1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

học tu theo đạo phật, mời các bác tham dự trao đổi kinh nghiệm

Chủ đề trong 'Yoga - Khí công - Nhân điện - Thiền' bởi trai-ban, 08/03/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. muadongbuon832001

    muadongbuon832001 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2006
    Bài viết:
    528
    Đã được thích:
    0
    Tiếp...
    Ngày sau, Ðức vua ngự đến thấy con cắc kè bò xuống gặp Ðức vua nó ngóc đầu lên, coi bộ tự đắc. Ðức vua hỏi Bồ Tát thế là sao?
    - Tâu, vì con cắc kè nương nhờ có tiền. Ngày bát quan trai, người nuôi nó mua thịt không được, nên đem tiền buộc vào cổ nó rồi nó ỷ lại như thế.
    Ðức vua bất bình, dạy người đánh đuổi nó đi. Cũng vì tự đắc, ỷ lại mà phải chịu khổ
    Có một học sinh của vị trứ danh giáo sư DISÀPÀMOKKHA tên là PINGUTTA vừa lòng thầy nên thầy gả con gái cho. Cô thiếu nữ này rất đẹp. Nhưng PINGUTTA là người xấu số, nên khi về với anh, khiến anh không vừa ý, không chịu đồng tịch đồng sàng với vợ, bởi anh là người ít phước. Cách một tuần, sau khi đã làm lễ thành hôn, anh PINGUTTA xin phép cha mẹ vợ trở về xứ. Ði đường xa mệt nhọc và đói khát, gặp một cây sung có trái chín, anh bèn leo lên bẻ trái ăn. Vợ ở dưới xin vài trái, anh nói: - Vậy, có chân tay để làm gì?
    Vợ biết chồng không lo, nàng phải trèo lên để kiếm ăn. Anh chồng thấy thế, lén lần xuống đến gốc lấy gai chất xung quanh gốc cây sung rồi bỏ đi mất. Vợ anh xuống không được, kêu la khóc kể. Hạnh phúc cho nàng, ngày ấy có Ðức vua ngự đi ngoạn cảnh, nghe người than khóc bèn dạy quan quân đi tìm xem và hỏi thăm, rồi đem nàng về cho làm Hoàng Hậu.
    Ngày khác, Ðức vua ngự đi ra khỏi thành, hai bên đường, dân gian lo quét dọn. Lúc ấy, Hoàng Hậu thấy anh PINGUTTA là chồng cũ, cũng đang cấm cúi quét đường. Hoàng Hậu cười. Ðức vua thấy bèn hỏi: Cớ sao Hậu cười?
    - Tâu, vì thần thiếp thấy chồng cũ, bỏ thần thiếp, rồi hôm nay làm công việc như vầy, nên cười.
    Ðức vua nghe tâu không tin cho nên Ngài thịnh nộ, rút gươm cầm trong tay. Ðức vua hỏi ý bốn vị giáo sư.
    - Tâu, chẳng nên tin lời phụ nữ. Chúng tôi chưa từng thấy người nam nào có vợ đẹp xinh như vầy mà từ bỏ cho đành.
    Ðức vua bèn hỏi Bồ Tát, và Bồ Tát trả lời:
    - Tâu, lệ thường kẻ có tội với người hữu phước xa nhau lắm, cũng như trời với đất, như bờ biển đây với bờ biển kia. Kẻ có tội hoặc ít phước không bao giờ ở chung cùng người đại phước được, lời của lệnh Hoàng Hậu là rất đúng.
    Ðức vua nghe là hữư lý mà rằng: Nhờ con Trẫm là MAHOSATHA mà Trẫm được hậu, bằng ta nghe lời bốn vị giáo sư kia thì đã giết Hoàng Hậu rồi. Nghĩ như thế phát tâm hoan hỷ, Ðức vua bèn ban thưởng đức Bồ Tát rất nhiều báu vật.
    Bà Hoàng Hậu nghĩ rằng: Nhờ có MAHOSATHA, nên mệnh ta mới còn, thật là bậc ân nhân của ta. Lập tức, Hoàng Hậu quỳ tâu, xin Ðức vua cho phép từ đây, thần thiếp xin MAHOSATHA làm em ruột của thần thiếp. Bao giờ thần thiếp có vật chi quí báu hoặc cao lương mỹ vị, thần thiếp được phép biếu cho MAHOSATHA là em, bất kỳ là giờ phút nào. Ðức vua hoan hỷ phê chuẩn. Từ đây, Hoàng Hậu thường ban cấp cho Bồ Tát những vật quí giá, không dám quên ơn cứu tử.
