến trưa, tên đạn đều hết sạch. Bọn lính ở đằng trước trở giáo hàng địch. Thái biết thế không thể chống nổi, bèn cùng vài chục người bộ thuộc, phi ngựa chạy về phía bắc. Quân địch đuổi theo, bắn chết hết. Ninh Tốn chạy trốn vào nhà dân, được thoát nạn.
    Văn Nhậm đã thắng trận, tức thì dẫn quân tiến lên.
    Chỉnh đang ăn thì tin báo đến nơi, luống cuống vứt đũa, chạy vội vào nhà, gọi Hữu Du và bảo:
    - Chiến tướng của ta chỉ có bốn người. Thái và Duật chẳng may chết rồi. Tuyển ở Sơn Nam, Thước ở Kinh Bắc, gọi về không kịp. Tình thế gấp rút ta phải tự ra cầm quân. Con nên sắp đủ binh lính, lương thực, cùng đi với ta. Quân cha, con cùng dốc một lòng mới có thể nên việc được.
    Du nói:
    - Sách có câu: "Thờ cha phải hết sức, thờ vua phải liều mình". Con xin đi trước, đánh với giặc một trận lớn, không dám để cho vua và cha phải lo vì giặc. Cha cứ đi thong thả mà đốc thúc việc chiến trận, con sẽ lấy đầu thằng Võ Văn Nhậm đem về cho cha xem.
    Lúc Chỉnh sắp ra đi, người hầu yêu nắm vạt áo của y mà nói:
    - Thiếp nghe đâu các quan trong triều đều đã đem vợ con đi trốn trước rồi, đài sảnh hiện bỏ không tất cả. Bây giờ quan lớn lại ra đánh giặc, tướng sĩ cũng đều theo đi hết, riêng thiếp ở đây một mình, chịu làm sao được? Vậy xin cho thiếp một chiếc kiệu nhỏ để thiếp đi theo quan lớn.
    Chỉnh nói:
    - Trong vòng tên đạn, không phải nơi đàn bà nên đi, đừng làm cho người ta thêm rối ruột nữa!
    Rồi Chỉnh tự mình vào cung điện tâu xin xuất quân.
    Vua bèn ngự ra điện Cần-chánh, truyền chỉ ban tiết việt (tức "phù tiết" và "phủ việt". Phù tiết: vật làm tin, thường làm bằng thanh tre viết chữ vào đó, rồi chẻ đôi mỗi người giữ một nửa, sau kháp lại để làm tin. Cũng có khi làm bằng vàng, ngọc hoặc gỗ... Phủ việt: lưỡi búa. Đời xưa khi đại tướng ra trận được vua ban tiết việt để trao quyền hạn và làm tin) cho Chỉnh và dụ rằng:
    - Trẫm dựa vào ông như dựa bức trường thành. Chuyến đi này quan hệ đến sự an nguy của nhà nước. Nhất thiết chớ có khinh giặc đánh tràn, phải tuỳ cơ mà làm, mau đưa tin thắng trận về để yên lòng trẫm!
    Chỉnh tâu:
    - Thần đã biết rõ tình hình của giặc. Võ Văn Nhậm mạnh mà không có mưu khôn, làm tỳ tướng thì dư sức, mà làm chủ tướng thì không đủ tài. Ngày thường hắn vẫn sợ thần, nay thấy thần đến, chắc là không dám chống chọi. Thần chỉ lấy khí thế mà đè nén, không cần phải đánh cũng thắng. Chuyến đi này, không quá năm ngày, sẽ có thư trạm tâu tin thắng trận, xin bệ hạ chớ lo!
    Tâu xong, Chỉnh bái từ mà ra. Vua Lê thân hành tiễn đến ngoài cửa Đoan môn, rồi sai các hoàng thân và trăm quan tiễn đưa ra ngoài kinh thành.
    Chỉnh đem quân đến trạm Hoàng Mai (nay thuộc ngoại thành Hà Nội), sai Hữu Du lĩnh các đội quân của cơ Ngũ-nhuệ đi trước.
    Du đi đến sông Thanh Quyết, liền đắp luỹ đất chạy theo bờ sông, chia đồn mà cố thủ.
    Lúc bấy giờ, khí trời rét buốt, quân lính của Du đêm ngủ giữa trời, túm năm tụm ba đốt củi để sưởi. Quân đi tuần của địch trông vào ánh lửa, thấy rõ tất cả, bèn về báo với Văn Nhậm.
    Nhậm cho quân cưỡi bè, sang thẳng bãi sông, ngầm bắn xuyên qua các khe hở trên bờ luỹ, nhắm chỗ có lửa làm đích, bắn phát nào trúng phát ấy. Quân ở trong luỹ hoảng sợ, bối rối, tự nhiên tan vỡ, Du rút quân về giữ Châu Cầu. Quân sĩ mười phần chỉ còn hai ba, không dám đón đánh, cũng không dám chạy về, phải vừa lui vừa dừng để đợi hậu quân (sự kiện này, Cương mục chép hơi khác; thuyền súng đạn của Du đậu ở bờ bắc sông, không phòng bị gì: nửa đêm quân Tây Sơn ngầm bơi sang, buộc thừng vào các thuyền của Du, rồi kéo về phía bờ nam, tước đoạt hết súng đạn do đó Du thua...).
    Lại nói, Chỉnh đem quân đến trạm Bình Vọng (tục gọi làng Bằng, thuộc Thường Tín, Hà Đông (Hà Sơn Bình)), tạm dừng lại nghỉ. Chợt thấy gió nam thổi vù vù, có đám mây đen chạy suốt từ tây nam đến. Chỉnh ngồi trong kiệu, giở sách bói ra xem, vừa gặp một quẻ, có lời đoán rằng: "Nước có giặc lớn, nguyên nhung thua trận", Chỉnh tỏ ý buồn rầu, đang lúc trầm ngâm nghĩ ngợi, thình lình lại có đàn ong rừng vo vo bay đến, đua nhau đốt vào cổ Chỉnh. Chỉnh giật mình ngã xuống, sực nghĩ toàn là điềm gở, chần chừ không muốn tiến quân.
    Chốc lát, thấy quân bại trận của Du tan tác chạy về nói:
    - Quân ta đã vỡ, quân giặc đuổi theo sắp sửa đến nơi!
    Chỉnh nghe nói, mặt mày thất sắc, tiến lui hai đường đều khó khăn. Tướng sĩ, bộ hạ cũng đều mất vía, đua nhau nói: "Thế giặc rất mạnh, chưa thể giao tranh với chúng được. Kinh thành ít quân, khó mà giữ nổi. Chi bằng dẫn quân về, lui giữ đất Kinh Bắc, chặn ngang sông Nhĩ Hà cho vững; rồi sau sẽ từ từ tính chước công thủ, thế là tiện hơn". Chỉnh nghe theo.
  5. Pagan

    Pagan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/08/2004
    Bài viết:
    3.118
    Đã được thích:
    1
    Sau một lúc, Hữu Du đến, Chỉnh kéo quân tức tốc về kinh. Xẩm tối, vừa về tới thành, Chỉnh liền bảo quan tham tri chính sự là Nguyễn Khuê vào tâu với vua, xin đến ngày mai, xa giá đi sang Kinh Bắc (theo Cương mục thì vua Lê cho gọi mấy lần nhưng Chỉnh không đến, cuối cùng mới cho Nguyễn Khuê đến thay...). Rồi Chỉnh vào thẳng lượng phủ là chỗ mình ở, sắp xếp hành trang, sai người hộ vệ vợ con gia thuộc sang sông trước.
    Lính Kim ngô biết chuyện, vội vàng vào điện tâu với vua rằng: "Gia quyến ông Bằng đi rồi!"
    Vua Lê lật đật chạy đến dinh của Chỉnh. Lúc bấy giờ Chỉnh đang chạy đi chạy lại trước sân, dặn dò những người ra đi. Vua cầm lấy tay Chỉnh mà hỏi:
    - Sự thể đã đến thế này thì làm thế nào?
    Chỉnh thấy vua, thẹn thùng, run sợ, bèn lạy mà thưa rằng:
    - Bệ hạ giao nước cho thần, thần không xứng đáng với chức vị, làm lầm lỡ việc nước, tội ấy không dám chối cãi: hai mặt tây nam kinh sư, không còn có gì để nương tựa, thành trì cũng chưa đào đắp, chỉ có cửa ô mà thôi. Quân giặc thừa thắng ruổi dài, không có thành luỹ nào ngăn cản; đánh thì không được, giữ cũng không xong, lấy gì để bảo đảm cho được toàn vẹn? Nay bệ hạ hãy nên đi sang phương bắc, để lo tính công việc sau này. Quân giặc từ xa đến đã mệt nhọc, lại bị sông lớn ngăn trở, thế nào cũng không dám đuổi ta. Trong khoảng mười ngày, ta được thư thả, rồi sẽ lo sâu tính xa, há lại không có cơ hội tốt để khôi phục? Bệ hạ hãy về cung, tâu với hoàng thái hậu, xin đưa từ giá (xe của mẹ vua) đi trước, thần sẽ thân đem lính và voi đợi ở bến sông.
