1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hoàng Sa- Trường Sa chủ quyền của Việt Nam và cuộc chiến pháp lý với TQ

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi Hector_S, 16/06/2014.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Boyluudan85

    Boyluudan85 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    22/06/2013
    Bài viết:
    602
    Đã được thích:
    436
    Từ đầu em cũng đã giải thích 1 cách súc tích như bác rồi ạ. Tuy nhiên, qua sự tranh luận của các bác thì em lại ngờ ngợ 1 giả thuyết. Chỉ là giả thuyết thôi. Nếu như TQ có bằng chứng chứng minh được rằng thực chất CHMNVN là cánh tay nối dài của VNDCCH trước TAQT thì liệu lúc này CHMNVN có còn tư cách thừa hưởng quyền thừa kế VNCH được hay không?
  2. cuchuoi_kt115

    cuchuoi_kt115 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2012
    Bài viết:
    4.231
    Đã được thích:
    2.113
    bạn hồng anh đã phân tích rồi đó . mình chỉa mới biết CHMNVN là một chính quyền . vỳ từ trước đến giờ có học lịch sử đâu. mà đúng là miền NNVN trở thành CHMNVN lúc nào mình không hay nữa. vỳ trước đây chỉ có đọc là MTGPMNVN còn cái từ CHMNVN mới nghe bạn hồng anh nói .:D để coi lại cái này vỳ trong hiệp định pari thì có ba chính thể. nhưng không cần phải c/m Cái này đâu! vỳ ta đã công nhận là hai chính quyền quản lý hai miền khác nhau . và TQ đã đánh chiếm HS từ phần đất của VNCH quản lý. và bằng chứng là chính quyền VNCH đánh nhau thất bại . đã phản đối và lên án TQ ... là được rồi. nói chung là ta cho chính quyền VNCH để phản bác lại tất cả các lý luận của TQ. vỳ chính quyền VNCH đã quản lý vùng đất này . không công nhận VNCH là quốc gia đúng nghĩa thì ta mới thắng được TQ. như bạn hồng anh phân tích đó . nó không phải là Country. tai sao ư vỳ VNCH Liên Hiệp quốc không công nhận nó là một quốc già, mà chỉ là nó và một số nước công nhận thôi. như vậy nó vẫn là Một chính quyền chưa chuyển lên được quốc gia.vỳ còn lãnh thổ đang tranh chấp .không biết trong tiếng anh gọi là gì Hồng anh nói đó tôi làm biếng nói lại :D
  3. cuchuoi_kt115

    cuchuoi_kt115 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2012
    Bài viết:
    4.231
    Đã được thích:
    2.113
    mà không sao Vỳ đây rồi
    đã có 23 nước công nhận rồi . nó giống như VNCDCH và VNCH . không có chi khác cả.
  4. home124

    home124 Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/05/2009
    Bài viết:
    4.208
    Đã được thích:
    2.411
    Sa đà vào chuyện ai công nhận ai thành một quốc gia có chủ quyền lại cũng chết i.chang như không tuyên bố là vô.chủ.

    Cái sự suy diễn của ta quả thực giỏi kinh.

    Tranh chấp lãnh thổ ra tòa đều là án lệ hết đấy nhé. Không ai giống ai đâu mà so sánh, tham chiếu cũng không có. Chỉ có nắm đấm sắt bọc nhung @ anh Vịnh
    cuchuoi_kt115 thích bài này.
  5. atlas02