    Có một ngày bát quan trai, Ðức vua lên từng lầu cao đi kinh hành, thấy có một con chó và một con dê. Dê đi ăn cỏ dành chỗ voi, bị nài voi đánh đập, dê bỏ cỏ chạy trốn, bị nài voi đuổi theo liệng nhằm lưng quá đau, dê lết nằm dựa bức tường thành. Chó cũng lén vào ăn thịt cá trong nhà bếp, bị đánh đập qué giò. Chó chạy trốn đến vách tường thành cũng gặp dê tại đó.
    Dê hỏi chó: Vì sao mà anh bị như thế?
    Chó thuật lại cho dê nghe, rồi hỏi: Còn anh do nhân nào mà bị lại nằm tại đây?
    Dê cũng tỏ cho chó nghe tự sự. Dê và chó bàn nhau phải làm thế nào để nuôi sống cho dễ dàng bằng không phải chết đói. Dê bèn bày mưu rằng: Bây giờ tôi phải vào nhà bếp trộm thịt các về cho anh, còn anh thì đi ăn cắp cỏ về cho tôi. Hai ta sẽ đổi thực phẩm nhau mà ăn, thì lưỡng tiện lắm. Tính xong, dê và chó đồng ưng thuận làm theo kế đó, nên được an vui. Vì thấy người nấu ăn đâu sợ dê ăn thịt cá mà gìn giữ, nên dê dễ trộm được thịt cá. Về phần nài voi thấy chó đến, thì nào có để ý đến chó trộm cỏ, vì thế mà chó trộm cỏ không khó. Từ đấy dê và chó kết bạn thân thiết nhau.
    Ðức vua xem thấy chuyện như thế, sáng ra nhập trào. Ngài có câu đố cho 5 vị trí tuệ đoán xét rằng: Trẫm hỏi 5 khanh trong đời có loài thú nào nghịch cùng nhau, mà trở thành thân thiết không? Nếu khanh nào đoán không ra, Trẫm sẽ đuổi khỏi thành. Nghe Ðức vua ra câu đó như thế thật là mắc mỏ, nên vị SESANA bèn tâu xin qua ngày sau sẽ trả lời. Ðức vua phê chuẩn. Về đến dinh, bốn vị giáo sư bàn tính nhau mãi mà tìm chưa ra, nên đồng quyết định kỳ này phải qua yêu cầu đức Bồ Tát chỉ dạy, không dám tự hào nữa.
    Về phần đức Bồ Tát, Ngài nghĩ rằng: Có lẽ Ðức vua thấy cái chi đây, nên mới ra câu đố này. Ngài bèn vào thăm Hoàng Hậu rồi tâu hỏi: Hôm qua lệnh bà có thấy vua ngự đến nơi nào chăng?
    Hoàng Hậu nói: Hôm qua lệnh Hoàng Thượng lên tầng lầu cao đi kinh hành, và ngự lãnh phía dưới thành rất lâu.
    Ðức Bồ Tát ngụ ý, khi ra khỏi cung nội, Ngài đi dò xét thấy dê và cho đang ăn, có vẻ thân thiết nhau lắm. Ðức Bồ Tát thấy như vậy hiểu rõ rằng: Dê và chó mật thiết là do trao đổi thực phẩm cùng nhau, rồi Ngài trở về dinh an nghĩ.
    Về phần bốn vị giáo sư kia không ai tìm ra nổi câu đó của vua, các ông đồng hội nhau tính cả ngày cũng chưa ra lẽ. Bất đắc dĩ phải đến cầu đức Bồ Tát chỉ dạy cho. Ðức Bồ Tát nghĩ rằng: Nếu ta không thương xót thì họ sẽ bị vua đuổi ra khỏi thành. Vậy ta nên tế độ họ, rồi Ngài dạy mỗi vị đọc một câu kệ ngôn.
    Qua ngày thứ hai, bốn vị giáo sư vào chầu. Ðức vua phán hỏi bốn vị giáo sư rằng: Này bậc trí tuệ, các khanh đã hiểu rõ câu đố rồi chăng?
    - Tâu nếu chúng hạ thần không hiểu thì còn ai hiểu được.
    - Vậy các khanh hãy trả lời cho Trẫm nghe
    - Tâu, xin Hoàng Thượng hãy lóng nghe: UGGAPUTTRÀJAPUTTI ... SANGHAYAMASSATI.