    Dứt lời, Chỉnh nhớn nhác đảo mắt ngó quanh một lượt, rồi đi. Vua cũng lập tức đi bộ về cung. Trên đường, đã thấy dân chúng dắt díu nhau cùng chạy. Bọn vô loại thừa cơ cướp giật, tiếng kêu khóc oai oái. Có kẻ giữ lấy vua, sờ nắn trong lưng không có gì, mới tha cho đi. Vua vội vàng đi về phía cửa Chu Tước, rồi vào cửa Tả Khúc. Vừa tới nơi đã nghe thái hậu và các phi tần tìm nhà vua không thấy, đang gọi luôn miệng: "Thừa dư (chỉ nhà vua) ở đâu?". Vua vội trả lời: "Ở đây! Ở đây!". Rồi nhà vua lập tức gọi lính thị vệ, nhưng chỉ được mười bảy, mười tám người, còn thì đều lẩn trốn không đến. Vua vội vàng sai lấy võng đòn tre cáng thái hậu và nguyên tử (con đầu của vua mà chưa lập làm thái tử thì gọi là nguyên tử) đi. Các tôn thất và phi tần đều phải đi bộ. Những đồ ngự dụng chỉ khênh đi được bốn hòm, còn bao nhiêu đều bỏ lại trong điện. Những đồ riêng tây cùng quần áo quí báu của bọn thị vệ, cũng đều bỏ rơi dần ở dọc đường.
    Đến bến sông, phải giành giật lấy đò mà qua, bất cứ kẻ sang người hèn, ai mạnh thì được qua sông trước. Ở trong bãi cát, mọi người giẫm đạp lẫn nhau, có người bị ngã rồi bị xéo đến chết. Các tay lái đò chèo không kịp, hoặc có thuyền vì chở nặng quá mà bị đắm. Tiếng kêu khóc vang trời động đất. Kinh thành rối loạn lung tung. Bọn vô loại ùa vào trong cung, phủ, cướp bóc bừa phứa. Nhưng những vật lấy được, chúng cũng không dám chuyên chở ra ngoài thành, mà phải giấu ở các phố.
    Gần tối, Võ Văn Nhậm đến nơi đem quân vào thành thì thấy cung điện, kho tàng chỉ còn trơ lại xác nhà không mà thôi. Nhậm nói:
    - Vào chợ còn được cái kim, huống chi là vào một nước. Ta nghe đất Bắc Hà giàu có, sao lại sạch trơn thế này? Ta ở xa đến mà lại không kiếm được một đồng tiền nào đưa về thì nói ra con nít cũng không nghe được.
    Ngày hôm sau Nhậm bèn thả lính lùng khắp các nhà dân ở phường phố, lấy được của báu rất nhiều, đến cả của tư cũng đều lấy hết.
    Có người dân đến cửa quân kêu rằng:
    - Đời xưa hành quân, không hề chạm đến một mảy may của dân. Có người lấy lấy cái nón của dân để che áo giáp của quan, cũng không dung thứ. Sao nay dân gian lại bị hại đến như thế?
    Nhậm quát to:
    - Những vật quân ta lùng được đều là tài sản trong cung phủ nhà Lê, phải đâu là của nhà dân? Chẳng qua chúng bay nhân lúc rối loạn, tranh nhau ăn trộm, đại quân ập đến, không kịp cất giấu đấy thôi. Thằng này chính là bè đảng của bọn côn đồ, không thể tha thứ được!
    Lập tức, Nhậm sai điệu người ấy ra chém. Do đó, dân chúng rất sợ, không còn ai dám kêu ca gì nữa.
    Lại nói, cha con Chỉnh cùng các quan theo vua chạy sang phương bắc. Vì sợ quân địch đuổi kịp, ai nấy chạy sấp chạy ngửa, người nọ níu áo người kia, chẳng còn ra thể thống gì cả. Chập tối thì vua tôi nhà Lê đến trấn Kinh Bắc. Gặp lúc trấn thủ là Nguyễn Cảnh Thước mưu đồ làm phản, mượn cớ ốm không chầu vua. Chỉnh tới, quở trách gắt gao, Thước mới miễn cưỡng ra yết kiến.
    Lúc ấy, dọc đường quân lính đã bỏ trốn quá nửa. Chỉnh rất lo, liền kiểm điểm số lính còn lại, ưu binh và nhất binh (lính tuyển ở bốn trấn) chỉ còn hơn bốn trăm ba mươi người, ngựa hơn sáu chục con, Chỉnh đem quân đi trước, qua sông Như Nguyệt (tức sông Cầu (Hà Bắc)), đóng đồn ở núi Tam Tằng (nay thuộc Hà Bắc), tự mình đốc suất quân lính đắp luỹ, cắm rào, rồi sai Thước hộ vệ nhà vua đến sau.
    Chỉnh đi rồi, vua và thái hậu chờ đợi bên sông, lâu mãi chẳng thấy thuyền, liền cho gọi Thước đến hỏi.
    Thước tâu:
    - Các thuyền đều không ở đây, bệ hạ muốn sang sông gấp thì xin cho thần ít nhiều vàng lụa, mới có thể thuê được. Nếu không, dẫu đến sáng mai cũng vẫn ở đây. Giả sử quân giặc đuổi đến, thần xin dùng thùng gỗ để đưa bệ hạ qua sông. Nhưng chỉ e những đồ ngự dụng không thể giữ được mà thôi.
    Vua nói:
    - Trẫm có cả thiên hạ còn không giữ được, bây giờ lại còn tiếc cái gì nữa.
    Tức thì nhà vua sai mở hòm cho Thước xem. Trong hòm chỉ có con dấu truyền quốc và bốn mươi lạng vàng mà thôi.
    Vua nói:
    - Tuỳ nhà ngươi muốn lấy gì thì lấy.
    Thước nói:
    - Đội ơn bệ hạ ban cho, thần xin chia một nửa.
    Vua cho Thước tất cả. Thước liền gọi lái đò đưa thuyền đến bến, chở nhà vua và đám người cùng đi qua sông. Khi vua đã lên bờ, Thước lại cho người đuổi theo, lột chiếc ngự bào vua đang mặc. Vua ứa nước mắt, cởi ngự bào trao cho chúng, rồi chạy về núi Như Thiết.
    Vua xin với thái hậu rằng:
    - Con tài đức kém cỏi, không đủ làm chủ thần khí (trỏ ngôi vua), lại không sành sỏi trong việc xét người, bị Nguyễn Hữu Chỉnh làm lầm lỡ, đến nỗi kinh thành thất thủ, phiêu bạt ra ngoài, để gây mối lo cho thánh mẫu. Bây giờ trèo leo ở chốn núi rừng, nay đây mai đó, tình thế này không chắc đã sum họp một nhà được. Đã thế lại còn dắt díu nhiều người đi theo, sợ giặc dò biết, sẽ sinh ra tai biến bất ngờ. Con đã nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có viên đốc đồng trấn Cao Bằng Nguyễn Huy Túc là người trung hậu có thể nương nhờ được. Vậy xin thánh mẫu hãy tạm lên Cao Bằng, nơi đó đường đất xa xôi, quân giặc không thể phút chốc đi tới được. Ở đó, công việc nên chăng thế nào, con xin viết bức thủ thư giao cho Túc. Đến như việc sớm khuya hầu hạ, em con có thể thay con. Dám xin thánh mẫu tạm yên lòng, để con ở đây ngầm lo việc khôi phục, ngõ hầu có thể chuộc được tội lỗi.
    Thái hậu nói:
    - Trời đã không giúp xã tắc, già này sống chẳng bằng chết, nguyện lấy mảnh đất ở núi này làm nơi chôn cất hài cốt, chớ còn phải trèo non vượt suối làm chi nữa cho khổ?
    Vua rập đầu chảy máu, mãi không dậy. Các quan cũng có nhiều người khuyên giải. Thái hậu mới ưng ý.
    Rồi đó, em vua là Quang, thị thần là Quýnh cùng bọn tôn thất hơn ba chục người đều theo thái hậu đi lên Cao Bằng.
    Hôm sau, vua sang huyện Yên Dũng (nay thuộc tỉnh Hà Bắc), văn thần đi theo chỉ có năm sáu người là bọn Nguyễn Đình Giản, Phạm Đình Dư, Chu Doãn Lệ, Vũ Trinh, Trương Đăng Quỹ mà thôi.
    Vừa lúc ấy, Võ Văn Nhậm sai bộ tướng là Nguyễn Văn Hoà đuổi kịp Nguyễn Hữu Chỉnh. Hai bên đánh nhau ở núi Tam Tằng. Hữu Du múa đao đánh mạnh, giết vài chục quân địch. Hoà chia một đội kỳ binh vòng ra sau núi đánh úp. Quân Chỉnh rối loạn, tự nhiên tan vỡ. Hữu Du chống cự không nổi, chết ở trước trận. Tham tri chính sự là Nguyễn Khuê cũng bị địch giết. Chỉnh lên ngựa nhằm hướng bắc mà chạy, ngựa ngã, bị quân địch đuổi kịp, chúng tranh nhau chĩa giáo chực đâm. Chỉnh vội kêu to:
    - Xin cứ bắt sống mà đem dâng!
    Quân địch bèn trói Chỉnh lại, bỏ cũi đưa về kinh.
    Chỉnh xin gặp Văn Nhậm để nói một lời. Nhậm không cho, sai người kể tội Chỉnh rằng:
    - Mày vốn là tôi chúa Trịnh, phản chủ mà về với chúng tao để mưu đồ diệt họ Trịnh; rồi lại phản chúng tao về Bắc, lừa dối vua Lê, chiếm lấy ngôi cả, tự tiện làm oai làm phúc, ngầm ngầm lo mưu lấn cướp để tranh giành với chủ tao. Xét cuộc đời của mày, toàn học thói cũ của quân giặc loạn, phải phanh gan ruột mày ra, bỏ hết những cái dơ bẩn, để người Bắc lấy mày làm răn!
    Rồi Nhậm bảo phanh thây Chỉnh, thả cho chó ăn thịt.
