1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hoang Mang.

Chủ đề trong 'Tâm sự' bởi luckyxike, 19/05/2010.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. luckyxike

    luckyxike Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/06/2008
    Bài viết:
    569
    Đã được thích:
    0
    Theo Ra-ma-na Ma-ha-ri-shi
    Thưa Ngài, con là ai? Làm sao con đạt giải thoát?«. M.: »Bằng cách tự nghiên cứu liên tục ?Ta là ai?? Ông sẽ tự nhận ra chính mình và đạt giải thoát.
    Nghiên cứu thì phải suy nghĩ, mà suy nghĩ thì không bao giờ giác ngộ được. Mình hiểu sai điều gì?, chưa rõ lắm
    Được luckyxike sửa chữa / chuyển vào 15:06 ngày 01/06/2010
  2. luckyxike

    luckyxike Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/06/2008
    Bài viết:
    569
    Đã được thích:
    0
    Cái lão Krishnamurti này làm mình nhức hết cả mắt, mệt mỏi bơ phờ.

    Tôi nhận thấy rằng tình yêu không thể tồn tại khi có sự ghen tuông xuất hiện, cũng không tồn tại khi có sự ràng buộc. Vậy thì, liệu tôi có thể thoát ra khỏi sự ghen tuông và ràng buộc chăng?
    Tôi nhận ra rằng tôi chưa hề yêu, đó là sự thật. Tôi sẽ không tự dối mình, tôi sẽ không nói giả bộ với vợ tôi là tôi yêu nàng. Tôi chưa biết yêu là cái gì. Nhưng tôi biết rõ là tôi ghen và tôi biết rõ là tôi mê say nàng kinh khủng. Do sự mê say đó, tôi đâm ra sợ mất nàng, đâm ra ghen tuông, bồn chồn. Đó là một hình thức lệ thuộc. Tôi không muốn lệ thuộc, nhưng tôi lệ thuộc vì tôi cô đơn. Tôi lang thang trong văn phòng, trong xưởng máy, rồi về nhà, mong có được cảm giác thoải mái và tình thân hữu để lẩn trốn, khỏi phải đối diện với chính mình.
    Nay thì tôi tự hỏi "Tôi phải làm thế nào để có thể tự giải thoát ra khỏi cái cảnh ràng buộc này?"
    Tôi đang dùng câu chuyện này làm một thí dụ.
    Thoạt kỳ thủy, tôi muốn lẩn tránh câu hỏi. Tôi không biết sẽ giải quyết thế nào với vợ tôi. Khi tôi đã thực sự thoát ra khỏi sự ràng buộc với nàng thì mối liên hệ giữa tôi và nàng có thể thay đổi. Nàng có thể ràng buộc vào tôi và tôi có thể sẽ không còn ràng buộc vào nàng hay bất cứ một người đàn bà khác nào. Tôi sẽ tìm hiểu điều này. Cho nên tôi sẽ không bỏ chạy khỏi điều tôi tưởng tượng về cái hậu quả của sự hoàn toàn giải thoát khỏi mọi ràng buộc. Tôi không biết yêu là gì, nhưng tôi nhìn rất rõ, chắc chắn, không nghi ngờ, rằng ràng buộc vào với vợ tôi có nghĩa là ghen tuông, chiếm hữu, lo sợ, bồn chồn, và tôi muốn giải thoát ra khỏi tất cả những điều này.
    Cho nên tôi bắt đầu tìm hiểu. Tôi đi tìm một phương pháp và tôi bị mắc míu vào một hệ thống. Có vị đạo sư dậy rằng:"Tôi sẽ giúp anh gỡ bỏ ràng buộc, làm điều này, điều này, thực hành thế này, thế này". Tôi vâng lời ông ta vì tôi thấy được tầm quan trọng của tự do, giải thoát, và ông ta đã hứa với tôi rằng nếu tôi làm theo lời ông thì tôi sẽ nhận được phần thưởng. Nhưng rồi tôi nhìn ra rằng tôi đang đi tìm phần thưởng. Tôi thấy tôi mới ngu ngốc làm sao, muốn được tự do giải thoát lại mắc vào cái phần thưởng!
    Tôi không muốn bị dính mắc, nhưng rõ ràng là tôi đang bị dính mắc vào một ý kiến của ai đó, hoặc trong cuốn sách nào đó, hoặc phương pháp nào đó, để hy vọng sẽ được cái phần thưởng là sự "giải thoát khỏi dính mắc". Thế là phần thưởng trở thành một cái dính mắc mới. Vì vậy, tôi tự nhủ: "Coi điều tôi đã làm, hãy cẩn thận, đừng để bị xập vào cái bẫy". Dù đó là một người đàn bà, một phương pháp, một ý kiến, thì cũng vẫn là một sự dính mắc, ràng buộc. Bây giờ thì tôi canh chừng kỹ vì tôi đã được bài học là "Chớ có đổi sự ràng buộc này với một cái khác mà cũng lại là một sự ràng buộc".
    Tôi tự hỏi: "Làm sao để mình có thể thoát khỏi mọi ràng buộc?" Động lực nào đã khiến cho tôi muốn thoát ly khỏi mọi ràng buộc. Phải chăng vì tôi muốn đạt được cái trạng thái sống mà không bị ràng buộc, không sợ hãi, v. v . . .? Và bỗng nhiên tôi nhận ra rằng cái động lực đó chỉ đạo hướng đi, và cái hướng đi đó sẽ đòi hỏi tự do của tôi. Tại sao lại có động lực? Động lực là gì? Động lực là một sự mong mỏi, hay là một khát vọng để đạt được điều gì đó. Tôi thấy tôi bị ràng buộc vào một động lực. Không phải chỉ có vợ tôi, không phải chỉ có ý nghĩ của tôi, hoặc phương pháp, nhưng động lực của tôi đã trở thành sự ràng buộc! Hóa ra suốt đời tôi làm việc trong sự ràng buộc -- vợ, phương pháp, và cái động lực để chiếm được một cái gì đó trong tương lai. Tôi đã bị dính mắc với tất cả những cái đó. Tôi thấy thật là quá sức phức tạp. Tôi không ngờ là muốn giải thoát khỏi sự ràng buộc lại bao hàm tất cả những điều đó. Bây giờ thì tôi nhìn thấy rõ như là tôi nhìn trên tấm bản đồ, đâu là đường chính, đường phụ và đường làng. Tôi nhìn rất rõ. Rồi tôi tự nhủ: "Vậy thì, có thể nào tôi thoát khỏi được sự ràng buộc lớn mà tôi có với vợ tôi, và cả cái phần thưởng mà tôi nghĩ là tôi sẽ được cùng với luôn cả cái động lực?" Tôi đã bị dính mắc với tất cả những cái đó. Tại sao vậy? Phải chăng chính tự bản thân tôi đã thiếu thốn. Phải chăng vì tôi quá cô đơn nên đã muốn trốn thoát khỏi cái cảm giác bị biệt lập bằng cách tìm tới một người đàn bà, một ý tưởng, một động lực, như là tôi cần có một cái gì đó để mà bám víu.