    Mỗi vị đọc một câu kệ ngôn, Ðức vua cũng tin rằng phải, vì không rõ ý nghĩa của câu kệ ngôn. Ðức vua hỏi sang đức Bồ Tát:
    - Tâu, dê đó có bốn chân, khi đi, tha đồ ăn thì lén lút tha. Dê đi tha cá thịt về cho chó, chó tha cỏ về cho dê, rồi trao đổi nhau ăn. Lệnh Hoàng Thượng ngự trên tầng lầu cao, đã thấy rõ hai thú, dê và chó làm bạn thân nhau như thế.
    Ðược nghe rõ lời tâu của đức Bồ Tát, Ðức vua rất thỏa thích bèn ban thưởng tất cả 5 vị trí tuệ rất nhiều báu vật đồng nhau. Khi ấy, Hoàng Hậu UDUMA hiểu rằng: bốn vị giáo sư kia nhờ Bồ Tát mà trả lời được câu đố của Ðức vua, song Ðức vua không rõ, ban thưởng đồng nhau. Ðức vua ban thưởng em trai ta nhiều hơn mới phải, rồi Hoàng Hậu liền vào cung tâu cho Ðức vua hay sự thật. Ðức vua nghe theo nên ban thưởng Bồ Tát nhiều hơn.
    Ngày nọ, bốn vị giáo sư vào chầu, Ðức vua phán hỏi: - Trẫm muốn biết rõ trong đời có hai hạng người: Người giàu mà kém trí tuệ và kẻ có trí tuệ nhưng nghèo. Hai hạng này ai là người cao quý hơn?

  2. muadongbuon832001

    muadongbuon832001 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2006
    Bài viết:
    528
    Đã được thích:
    0
    Tiếp...
    SENEKA ÀCÀRYA tâu: Theo hạ thần hiểu là: Người giàu quý hơn hết. Trong đời này, dù là người có trí tuệ bao nhiêu, làm quan đại thần hay con dòng sang cả mà nghèo thì cũng phải cần kính nể kẻ giàu, làm tôi cho người sai khiến. Mặc dầu người giàu có tật nguyền, điếc, câm... cũng làm chủ kẻ khác được.
    Nghe tâu như thế, Ðức vua liền hỏi Bồ Tát: Con hiểu thế nào?
    - Tâu, kẻ ngu vô trí tuệ, khi có của nhiều thì say mê, dầu là người sang cả cũng thế, cho rằng ta là cao quý rồi, hằng gây những nghiệp dữ, không hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, nghĩa làm sao thi hành như vậy, cứ theo ý muốn mình. Những kẻ tối tăm thường không thấy xa, chỉ biết trong kiếp hiện tại, không xét đến ngày vị lai, nên tạo biết bao điều ác, sau khi tan rã ngũ uẩn sẽ sa trong ác đạo, rồi sanh lên làm người nghèo hèn khổ sở, do các điều dữ đã tạo. Vì kẻ thiếu trí tuệ mới say đắm trong tài, sắc, lợi, danh. Tâu, tôi quan sát thấy như thế, mới hiểu rằng, người có trí tuệ mới cao quí hơn.
    Ðức vua nghe theo rồi hỏi lại SENEKA ÀCÀRYA rằng: Khanh hiểu thế nào?
    - Tâu, MAHOSATHA còn bé, miệng còn hôi sữa, biết gì, xin Hoàng Thượng hãy nghe theo hạ thần. Không cần nói đâu xa xôi như Triệu phú GOVINDASETTHI, nghề nghiệp chi cũng chẳng biết, con trai con gái cũng không, thân hình rất xấu xa, khi nói chuyện thì nước miếng tuôn chảy. Có hai nàng đẹp như ngọc chực hờ, dùng hoa sen xanh tươi chờ hứng nước miếng. Biết bao khách khác tới lui nườm nượp. Họ hết lòng tôn trọng cho đến người sang cả cũng kính nể. Bấy nhiêu cũng đủ rõ ràng, người có của là cao quý hơn bậc có trí tuệ.