    atlas02 Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    25/10/2011
    Bài viết:
    1.255
    Đã được thích:
    843
    không có đâu cậu ạ. Công Hàm chỉ là bước khởi đầu hay còn gọi là trận đánh mở màn nơi ta yếu thế nhất vì trước đây ta chỉ xem là chỉ có một quốc gia duy nhất là Việt nam dân chủ Cộng Hòa quản lý toàn bộ lãnh thổ từ bắc xuống nam và chính quyền VNCH chỉ là tay sai bù nhìn của Mỹ không phải là chính quyền đại diện cho nhân dân miền nam. Nó đưa cái công hàm này ra đánh ngay vào điểm yếu của lập luận này đó là: nếu anh bảo chính quyền của mình là duy nhất thì khi nước khác tuyên bố chủ quyền trên hai quần đảo thuộc lãnh thổ của anh mà anh không phản đối, không kiện tụng lại đưa ra một công hàm hết sức mập mờ bảo là công nhận cũng không đúng bảo là phản đối thì càng không, như vậy là chết rồi. Từ từ thì Trung quốc sẽ đưa ra những đòn độc hơn trong việc khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam: nào là tính chính danh của Việt nam Cộng Hòa khi tiếp nhận chủ quyền từ Pháp, nào là bản hiến pháp năm 1955 của VNCH nào là bản hiến pháp năm 1959 của nước Việt nam dân chủ Cộng Hòa có vấn đề vv... sẽ có nhiều đòn lắm mà lý luận một quốc gia có nhiều chính quyền của cậu đi ngược lại hiến pháp năm 1959 của VNDCCH đấy, cậu đọc phần mở đầu sẽ thấy.
    không phải ngẫu nhiên mà ông Lê Văn Cương với báo thanh niên được phép đăng những bài viết cho rằng lúc ấy tồn tại hai quốc gia đâu. Cậu cũng thừa hiểu là hàng tuần trưởng ban tuyên giáo Trung Ương luôn có những cuộc họp với các tổng biên tập các tờ báo lớn đặc biệt là hai tờ Tuổi trẻ và Thanh niên là hai tờ có số lượng độc giả rất lớn. Những bài viết đi ngược lại chủ trương đường lối mà dám đăng lên thì tổng biên tập sẽ bị cách chức nhà báo sẽ bị treo bút và có thể ngồi tù bài báo sẽ bị gở bỏ ngay lập tức, những nhân vật có những phát biểu đi ngược đường lối sẽ bị kỹ luật. Bài báo đã được đăng thì cho thấy Đảng ta đã có cái nhìn khác rồi cho đến bây giờ thì những bài báo này vẫn còn chưa bị gở bỏ mà.
    http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140620/chxhcn-viet-nam-co-bi-rang-buoc-boi-cong-thu-1958.aspx
    http://www.thanhnien.com.vn/pages/2...an-chu-quyen-trung-quoc-doi-voi-hoang-sa.aspx
    Lần cập nhật cuối: 24/06/2014
  6. home124

    home124 Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/05/2009
    Bài viết:
    4.208
    Đã được thích:
    2.411
    VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
    Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

    Hà Nội, ngày 20 tháng 09 năm 1955
    NGHỊ QUYẾT

    CỦA QUỐC HỘI NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
    NGÀY 20 THÁNG 9 NĂM 1955 ĐỐI VỚI BÁO CÁO CHUNG
    CỦA CHÍNH PHỦ

    QUỐC HỘI
    NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

    Sau khi nghe báo cáo của Chính phủ, xét kỹ những công việc Chính phủ đã làm, đang làm và chuẩn bị làm, Quốc hội nhất trí quyết nghị:

    1- Dân tộc Việt Nam về mọi mặt lịch sử, địa lý, kinh tế, văn hoá là một khối thống nhất, không thể phân chia được. Lãnh thổ Việt Nam là một giải đất thống nhất, không thể chia cắt được. Việt Nam là một nước. Nhất định Việt Nam phải thống nhất.

    Để thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ về phần giải quyết vấn đề chính trị, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã hai lần tuyên bố sẵn sáng mở hội nghị hiệp thương với chính quyền miền Nam để bàn về tổng tuyển cử tự do trong cả nước đặng thống nhất nước nhà.

    Nhưng do sự xúi giục của đế quốc Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm đã chống lại hiệp định Giơ-ne-vơ, trốn tránh hiệp thương và tổng tuyển cử tự do. Đế quốc Mỹ đang tăng cường can thiệp vào miền Nam về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế. Chính quyền Ngô Đình Diệm ráo riết phát xít hoá bộ máy cai trị, xoá bỏ tự do dân chủ, khủng bố những người yêu chuộng hoà bình, thống nhất. Đế quốc Mỹ ráo riết tăng cường quân đội miền Nam, công nhiên chở thêm vũ khí và nhân viên quân sự vào miền Nam, kéo miền Nam vào khu vực "bảo hộ" của khối xâm lược Đông Nam Á, hòng biến miền Nam thành thuộc địa và căn cứ quân sự của Mỹ để chuẩn bị chiến tranh. Đế quốc Mỹ và tay sai của chúng đang ra sức phá hoại hiệp định Giơ-ne-vơ một cách có hệ thống và hết sức nghiêm trọng.