    Tôi thấy là như vậy, tôi cô đơn và đành lẩn tránh bằng cách bám víu vào một cái gì đó để thoát được cái cảm giác bị biệt lập một cách quá mức.
    Bây giờ thì tôi lại muốn biết tại sao tôi cô đơn, để thấy được điều đã làm cho tôi bị dính mắc. Niềm cô đơn đó đã khiến cho tôi phải lẩn trốn bằng sự ràng buộc, dính mắc vào cái này, cái nọ, và tôi thấy rằng ngày nào mà tôi còn cô đơn thì cái trình tự này sẽ cứ diễn ra. Cô đơn nghĩa là gì? Nó đến cách nào? Vốn là bản năng, do thừa kế , hay do những hoạt động hằng ngày của tôi mà sinh ra? Nếu là từ bản năng, nếu là do thừa kế, thì đó là định mệnh đã an bài, không phải lỗi tại tôi. Nhưng vì tôi không chấp nhận chuyện đó, tôi thắc mắc, tìm hiểu, và giữ sự thắc mắc đó trong lòng. Tôi quan sát, nhưng tôi không cố tìm lấy một câu trả lời bằng suy tư, tri thức. Tôi không bảo sự cô đơn nên làm gì. Tôi đang xăm xoi coi nó sẽ bảo tôi làm gì. Có một sự quan sát để cho nỗi cô quạnh tự phơi bày. Nó sẽ không tự phơi bày nếu tôi bỏ chạy, nếu tôi sợ, nếu tôi chống đối nó. Vì thế, tôi lặng lẽ quan sát nó. Vì tôi chăm chú quan sát nó cho nên tư tưởng không xen vào được. Sự quan sát quan trọng hơn là để cho sự suy nghĩ dấy lên rất nhiều. Và bởi vì toàn bộ năng lực của tôi đều dồn vào sự quan sát nỗi cô quạnh, tư tưởng không nẩy ra được. Tâm trí bị thách đố và phải trả lời. Bị thách đố, tâm trí lâm vào cơn khủng hoảng, căng thẳng. Trong cơn khủng hoảng, bạn có tràn ngập năng lực và cái năng lực đó sẽ tồn tại mà không bị sự suy nghĩ chia trí.
    Đó là sự thách đố cần được trả lời.
    Tôi khởi sự bằng cách đối thoại với chính mình. Tôi tự hỏi: " Vậy chứ cái chuyện lạ hoắc mà ta gọi là "yêu" này, là cái gì, mà ai cũng nói tới nó, viết về nó, -- tất cả những bài thơ tình cảm lãng mạn, tranh ảnh, ********, và tất cả những lãnh vực khác nữa, liên quan đến nó. Tôi hỏi: Thật ra thì có cái gọi là "yêu" chăng? Tôi thấy nó không tồn tại khi có mặt của ghen tuông, thù ghét và sợ hãi. Cho nên tôi không còn quan tâm đến "yêu" nữa Bây giờ thì tôi quan tâm đến sự sợ hãi của tôi, sự ràng buộc, dính mắc của tôi, nó "là cái gì"? Tại sao tôi bị ràng buộc, dính mắc? Tôi thấy rằng một trong những lý do -- tôi không nói đây là toàn bộ lý do -- là vì tôi đã quá cô đơn, hiu quạnh, một cách thê thảm. Càng lớn, tôi càng thấy cô quạnh. Tôi quan sát nó. Đây là một thách đố để tìm cho ra giải đáp, và vì là cuộc thách đố nên tất cả nghị lực của tôi đều sẵn sàng để đáp ứng. Thật là đơn giản. Nếu có một thảm họa, hoặc một tai nạn, hoặc bất kể là cái gì cần đến sự chống chọi, thế là tôi có sẵn ngay năng lực để giải quyết. Tôi chẳng cần hỏi tại sao tôi có được cái năng lực đó. Khi nhà cháy, tôi có ngay năng lực để hành động, năng lực xung mãn nữa ấy chứ. Tôi không ngồi đó mà nói: "Ý da! Tôi phải có cái năng lực này", rồi cứ ngồi đó mà chờ năng lực, cả cái nhà sẽ cháy tiêu.
    Thế là đã có cái năng lực vĩ đại này để mà trả lời cho câu hỏi tại sao lại có sự cô đơn kia. Tôi loại bỏ những tư tưởng, những giả định, những lý thuyết rằng đó là do thừa kế, hoặc là do bản năng. Tất cả vô nghĩa đối với tôi. Sự cô đơn chính là cái "đang là". Tại sao lại có sự cô đơn này mà tất cả mọi người, nếu nhận ra, có thể trải qua một cách nông cạn hoặc sâu xa. Tại sao lại có nó? Tâm trí có làm gì khiến cho nó nẩy sinh không? Tôi đã loại bỏ cái lý thuyết về bản năng hoặc thừa kế , và rồi tôi tự hỏi: Cái tâm trí, bản thân bộ óc, đã đem nỗi cô đơn này, sự hiu quạnh mênh mông này tới chăng? Phải chăng sự chuyển động của suy tư đã làm chuyện đó? Phải chăng chính ý nghĩ trong đời sống hằng ngày của tôi đã sáng tạo ra cái cảm giác cô đơn. Trong văn phòng, tôi tự cô lập vì tôi muốn là nhân vật điều hành lớn nhất, cho nên suốt ngày, mọi ý nghĩ đều tập trung vào sự tự cô lập hóa. Tôi thấy rõ suốt ngày tư tưởng của tôi hoạt động để làm cho nó trở thành thượng hạng, tâm trí tự nó đang làm việc theo chiều hướng tiến tới sự cô đơn này.