    Bồ Tát tâu: SENEKA chẳng sáng suốt chỉ thấy gần, chỉ biết có được mà thôi; không quan sát cho chu đáo. Ví như quạ thấy họ làm rớt cục cơm hoặc như chó thấy miếng thịt trong nồi họ quên đậy nắp, không xem chừng cây gậy sẽ bổ trên đầu. Lệnh Hoàng Thượng nên thẫm xét. Lệ thường kẻ có của mà vô trí tuệ, khi được vui thì hằng cẩu thả vì không thấy 3 tướng phổ thông của vạn vật là vô thường, khổ não và vô ngã, chỉ biết say mê ngũ dục mãi mãi, không tưởng đến sự chết ngày mai. Kẻ tối tăm thiếu trí, khi gặp khổ, tai hại đến thì quên mình tán loạn, giẫy giụa như cá mà bị liệng trên khô. Kẻ vô trí tuệ trong giờ hấp hối thì vật mình kêu khóc, thương tiếc vợ con, của cải thân thuộc, quyến luyến trong vật dục. Nhớ đến nghiệp ác đã tạo, rồi kinh sợ trong bốn ác đạo. Vì thế mà phải nóng nảy bực tức vật mình, khóc kể, sợ sa địa ngục, cũng vì thiếu trí tuệ
    Trái lại, bậc có trí tuệ rõ rằng: Sanh ra trong nẽo luân hồi, thỉ phải chịu luật tuần hoàn sanh tử là một công lệ không sao tránh thoát được.
    Tâu, hạ thần thấy rằng: Người mà dính mắc trong của cải thì khó tránh được ác đạo, không nơi nương tựa. Dù là vợ chồng con, của, thân thuộc, bạn bè cũng không làm cho sự đau khổ được nhẹ nhàng, chỉ ấy mắt nhìn nhau mà chịu, không sao cứu vớt được.
    Ðức vua xoay qua hỏi SENAKA rằng: MAHOSATHA tâu như thế khanh nghĩ sao?
    - Tâu, MAHOSATHA biết gì, hạ thần xin ví dụ: Cây có trái hằng có loài điểu thú thường lũ lượt bay tới kiếm ăn không dứt, thế nào, người có của hằng có người vãng lai đông đúc. Cho nên người đời hằng có tiền của là hưởng hạnh phúc an vui. Còn kẻ dù có trí tuệ đến đâu, mà nghèo thì không ai ngó đến. Do đó, hạ thần tâu rằng người có của quý hơn kẻ có trí tuệ mà ngèo.
    Ðức vua xoay qua hỏi MAHOSATHA rằng: SENAKA tâu như thế, con nghĩ sao?
    - Tâu Hoàng Thượng, SENAKA giải như trẻ lên 3 tuổi, thấy sao nói vậy. Kẻ vô trí tuệ ví như cây có trái độc, điểu thú nào đến ăn quả sẽ bị khổ, khác chi người thiếu trí tuệ. Nếu kẻ nào tới lui thân cận, họ sẽ chết, tức là hư hao của cải. Vì kẻ vô trí tuệ hay bày mưu kế để đoạt của người, chỉ tìm làm việc bất chánh là người ác, không biết hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi. Sau khi thác sẽ xuống ác đạo chịu khổ lâu đời, bị quỉ sứ hành hạ đánh đập, chém đâm bằng các vũ khí cháy đỏ vô cùng khổ sở. Ðó cũng vì thiếu trí tuệ. Tâu Hoàng Thượng, người có trí tuệ là quí hơn.
    Ðức vua phán hỏi SENAKA rằng: Theo lời của MAHOSATHA tâu qua, khanh nghĩ thế nào?
    - Tâu, xin Hoàng Thượng đừng tin lời MAHOSATHA. Hạ thần sẽ thí dụ: Nước sông rạch một khi đã chảy đến biển rồi, không còn tên cũ nữa, lu mờ không rõ rệt. Tôi xét thấy như thế, mới tâu rằng, kẻ giàu quí hơn người trí tuệ là vậy.
    Ðức vua phán hỏi MAHOSATHA Bồ Tát: SENAKA giảng như thế con nghĩ thế nào?
    - Tâu, đức Hoàng Thượng, chẳng nên nghe lời SENAKA. Nước của các sông rạch lớn, nhỏ chảy vào biển, biển giao tiếp nhau bằng lượng sóng nghe lăn tăn, lách tách. Dù sóng có lực đến đâu tát vào bờ biển cũng dội lại, không vượt khỏi bờ biển được, thế nào kẻ giàu vô trí tuệ không bao giờ qua khỏi bậc trí tuệ được. Những kẻ ngu độn thiếu trí tuệ, dầu tranh luận một điều gì với ai cũng chẳng lướt qua bậc trí tuệ nỗi. Khi có sự khó khăn nan giải, đều cậy vào bậc trí tuệ. Những người thiếu học được biết tội phước, lợi hại, chánh tà cũng nhờ nghe bậc trí tuệ chỉ dạy. Tâu, tôi xét thấy như thế, mới nhận người có trí tuệ là quí hơn.