  6. Pagan

    Pagan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/08/2004
    Bài viết:
    3.118
    Đã được thích:
    1
    Trong trận ấy, Hoà tuy bắt được Chỉnh, nhưng chưa bắt được vua Lê, Hoà thả quân lùng mãi không được, bèn ngấm ngầm sai người dò tìm tung tích. Vua Lê nghe tin sợ quá, liền chạy trốn vào vùng núi Bảo Lộc (nay thuộc huyện Lạng Giang, Hà Bắc).
    Lại nói, trước kia Lân dương hầu là Phạm Tôn Lân theo Án đô vương chạy ra Yên Quảng, rồi vì có việc phải cáo từ về nhà; nhân đó Lân mưu đồ chiêu dụ quân lính để giúp chúa Trịnh, nhưng về sau không biết chúa ở đâu, bèn nương nhờ vào người hào mục huyện Yên Dũng, là Nguyễn Trọng Linh (Cương mục chép là Dương Đình Tuấn, người huyện Yên Thế, Bắc Giang (Hà Bắc)).
    Lúc ấy, nghe tin vua ở vùng Bảo Lộc, Lân bèn nói với Linh cùng nhau đi đón vua về. Rồi họ đốc suất nhân dân bảy tổng thuộc huyện Yên Dũng, đắp luỹ ở phía bắc sông Nguyệt Đức (tức sông Cầu (Hà Bắc)), chống nhau với Hoà. Hoà đánh không được. Nhậm phải tự mình dẫn đại quân đến, đêm ngày đánh rất dữ. Quân Linh thua trận. Linh dắt vua Lê chạy trốn. Em Linh là Lung bị Nhậm bắt sống. Nhậm không giết mà sai đem thư dụ Linh, bảo phải nộp vua Lê, đại lược nói rằng:
    "Tôi vâng mệnh ra Bắc, chỉ giết giặc Chỉnh, không can gì đến tự hoàng nhà Lê. Tự hoàng là người của chúa thượng lập nên, bị giặc kèm đi, cùng chạy với chúng. Loài cáo vốn hay ngờ vực, vẫn mê không chịu quay về; bọ ngựa dám chống bánh xe, nên phải đem quân tới đánh. Nay nếu biết hối mà về ngay, còn có thể chuộc được lỗi trước. Nếu không, thì sẽ tìm người khác để coi việc nước. Ngôi chủ tể đã có người, thì tự hoàng không còn ngày trở về nữa, mà lũ các ngươi rồi cũng bị vạ lây".
    Linh nhận được thư, dùng dằng chưa quyết, lại sai Lung về báo với Nhậm rằng: "Sau khi bị thua, mỗi người bỏ chạy một ngả, thật không rõ vua Lê ở đâu. Xin cho phép mươi ngày để đi tìm kiếm, rồi sẽ tự đến".
    Đình Giản biết chuyện ấy, bèn tâu riêng với vua Lê rằng:
    - Anh em Linh không thể tin cậy được. Các ông Đinh Dư, Doãn Lệ, Vũ Trinh đều là người Kinh Bắc, nên kíp sai đi chiêu dụ lấy quân để tự vệ, rồi dời xa giá đến phủ Thuận An (nay là huyện Thuận Thành, Hà Bắc). Còn các ông Đăng Quỹ, Văn Lân đều là người Sơn Nam, cũng nên sai về bản quán mộ quân, chờ lệnh trưng phát.
    Vua Lê nghe lời, sai mọi người chia ngả mà đi làm việc, chỉ để Đình Giản ở lại hộ giá.
    Vua Lê ngấm ngầm tới huyện Gia Bình (nay là huyện Gia Lương, Hà Bắc), vời tiến sĩ là Trần Danh Án, đến hỏi về tình hình vùng đó. Án tâu:
    - Thổ hào phương bắc đây có Trần Quang Châu, nguyên là xã trưởng xã Kênh Than, là người dũng cảm mà lại có sức mạnh. Trước đây nhân khi loạn, Châu tụ tập đinh tráng, để giữ xóm làng. Trong huyện nơi nào có kẻ cướp thì Châu liền đem quân đến cứu. Trộm cướp không dám đụng chạm đến, cả huyện yên ổn, họ bèn bầu Châu làm chức huyện trưởng. Có lúc, Châu vác cày bừa, giả dạng làm người nông phu, hễ gặp lính Tây Sơn là đánh chết liền. Quân Tây Sơn luôn luôn bị Châu giết hại, răn nhau không dám xâm phạm đến bờ cõi huyện này. Văn Nhậm nghe tin giận lắm, định đem quân đến bắt Châu. Châu bèn trốn vào vùng Chí Linh, Phượng Nhãn (Chí Linh thuộc Hải Dương (Hải Hưng). Phượng Nhãn nay sáp nhập vào huyện Yên Dũng, Hà Bắc), chiêu mộ dũng sĩ, chống nhau với địch. Người ở hai vùng đông bắc, theo về với Châu mỗi ngày một nhiều. Châu thường cho người dò la nơi ở của quân Tây Sơn, rồi đêm đến đem quân đi gấp tới nơi, đánh úp giết chết. Quân của Châu khi ẩn, khi hiện như thần, đánh đâu là thắng đấy. Quân Tây Sơn chẳng làm gì được. Châu vẫn muốn khởi nghĩa, nhưng chưa có ai làm chủ. Vậy xin đưa lá thư của bệ hạ đi để chiêu dụ Châu, chắc là Châu sẽ đến ngay.
    Vua nói:
    - Vậy nhà ngươi hãy sai người đi đi!
    Châu nghe tin, mừng lắm, nói với mọi người:
    - Quân ta nay đã có danh nghĩa rồi!
    Châu bèn đem quân đến đón vua Lê, vua tôi gặp nhau rất là vui mừng.
    Vua nói:
    - Nghe đồn nhà ngươi dùng binh rất hùng dũng, nay quân giặc tụ tập ở vùng Bảo Khảm chừng hai trăm tên, nếu ngươi có thể đánh phá được chúng, ta sẽ cho ngươi làm chức trấn thủ xứ Kinh Bắc.
    Châu nói:
    - Việc đó rất dễ, song chỉ e khi chúng kéo hết quân đến, thần ít quân, lại không có quân cứu viện, thì không đủ sức đánh nhau với chúng, mà rồi lại không thể tránh đi nơi khác để giấu kín tung tích. Lâu nay những việc thần đã làm, chỉ có thể hả bớt tức giận mà chưa thể tự lập được cũng là vì cớ ấy. May nhờ oai linh của bệ hạ, lại được các tướng góp sức, thần xin tự mình chống đỡ một mặt, gặp giặc là đánh, có chết thì thôi chứ không chạy.
    Vua nói:
    - Mạnh mẽ thay! Thật đáng là bậc đại tướng.
    Rồi đó vua bèn phong cho Châu làm quyền trấn thủ, tước Dao quận công. Châu liền mở cuộc diễu võ ở núi Vạn Kiếp (thuộc huyện Chí Linh, Hải Dương (Hải Hưng)), dựng cờ và trống đại tướng ở trên núi, rồi sai người tâu mời nhà vua tới xem.
    Thật là:
    Thành lữ long đong lo việc nước[1],Trạch bào hăng hái giết quân thù[2]
    Chưa biết việc này ra sao? Hãy xem hồi sau phân giải.



    [1] Thành lữ: mượn ở câu: Hữu điền nhất thành, hữu chúng nhất lữ (Đất đai có mười dặm, quân lính có trăm người) trong Bắc sử, trỏ vào việc vua Thiếu Khang nhà Hạ bị mất nước, chỉ còn có một thành một lữ mà khôi phục được cơ nghiệp.
     

    [2] Trạch bào mượn chữ ở bài "Vô y" trong Kinh thi, bài thơ nói về tinh thần hữu ái và khảng khái của quân lính. "Trạch" là áo lót, "bào" là áo khoác. Nguyên văn là Khởi viết vô y, Dữ tử đồng bào.. Khởi viết vô y, Dữ tử đồng trạch (Há rằng không có áo? Ta sẽ chung áo khoác cùng anh... " cả hai câu thơ trên đều nói về việc Chiêu-thống cùng đám quân cần vương đang hăng hái mưu khôi phục lại cơ nghiệp.
  7. Pagan

    Pagan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/08/2004
    Bài viết:
    3.118
    Đã được thích:
    1
    Hồi thứ mười mộtTây Sơn lại kéo vào thành chiếm giữ đất nướcChiêu thống ba phen tính chước khôi phục kinh đô
     
    Lại nói, vua Lê thân hành tới xem diễu võ ở núi Vạn Kiếp. Nhà vua ngự ở đền Trần Hưng Đạo, gọi Châu đến và hỏi:
    - Có được mấy trăm quân?
    Châu đáp:
    - Trừ số người mới theo về, thủ hạ tinh luyện của thần chỉ có trăm người mà thôi!
    Vua nói:
    - Tiếc rằng ít quá!
    Châu đáp:
    - Quân cần tinh nhuệ không cần nhiều. Có trăm quân cảm tử, cũng đã đủ để hoành hành trong thiên hạ. Thần đã từng thử, quân giặc có lúc kéo tới đầy cả đồng, thần chỉ sai vài chục người xông đến trước trận, múa dao chém bừa, không lần nào giặc không tan vỡ.