    Vậy thì vấn đề là: Tại sao sự suy nghĩ làm chuyện đó? Vậy thì bản chất của sự suy nghĩ là làm việc cho chính nó chăng? Vậy thì bản chất của sự suy nghĩ là tạo ra cái sự cô đơn, hiu quạnh này chăng? Nền giáo dục mang lại sự cô đơn này, nó cho tôi một nghề nghiệp, một ngành chuyên môn, và luôn cả . . . sự hiu quạnh! Tư tưởng, vốn là những mẩu chắp vá, vốn bị giới hạn, và kẹt trong thời gian, đã tạo ra sự hiu quạnh này. Trong cái giới hạn đó, nó tìm ra sự an toàn khi nói lên: "Tôi có một nghề cao quý cho cuộc đời, tôi là giáo sư, sự an bình của tôi thật là hoàn hảo".
    Cho nên sự quan tâm của tôi là "Tại sao sự suy tư lại phải làm vậy?" Phải chăng bản chất của tư tưởng là như thế? Dù gì đi nữa, bất cứ điều gì do suy nghĩ mà ra thì đều bị giới hạn.
    Bây giờ vấn đề là: Liệu sự suy tư có nhận ra được rằng bất cứ điều gì do nó tạo ra cũng đều có giới hạn, chắp vá, manh mún, và vì thế, cô lập, tất cả đều như thế.
    Đây là điểm rất quan trọng: Có thể nào bản thân sự suy tư nhận ra được cái giới hạn của chính nó không? Hay là tôi phải bảo cho nó biết là nó bị giới hạn?
    Hiểu được điều này tôi thấy là vô cùng quan trọng, đó là cốt tủy của vấn đề.
    Nếu sự suy tư nhận ra được cái giới hạn của bản thân nó, nó sẽ không cản trở, không xung đột, nó sẽ nói:" Tôi là vậy đó" Nhưng nếu tôi nói cho nó biết rằng nó bị giới hạn, rồi tôi trở thành tách ra khỏi cái sự hạn chế này, rồi tôi phấn đấu để vượt qua nó, như thế là sẽ có xung đột và bạo lực, không phải là yêu thương.
    Vậy thì, liệu bản thân sự suy tưởng có tự biết rằng nó vốn bị giới hạn chăng? Tôi phải tìm ra điều này. Tôi đang bị thách đố. Vì tôi đang bị thách đố cho nên tôi có đầy nghị lực để làm việc. Nói cách khác, liệu ý thức có nhận ra rằng cái tri kiến mà nó chất chứa chính là bản thân nó chăng? Hoặc như tôi đã từng nghe có người nói: "Ý thức chính là cái nội dung mà nó có, cái nội dung đó đã tạo thành ý thức". Vì thế, tôi nói: "Phải, đúng vậy". Bạn có thấy sự khác nhau giữa hai cái chăng? Cái sau, được tạo ra bằng sự suy tư, bị áp đặt bởi cái "tôi". Nếu tôi áp đặït điều gì vào tư tưởng, thế là có xung đột. Cũng như một chính thể độc tài áp chế người dân, ở đây, chính thể độc tài chính là cái mà tôi đã tạo ra.
    Bởi vậy, tôi tự hỏi: Tư tưởng có nhận thức được sự giới hạn của chính nó chăng? Hay nó cứ giả bộ như nó là cái gì phi thường, cao quý, thiêng liêng? Rõ là vô nghĩa, bởi vì tư tưởng thoát thai từ ký ức. Tôi nghĩ rằng phải làm sáng tỏ điểm này, đó là không có ảnh hưởng nào từ phía ngoài áp đặït vào tư tưởng nói rằng nó bị giới hạn. Vì không có sự áp đặt, nên không có va chạm, xung đột, nó tự nhận ra rằng nó bị giới hạn, nó nhận ra rằng dù nó có làm gì, -- thí dụ như sùng bái đấng Tối Cao vân vân -- cũng là trong giới hạn của tư tưởng, kém cỏi, hời hợt, dù tư tưởng đã tạo ra được những giáo đường đẹp phi thường khắp Âu Châu để mà tới chiêm bái.
    Trong khi đối thoại với chính bản thân, tôi đã phát hiện rằng sự cô độc đó là do tư tưởng tạo ra. Nay thì tư tưởng lại tự nhận ra rằng nó bị giới hạn và do đó không thể giải quyết được vấn đề cô đơn. Vì nó không thể giải quyết được vấn đề cô đơn, thế thì sự cô đơn có thực sự hiện hữu chăng? Tư tưởng đã tạo ra cái "cảm giác" về sự cô quạnh, sự trống vắng, bởi vì nó bị giới hạn, manh mún, rời rạc, chia chẻ, và khi mà nó nhận ra rằng sự cô đơn là không có thật, thế là sự dính mắc tan rã. Tôi chẳng làm gì cả. Tôi đã quan sát sự ràng buộc, cái gì đã bị áp đặt vào đó, tham lam, sợ hãi, cô đơn, tất cả, và vì theo dõi nó, quan sát nó, không phân tách nhưng chỉ chú ý nhìn, nhìn, và nhìn, tôi phát hiện ra là chính cái tư tưởng này đã tạo ra tất cả. Suy tưởng do tính chất chắp vá, manh mún của nó, đã tạo nên sự ràng buộc này. Khi tư tưởng nhận ra được điều đó, sự ràng buộc chấm dứt. Khỏi cần nỗ lực gì hết cả. Ngay khi có sự nỗ lực, xung đột liền xuất hiện trở lại.
    Trong tình yêu, không có sự ràng buộc. Nếu có ràng buộc, thì không có tình yêu. Loại bỏ cái không phải là yêu, loại bỏ sự ràng buộc là loại bỏ cái nhân tố chính. Tôi hiểu nó có nghĩa là gì trong cuộc sống hằng ngày của tôi: Không hồi tưởng lại những điều vợ tôi, bạn gái tôi, láng giềng tôi đã làm cho tôi đau khổ như thế nào; đồng thời cũng không dính mắc vào bất cứ hình ảnh nào do tư tưởng tạo ra về nàng, về sự khen ngợi mà nàng dành cho tôi, về sự nàng đã cho tôi biết bao niềm an ủi, về sự tôi đã được hưởng khoái lạc trong tình chăn gối mặn nồng như thế nào, không hồi tưởng lại tất cả mọi điều khác nhau do sự suy tưởng chuyển động tạo nên hình ảnh. Như thế, mọi dính mắc vào hình ảnh sẽ bị triệt tiêu.