    Nhân dân ta từ Bắc đến Nam kiên quyết đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc. Đồng bào miền Nam vững lòng tin tưởng ở tương lai của Tổ quốc đã đấu tranh vô cùng anh dũng cho hoà bình, thống nhất của nước nhà. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cực lực phản đối sự can thiệp về mọi mặt của đế quốc Mỹ vào miền Nam Việt Nam, những hành động khủng bố của chính quyền miền Nam và nhiệt liệt hoan nghênh lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần đấu tranh anh dũng của đồng bào miền Nam.

    Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà hoàn toàn ủng hộ đường lối của Chính phủ chủ trương kiên quyết tôn trọng và triệt để thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ, đồng thời kiên quyết đấu tranh để các bên có liên quan cũng phải thi hành đúng đắn hiệp định Giơ-ne-vơ.

    Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nhận rằng chính quyền miền Nam thừa kế nước Pháp ở miền Nam, có trách nhiệm thi hành nghiêm chỉnh mọi điều khoản của hiệp định Giơ-ne-vơ.

    Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đòi nước Pháp phải tôn trọng chữ ký của mình và làm trọn trách nhiệm đối với hiệp định Giơ-ne-vơ không chỉ trong việc đình chỉ chiến sự mà cả trong việc giải quyết vấn đề chính trị.

    Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đòi các nước tham gia hộinghị Giơ-ne-vơ cũng như các nước trong Uỷ ban quốc tế giám sát và kiểm soát phải bảo đảm hiệp định Giơ-ne-vơ được thi hành đầy đủ.

    2- Hiện nay, tình hình chính trị và xã hội ở miền Bắc và miền Nam khác nhau. Muốn thực hiện một cách thuận lợi việc thống nhất Tổ quốc, phải chiếu cố đến lợi ích và nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân, dùng cách hiệp thương đi đến tổng tuyển cử tự do trong cả nước để thực hiện thống nhất.

    Dựa trên bản cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chính phủ đã vạch rõ đường lối đại đoàn kết toàn dân để cùng nhau đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình.

    Cuộc tổng tuyển cử tự do để thống nhất nước nhà sẽ tiến hành trong toàn quốc theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bí mật. Mục đích của cuộc tổng tuyển cử tự do này là bầu một Quốc hội thống nhất để cử một Chính phủ liên hợp duy nhất cho toàn nước Việt Nam. Việc thành lập Chính phủ liên hợp sẽ tăng cường đoàn kết giữa các đảng phái, các tầng lớp, các dân tộc, các miền trên toàn cõi Việt Nam. Để chiếu cố tình hình khác nhau giữa hai miền, địa phương có quyền ra những luật lệ địa phương thích hợp với đặc điểm của địa phương và không trái với pháp luật chung của Nhà nước.

    Đường lối chủ trương trên đây của Chính phủ nhất định sẽ được nhân dân cả nước ta nhiệt liệt hoan nghênh và hăng hái thực hiện đồng thời sẽ được nhân dân thế giới nhiệt liệt đồng tình và ủng hộ. Chính phủ đã đề ra chính sách ngoại giao của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nhằm tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ ấy.

    3- Để giành thắng lợi, phải ra sức củng cố miền Bắc, làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh của toàn dân. Trong một năm từ ngày hoà bình lập lại, nhân dân ta đã ra sức củng cố miền Bắc và đã thu được những thành tích khá. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nhiệt liệt hoan nghênh tinh thần hăng hái của anh chị em công nhân, nông dân, quân đội, lao động trí óc và của mọi tầng lớp nhân dân khác.

    Để đẩy mạnh củng cố miền Bắc, Chính phủ đã đề ra đường lối chủ trương khôi phục kinh tế, mục đích là thực hiện chương trình hai năm khôi phục kinh tế nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh, giảm bớt khó khăn của nhân dân, nâng cao dần đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân làm cơ sở cho việc củng cố miền Bắc về kinh tế, chính trị, quốc phòng, đồng thời chiếu cố miền Nam, tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế có kế hoạch sau này.