    Vua bảo:
    - Đúng như lời ngươi nói, nhưng đánh bất thình lình thì được, chứ đối trận mà đánh thì không được. Nay đang khi trốn chạy tan tác, nhân tình dễ loạn, làm gì cũng phải cho chu đáo mới có thể đứng vững để lo việc khôi phục. Vạn nhất bị vấp ngã thì không thể nào nhóm họp lại được nữa. Vì thế, thời xưa có người chịu nương náu ở núi Cối Kê, có người chịu nép mình ở đất Ba Thục (ở đây Chiêu-thống muốn nói đến chí phục thù của các vua đời xưa ở Tàu, như Việt vương Câu Tiễn thời Xuân-Thu và Hán Cao Tổ cuối đời Tần. Câu Tiễn bị Ngô Phù Sai đánh bại và cho ở đất Cốt Kê, nhưng vẫn nhẫn nhục chịu đựng mọi cay đắng, ngầm nuôi chí lớn, sau quả nhiên trở lại diệt được nước Ngô. Hán Cao Tổ bị Sở Bá vương biếm phong vào đất Ba Thục. Cao Tổ tạm thời chịu lép vế, rồi về sau đã thắng Sở), người ta vẫn phải ẩn nhẫn mà giữ lấy lực lượng, không dám làm liều để rước lấy sự thất bại. Ngày nay, việc nước nhà cũng giống như vậy, nên trước tiên phải kêu gọi quân cần vương để thêm thanh thế, không nên lộ mặt ra vội. Trẫm đã sai các quan chia đường đi chiêu mộ binh lính, ở Kinh Bắc có Phạm Đình Dư, Chu Doãn Lệ, ở Sơn Nam có Trương Đăng Quỹ, Phạm Văn Lân, ít lâu nữa họ sẽ trở về phục mệnh. Nhà ngươi nên đợi họ, bây giờ hãy đóng quân ở trong núi, luyện tập số người mới theo, cho tất cả đều tinh nhuệ, để chờ sai khiến.
    Vua lại sai Đình Giản qua miền thượng du trấn Sơn Tây, kêu gọi nghĩa binh các trấn Tuyên Quang, Hưng Hoá, hẹn ngày cùng đến. Còn tự mình thì đi tới vùng Hải Dương, truyền hịch chiêu dụ.
    Lúc vua đến huyện Chí Linh, quan văn đi theo chỉ có ba người là Trần Danh Án, Vũ Trinh và Ngô Thì Chí mà thôi.
    Ngô Thì Chí có dâng vua bài "Sách lược trung hưng" như sau:
    "Thần trộm nghĩ, dẹp loạn phải xem cơ, dùng võ phải có đất. Vua Thiếu Khang giữ Luân ấp mà sau mới dấy được nghiệp trung hưng; Vua Chiêu Liệt chiếm ích Châu mà sau mới chống được kẻ ngoại địch. Địa thế nước ta, Cao Bằng, Lạng Sơn nằm ở phía đông bắc, giáp với đất Trung Hoa. Núi sông hiểm trở, đủ để giữ vững, binh mã hùng cường, đủ để tiến đánh. Nay bệ hạ hãy ngự giá đến đó, sai một sứ thần sang báo với nhà Thanh, xin họ đem quân đóng áp bờ cõi, để làm thanh viện cho ta; đồng thời đưa mật chỉ cho hào kiệt bốn trấn, bảo họ hưởng ứng. Lòng người đã được khích lệ, ai dám không theo? Trăm quan kẻ nào chưa theo kịp, ai dám không tới? Ngoài tựa vào thế thượng quốc, trong nhóm họp quân cần vương, khiến cho thế giặc mỗi ngày mỗi trơ trọi, thế ta mỗi ngày một lớn mạnh. Rồi đó, ta sắp đặt phương lược, tiến lên khôi phục kinh thành, công nghiệp trung hưng hẳn có thể hẹn ngày mà làm nên được!".
    Vua vời Chí tới và bảo:
    - Ngươi nói rất hợp ý ta. Mùa đông năm ngoái, ta sai hoàng đệ và các hoàng thân hầu thái hậu lên Cao Bằng, có đưa mật chỉ cho viên đốc đồng Nguyễn Huy Túc, dặn y dùng lời nghĩa khí khích động lòng người, liên kết bọn phiên tướng, tụ tập quân biên cương, cũng là sắp sẵn cho việc ấy. Nhưng còn Lạng Sơn thì ta chưa sai ai đi.
    Chí tâu:
    - Trước kia, khoảng năm Đinh Dậu (1777), niên hiệu Cảnh Hưng, cha thần đã vâng chiếu lên làm trấn thủ xứ Lạng Sơn, để tuyên bố uy đức của triều đình và chiêu tập những kẻ lưu vong. Nhân dân bảy châu, đến nay vẫn còn mến yêu. Thần xin lên đó, vâng chỉ chiêu dụ, nhân dịp báo tin cho Túc, tâu với thái hậu, hẹn ngày ra quân để đón xa giá. Thế là một chuyến đi mà được cả hai việc.
    Vua Lê khen là phải rồi cho Chí đi. Chí mới đến huyện Phượng Nhãn thì phát bệnh, không thể đi tiếp, liền gửi tờ biểu về xin nghỉ ít hôm để điều trị. Vua bèn cho mười nén bạc để chi về việc thuốc thang.
    Trong lời biểu của Chí gửi về tạ ơn vua, có đoạn viết:
    "Gặp cơn nguy biến, chí hợp mà tâm đồng; nghĩa vua tôi ngàn năm mới gặp; trong đạo luân thường, phận ưa mà tình nặng; tình cha con một nhà khác chi? Nay gặp buổi quốc gia còn lắm nạn; chính là khi thần tử phải quên mình. Dám đâu vì việc riêng mà tiếc thân; nguyện sẽ đeo bệnh tật để dấn bước".
    Vua xem tờ biểu lấy làm cảm động.
    Vừa lúc đó, bọn Đình Dư, Doãn Lệ sai người đưa tờ mật biểu tới nói rằng: "Các vùng Đông Ngàn, Kim Hoa, Võ Giàng, Quế Dương (nay đều thuộc Hà Bắc; riêng Kim Hoa sau đổi là Kim Anh nay thuộc Vĩnh Phú và một phần nhập vào huyện Sóc Sơn thuộc Hà Nội), lòng người đâu đâu cũng căm tức. Bọn thần đã tuyên lời chiếu dụ, các hào mục đều xin dấy quân cần vương. Cúi xin xa giá trở về Kinh Bắc, để cho bọn họ được vào yết kiến. Rồi nhân đó, bệ hạ ban lời dụ trước mặt họ cho họ về nói lại với nhau, như vậy ai mà không theo? Khi đã phò giá về đóng ở đấy, thì người trong thiên hạ đều được trông thấy mặt trời. Đình Giản trước đây đi Sơn Tây, Tôn Lân trước đây đi Sơn Nam, cũng được xa nhờ tiếng tăm, uy linh của nhà vua mà đem quân về họp. Hà tất phải lên Lạng Sơn, là nơi bờ cõi xa xôi cách trở? Bọn thần e rằng cứ nấn ná ngày tháng sẽ làm lỡ mất cơ hội, rồi lại bỏ chỗ gần mà lo chỗ xa, thì thật là thất sách!".
    Vua Lê cho lời ấy là phải.
    Vũ Trinh mời nhà vua về làng Xuân Liên, huyện Lang Tài (nay sáp nhập với huyện Gia Bình thành huyện Gia Lương). Cha Vũ Trinh là Vũ Chiêu làm tờ biểu xin dâng hai trăm lạng bạc để tiêu vào việc quân. Vua nhận số bạc ấy, bèn dùng nhà Chiêu làm nơi hành tại.
    Lại nói, khi Bắc bình vương sai Võ Văn Nhậm ra đánh đất Bắc, vốn do mệnh lệnh đã định từ trước, nhưng trong bụng cũng hơi nghi ngờ Nhậm, bèn sai bọn Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân làm tham tán quân vụ để chia bớt quyền của Nhậm. Bắc bình vương lại bảo riêng với Sở rằng:
    "Nhậm là con rể vua anh. Nay ta với vua anh có sự xích mích, lòng y chắc cũng không yên. Chuyến này y cầm trọng binh vào nước người, sự biến không thể liệu trước được. Nay ta không lo Bắc Hà mà chỉ lo về Nhậm mà thôi. Ngươi nên xem xét từng ly từng tý, hễ có gì thì phải gấp rút báo cho ta biết. Ví như lửa cháy, dập tắt từ khi mới bén thì dễ dàng hơn".
    Lúc Nhậm thừa thắng kéo xe ra Bắc, như vào làng bỏ trống, không một người nào dám chống cự. Nhậm có vẻ dương dương tự đắc. Kịp khi bắt sống được Nguyễn Hữu Chỉnh, Nhậm tự cho là uy vũ của mình đủ khiến người ta phải phục, khu xử việc Bắc Hà không có gì khó.
    Khi nghe vua Lê chạy sang phía bắc, nương tựa vào Nguyễn Trọng Linh, Nhậm liền tức tốc gửi thư bắt buộc LInh phải đem vua Lê ra nộp. Nhậm lại cho đòi các người trong tôn thất và các quan văn võ phải đến cửa quân chờ hầu; thường dùng cách hất hàm, đưa mắt, dùng bộ điệu, khí sắc để sai khiến mọi người mà chẳng ai dám làm gì.