    Ngoài ra, còn những yếu tố khác: Tôi có phải trải qua tất cả, từng bước một, từng chuyện một chăng? Hay như thế ølà xong việc rồi? Tôi có phải thẩm xét, phải tra cứu -- như tôi đã tra cứu sự dính mắc -- sự sợ hãi, niềm hoan lạc, và ước vọng được thoải mái chăng? Tôi thấy rằng tôi không cần phải trải qua một cuộc điều tra về các yếu tố linh tinh này nữa. Tôi đã "thấy" nó. Tôi đã "bắt được" nó.
    Vậy thì, qua sự dứt bỏ cái "không phải là yêu", thấy được thế nào là "yêu". Tôi chẳng cần phải hỏi "yêu là cái gì". Tôi chẳng cần phải theo đuổi nó. Nếu phải theo đuổi nó để đạt được, thì không phải là yêu, mà là phần thưởng.
    Cho nên tôi đã buông xả ra, tôi đã chấm dứt sự tìm tòi đó một cách từ tốn, thận trọng, không méo mó, không ảo giác, không tất cả những cái không phải là yêu, cái còn lại, chính là yêu.
    , Khi không phụ thuộc vào một điều gì nữa thì sẽ như thế nào nhỉ, có hạnh phúc không? hay cảm giác gì đại loại thế, hay lại là cái gì mà Không Thể Nghĩ Bàn đó . mắt mũi dạo này cận thị, kém lắm rồi mà cứ phải nghiên cứu kinh điển thế này thì téo mất thôi.
    Kể cũng lạ, mấy lão giác ngộ đúng là điếc không sợ súng, mấy lão không sợ đói à, mà đã phụ thuộc vào thực thì tự do thế deck nào được nhỉ.
  3. luckyxike

    luckyxike Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/06/2008
    Bài viết:
    569
    Đã được thích:
    0
    Mấy hôm nay mặt rất mỏi, chỉ muốn nhắm lại. Thực dự thì mình vẫn chưa hiểu gì cả, chưa biết phải sống thế nào. Cái tôi của mình nó rất lớn không dễ gì làm nó biến mất ngày một ngày hai được, hàng ngày vẫn chung sống với nó, nó tự phụ, nó ngạo mạn, nó ranh ma quỷ quái, nó luôn muốn chứng tỏ cho thiên hạ thấy nó " có một cái gì đấy" bởi vì nó chẳng có gì cả, nó cô đơn trống vắng, nó đau khổ. Mà thật ra cái tôi là cái gì, mình là cái gì, cái tôi muốn thoát khỏi cái tôi vậy sau khi thoát khỏi cái tôi thì mình là ai? chẳng biết được, thấy mơ hồ quá đi mất. Mình chỉ hiểu cái tôi là cái thằng mình bây giờ với những hình ảnh những tâm trạng và cảm xúc , với thể xác, với phong cách sống, với cá tính với mối quan hệ với mọi người, cái tôi là như thế, còn cái tôi đích thực thì mình không biết nó ra sao cả. Các đại ca như Krishnamurti bảo là suy nghĩ không bao giờ chạm vào được cái tôi đích thực, chỉ hy vọng nếu có duyên thì "nó sẽ tự mò tới" . Mình đang có tâm trạng chán phàm yêu thánh thì phải, không biết có đúng không nhưng mà với mình thì cái gì cũng nhanh chán, chán mọi thứ, cũng có đôi khi cảm thấy hạnh phúc đó là những lúc sức khoẻ tốt, thới tiết khi hậu dễ chịu và tâm trạng thoải mái nhưng nó chỉ thoáng đến rồi thoáng đi. Chắc là ít có người nào sức khoẻ lại kém như mình, rất là hay mỏi mệt nên lười biếng vô đối, cuộc sống cơm áo gạo tiền không làm thì không có ăn, nếu không làm thì phải tu tập làm sao mà hít khí giời vẫn sống khoẻ thì mới được, mình không tu luyện được như vậy nhưng mà được cái rất may mắn, kiếm tiền chơi chơi mà tương đối dễ, nhiều lúc tự nghĩ mình mà sức khoẻ tốt + yêu thích cuộc sống, yêu thích kiếm tiền thì sớm muộn cũng thành đại gia nhưng mà mình không phải con người như vậy. Mình yếu đuối từ tinh thần đến thể chất không biết có phải là vì hay trầm tư suy nghĩ nên thế không hay là do hay trầm tư suy nghĩ mà mình trở nên yếu đuối như vậy.....
    Cả như bây giờ chắc không lấy vợ là hơn, lấy vào khổ nó, đẻ thêm đứa con thì lại khổ con, khổ cả mình nữa, nhưng mà cuộc đời không thể nói trước điều gì.
    Hy vọng tương lại khoa học công nghệ phát triển sẽ giải quyết vấn đề đau khổ của con người một cách triệt để, không cần phải có một vận may, không cần phải tu tập, không phải cố gắng cực khổ gì cả mà con người vẫn hạnh phúc. Cái đó mình gọi là thuốc tìm chân lý, uống vào một cái đạt cảnh giới niết bàn ngay, giác ngộ ngay, nhà nhà giác ngộ người người giác ngộ, thế giới sẽ không còn khổ đau như bây giờ nữa. Còn mình bây giờ thì thấy mệt mỏi, thấy bất lực lắm rồi, cố găng cố gắng và cố gắng, để chiến đấu với nội tâm của mình, để trở thành một người tốt, một người hoàn hảo.... quá mệt mỏi và thấy nó phù du quá, mình thấy mình sai quá, những cố gắng đó rồi thì cũng dẫn mình đến đau khổ, qua cái đau khổ này là một cái đau khổ khác. Sau những lúc trầm tư là những lúc ranh ma xảo trá quỷ quyệt của cái tôi, cái mà sẵn sáng chiến đấu với các bạn để trở thành... một cái gì đó, để có được cái gì đó, tôi và bạn chúng ta cứ mãi tiếp tục chiến đấu, chiến đấu, chiến đấu và đau khổ cùng với thế giới này.
  4. musstol

    musstol Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2008
    Bài viết:
    893
    Đã được thích:
    0
    Giống ...
    Rất giống ...
    Giống 1 người !
    Không rõ nữa !
  5. hado0601

    hado0601 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/09/2008
    Bài viết:
    32
    Đã được thích:
    0
    Mình không rõ chủ tô đang ở độ tuổi nào? Nhưng khi mình lướt qua những dòng bạn viết thì mình bắt gặp lại 1 chút gì đó của mình 18.