    Nhiệm vụ chung của việc khôi phục kinh tế là dựa vào sức lực của nhân dân ta, đồng thời dựa vào sức giúp đỡ của các nước bạn -sức ta là chính- nhằm khôi phục sản xuất nông nghiệp kết hợp chặt chẽ với cải cách ruộng đất; khôi phục và phát triển sản xuất thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp và công nghiệp; khôi phục thương nghiệp và bình ổn vật giá; củng cố nền tài chính quốc gia; khôi phục giao thông vận tải.

    Để hoàn thành nhiệm vụ trên, phải sử dụng hợp lý sự giúp đỡ của các nước bạn; tăng cường tổ chức kinh tế tài chính, ra sức đào tạo cán bộ kinh tế tài chính, đẩy mạnh và hoàn thành cải cách ruộng đất ở miền Bắc; phát động nhân dân thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm.

    4- Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà hoàn toàn tán thành và nhất trí thông qua những đường lối chủ trương trên đây của Chính phủ, là đường lối chủ trương đúng đắn, hợp với tình hình thế giới và hoàn cảnh chính trị của nước ta hiện nay, hợp với quyền lợi và nguyện vọng căn bản của nhân dân Việt Nam, hợp với lợi ích hoà bình thế giới.

    Nhân dân ta bước vào một thời kỳ đấu tranh mới, rất gay go, gian khổ, phức tạp nhưng nhân dân ta nhất định sẽ thắng lợi, cũng như chúng ta đã thắng lợi trong cuộc kháng chiến 8, 9 năm qua. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kêu gọi nhân dân miền Bắc hãy ra sức đẩy mạnh củng cố miền Bắc về mọi mặt. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kêu gọi đồng bào miền Nam hãy đoàn kết đấu tranh chặt chẽ và rộng rãi trong Mặt trận Tổ quốc nhằm giữ gìn quyền lợi hàng ngày của mình và giành hoà bình, thống nhất cho Tổ quốc. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Nam hãy đoàn kết chặt chẽ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hăng hái đấu tranh thực hiện cương lĩnh của Mặt trận, nhằm củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, do đó mà hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kêu gọi nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới hãy đồng tình và ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam để thực hiện các quyền dân tộc của mình, đồng thời góp phần giữ gìn hoà bình ở Đông Dương, ở Đông Nam Á và thế giới.

    Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà triệt để tín nhiệm và ủng hộ Chính phủ do Hồ Chủ tịch lãnh đạo và tin tưởng rằng, dưới sự điều khiển của Chính phủ, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà sẽ ngày càng thêm vững mạnh, cuộc đấu tranh của nhân dân ta để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất nhất định thắng lợi; nước Việt Nam sẽ trở nên một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

    Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 20 tháng 9 năm 1955.

    @cuchuoi_kt115
    cuchuoi_kt115hanhgl thích bài này.
  7. home124

    home124 Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/05/2009
    Bài viết:
    4.208
    Đã được thích:
    2.411
    Tại sao gọi cái 1958 của ông Đồng là thư tay - căn cứ theo bản Hiến Pháp sơ khởi 1946 đầu tiên:
    @cuchuoi_kt115
    Điều thứ 49
    Quyền hạn của C hủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà:
    a) Thay mặt cho nước.
    b) Giữ quyền Tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân, không quân.
    c) Ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng, nhân viên Nội các và nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ.
    d) Chủ toạ Hội đồng Chính phủ.
    đ) Ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị.
    e) Thưởng huy chương và các bằng cấp danh dự.
    g) Đặc xá.
    h) Ký hiệp ước với các nước.
    i) Phái đại biểu Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các nước.
    k) Tuyên chiến hay đình chiến theo như Điều 38 đã định.

    Điều thứ 50
    C hủ tịch nước Việt Nam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc.

    Điều thứ 51
    Mỗi khi truy tố Chủ tịch, Phó chủ tịch hay một nhân viên Nội các về tội phản quốc, Nghị viện sẽ lập một Toà án đặc biệt để xét xử.
    Việc bắt bớ và truy tố trước Toà án một nhân viên Nội các về thường tội phải có sự ưng chuẩn của Hội đồng Chính phủ.