  8. Pagan

    Pagan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/08/2004
    Bài viết:
    3.118
    Đã được thích:
    1
    Thế nhưng, rốt cuộc Nguyễn Trọng Linh vẫn không đến, các viên quan có thế lực cũng chẳng có ai tới. Trần Quang Châu ở Kinh Bắc. Nguyễn Viết Tuyển ở Sơn Nam, Đinh Tích Nhưỡng ở Hải Dương, ai nấy cầm quân giữ đất và nói phao lên rằng, chẳng bao lâu, bốn phía sẽ nhòm về kinh đô, cùng Nhậm quyết chiến. Rồi đó, hễ quân Tây Sơn có tên nào ra khỏi thành là bị bọn thổ hào giết chết. Giặc cướp cũng nhân dịp nổi lên khắp nơi, khói lửa liên tiếp. Lúc bấy giờ Nhậm mới có ý sợ, liền bắt hết nhân dân quanh vùng kinh kỳ đắp lại thành Đại La. Ngày đêm đốc thúc, không cho nghỉ ngơi chút nào, đến nỗi có người đang đội đất mà ngã sấp xuống. Làm lụng mệt nhọc, đói khát, ai cũng ta oán. Khi ấy, có người đồn rằng: Trần Quang Châu đã lẻn vào trong thành làm nội ứng, hẹn Nguyễn Viết Tuyển đem binh thuyền ngược dòng sông Nhĩ Hà đi lên để làm ngoại ứng. Nhậm bèn hạ lệnh lùng khắp kinh sư, những người ở trọ trong các phố phường đều đem chém chết.
    Ngô Văn Sở nói:
    - Mình cứ vững dạ, có lo gì họ? Nếu mình tự bối rối trước, thì còn trấn áp được ai? Chi bằng tha họ cho yên lòng dân.
    Nhưng Nhậm không nghe. Vừa lúc ấy có người ở làng Cơ Xá, huyện Gia Lâm, tự xưng là Trần Đình Khôi làm chức thiêm sự của nhà Lê, xin vào yết kiến. Nhậm cho mời vào và hỏi:
    - Nguyễn Hữu Chỉnh là kẻ vong mạng, lấy trộm ngôi cao, tàn hại nhân dân, thiên hạ ai cũng căm giận. Người Bắc Hà mưu đồ đánh hắn mà không được, trở lại bị hắn làm hại. Nay ta trừ hắn đi cho, đáng lẽ ơn ta mới phải, sao ta vời mà không ai đến?
    Khôi đáp:
    - Ông có tài quyết thắng ở ngoài ngàn dặm, lẽ nào lại không xét rõ tình người? Người Bắc Hà dù oán Chỉnh rất sâu, mà lòng nhớ nhà Lê chưa nguôi. Họ thấy ông giết Chỉnh, xa gần cũng đã mừng rỡ, nhưng vì ông chưa bàn gì đến việc phò Lê, nên người ta bàng hoàng trông ngóng, chưa dám đến vội. Nay tự quân đã bỏ nước mà đi, không có lẽ còn quay trở lại. Có Sùng nhượng công Lê Duy Cận, lúc tiên đế còn sống, đã chính vị làm đông cung, sau gặp việc biến cố năm Nhâm dần (1782), mới bị kiêu binh truất bỏ. Nếu ông khôi phục ngôi đó cho Sùng nhượng công để tạm coi việc nước, rồi đem việc ấy bá cáo khắp trong ngoài, yết một mảnh giấy ở cửa Đại Hưng, thì chẳng bao lâu các quan văn võ sẽ đến họp cả. Lúc bấy giờ việc thiên hạ ai cũng phải nghe ông, ông xoay vần dễ như trở bàn tay, lo gì mà không xong xuôi?
    Nhậm gật đầu nói:
    - Ông nói rất có lý. Ví như mổ trâu, cắt đúng đường gân khớp xương thì các thớ thịt sẽ đứt cả, không khó nhọc gì.
    Rồi đó, Nhậm bèn sai mời Sùng nhượng công vào phủ, lấy lễ thượng khách mà tiếp đãi và bảo rằng:
    - Thiên hạ vốn là thiên hạ của nhà Lê. Tự hoàng bỏ nước mà đi, trong nước không có ai làm chủ. Ông là thái tử cũ, đã có mệnh vua từ trước. Bây giờ ở ngôi ấy, ngoài ông ra thì còn ai nữa?
    Sùng nhượng công nói:
    - Nước mọn này mất cả giường mối, nhờ ơn thượng công (chỉ Nguyễn Huệ) đã gây dựng lại cho. Nhưng trời chưa thôi vạ, tự hoàng thơ ấu, bị tên loạn thần làm lầm lỡ, phải chuốc lấy sự bại vong. Nay chúa công (chỉ Võ Văn Nhậm) không nỡ bỏ, lại lo nối lại cái dòng đã đứt, đó là điều may lớn cho nước mọn này. Chỉ hiềm tôi là người không có đức, nếu được lạm giữ ngôi ấy, thì công việc chỉnh đốn phen này, cũng xin nhờ chúa công giúp đỡ cho, may ra mới có thể tự lập được.
    Nhậm cười mà rằng:
    - Ông hãy cứ làm, không cần lo xa. Có tôi ở đây, bọn gian hùng dù muốn hại ông, cũng quyết phải sợ mà không dám hành động. Đợi khi thượng công ra đây, tôi xin nói giúp ông, ông sẽ được lên ngôi vua thật sự.
    Sùng nhượng công nghe nói, mừng lắm, bèn sắm sửa lễ vật tới yết nhà Thái-miếu, rồi vào ở trong gian nhà phía tả điện Cần-chính, và cho Khôi đi tìm tất cả các quan đến để bàn việc.
    Trước hết, Khôi tới nhà Lê Phiên. Phiên mắng rằng:
    - Vua phải chạy đã không đi theo, lại theo người ta mà lập vua khác. Lời nói ấy sao còn đến tai ta làm gì?
    Rồi Phiên bỏ trốn lập tức.
    Khôi lại tới nhà viên tham tụng là Huy Bích. Bích từ chối không chịu gặp. Sùng nhượng công bèn thảo tờ dụ các quan đại ý nói rằng:
    "Năm xưa đã nhường ngôi, quả không có lòng tham thiên hạ. Ngày nay tạm nắm quyền, chỉ mong giữ việc tế tự. Những ai hiểu cho ý đó, thì nên tới họp tại triều".
    Nhưng các quan văn, rốt cuộc chẳng một ai tới. Khôi liệu công việc chắc là không thành, bèn bàn tính với một người bạn. Người ấy trả lời:
    - Anh nộp tiền để mua chút bằng sắc, triều không ngồi, tiệc không dự, mất nước không phải tội lỗi của anh, được nước không phải trách nhiệm của anh, chẳng qua anh muốn nhân lúc loạn lạc mưu đồ phú quí mà thôi. Nhưng Sùng nhượng công không phải món hàng lạ có thể buôn bán được, Văn Nhậm lại là kẻ dã tâm khó lòng tin cậy. Một mai Bắc bình vương đến, tai vạ thật là khó lường; mà sau này vua Chiêu thống trở về, anh cũng không có chỗ nào để dung thân nữa. Tục ngữ có câu: "ở yên chẳng muốn, muốn chui đầu vào chum để mua vạ". Chính là nói hạng người như anh đó!
    Khôi sợ, bèn bỏ trốn.
    Sùng nhượng công ngồi trơ trong điện, chỉ có một vài hoàng thân và ba bốn tên võ biền, sớm tối ở chung với nhau; còn mọi công việc đều không đến tay. Hàng ngày hắn ta đi bộ đến phủ đường, chầu chực Văn Nhậm và hỏi cách xử trí, song Nhậm cũng chẳng biết xử trí ra sao. Người kinh thành thấy vậy, đều gọi hắn ta là "giám quốc lại mục" (viên thơ lại coi việc nước).
    Lại nói, Ngô Văn Sở từ khi nhận mật chỉ của Bắc bình vương và cùng Nhậm ra Bắc, lúc ở trong quân thường vẫn dùng lời nói ngọt nhử Nhậm, để ngầm dò ý. Đến lúc này, Sở bèn bảo Nhậm rằng:
    - Chúng tôi vâng mệnh theo ông đánh dẹp, giặc Chỉnh đã bị giết, nhưng dư đảng của y ở vùng đông nam vẫn chưa dẹp yên, vua Lê vẫn còn chạy trốn ở ngoài, mà các quan cũng đều lẩn tránh. Nay ông cho Sùng nhượng công làm giám quốc, nhưng tôi xem lão ấy chỉ là phường a dua không được tích sự gì, rốt cuộc chỉ là một cục thịt trong cái túi da, làm sao mà sai khiến được kẻ khác? Từ khi có nước Nam tới nay, triều đại thay đổi không biết là mấy lần rồi. Thiên hạ nào phải là của riêng ai. Liệu có thể lấy được thì cứ lấy đi, rồi đặt quan, chia chức để xây dựng phên giậu, làm cho tai mắt của mọi người đều được một phen đổi mới. Nếu có kẻ nào lấy trộm danh nghĩa (ý nói những kẻ mượn tiếng phò Lê) thì cứ bảo là giặc, rồi đem quân tới đánh, ai dám chống lại? Việc gì mà phải mượn đứa tôi đòi ngoài chợ trông coi việc nước, để hắn sắm vai ông chủ "tượng đất" trong vườn; còn mình thì cứ đóng mãi trong thành, làm tụi lính khách ở trọ nước ngoài?