    Chủ tô thử đọc bài viết này xem :)
    http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/thuhoadieusong.htm
  6. BackInToLove

    BackInToLove Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/03/2010
    Bài viết:
    88
    Đã được thích:
    0
    Tiên đề 1:"Con người ta sinh ra là để chết đi" (luôn đúng nhé)
    Tiên đề 2:"Tình yêu là cung bậc tình cảm cao nhất của con người,chỉ con người mới có" (Tạm cho là đúng)
    Từ 1 và 2 suy ra khi yêu phải hy sinh
    Vì vậy khi sống hay học cách hy sinh đúng đắn vì những gì mình yêu. Lúc đó cuộc sống sẽ luôn có ý nghĩa
    VD1: Anh ý nghiện, anh hy sinh tất cả vì thuốc do đó với anh ý cuộc sống luôn có ý nghĩa
    VD2: Bố yêu con, bố hy sinh tất cả để con được sống no đủ, hạnh phúc. Bố đang sống có ý nghĩa
    VD3: Chú ý là người hùng, chú ý sẽ hy sinh bảo vệ tổ quốc, chú ý sẽ sống có ý nghĩa
    Khi bạn thấy cuộc sống không có ý nghĩa, hãy xem lại mình sống có ích kỷ quá kg?
  7. luckyxike

    luckyxike Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/06/2008
    Bài viết:
    569
    Đã được thích:
    0
    Chưa bao giờ các công trình nghiên cứu về những bí mật của Thiền định lại được các phương tiện thông tin đại chúng, các hãng truyền thông lớn, đề cập đến nhiều như thời gian vừa qua. Các hãng tin như AP, Reuter các báo như News Week, Time... đều có nhiều bài viết chi tiết mô tả những khám phá của các nhà khoa học Anh, Mỹ qua phương pháp chụp cộng hưởng từ hoạt động của bộ não các Thiền sư, đã phát hiện ra nhiều điều mà trước đây, khi nói đến hầu hết mọi người đều nghĩ rằng đó chỉ là những cảm giác có được do phương pháp tự kỷ ảm thị hoặc tưởng tượng mà thành.
    Bản tin của Reuters dẫn tuyên bố của giáo sư Owen Flangan thuộc viện đại học Duke ở North Carolina đã tuyên bố rằng: "Bây giờ, chúng tôi có thể lập thuyết với nhiều tin tưởng rằng những bóng dáng các nhà sư có dáng dấp thanh thoát, an tịnh mà ta hay thấy ở những nơi như Dharamsala, Ấn độ, là họ thực sự hạnh phúc".
    Năm 1967, giáo sư Herbert Benson ở đại học Y Harvard đã tiến hành nghiên cứu trên 36 người thiền định và thấy rằng khi ngồi thiền họ dùng lượng oxy ít hơn bình thường 17%, giảm 3 nhịp tim/phút và tăng sóng theta ở não - hệt như trạng thái trước ngủ - trong khi toàn não vẫn tỉnh táo. 7 năm sau, tiến sĩ tâm thần học Gregg Jacobs, Đại học Harvard, qua ghi sóng não đã phát hiện ra rằng những người thiền có thể sản ra rất nhiều sóng theta và có thể phong tỏa phần não trước vốn nhận và xử lý cảm giác, ngoài ra họ cũng giảm thiểu hoạt động ở phần thùy đỉnh não, nơi phụ trách các cảm giác về không gian - thời gian. Bằng cách "tắt" thùy đỉnh não, người ta có thể mất cảm giác về giới hạn và thấy vũ trụ "trở thành một".
    Cuộc nghiên cứu khác gần đây của Paul Ekman thuộc Trung tâm Y học, Viện đại học California, San Francisco, gợi ý rằng thiền định và quán chiếu có thể chế phục được nhân hạnh đào (amygdale), một vùng não lưu trữ những ký ức sợ hãi. Ekman khám phá ra rằng những thiền sư cao cấp khó bị chấn kích, bất an, hoảng hốt hay nổi giận như những người thường khác. Tuyến thượng thận, mơi tiết ra Adrrenalin, điền khiển nhịp tim trong các trường hợp sợ hãi, hoảng hốt gần như được các Thiền sư khống chế hoàn toàn. Ông tuyên bố trong một báo cáo trong tạp chí Nhà Khoa học mới (New Scientist) rằng: "Lập thuyết hữu lý nhất là có cái gì đó nơi hành thiền của Phật giáo đã dẫn đến một nguồn an lạc mà tất cả chúng ta đều mưu cầu".
    Các nhà khoa học đều tin chắc rằng Thiền định hoàn toàn có khả năng "rửa" lại não, giải tỏa các khu vực căng thẳng vì máu ở trong tình trạng ách tắc. Các trào lưu Thiền định ở Mỹ đều tin rằng Thiền định có thể chữa được được các bệnh tim mạch, stress, ung thư, thậm chí cả AISD và đã có trường hợp thay thế cho Viagra! Những điều này thật ra không phải quá cường điệu, mọi hoạt động của cơ thể, mọi bệnh tật xét ra cho cùng đều xuất phát từ bộ não. Một bộ não khỏe mạnh chắc chắn sẽ có một cơ thể khỏe mạnh.
    Thử lý giải những điều này trên cơ sở những điều đã biết và dựa trên các kinh sách về Thiền định trong Phật giáo chúng ta thấy; bộ não con người có 100 tỷ tế bào thần kinh. Mỗi tế bào thần kinh qua những đường dẫn truyền lại có quan hệ với 50 ngàn tế bào thần kinh khác. Điều này dễ hiểu sự hoạt động phức tạp trong việc xử lý các khối lượng thông tin khổng lồ của bộ não. Thế nhưng điều này cũng cho chúng ta hiểu câu nói mà nhà Phật hay nói: "Một niệm mà sinh thì trùng trùng duyên khởi". Một tế bào thần kinh hoạt động, tức khắc sự lan truyền diễn ra như trong phản ứng hạt nhân! Các ý nghĩ nối tiếp ý nghĩ, sự tư duy hình thành. Các bạn hãy thử ngồi năm phút lúc rảnh rỗi và đếm xem trong chừng đó thời gian mình đã nghĩ về bao nhiêu điều! Thường là không ít hơn 10 chuyện nghĩ khác nhau!
    Thật kỳ lạ, ngoài những lúc tập trung làm việc, thì ra chúng ta sử dụng bộ não rất nhiều vào những chuyện vớ vẫn không đầu không cuối một cách chẳng để làm gì .