    Điều thứ 52
    Quyền hạn của Chính phủ:
    a) Thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện.
    b) Đề nghị những dự án luật ra trước Nghị viện.
    c) Đề nghị những dự án sắc luật ra trước Ban thường vụ, trong lúc Nghị viện không họp mà gặp trường hợp đặc biệt.
    d) Bãi bỏ những mệnh lệnh và nghị quyết của cơ quan cấp dưới, nếu cần.
    đ) Bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong các cơ quan hành chính hoặc chuyên môn.
    e) Thi hành luật động viên và mọi phương sách cần thiết để giữ gìn đất nước.
    g) Lập dự án ngân sách hàng năm.

    Điều thứ 53
    Mỗi Sắc lệnh của C hính phủ phải có chứ ký của C hủ tịch nước Việt Nam và tuỳ theo quyền hạn các Bộ, phải có một hay nhiều vị Bộ trưởng tiếp ký. Các vị Bộ trưởng ấy phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện.
    cuchuoi_kt115 thích bài này.
  8. home124

    home124 Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/05/2009
    Bài viết:
    4.208
    Đã được thích:
    2.411
    Con lậy các ngày admin, các ngài đã lập nên nội các mới, mần ơi mần phúc bỏ cái auto-bot cho con nhờ
  9. hanhgl

    hanhgl Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/02/2010
    Bài viết:
    1.771
    Đã được thích:
    941
    “Công hàm 1958″ qua đánh giá của các học giả quốc tế

    (Biển đảo) - Nhiều học giả, nhà nghiên cứu có tên tuổi trên thế giới dự hội thảo quốc tế “Hoàng Sa – Trường Sa: Sự thật lịch sử” tại Đà Nẵng đã phản bác luận điệu của Trung Quốc liên quan đến “Công thư Phạm Văn Đồng 1958”

    Biển Đông chưa bao giờ là lãnh thổ Trung Quốc

    Theo GS Carl Thayer (nguyên GS Học viện Quốc phòng Úc, chuyên gia về Việt Nam và Đông Nam Á), Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) không chấp nhận yêu sách lịch sử hay sự biện minh lịch sử như là yếu tố quyết định trong việc xác định chủ quyền đối với các cấu trúc biển và các vùng biển.

    [​IMG]
    GS Carl Thayer phát biểu tại cuộc hội thảo (Ảnh: HC)

    Luật pháp quốc tế hiện đại cũng không chấp nhận sự phát hiện mang tính lịch sử đối với các đảo, tính gần gũi của các cấu trúc biển với đất liền, hay việc bao gồm các cấu trúc biển đó trong những tấm bản đồ do quốc gia phát hành, coi đó là bằng chứng đầy đủ để hỗ trợ cho một yêu sách chủ quyền.

    “Luật pháp quốc tế đòi hỏi một quốc gia yêu sách chủ quyền phải chứng minh việc chiếm hữu và quản lý liên tục” – GS Carl Thayer nhấn mạnh. Từ đó, ông cùng nhiều học giả dự hội thảo đã khẳng định, nhà nước phong kiến Việt Nam đã xác lập và thực thi chủ quyền hoà bình, liên tục đối với Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ 17 – 18. Dưới thời thực dân, Pháp đã nhân danh Việt Nam thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo này và khi rút khỏi Việt Nam thì Pháp đã bàn giao lại quyền quản lý cho Việt Nam

    Trong khi đó, diễn giả Leszek Buszynski đến từ Trường An ninh quốc gia, Đại học Quốc gia Úc nêu rõ: “Theo các quan điểm hiện đại trên thế giới, Biển Đông chưa bao giờ là lãnh thổ của Trung Quốc. Đó là một khu vực ở rất xa lục địa và thực sự không phải là một phần của đế chế Trung Quốc”.

    “Việt Nam đã chiếm hữu hiệu quả, lâu dài và thực thi chủ quyền hoà bình, liên tục đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Trung Quốc không có bất cứ bằng chứng thuyết phục nào chứng minh họ chiếm hữu hai quần đảo này trước khi dùng vũ lực đánh chiếm phi pháp Hoàng Sa năm 1974 và một số bãi ngầm thuộc Trường Sa năm 1988” – GS Carl Thayer nhấn mạnh.