    Nhậm nói:
    - Bọn Nhưỡng, Tuyển chẳng qua hơi tàn thoi thóp; nắm lấy cánh tay tự nhiên phải đến. Vả ta xem bọn bề tôi nhà Lê chẳng có mặt nào như Điền Đan nước Tề, Vân Trường nhà Hán (Điền Đan là người họ vua Tề đời Chiến quốc; Vân Trường tức tên tự của Quan Vũ, là bạn kết nghĩa của Lưu Bị thời Tam Quốc. Hai người đều có tài trong việc đánh dẹp và giúp nhà vua khôi phục đất nước); chẳng qua họ sợ binh oai của ta, nên sớm chiều dùng dắng đó thôi. Nếu ta hạ một cái bảng, hẹn ngày phải tới cửa quân, không tới thì chém, chắc là chúng sẽ cởi áo mang roi đến xin chịu tội. Điều đó không phải là việc đáng lo. Chỉ vì lòng người đất Bắc còn nhớ họ Lê, không thể không chiều theo lòng mong mỏi của mọi người. Mượn hắn ra làm pho tượng gỗ, là cốt để chia rẽ đồ đảng của Chiêu thống, và ràng buộc lòng dân Bắc Hà đó mà thôi. Chỗ đó không phải chỗ lũ các ông có thể biết được! Các ông khoẻ sức đánh trận, ta sẽ giao cho các ông chia đường tiến đánh, rồi giữ lấy đất, làm bức trường thành cho ta, há chẳng tốt ư? Đến lúc đó, cuộc thế xoay vần, tự nhiên có nhiều việc hay, đường đường làm chủ không phải ta thì còn ai? Cần gì mà phải làm khách?
    Sở im lặng ra về, rồi bảo với Lân rằng:
    - Lão tiết chế thật khinh người quá. Hắn có tài đức, trí lược gì mà dám coi bọn ta là tụi lính tráng? Xem hắn từ khi vào thành đến nay, đã làm được việc gì? Thúc ép dân phải gấp rút đắp luỹ và phò Lê Duy Cận làm giám quốc, đều là sắp sẵn cái mưu làm phản, để hòng tranh giành với chủ ta. Đã không biết lấy giặc Chỉnh làm răn, trở lại muốn bắt chước nó. Không muốn sống lại muốn chết, thì cứ cho hắn đi theo Chỉnh, để răn những kẻ khác!
    Sở bèn lượm lặt các việc làm của Nhậm, cho là tội trạng làm phản, lấy Lân làm chứng, rồi ngầm sai người về Nam báo với Bắc bình vương (theo Cương mục thì Nhậm có làm những việc trái phép, như tự đúc ấn chương, chuyên quyền trong việc cất nhắc, xếp đặt quan chức, v.v... Nhưng bên cạnh đó, Sở vốn có hiềm khích với Nhậm, nên đã dâng mật thư vu oan cho Nhậm làm phản). Bắc bình vương nói:
    - Thằng Võ Văn Nhậm đáng chết thật! Ta vẫn biết hắn thế nào rồi cũng làm phản, quả nhiên không sai.
    Tức thì Bắc bình vương hạ lệnh tiến ra Bắc, đốc thúc các quân bộ và quân kỵ mã ngày đêm đi gấp. Chừng hơn mười ngày, đến thành Thăng Long. Bấy giờ đồng hồ vừa nhỏ giọt xuống đến trống canh tư, Nhậm đang ngủ say trong phủ. Sở được tin, liền dặn người do Bắc bình vương sai đến phải giấu kín việc ấy, không được báo cho Nhậm biết; rồi sai người ngấm ngầm ra ngoài thành đón Bắc bình vương. Người nhà và người xung quanh Nhậm cũng đều không ai biết gì. Chốc lát, Bắc bình vương vào thành, đến thẳng chỗ Nhậm nằm, Nhậm cũng vẫn chưa biết. Bắc bình vương liền sai võ sĩ là Hoàng Văn Lợi đâm chết Nhậm rồi khênh xác ra sau phủ đường (cũng theo Cương mục, lúc Nguyễn Huệ đến, Nhậm ra ngoài thành đón, Nguyễn Huệ liền nhường ngựa đang cưỡi và lọng che cho Nhậm vào thành, lại an ủi vỗ về ôn tồn. Sau đó, Nguyễn Huệ mới bắt Nhậm đem tra khảo và giết chết).
  9. Pagan

    Pagan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/08/2004
    Bài viết:
    3.118
    Đã được thích:
    1
    Mờ sáng, Bắc bình vương truyền lệnh cho Sở làm chức đại tư mã, thống lĩnh quân đội thay Nhậm, lúc đó quân lính mới biết.
    Hôm ấy, Bắc bình vương cắt đặt lại quan chức: Đô đốc nghĩa hoà hầu làm trấn thủ trấn Sơn Nam; Lôi quang hầu (có bản chép Tuyết quang hầu) làm trấn thủ trấn Sơn Tây; Nguyệt quang hầu làm trấn thủ trấn Kinh Bắc; Hám hổ hầu (có bản chép Hô hổ hầu) làm trấn thủ trấn Hải Dương. Còn Giác hoà hầu coi giữ bộ Hình, chánh ngôn hầu coi bộ Hộ, Ước thiện hầu coi bộ Lễ, Lộc tài hầu coi bộ Lại, và đều kiêm nhiệm chức hiệp trấn. Bắc bình vương lại bảo họ tiến cử những người mà họ hiểu biết, chia ra cho làm quan ở các huyện. Võ thì chia ra chức suất, chức nội; văn thì chia ra chức tri, chức ngoại. Cả sáu trấn (theo Dụ am văn tập, dưới triều Tây Sơn, các trấn ở Bắc Hà được chia lại thành 7 nội trấn và 6 ngoại trấn. Đây là 6 ngoại trấn: Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thái Nguyên, Yên Quảng) đều do Sở tuỳ theo tài năng mà cắt đặt người, sau đó bẩm lên xin cấp văn bằng, rồi cho ai nấy lĩnh quân bản bộ về trấn của mình. Bắc bình vương lại hạ chỉ vẫn để con thứ tư của tiên hoàng nhà Lê là Lê Duy Cận làm giám quốc, coi việc tế tự, và cho đòi hết thảy các quan văn võ phải tới cửa khuyết, chực sẵn ở nhà bộ Lễ, rồi theo viên lễ quan là Võ Văn Ước vào yết kiến.
    Bấy giờ viên quan văn là Ngô Thì Nhậm vào yết kiến trước, Ước tưởng lầm là hoàng tử nhà Lê, liền mời cùng ngồi với mình. Tiếp đó, bọn Lê Phiên đến, đều lạy ở dưới sân, Ngô Thì Nhậm trong bụng rất áy náy, vội đứng dậy đi ra. Ước lấy làm lạ không biết là ai, bèn hỏi:
    - Người vừa ngồi đây là ai thế?
    Có người trả lời:
    - Văn ban Ngô Thì Nhậm đấy!
    Ước giận mà rằng:
    - Ta vâng mệnh cai quản tất cả, sao lại được vô lễ như vậy?
    Rồi Ước tức tốc sai người theo bắt.
    Ngô Thì Nhậm đã biết trước chuyện đó, nên lúc ra, vội vàng trốn tránh ngay. Đến tối, Nhậm vào yết kiến viên trung thư lệnh Kỷ lễ hầu là Trần Văn Kỷ.
    Kỷ người Thuận Hoá, vốn có văn học, là bậc danh sĩ ở Nam Hà. Năm Đinh dậu (1777) niên hiệu Cảnh hưng, Kỷ thi ở trấn đậu giải nguyên. Năm Mậu tuất (1778), Kỷ tới kinh thi hội, sĩ phu ở Bắc Hà, Kỷ có giao thiệp quen biết ít nhiều. Năm Bính ngọ (1786), Bắc bình vương đánh lấy thành Phú Xuân, sai người tìm Kỷ hỏi việc Nam, Bắc. Kỷ đối đáp rất nhanh và rất hợp ý, nên Bắc bình vương rất trọng, cho ở vào chỗ "màn trướng" (nơi ở của bậc tướng soái), việc gì cũng bàn với Kỷ, lúc nào cũng gần bên Kỷ, không mấy khi xa rời.
    Lúc ấy Ngô Thì Nhậm tới gặp Kỷ, nói rõ tình trạng mình xúc phạm tới Ước, sợ bị hãm hại nên không dám đến, chứ không phải dám trốn tránh, rồi nhờ Kỷ giải cứu cho. Kỷ nói:
    - Nghe ông là bậc kỳ tài, không may bị tiếng gièm pha, trốn tránh hơn năm sáu năm, sự tích luỹ càng thêm tinh tuý. Nay ra ứng dụng với đời, chính là hợp thời. Tôi đã đem tên ông trình với chúa thượng khen tài ông có thể dùng làm việc lớn. May mắn nay được chúa thượng rủ lòng yêu mến, đã sai tôi tìm ông, vậy không phải cần gì đến ông Ước!
    Tức thì Kỷ đưa Nhậm vào yết kiến Bắc bình vương. Bắc bình vương nói:
    - Ngày trước, ngươi vì chúa Trịnh không dung, một mình bỏ nước mà đi. Nếu ta không đến đây, ngươi làm sao được thấy bóng mặt trời? Có nhẽ đó là ý trời muốn để dành người tài cho ta dùng. Vậy ngươi hãy cố gắng mà lo việc báo đáp, thế là được.
    Ngô Thì Nhậm rập đầu tạ ơn. Bắc bình vương ngoảnh lại bảo Kỷ:
    - Đây là người do ta gây dựng lại, nên thảo ngay tờ chế phong làm chức tả thị lang bộ Lại, tước Tình phái hầu, cùng với Văn Ước coi tất cả các quan văn võ của nhà Lê.