    Tuy vậy đó là điều bình thường của người khỏe mạnh. Ở người bị bệnh tâm thần thì ý nghĩ của họ có thể chỉ có một nhưng họ không thể dừng nó lại được, nó cứ phát triển một cách bùng nổ và đến mức độ nào đó thì người bệnh sống với các ý nghĩ ấy, các ý nghĩ đều trở thành thật, và chúng ta gọi họ bị bịnh điên. Những người trong trạng thái stress, cũng không dứt ra được các tình cảm mà họ rơi vào. Điều này kéo dài sẽ đưa đến những hiệu ứng tiêu cực trên toàn cơ thể. Có người thì bị tim mạch, người thì đau dạ dày, người thì mất ngủ, suy nhược thần kinh, cơ thể...
    Như vậy là người khỏe mạnh bình thường đều đã biết rằng các ý nghĩ là không có thật và không nên theo. Chúng ta đều biết dừng lại sau khi "chạy" theo nó một đoạn. Điều này tuy bình thường nhưng các thiền sư thì bảo đó là vọng tưởng. Cách gọi này không phải là không có lý ở góc độ vô bổ, vô nghĩa. Các phương pháp thiền định đều tìm cách chặn các niệm không cho nó khởi lên ngay từ gốc. Có phương pháp thì hướng sự tập trung suy nghĩ vào chuyện khác như đếm hơi thở, theo dõi cơ thể trên từng centimét vuông một, hoặc theo dõi một cách khách quan suy nghĩ của mình không lơi lỏng, nghĩ cái gì là biết mình đang nghĩ cái đó; có phương pháp thì tập trung suy nghĩ vào một công án, tức một câu hỏi gần như không có lời đáp, ví dụ khuôn mặt ta khi cha mẹ chưa sinh ra là gì; có phương pháp thì tập trung vào chuyện ngồi và biết mình đang ngồi, có phương pháp như của Thầy Nhất Hạnh ở Pháp thì luôn nhẩm "Hít vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười"; có phương pháp như của thầy Thanh Từ ở chùa Trúc Lâm Đà Lạt thì "Biết vọng không theo", gọi tắt là Tri vọng; có phương pháp thì niệm chú hoặc nhún nhảy nhẹ nhàng theo một vũ điệu nào đó... Tất thảy đều một mục đích làm sự hoạt động của bộ não con người lắng xuống, yên tĩnh lại, dần dần đạt đến sự rỗng không.
    Điều này hoàn toàn không dễ nếu không nói là vô cùng khó. Theo bản năng, bộ não chúng ta không chịu tĩnh lặng, ngay cả khi đang ngủ. Trong kinh Phật chúng ta đọc thấy câu "Chư Phật ngủ không mơ bao giờ!". Điều này cho thấy bậc giác ngộ đã hoàn toàn đạt đến một trạng thái hoạt động khác của bộ não và điều này thì rõ ràng khoa học chưa biết đến..
    Nhà Thiền có câu chuyện như sau: Hương Nghiêm thông hiểu thiên kinh vạn quyển nhưng vẫn là người chưa ngộ đạo. Một hôm Quy Sơn đến và nói: "Anh thật là thông minh tài trí nhưng hãy nói cho tôi biết, anh từ đâu mà có?". Hương Nghiêm về lục tung hết tất cả sách vở để tìm câu trả lời. Đi đến cùng câu hỏi ấy là vũ trụ này từ đâu mà có. Không tự trả lời được ông tìm đến Quy Sơn và cầu khẩn: "Xin hé mở cho tôi cái bí mật của lời nói này". Quy Sơn bảo: "Nếu ta giải thích cho ngươi rõ ràng sau này ngươi sẽ oán ta". Thế là Hương Nghiêm vứt bỏ tất cả để về quê cuốc đất. Một ngày kia sau mười năm, lúc đang dãy cỏ, ông cuốc đụng một miểng sành và nhặt lấy quăng vào một bụi trúc. Miểng sành chạm phải một cây trúc khô và ngân lên một tiếng ngân đặc biệt. Hương Nghiêm bừng ngộ. Ông hiểu được ông từ đâu mà có, vũ trụ này từ đâu mà có. Ông quỳ xuống, lạy về phía Quy Sơn và bảo: "Sư phụ, lòng tốt của thầy thật bao la. Nếu ngày ấy thầy giải thích thì hôm nay làm sao con có được kinh nghiệm kỳ diệu này".
    Cũng như công án âm thanh của một bàn tay, công án "Ta từ đâu mà có" nếu xét về mặt kiến giải thì có thể xếp vào loại nhận thức một quy luật của tự nhiên. Triết học hiện đại gọi đó là quy luật vận động, vật chất là luôn vận động, vận động là một thuộc tính của vật chất. Triết học hiện đại, triết học phương Tây thì tiếp cận các quy luật, các thuộc tính của vật chất, của vũ trụ của sự sống... thông qua các khái niệm. Triết học phương Đông nói chung và Phật giáo nói riêng, không làm như vậy, các khái niệm luôn là vật cản, là tri chướng, không cho con người có thể mang cả trí tuệ cũng như thể xác của họ thâm nhập vào các quy luật có tính toàn vũ trụ. Khi giác ngộ thì mỗi tế bào cũng thấm đẫm cái quy luật được chứng đắc ấy.. Tôn giáo nào cũng vậy, cái mục tiêu cuối cùng luôn là động lực khiến các tín đồ theo và phấn đấu. Ở Phật giáo đó là giác ngộ, là Niết Bàn.
    Thêm một kiến giải nữa về giác ngộ là thêm một hạt muối thả vào biển. Tuy vậy, vẫn không phải là không có cách. Chúng ta hãy thử giả định rằng chúng ta đã giác ngộ, chúng ta đã tuệ thông với nhiều phép thần thông tuyệt diệu, tai có thể nghe ngàn dặm, mắt có thể nhìn qua núi non biển cả, thân hình có thể đi mây về gió, tỏa sáng hào quang, tinh thần thông suốt không bị bất cứ một trở ngại nào, tạo hóa làm gì cũng có thể hiểu được, ông Thượng Đế, nếu có, thì ngồi uống trà với ổng mà không một chút e ngại .v.v... thì lúc ấy, cơ thể ta sẽ như thế nào? Bởi vì các phép thần thông ấy khó biết, khó giải bày, bởi vì cái đời sống tinh thần ấy hầu như không thể hiểu được, không thể kiểm chứng, không thể xác nhận nên chúng ta sẽ tìm hiểu ở một góc độ khác là xem lúc ấy cơ thể ta sẽ như thế nào.