    Nghe rồi, Ðức vua xoay qua hỏi SENAKA nữa rằng: Khanh có lời nào giảng giải cho Trẫm nghe.
    - Tâu, lệnh Hoàng Thượng, chớ nên tin lời của MAHOSATHA. Kẻ giàu dù đi, đứng, ngồi trong nơi nào cũng có người kiêng nể, tiếp rước. Chuyện quấy thành phải, chuyện phải ra quấy, mặc dù là bất công. Người có tiền sẽ được phần đông hưởng ứng, nói chi công chúng đều xu hướng theo. Thấy như vậy, nên hạ thần tâu rằng người triệu phú cao quí hơn.
    Ðức vua phán hỏi MAHOSATHA Bồ Tát: Con nghĩ sao, tâu cho Trẫm rõ.
    - Tâu, SENAKA chỉ thấy trong kiếp hiện tại, là người thiếu trí, thấy gần không ngó xa. Những người có của, vô trí tuệ, đen nói trắng, trắng nói đen mà người cũng nghe theo, là vì phần đông là thiếu học. họ nào biết sẽ bị bậc hiền minh chế trách, đến khi thác còn phải chịu quỉ sứ hành hình nhiều kiếp trong địa ngục. Tiếng xấu còn lưu danh muôn thưở.
    Ðức vua phán hỏi SENAKA: Có lời chi hãy tâu cho Trẫm nghe
    - Tâu, người trí tuệ có sự hiểu biết dầy dặn nhiều như địa cầu dầy 24 ngàn do tuần, mà nghèo thì nói lời hay cũng vô hiệu quả. Khi đến gần người có của thì ẩn bóng dấu hình, mất mặt, ví như đom đóm ánh sáng nhỏ không được rực rỡ khi mặt trời mọc lên. Do đó hạ thầu tâu rằng người có của cao quí nhất trong đời.
    Ðức vua phán hỏi MAHOSATHA Bồ Tát: Con nên giải cho Trẫm nghe thêm có được chăng?
    - Tâu lệnh Hoàng Thượng, SENAKA là người không thấy điều xa hiểu rộng. Bậc trí tuệ thốt lời ngay thật, không nói xuyên tạc theo ai. Bậc trí tuệ hằng được quần chúng ngợi khen và cúng dường bằng các vật báu giữa nơi đô hội. Người trí tuệ hằng quí lời nói ngay thật, sau khi mạng chung được tái sanh làm vua hoặc lên cõi trời. Vì thế tôi tâu rằng, người có trí tuệ cao quí hơn.

  3. muadongbuon832001

    muadongbuon832001 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2006
    Bài viết:
    528
    Đã được thích:
    0
    Tiếp...
    Giáo sư SENAKA tâu: Lời của MAHOSATHA vừa trình bày, Hòang thượng chẳng nên tin. Bò trâu, tôi trai, tớ gái, các thanh nam nữ cho đến những ngọc ma ni, xà cừ v.v... chỉ phát sanh trong dòng dõi phú gia. Các loài thú cũng thường có đông đúc để làm phương vận tải cho hàng hữu sản. Người có của hằng được thêm nhiều báu vật. Do đó, mà hạ thần mới gọi kẻ giàu là cao quí.
    Ðức vua bèn xoay qua hỏi MAHOSATHA: Con nghĩ thế nào?
    - Tâu, người vô trí tuệ, dù có nhiều của cũng khó gìn giữ được lâu dài, của cải phải bị tiêu mòn, ví như loài rắn không thể giữ da được; phải lột da bỏ lại. Những kẻ chứa của được nhờ trí tuệ, nếu trí tuệ, dầu là Triệu phú, của ấy cũng phải bị hao mòn. Vì thế hạ thần mới tâu rằng bậc trí tuệ quí hơn cả.