    Hôm sau các quan lục tục kéo đến, lễ quan đưa vào lạy ở điện Chính trung. Bắc bình vương đòi hết lên sảnh đường mà bảo:
    - Vua Lê do ta lập lên, nhưng là người tối tăm nhu nhược, không thể gánh nổi công việc. Sau khi ta về Nam, liền bị Nguyễn Hữu Chỉnh sai khiến tự rước lấy bại vong, đất nước này dù ta không lấy thì cũng bị người khác lấy mất. Nay ta để Sùng nhượng công làm giám quốc, các ngươi hãy cố gắng ở lại giúp đỡ ông ta. Ta thật không muốn lấy Bắc Hà để kiếm lợi, nay mai lại sắp về Nam. Nhưng vì sợ tự hoàng tranh giành cùng giám quốc, thành ra ta làm ơn mà lại hoá ra gây loạn cho họ, nên ta phải để viên đại tư mã là Ngô Văn Sở ở lại trông nom việc binh, chờ khi bốn cõi tạm yên, ta sẽ gọi về.
    Trăm quan từ giã lui ra, rồi nói riêng với nhau:
    - Bắc bình vương tạm dùng lời nói ngọt để giá ngự chúng ta, chứ không phải thật bụng. Văn Sở cầm quân ở đây, thì Sùng nhượng công làm gì mà có nước? Hễ cử động gì liền bị họ nắm lấy cánh tay, ông ấy còn làm được chi? Ví như cây tầm gửi, bám vào cành cây khác, rễ không bén đất, sống lâu dài làm sao được? Chúng ta, người nào có thể đi theo vua lo việc khôi phục thì đi đi, nếu không thì nên ẩn xa cho sạch mình, chớ để cho người ta lừa phỉnh mà rước lấy vạ.
    Sùng nhượng công cũng biết như thế, nên đã phải than rằng:
    - Ta nay tiếng là làm giám quốc, thật ra chỉ là một ông từ giữ đền. Nhưng vì miếu xã ở cả đây, bỏ đi thì đi đâu? Thôi thì cũng đành cam lòng như thế, không hối hận gì nữa vậy!
    Qua vài ngày, Bắc bình vương dẫn quân về Nam. Trước khi lên đường, vương chọn năm sáu viên văn thần là bọn Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch, Ninh Tốn, Nguyễn Bá Lan..., phong cho quan tước: Ích làm chức tả thị lang bộ Hộ, tước Thuỵ nham hầu, được đưa về Nam (bản chữ Hán chép cả Ngô Thì Nhậm cũng được đưa về Nam; đó là chép lầm). Còn bọn Lịch, Tốn, Lan..., thì đều được phong chức hàn lâm trực học sĩ, theo đại tư mã Sở ở lại đất Bắc. Nguyễn Hoàn và Phan Lê Phiên đều xin về dưỡng nhàn, nhưng vẫn được Bắc bình vương cho giữ nguyên chức tước, và sai bộ Lễ cấp phát giấy tờ cho họ trở về làng xóm. Tham tụng là Bùi Huy Bích, thiêm đô là Nguyễn Huy Trạc đều có đến kinh, nhưng không chịu cho dẫn vào lạy chào. Rồi đang đêm Bích trốn, còn Trạc thì tự tử ở đài Ngự-sử.
    Những người trốn tránh không chịu ra thì có phó đô ngự sử Nguyễn Đình Giản, tham tri chính sự Lê Duy Đản, Phạm Đình Dư, đồng xu mật viện Nguyễn Duy Hạp, Phạm Trọng Huyến, thiêm sai công phiên Phạm Quí Thích, đô cấp sự trung Nguyễn Đình Tứ, tất cả chỉ có bảy người mà thôi (theo Cương mục, thì số người này gồm tám viên, mà có một số tên khác hẳn đây).
    Lại nói, bấy giờ vua Lê đang ở huyện Lang Tài, lại dời đến huyện Chí Linh. Các quan biết chỗ vua ở, nhiều người đến theo. Lê Ban ở Giáp Sơn (cũng gọi Hiệp Sơn, nay là đất huyện Kinh Môn, Hải Dương (Hải Hưng)) đem một trăm người nghĩa dũng đến yết kiến. Vua mừng lắm, phong cho làm chức ngự doanh sứ, tước trung nhạc hầu.
    Ban nói kín với vua rằng:
    - Trước đây, thần về Nghệ An, thấy nhân tình rất là căm phẫn, ghét Tây Sơn như cừu thù, nhiều người đã nhóm họp ở rừng núi để cùng lo việc khởi nghĩa. Các bậc phụ lão nghe tin thần ở Bắc vào, đều lần lượt đến hỏi nhà vua ở đâu, muốn cho con em đi theo. Nhân thể, thần mới cùng đi với họ. Dọc đường qua cửa biển, thần lấy điều nghĩa khuyên dụ, nhiều người xin đem thuyền qua biển, hẹn nhau họp ở ngoài khơi phủ Kinh Môn (địa bàn phủ Kinh Môn (Hải Dương) đời Lê rất rộng, gồm cả một số huyện của Quảng Yên và Kiến An hiện nay). Gần đây, thần được tin báo rằng: hiện có chừng hơn bảy chục chiếc thuyền và hơn ba trăm thuỷ thủ, khí giới lương thực đầy đủ, ít hôm nữa sẽ đến. Vậy xin xa giá ngự ra Giáp Sơn, hạ chiếu cho Trần Quang Châu đem quân bản bộ hộ vệ. Quân bộ do Châu thống lĩnh; mặt thuỷ thần xin đảm đương. Hai cánh quân nương tựa lẫn nhau. Trước hãy khôi phục trấn Hải Dương để làm nơi xa giá tạm nghỉ. Trấn ấy phía bắc có thể khống chế các huyện Từ Sơn, Thuận Thành; phía nam thông với các phủ Thái Bình, Kiến Xương, theo đường Yên Quảng có thể đến thẳng Cao Bằng, và kéo luôn sang vùng Lạng Sơn. Cơ trung hưng không còn cách nào khác nữa.
    Vua Lê nghe theo, bèn hạ chiếu cho Châu làm chức đốc chiến ở đạo Kinh Bắc
    Quân chưa kịp tiến, thì vừa gặp lúc Đinh Tích Nhưỡng ở Hải Dương dâng tờ biểu xin theo đi đánh trận. Mọi người nghe tin, nói nhao lên rằng: "Nhưỡng là một thằng chẳng ra làm sao. Bảo là có nghĩa ư? Trước đây hắn đã toan giúp nhà chúa để chống lại mệnh lệnh nhà vua, lúc đầu phò quận Thuỵ, sau lại theo chúa Án đô. Đến khi quận Thuỵ làm không nên việc và Án đô bị thất bại, hắn đều bỏ đi không nhìn. Bất nghĩa đến thế là cùng! Bảo là có tài ư? Chính hắn đã hai lần cầm quân chống giặc, thì một lần thua ở Kim Động, một lần thua ở Ngô Đồng, chỉ chạy thoát được cái thân, không chết là may đấy thôi! Xem một đời hắn, toàn không có nghĩa khí, lại không có tài chiến đấu, chỉ cậy thế con nhà tướng, quen dùng khí thế đè nén người ta. Khi hắn mới về Hải Dương, thả bộ hạ cướp bóc trong xứ. Người ta coi hắn là giống diều quạ gian giảo và gọi là giặc Nhưỡng. Hào mục các huyện đã viết thư cho nhau kể tội các của hắn. Họ đã họp nhau trong làng Lai Cách, huyện Cẩm Giàng, hẹn nhau đến đánh phá Hàm Giang. Nhưỡng phải lui quân về huyện Bình Giang. Rồi nhân lúc ban đêm, kéo đến làng Lai Cách, giết hại không biết bao nhiêu người mà kể, đến nỗi thây nằm ngổn ngang đầy đồng. Sự tàn nhẫn của hắn như vậy, nên người Hải Dương ai cũng coi hắn là kẻ thù. Nay dung nạp hắn, chẳng những vô ích mà còn mất lòng nhân dân Hải Dương; thật là thất sách!".
  10. Pagan

    Pagan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/08/2004
    Bài viết:
    3.118
    Đã được thích:
    1
    Vua Lê cũng từng nghe tin: Nhưỡng bị mọi người không dùng đã ngấm ngầm đưa thư xin hàng Tây Sơn, nên lúc này cũng nghi ngờ không cho Nhưỡng theo đi đánh.
    Các hào mục ở trấn Hải Dương nghe tin vua sang xứ đông, đều dâng tờ biểu, quyết xin đánh Nhưỡng.
    Vì thế, Nhưỡng bối rối quá, tính không còn chỗ nào để dung thân liền phát cáu mà nói rằng:
    - Vua đã không thương ta, ta còn cần gì vị nể vua?
    Rồi Nhưỡng sai tên đồ đảng của y là Trần Liên đến Thăng Long ngấm ngầm tố cáo chỗ vua ở, và xin Văn Sở sai quân đi bắt. Ban đầu, Liên nghe tin vua lén lút ở trong nhà dân, chỉ có sáu bảy người theo, bèn báo cho Sở biết.
    Sở hỏi cặn kẽ, Liên vẽ rõ đường đi cùng chỗ ở của vua, rồi nói:
    - Ví như vào chùa trói một lão trọc lôi đi mà thôi!
    Sở cười mà rằng:
    - Nếu quả như lời ngươi nói, sao ngươi không lôi cổ đến đây cho ta, còn xin quân làm gì?
    Liên đáp:
    - Lôi ông ta đi chẳng qua chỉ một tên lính cũng đủ, nhưng chúng tôi còn sợ danh nghĩa, nên không dám làm. Việc ấy cố nhiên là việc dễ, nhưng lại khó đối với người trong nước, xin ngài xét cho chỗ đó!