    Cái gì không biết chứ chắc chắn một điều rằng nó sẽ không giống với cái cơ thể ta trước đó. Cái gì không biết chứ chắc chắn một điều là ta sẽ chẳng có bệnh tật gì cả? Thật vô duyên khi một bậc giác ngộ mà bị huyết áp, lớn tim, ho lao hoặc ung thư. Có thể có một số bệnh ngoại khoa cấp tính như gãy xương, ruột thừa, hoặc bệnh kiết lỵ do ngộ độc nấm độc mà Đức Thế Tôn đã mắc phải... còn ngoài ra cơ thể ta là một sự khỏe mạnh đến trong suốt. Bệnh gì không biết chứ bệnh do tâm thần sinh ra như huyết áp, tim mạch, stress, mất ngủ, đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, suy nhược, đau khớp, đái đường... sẽ không bao giờ mắc phải. Người đã mắc phải, thì nếu giác ngộ xong bệnh này cũng sẽ biến mất.
    Chắc chắn là như vậy rồi. Chúng ta hãy hình dung, những bệnh trên xuất hiện do căng thẳng, lo nghĩ mà có. Người giác ngộ thế nào không biết chứ chắc chắn đó là người không còn biết sợ, biết lo nữa. Cuộc sống của họ là một sự ân sủng của tạo hóa ban cho trong từng giây, từng phút, thì hỏi làm sao huyết áp tăng cho được? Bệnh huyết áp là bệnh tây y bảo không chữa được. Chúng ta chưa có bằng chứng nhưng với những gì biết được chúng ta có thể chắc chắn rằng người giác ngộ không bao giờ tăng huyết áp. Các bác sĩ tim mạch hẳn cũng đồng ý điều này.. Và kể từ đó ta sẽ có những giấc ngủ luôn thật ngon, đặc biệt là không bao giờ mộng mị. Ngài A-nan khi kể về những giấc mơ của mình cho Phật nghe Phật cũng bảo rằng chư Phật ngủ chẳng mơ bao giờ. Không có bất cứ một giấc mơ nào dầu tốt hoặc xấu, dầu lành hoặc ác xuất hiện trong giấc ngủ người giác ngộ.
    Đây là cái phần nhô lên nhỏ nhoi của tảng băng trôi; cái phần lớn nhất, quan trọng nhất, tinh hoa nhất của nó vẫn chìm dưới nước chưa được biết đến. Chỉ với một chút có thể nhận thấy này chúng ta đã có thể tin rằng nó rất thật..
    Với giả định này chúng ta có thể tạm tin rằng người trong một chốc giác ngộ sẽ tự nhận thấy những chuyển biến kỳ lạ chưa từng biết đến xảy ra trong cơ thể mình. Nó rõ ràng như ngài Huệ Khả nói, "Nó thường biết rõ ràng, ngôn từ nói không tới!". Nó thấy được sờ sờ như ngài Huệ Năng nói "Ai dè....", nó cũng tràn đầy xúc cảm như ngài Bạt Tụy đã đi không vững, húc đầu vào cột nhà mấy lần, về đến nhà khóc suốt ba đêm ba ngày vì nó. Thiền sư Vô Môn Huệ Khai sau sáu năm miên mật, một ngày nọ khi nghe tiếng trống báo giờ cơm trưa sư hoát nhiên đại ngộ và ứng khẩu bài kệ sau: Trời quang mây tạnh sấm dậy vang lừng. Mọi vật trên đất, mắt bỗng thấy hết. Muôn hồng nghìn tía cúi đầu làm lễ. Núi Tu-di cũng nhảy múa vui mừng. Sư được Thiền Sư Nguyệt Lâm ấn chứng. Khi mà mô tả cái khác biệt của mình trong giây phút trước và giây phút sau bằng những hình ảnh như thế, sấm dậy vang lừng, núi Tu di cũng nhảy múa, thì ta biết đó là những cảm giác rất cụ thể rõ ràng như thấy trước mắt, sờ bằng tay, hoàn toàn không có một chút nào của tâm thức. Nó không giống như Archimede hoặc Newton reo lên sung sướng nhưng rất dễ đột tử vì vỡ tim hoặc tai biến mạch máu não, người giác ngộ thì khác hoàn toàn.
    Và ở cái trạng thái này thì sự vô minh hay giác ngộ, niết bàn hay địa ngục, thánh hay phàm, ma hay Phật, sân si hay buông xả, ngã hay vô ngã, thế giới vật chất là thường hay vô thường... nào có gì quan trọng! Mỗi phút giây là mỗi ân sủng mà tạo hóa đã ban cho. Các phép thần thông cũng đâu có gì là quan trọng bởi bản thân họ là một thần thông tuyệt diệu nhất. Trong trạng thái tĩnh lặng, yên vui ấy tai ta sẽ nghe tất cả âm thanh kỳ diệu của tạo hóa, từ tiếng chim hót đến điệu nhạc disco inh tai nhức óc, từ tiếng của chồi cây đang vươn lên đến âm thanh của các vì tinh tú xa xôi. Năm 761 vua Túc Tông nhà Đường thỉnh Huệ Trung đến kinh đô phong làm Quốc sư. Suốt trong lần yến kiến vua đã hỏi ông nhiều câu, tuy nhiên ông không hề nhìn vua lấy một lần. Vua giận mới bảo: "Trẫm là Thiên Tử nước Đại Đường, sao thầy không một lần hạ cố nhìn đến trẫm?". Huệ Trung trả lời: "Bệ hạ có nhìn thấy hư không trên kia chăng?". "Có". "Hư không có nháy mắt với bệ hạ không?". Cái tâm thế hoàn toàn không thuộc về ý thức nhưng biết rõ là mình đồng với vũ trụ, hòa với cỏ cây rất thật ấy, khoa học hiện đại, tâm lý học hiện đại hoàn toàn chưa biết đến.