    Ðức vua bèn xoay qua hỏi SENEKA. SENEKA ngẫm nghĩ: Lần này ta làm cho MAHOSATHA phải phục tùng ta mới được. Rồi đáp:
    - Tất cả chúng tôi đây hầu hạ, chờ lệnh của Hoàng Thượng. Hoàng Thượng là bậc cao quí, lãnh đạo chúng tôi là hàng có trí tuệ ví như đức Ðế Thích hay đàn áp Chư Thiên, nếu người có trí tuệ là quí, hà tất phải tôn sùng người có của như Hoàng Thượng. Tâu, em MAHOSATHA chỉ đem kiếp vị lai để giảng thuyết, không thấy những lợi ích trong hiện tại. Thử hỏi, nếu người óc trí tuệ là quí cớ sao lại vào hầu trực Hoàng Thượng như vậy?
    Lời SENAKA trình bày đây, nếu không phải là đức Bồ Tát, thì khó mà suy tưởng sự lý, ngỏ hầu giải đáp cho phân minh được. MAHOSATHA (Bồ Tát) tâu:
    - Giáo sư SENAKA là người mù, chỉ biết lợi danh trong đời mà quên đức tính thanh cao là trí tuệ. Kẻ vô trí tuệ khi gặp điều lo sợ, nan giải thì hằng nương nhờ vào bậc trí tuệ chỉ dẫn mới được rõ đường tà, nẻo chánh. Kẻ giàu thiếu trí tuệ hay mù quáng, say mê ngũ dục rồi bị sa sút, bị người chê hay khinh rẻ. Lúc hữu sự thì tối tăm lo sợ, tìm nương vào bậc trí tuệ, cầu các Ngài phá nghi và cứu vớt bằng tinh thần mới được an vui. Do đó, mà bảo tồn tài sản được lâu dài. Như Hoàng Thượng nhờ bậc trí tuệ nên không say mê trong của cải là nhân lôi cuốn chúng sanh vào vòng sanh tử luân hồi. Do có trí tuệ mà sinh linh đắc đạo quả Niết Bàn, thoát ly khổ hải. Các bậc sáng suốt nhất là lệnh Hoàng Thượng hằng ngợi khen và tìm kiếm bậc trí tuệ. Các hàng thánh nhân nghĩa là được khỏi luân hồi, hết phiền não cũng do trí tuệ, khỏi lo sợ trong đời này và kiếp sau cũng nhờ trí tuệ. Như thế, không gọi trí tuệ là cao quí sao nên.
    Ðức vua hỏi SENAKA: Còn lời chi trình bày nữa chăng?
    Khi ấy, giáo sư SENAKA không còn biết điều chi để thi thố nên gục mặt hổ thẹn làm thinh.
    Ðức Bồ Tát bèn tâu tiếp rằng:
    - Trí tuệ là một đức tính mà bậc cao nhân hằng ưa thích, tôn trọng. Kẻ vô trí tuệ hằng say mê của cải, quyền tước lợi danh. Bậc trí tuệ không quyến luyến theo vật chất, bởi đã quan sát thấy rõ rằng các vật chất của cải hằng xúi giục con người gây nhiều tội lỗi, rồi phải bị trầm luân, là nhân sanh các thống khổ không sao tả xiết. Chỉ người có trí tuệ mời có thể phán đoán, biết tìm phương pháp thoát khổ được. Không có chi đem so sánh với đức tính của trí tuệ được. Năng lực của cải không sao vượt khỏi trí tuệ được. Nhận thấy thế, nên hạ thần tâu trí tuệ là cao quí nhất.
    Ðức vua nghe tâu lời hữu lý nên rất hoan hỉ bèn ban thưởng nhiều báu vật hơn các lần trước.
    Bà Hoàng Hậu thấy em là đức Bồ Tát, nay đã lên 16 tuổi, cần phải có người nội trợ để chăm nom gia tài to tát, như thế, nên suy nghĩ tìm một thanh nữ xứng đáng để kết duyên lành với Bồ Tát. Bà bèn tâu cho vua rõ, Ðức vua khen phải và phán rằng: Cần tỏ cho Bồ Tát hay trước. Khi Hoàng Hậu cho Bồ Tát hay biết ý định đó, Bồ Tát liền tâu: Xin chờ 3 ngày rồi sẽ tâu với Ðức vua. Ðoạn Bồ Tát xin để tự mình đi tìm thanh nữ xứng đáng theo ý nguyện. Ngài ra cửa bắc môn rồi đi lần đến quận UTTARA MAJJHAGÀMA.
    Trong thuở đó, có một nhà trước kia là triệu phú nay đã sa sút. Trong gia đình này có một thiếu nữ tên AMARÀ có đủ đức hạnh và hình dung xinh đẹp. Một hôm sáng sớm cô thiếu nữ đem cháo dâng cho cha nàng đang cày ruộng. Bồ Tát đi đến thấy cô thiếu nữ dung nhan xinh đẹp và tướng mạo đoan trang, rồi thầm nghĩ: Nếu nàng này chưa chồng thì đáng cho ta đem về làm nội trợ được.