    Nhà nghiên cứu Jean-Pierre Ferrier (Đại học Paris 2, Pháp) cũng khẳng định: “Nghiên cứu về lịch sử chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa cho thấy dưới góc nhìn của luật pháp quốc tế, Trung Quốc chưa hề thực hiện “chiếm đóng hiệu quả, liên tục và bình thường” cho tới sau cuộc tấn công và chiếm đóng trái phép năm 1974. Việc chiếm đóng và triển khai quân sự của Trung Quốc đã vi phạm luật pháp quốc tế (sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp), không thể hợp lý hóa việc Trung Quốc thay thế quyền chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này”.

    “Nghị định thư cấp Tỉnh” năm 1921 hoàn toàn vô giá trị!

    Jean-Pierre Ferrier chỉ rõ: “Mặc dù chiếm đóng kéo dài đã 40 năm nhưng cơ sở của việc chiếm đóng vẫn không có gì thay đổi và không có gì khác để hỗ trợ, tăng cường hoặc thiết lập bất kỳ giả định nào về chủ quyền của Trung Quốc!”. Bên cạnh đó, ông cũng nêu rõ: “Chiếm đóng quân sự là chưa đủ để hợp thức hóa chủ quyền. Vẫn còn thiếu ít nhất một yếu tố thứ hai trong việc xác minh chủ quyền bằng lịch sử và đó là sự nhận thức của công chúng”.

    Từ góc nhìn này, Jean-Pierre Ferrier xác quyết: “Trung Quốc chưa bao giờ thực hiện bất kỳ hành động chính thức nào đáp ứng theo quan điểm của luật pháp quốc tế. “Nghị định thư cấp Tỉnh” năm 1921 là không đủ, bởi tác giả không phải là chủ thể luật quốc tế; và nghị định này hoàn toàn mang mục tiêu kinh tế (cấp phép khai thác phế thải chim biển, nguồn phốt pho trên quần đảo – PV)!”.

    [​IMG]
    Nhà nghiên cứu Jean-Pierre Ferrier (trái) trả lời báo chí trong khuôn khổ cuộc hội thảo

    Theo ông Jean-Pierre Ferrier, ngày 2/4/1921, Thống đốc Quân sự Quảng Đông ra tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa khi ban hành nghị định về vấn đề này trong Tạp chí chính thức của tỉnh. Ông cho rằng: “Nhà cầm quyền chỉ định việc thiết lập chủ quyền của một hòn đảo cần có đủ thẩm quyền để làm việc đó, và sau đó thì chủ quyền mới được thực thi”.

    Từ đó Jean-Pierre Ferrier đặt vấn đề: “Vì sao chúng ta không loại bỏ hoàn toàn tuyên bố chủ quyền của Thống đốc Quân sự Quảng Đông khi ông ta ban hành nghị định về vấn đề này trong Tạp chí chính thức của Tỉnh ngày 2/4/1921?”.

    Nhà nghiên cứu đến từ Đại học Paris 2 giải thích: “Ông ta tuyên bố việc sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào đảo Hải Nam mà không có một cơ sở mang tính hiệu lực nào (không có sự chiếm hữu của một “nhà đương cục” Tỉnh, mặc dù có thể những ngư dân đảo Hải Nam, như ngư dân từ các nơi khác, đã đôi lúc tạt vào vài giờ đồng hồ); hay cơ sở quốc tế nào (thể hiện qua việc Quảng Đông không tồn tại trên bình diện quốc tế)!”.

    Về “Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958”

    Theo ông Jean-Pierre Ferrier, “đã không có một lời phản đối hay ủng hộ nào từ cộng đồng quốc tế đối với Nghị định thư cấp Tỉnh 1921 của Thống đốc Quân sự Quảng Đông, mà cho dù có thật sự diễn ra thì hành động đó có lẽ cũng không tồn tại mục tiêu nhất định hay thu hút sự quan tâm rộng rãi!”.