    Sở tin là thật, liền sai một trăm tên lính cùng đi với Liên. Không ngờ lúc ấy, Trần Quang Châu và Lê Ban đã đến chỗ vua ở, và quân lính bảo vệ cũng không ít. Đêm ấy nghe báo quân Tây Sơn vượt núi mà đến, hai người bèn chia hai đường đánh dồn lại, và giết chết sạch. Liên chạy trốn vào hang núi được thoát, rồi chạy về Thăng Long báo tin. Văn Sở lập tức cho một đạo quân lớn đi đuổi vua Lê (theo Cương mục, thì Đinh Tích Nhưỡng đã đến vây đánh vua Lê hơn một tháng. Sau có hai người ở Hải Dương là Trần Đĩnh và Hoàng Xuân Tú đến cứu vua, chém giết hai người em của Nhưỡng. Nhưỡng mới phải bỏ chạy). Vua mới đến Giáp Sơn, các đạo quân cần vương còn chưa nhóm họp được hết. Chợt nghe tin quân địch sắp đến, Nhưỡng làm hướng đạo. Mọi người đều run sợ nói nhao nhao lên rằng: "Nhưỡng mà thông đồng với giặc thì Hải Dương không thể ở được". Châu xin vua lại về huyện Chí Linh. Ban thì xin vua đi Yên Quảng. Mọi người đang bàn bạc phân vân chưa quyết, thì vừa lúc Trương Đăng Quĩ và người con là Trương Đăng Thụ cưỡi chiếc thuyền biển từ phủ Kiến Xương đến yết kiến vua. Thấy thế, Quĩ bèn nói:
    - Chí Linh là nơi đồi núi gập ghềnh, tắt ngang sang Gia Bình thì lại là đồng ruộng mênh mông. Ta quân ít sức hèn, đánh hay giữ đều không tiện. Còn Yên Quảng thì lại giáp với Hải Dương, đường sông, vũng biển, đều là cửa ngõ ra vào của Nhưỡng. Hắn đã ăn ở hai lòng, thì đó cũng không phải chỗ yên lành có thể trú ngụ. Trấn Sơn Nam đất tốt dân đông, đinh tráng có thể luyện làm quân lính, thóc gạo có thể trưng làm lương thực, sông ngòi chằng chịt như mạng nhện, cưỡi một chiếc thuyền, bỏ chỗ nọ đến chỗ kia, chẳng ai còn biết lối nào mà tìm. Bệ hạ đang lúc như con rồng ẩn bóng, không đâu yên ổn bằng đấy.
    Vua theo lời Quĩ, bèn quyết ý dời về phía nam. Còn lời bàn của Châu và Ban thì vua đều không nghe. Rồi đó, vua yên uỷ hai người, sai Châu dẫn quân về Bắc, Ban thì đem thuyền biển lui về Biện Sơn (núi Biện Sơn ở vùng biển huyện Tĩnh Gia, Thanh Hoá), chờ lệnh trưng phát. Thế là quân cần vương tan tác đi ra bốn phía, còn vua thì đi về phía nam.
    Lúc tới nơi, vua đóng ở huyện Chân Định, dùng nhà Đăng Quĩ làm nơi hành tại. Quĩ đưa con em và người trong họ tới lạy chào, vua đều ban cho quan tước, sai họ chia nhau đi các làng, các huyện chiêu mộ quân nghĩa dũng. Xa gần nô nức hưởng ứng, đều xin họp quân cần vương, hẹn ngày cùng đến, thuyền bè kể có hàng nghìn, quân lính có tới vài vạn. Các tay hào mục đều đến, vua tự mình ra yên uỷ họ. Rồi sai Đăng Quĩ chia quân làm năm đạo, trong từng đạo lại đặt ra các chức thống lệnh, đốc chiến, tham quân, đốc hướng mỗi chức một viên, lập thành cơ đội, chờ ngày xuất phát.
    Viên nội hàn là Lê Xuân Hạp bảo Đăng Thụ rằng:
    - Quân lữ là việc lớn, không thể khinh suất. Trước hết nên điểm số quân, kén lấy người cường tráng sung làm chiến sĩ, cứ năm chục người làm một đội, năm đội làm một cơ, năm cơ làm một đạo, do viên thống đạo đốc suất. Những người còn lại thì để dùng vào việc chuyên chở và sai khiến, chớ để quân lính không tinh nhuệ lẫn lộn vào, tiếng là có số mà vô dụng. Nay nên kê rõ danh sách, dẫn vào bái mạng, để nhà vua ban cho binh phù, trao cho quân luật. Viên thống đạo vâng mệnh lệnh triều đình; các cơ đội thì chịu sự tiết chế của viên thống đạo. Người nào tuân theo mệnh lệnh thì có trọng thưởng; người nào không nghe mệnh lệnh thì bị tội chém. Sao cho quân lính đều hăng hái và biết khuôn phép, sau đó mới có thể đưa ra trận mạc. Binh là việc dữ, chiến là việc nguy, không phải là trò trẻ con.
    Thụ nói:
    - Ngày nay chính là lúc đang cần gấp rút thu phục lòng người, mọi việc hãy tạm giản dị, chưa thể buộc ngay họ vào khuôn phép được!
    Hạp nói:
    - Thu nạp được nhiều người mà dùng không được chỉ sợ họ thấy giặc là chạy, rồi lại còn giày xéo lẫn nhau nữa, thì dù nhiều cũng chẳng làm gì. Sao không nghĩ đến việc cụ lớn đại thần nhà ta đã cố sức khuyên nhà vua qua sứ Sơn Nam, ông là con ngài, vâng mệnh cầm quân, vạn nhất mà bị vấp ngã, tội ấy tại ai?
    Thụ không nghe, chỉ gọi các hào mục đến mà phân phái bằng miệng, tuyệt nhiên không có sổ sách gì để có thể tra cứu. Bởi vậy, đến khi có việc cần sai khiến, Thụ đều lờ mờ không biết đâu mà lần, đến nỗi phải chạy đi hỏi lăng xăng khắp nơi, trong quân ngũ chẳng còn có kỷ luật gì nữa. Quĩ cũng không biết, gọi Thụ hỏi về việc quân thì Thụ thưa:
    - Các đạo nay đã tề tựu, quân số rất nhiều, ai cũng hăng hái đánh giặc. Xin đánh một trận để lập công!
    Quĩ cho là phải, tâu xin chọn ngày xuất quân. Vua có ý ngần ngại mà rằng:
    - Ta nghe những người giỏi về chiến trận, trước hết phải lo đến việc thua, rồi sau mới thắng được người. Nay ta xem thuyền bè thì đều là thuyền câu, thuyền chài, quân lính thì đều là những kẻ chợ búa ô hợp, dùng quân ấy mà đánh, có chắc là không bị thua chăng? Nghĩ đến cái cảnh sau lúc trốn chạy, cùng một và người bề tôi lo việc dựng lại cơ nghiệp, thì trẫm dù không thể khôi phục được xă tắc cũng quyết chết với xã tắc, thề đánh nhau với giặc đến cùng, chớ có sợ gì xuất quân? Nhưng trẫm muốn làm việc gì cũng phải tính kế vạn toàn, ngõ hầu khỏi mang tiếng là vì khinh suất, vội vàng mà chuốc lấy vạ bại vong.
    Quĩ ngoảnh lại bảo Thụ:
    - Thánh thượng bảo như vậy, con nghĩ thế nào?
    Thụ nói:
    - Ngày nay, điều mà mình trông cậy, ấy là lòng người. Mọi người ai cũng kính mến ơn đức của thánh thượng, căm thù với giặc, nguyện xin đánh một trận lớn, giết cho hết giặc. Lòng người như thế, đánh đâu không tan? Đẽo cây gậy có thể quật ngã được nước Sở, dựng ngọn tre có thể làm mất nhà Tần (trong sách Mạnh tử, lời Mạnh tử nói với Lương Huệ vương có câu: Chế đình khả dĩ thát Tần, Sở chi kiên giáp lợi binh, nghĩa là đẽo cây gậy có thể đánh bạt giáp bền gươm sắc của quân Tần, Sở. Theo Bắc sử, cuối đời Tần, Trần Thắng và Ngô Quảng khởi binh, chỉ dùng cây cối làm gươm dáo, dựng ngọn tre lên làm cờ mà đánh bại quân Tần); huống chi số quân này và số thuyền này, há không đủ giết chết quân giặc hay sao? Nếu cứ muốn quân lính quen thạo trận mạc, thuyền bè phải đủ lầu gác, thì trước đây quận Thạc, quận Nhưỡng đều là những viên tướng trải qua trăm trận, lính thuỷ bộ các doanh mà họ thống lĩnh đều là quân tinh nhuệ, hùng dũng, sao cũng không thể thành công mà lại phải tan vỡ? Vậy thần xin thả thuyền ngược dòng mà lên, quyết chiến với giặc. Xe nhà vua tới sông, quân sĩ hăng lên gấp trăm, chẳng qua năm ngày, có thể lấy lại kinh thành. Cơ hội này không nên bỏ lỡ!
    Vừa lúc ấy Nguyễn Viết Tuyển đưa binh thuyền đến đón vua. Nhân thế, Đăng Quĩ khuyên nhà vua cho xuất quân.
    Nguyên trước, Tuyển là người cùng huyện với Hữu Chỉnh, làm bộ tướng của Chỉnh, cùng với Chỉnh vượt biển vào với Tây Sơn, xông pha những nơi nguy hiểm, không hề rời bên cạnh Chỉnh. Đến lúc Chỉnh về nước và đắc chí, liền tiến Tuyển với vua, nói là tài Tuyển có thể đương nổi một mặt. Vua bèn hạ chiếu cho Tuyển làm trấn thủ trấn Sơn Nam, thống lĩnh năm ngàn lính bộ và bảy chục chiến thuyền.

Chia sẻ trang này