    Phần nàng thiếu nữ thấy đức Bồ Tát cũng thầm nghĩ, nếu ta được người như vầy để nương bóng tùng quân, thì đời ta sẽ được nhiều hạnh phúc, có nơi nương tựa vững vàng. hai bên đồng một quan niệm có ý yêu nhau.
    Bồ Tát bèn nghĩ không rõ nàng đã có nơi nào chưa, vậy ta nên thử thách nàng bằng cách ra cử chỉ để đố. Ngài thừa cơ hội nàng liếc xem, Ngài ra dấu "nắm tay lại" xem nàng có hiểu lẽ nào chăng?
    Nàng AMARÀ thấy, biết Bồ Tát muốn hỏi nàng có chồng chưa .nàng xoè tay để đáp cử chỉ của Bồ Tát. Bồ Tát hiểu rằng nàng chưa chồng.
    Bồ Tát bèn bước lại gần hỏi: - Xin lỗi nàng, quí danh nàng là chi.
    - Thưa, cái chi không có trong quá khứ, vị lai và hiện tại ấy là tên của tôi.
    - Này cô! Tình trạng bất diệt là cái không có trong quá khứ, vị lai và hiện tại. Như vậy quí danh của cô là AMARÀ phải không?
    - Vâng, tên tôi là AMARÀ.
    - Bây giờ đây, cô đem cháo cho ai?
    - Thưa, đem dâng cho bậc Tiền Thiên PUBBADEVA.
    - Này cô! Tiền Thiên, tức là cha và mẹ. Vậy có phải cô đem cháo cho thân phụ cô chăng?
    - Thưa phải.
    - Thân phụ của cô làm nghề gì?
    - Cha tôi làm nơi "một thành hai". (Ở nơi "một thành hai" đó ám chỉ là nghề nông cày ruộng)
    - Có phải thân phụ cô là nông phu chăng? Và cày ruộng trong nơi nào?
    - Vâng, thân phụ tôi cày ruộng trong nơi "đi không trở lại".
    - Nơi đi không trở lại đó là nơi tha ma mộ địa, có phải vậy chăng?
    - Thưa, nếu một cái đã đến thì tôi không trở về, một cái chưa đến thì trở về.
    - Này cô! Thân phụ cô cày gần mé nước, nước lên nhiều thì cô không trở về, nếu nước nhỏ thì cô về phải không?
    - Thưa phải. Nói xong nàng mời Bồ Tát dùng cháo.
    Bồ Tát nghĩ, nếu không dùng cháo thì thất lễ, vậy ta nên dùng chút ít, Bồ Tát bèn nhận lời thỉnh của nàng.
    Nàng AMARÀ để cháo trên đất. Bồ Tát nghĩ, nếu nàng chỉ dâng cháo mà không dâng nước thì ta không dùng. nàng AMARÀ dâng nước. Nàng dành riêng phần cho cha nàng. Phần của nàng thì để ra mâm rồi dâng cho Bồ Tát dùng. Khi dùng xong, Bồ Tát rửa tay và nói rằng: - Tôi mong được biết nhà cô, xin cô vui lòng chỉ đuờng cho tôi.
    Nàng AMARÀ bèn chỉ đường bằng câu đố rằng: - Thưa, quán bán chè, quán bán nước cam và cây có lá hai từng ở trong nơi nào; đó là con đường đi đến quận UTTARA MAJJHAGÀMA, dùng tay mặt cầm cháo mà thử.
    Xong nàng bèn kiếu từ để đem cháo cho cha nàng. Bồ Tát nhận rõ rằng đường đi đến nhà nàng AMARÀ trước hết gặp quán bán chè, kế quán bán nước cam, rồi gặp cây có lá hai chặn, đứng xem thì thấy ngã hai, đừng theo nẻo bên trái, mà nên đi ngả bên phải. Bồ Tát bèn đi theo câu đố của nàng AMARÀ.
    Thân mẫu của nàng AMARÀ thấy Bồ Tát là người có tướng mạo đoan trang đến nhà nên mừng rỡ, dọn chỗ mời Bồ Tát ngồi và dâng cháo. Bồ Tát nói: Nàng AMARÀ đã có cho tôi dùng chút ít rồi.