    Từ sự phân tích đó, trước những luận điệu bám vào “Công thư Phạm Văn Đồng 1958” để bịa ra việc Việt Nam bỏ Hoàng Sa và thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo này, Jean-Pierre Ferrier nói: “Vào thời điểm đó và cho tới thời điểm thống nhất Việt Nam năm 1975, ông Phạm Văn Đồng không có quyền tài phán nào đối với quần đảo Hoàng Sa, mà lúc đó trực thuộc Đà Nẵng của Việt Nam Cộng hòa (VHCH).

    [​IMG]
    GS Erik Franckx trả lời phỏng vấn Infonet khi xem triển lãm "Hoàng Sa – Trường Sa: Phần lãnh thổ không thể tách rời của Việt Nam”

    GS Erik Franckx (Đại học Tự do Brussel – Bỉ; thành viên Tòa trọng tài thường trực) tiếp tục nêu quan điểm về các “bằng chứng lịch sử”: “Bản đồ rất quan trọng nhưng không có giá trị pháp lý cuối cùng và duy nhất nếu nó không được đính kèm với những tài liệu ký kết giữa hai nước, các quốc gia và các tổ chức quốc tế có liên quan. Nghĩa là một văn bản luật. Còn nếu bản đồ chỉ đứng một mình, ví dụ như bản đồ do NXB này xuất bản năm đó, năm kia cũng là những tư liệu, chứng cứ quan trọng nhưng không phải có giá trị pháp lý cuối cùng”.

    Tuy nhiên khi PV Infonet đặt tiếp câu hỏi: “Vậy ông nhận định thế nào về “Công thư Phạm Văn Đồng 1958”? thì GS Erik Franckx trả lời: “Cần tìm hiểu và đọc công thư này một cách hết sức cẩn thận. Vì nội dung chính của nó thực ra là nói về lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố chứ không phải là nói về vấn đề chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Do đó chúng ta nên diễn giải vấn đề theo tinh thần đó”.

    Vai trò của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam

    Trong khi đó, GS Carl Thayer khẳng định “Bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc không đề cập tới Hoàng Sa hay Trường Sa, cũng như không hề thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa. Năm 1958, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) vẫn hy vọng thống nhất Việt Nam theo các điều khoản chính trị của Hiệp định Geneva 1954, còn VNCH duy trì sự hiện diện liên tục ở nhóm Nguyệt Thiềm (thuộc quần đảo Hoàng Sa) từ năm 1956 tới tháng 1/1974”.

    Ông nhắc lại “sự phản đối của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (PRG) ngay sau khi Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa và sau đó (ngày 26/1 và 14/2/1974), PRG không những là một bên ký Hiệp định hòa bình Paris mà trước khi Việt Nam chính thức thống nhất năm 1975 thì PRG là người đứng đơn cùng với VNDCCH tham gia và trở thành thành viên của Liên hợp quốc. Sau khi thống nhất, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trở thành quốc gia kế thừa và tiếp tục chính sách của PRG liên quan đến biển Đông”.


    HẢI CHÂU (Theo Infonet)

    Nội dung bôi xanh có dính đến lý luận của các cụ nè, chuyên gia nước ngoài nhận định thế liệu có thỏa đáng chưa. các cụ có thấy logic trong đó không? :cool:
  10. home124

    home124 Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/05/2009
    Bài viết:
    4.208
    Đã được thích:
    2.411
    Nếu có ai hỏi gì về chuyện từ 1945 - 1954 có chi liên can đến Hoàng Sa không thì cứ như ri mà mần:
    VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
    Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

    Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 1945
    SẮC LỆNH

    CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI NGÀY 10 THÁNG 10 NĂM 1945


    CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

    Chiểu theo lời đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp;

    Chiểu theo lời tuyên bố của Chính phủ lâm thời ngày 2 tháng 9 năm 1945 huỷ bỏ tất cả các hiệp ước giữa nước Việt Nam và nước Pháp;

    Sau khi Hội đồng Chính phủ đã thoả luận ngày 4-10-1945;


    SẮC LỆNH:

    CHƯƠNG THỨ NHẤT - NGUYÊN TẮC

    Điều thứ 1: Cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam, các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam bộ vẫn tạm thời giữ nguyên như cũ, nếu những luật lệ ấy không trái với những điều thay đổi ấn định trong sắc lệnh này.

    Từ nay đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất nói trên, những điều sửa đổi cần kíp sẽ do sắc lệnh ban bố sau.

Chia sẻ trang này