    Có thật vậy không, không biết, chỉ có một điều chắc chắn là ta sẽ nghe rõ nhất những tiếng nói từ trong của cơ thể ta. Chính đây là bí ẩn của các bậc giác ngộ. Gần như tất cả đều biết giây phút mình ra đi và tất cả đều bình thản đón nhận. Nói như vậy là đã hơi xa cách, ở trạng thái này thì cái chết và cái sống không hề có phân biệt. Hay một điều là nó không cần đến một chút nào của ý thức để xác tín điều đó. Chúng ta, người đời vẫn hay nói về sự thanh thản khi chết, chuẩn bị cho cái chết, xem cái chết tựa lông hồng, thế nhưng xem cái chết như đang sống mà không cần đến một chút ý thức nào thì chỉ có ở người giác ngộ .
    Tóm lại, đó vẫn là chuyện... như là chúng ta xem phim khủng long! Tất cả dựa trên một ít "xương cốt" hóa thạch để lại chứ khủng long sống thế nào, kêu rống thế nào thì chẳng ai biết. Các nhà khoa học đang tìm cách tái sinh nó. Giác ngộ cũng vậy, các Phật tử đều đang chờ Di Lặc xuất hiện mặc dầu tinh thần Phật giáo không xem điều đó làm trọng.
    Hình như đã đến lúc con người bắt đầu hiểu được giá trị của mặt bên kia trong hoạt động của bộ não, mặt tĩnh lặng, không hoạt động nhưng lại vô cùng tỉnh thức. Con người đã nghĩ ra hằng trăm phương pháp thể dục cho cơ thể, thế nhưng một phương pháp thể dục cho tinh thần thì hầu như chưa ai nghĩ đến. May sao con người đã có phương pháp thiền định từ hơn 2500 năm trước, tuy bị lãng quên hoặc ngộ nhận nhiều điều nhưng cuối cùng chắc chắn nó sẽ có những đóng góp tích cực cho cuộc sống và văn minh nhân loại trong thiên niên kỷ thứ ba này.
    Nguồn: Tạp chí Tia Sáng
    ---------------------------------------------------------------------------------------
    Bài viết đơn giản mà củng cố thêm niếm tin về Niết Bàn cho mình
  8. i100

    i100 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/11/2005
    Bài viết:
    65
    Đã được thích:
    0
    Tặng bạn chủ topic:.
  9. luckyxike

    luckyxike Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/06/2008
    Bài viết:
    569
    Đã được thích:
    0
    Dạo này mọi người hay bàn tán World Cup, mình lâu lắm rồi không quan tâm đến bóng đá, nếu ai hỏi về WC chỉ biết cười trừ hoặc thông báo " không biết ". Không phải mình không muốn hoà đồng cùng mọi người, nhưng vì không cùng sở thích, không hợp, nên khó hoà đồng, nếu cố gắng thì trở nên rất gượng gạo, mình không thích thế.
    Mâu thuẫn:
    -mình muốn tự do, muốn tìm được chân lý, muốn đến niết bàn.
    -hôm nay nhìn thấy người ta mang bao vác tiền, kìm lòng không được, mình là kẻ tham lam quá, tự nhiên ham muốn kiếm tiền lại mạnh mẽ trở lại.
    Mình đã đặt ra nguyên tắc hành động rồi, mục tiêu tối hậu là phải tu thành chánh quả, tuy nhiên vẫn có thể tham gia kiếm tiền, tham gia cuộc sống bình thường nếu không có lựa chọn nào tốt hơn.
    Dạo này mình không buồn, không vui không đau khổ, chẳn sung sướng nhưng cảm giác chán. Làm gì cũng nhanh chán, không phải muốn thế, đơn giản là tại nó như thế.
    Những gì khi còn bé mong mỏi gấn như đều đã đạt được hoặc là mong ước đã thay đổi hoặc là không còn nữa, còn những thứ mong mỏi khác thì chẳng bao giờ đạt được với thế giới vật chất này, cứ cho là sau này khoa học công nghệ phát triển, trong thế giới ảo giác con người có thể làm mọi điều mình muốn, ước gì được lấy lúc đó cảm giác của con người đã hoàn toàn thoả mãn như thế cũng chưa chắc đã hạnh phúc.
    Dạo này đang bận quá, từ sáng sớm đến tối mịt không có chút thời gian nào thảnh thơi thư giãn để tập ngồi cả, vài bữa nữa không biết có ổn không hay hoàn cảnh lại xô đẩy đến một sự kiện khác, không như dự định.
    Sống tù túng như bây giờ deck hợp với mình, nhưng tạm thế đã
  10. luckyxike

    luckyxike Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/06/2008
    Bài viết:
    569
    Đã được thích:
    0
    Dạo này mọi người hay bàn tán World Cup, mình lâu lắm rồi không quan tâm đến bóng đá, nếu ai hỏi về WC chỉ biết cười trừ hoặc thông báo " không biết ". Không phải mình không muốn hoà đồng cùng mọi người, nhưng vì không cùng sở thích, không hợp, nên khó hoà đồng, nếu cố gắng thì trở nên rất gượng gạo, mình không thích thế.
    Mâu thuẫn:
    -mình muốn tự do, muốn tìm được chân lý, muốn đến niết bàn.
    -hôm nay nhìn thấy người ta mang bao vác tiền, kìm lòng không được, mình là kẻ tham lam quá, tự nhiên ham muốn kiếm tiền lại mạnh mẽ trở lại.
    Mình đã đặt ra nguyên tắc hành động rồi, mục tiêu tối hậu là phải tu thành chánh quả, tuy nhiên vẫn có thể tham gia kiếm tiền, tham gia cuộc sống bình thường nếu không có lựa chọn nào tốt hơn.
    Dạo này mình không buồn, không vui không đau khổ, chẳn sung sướng nhưng cảm giác chán. Làm gì cũng nhanh chán, không phải muốn thế, đơn giản là tại nó như thế.
    Những gì khi còn bé mong mỏi gấn như đều đã đạt được hoặc là mong ước đã thay đổi hoặc là không còn nữa, còn những thứ mong mỏi khác thì chẳng bao giờ đạt được với thế giới vật chất này, cứ cho là sau này khoa học công nghệ phát triển, trong thế giới ảo giác con người có thể làm mọi điều mình muốn, ước gì được lấy lúc đó cảm giác của con người đã hoàn toàn thoả mãn như thế cũng chưa chắc đã hạnh phúc.
    Dạo này đang bận quá, từ sáng sớm đến tối mịt không có chút thời gian nào thảnh thơi thư giãn để tập ngồi cả, vài bữa nữa không biết có ổn không hay hoàn cảnh lại xô đẩy đến một sự kiện khác, không như dự định.
    Sống tù túng như bây giờ deck hợp với mình, nhưng tạm thế đã

Chia sẻ trang này