    Mẹ nàng AMARÀ hiểu rằng chàng đến với mục đính muốn được con gái ta. Ðức Bồ Tát hiểu rõ hoàn cảnh sa sút của gia đình nàng AMARÀ. Bồ Tát xin ở trọ ngôi nhà ấy và thưa rằng: Thưa mẹ, tôi là người thợ may, vá và mạng y phục, vậy nhà mẹ có y phục rách mang ra con vá mạng cho.
    - Này con! Mẹ có y phục cần phải vá mạng nhiều, song mẹ không có chi để trả công.
    - Tôi chỉ mạng không lấy tiền, xin mẹ đừng ngại chi.
    Mẹ nàng AMARÀ liền mang rất nhiều y phục trong nhà đem giao cho Bồ Tát vá mạng được hoàn bị theo trí tuệ của Ngài. Khi vá mạng xong, Bồ Tát yêu cầu rằng: Xin mẹ cho hàng xóm hay những người nào có y phục cũ, rách tôi lãnh vá mạng cho. Chúng dân nghe như thế, nên mang rất nhiều y phục đến cho Bồ Tát mạng vá trọn ngày ấy được tiền được 100 lượng. Mẹ nàng AMARÀ lo dọn cơm chiều cho Bồ Tát dùng.
    Ðến bữa ăn tối thì cha nàng AMARÀ và nàng trở về đến nhà. Sau dùng bữa cơm xong, Bồ Tát bèn lạy tạ song thân của nàng AMARÀ và xin đính hôn cùng nàng. Cha mẹ nàng AMARÀ đồng hoan hỷ nhận lời.
    Sáng hôm sau, Bồ Tát dạy vợ lấy nữa cân gạo, làm 3 món ăn: Bánh, cháo và cơm. Nàng vâng lời làm theo ý chồng, khi làm xong đem dâng đến Bồ Tát. Ðồ nấu thật ngon, nhưng Bồ Tát giả bộ chê trách rằng: Nàng dâng cháo, Bồ Tát nếm một chút, đoạn Ngài đổ trên đất.
    Nàng AMARÀ thưa: Nếu anh dùng cháo không vừa miệng, xin dùng cơm. Bồ Tát ngửi hơi cơm rồi cũng chê. Nàng nói: Xin anh dùng bánh. Bồ Tát thọ bánh thử chút ít rồi quở trách liệng bỏ: Thế nàng không rành nghề nấu ăn. Nàng AMARÀ cũng không buồn.
    Cư ngụ được 3 ngày, đức Bồ Tát bèn đem hai ngàn lượng bạc dâng đến nhạc gia Ngài mà rằng: Tôi xin dâng chút ít của này đến nhạc gia chi dụng đở, tôi sẽ tùy tiện phụng dưỡng song nhạc được an vui trọn đời. Nay tôi xin đem nàng AMARÀ đi cùng tôi, xin nhạc gia hoan hỉ. Hai ông bà đều vui lòng chấp thuận.
    Khi Bồ Tát dẫn vợ gần đến kinh thành MITHILÀ. Ngài gởi vợ cho môn quan. Vào dinh, Ngài bèn dạy hai thiếu nam ăn mặc sang trọng tỏ ra con nhà triệu phú đến trêu ghẹo thử ý vợ Ngài. Hai thanh nam tuân theo lời dạy của Bồ Tát, tìm đủ mọi cách để thử thách nàng AMARÀ nhưng vô hiệu quả, bèn trở về trình cho Bồ Tát rõ. Ngài liền cho người dẫn nàng AMARÀ vào dinh của Ngài. Nàng vào thấy tòa lầu cao sang phú túc, nhưng không rõ là của Bồ Tát, nàng bèn cười rồi khóc. Bồ Tát hỏi: vì sao nàng cười rồi lại khóc?
    - Tôi cười, bởi kiềp trước khéo tu nên nay người mới được cao sang như vầy, nghĩ đến cái phước của người nên tôi cười. Còn tôi khóc, vì thương xót người ỷ quyền cao tước trọng mà bóc lột của lương dân, cưỡng bách vợ người, làm điều tàn ác, ắt sa đoạ trong ác đạo chẳng sai.
    Bồ Tát nghe qua khen nàng là người chơn chánh, Ngài dạy đem nàng giao lại cho môn quan, rồi vào đền tâu cho Hoàng Hậu rõ: Ngài đã chọn được vợ hiền. Hoàng Hậu tâu cho vua hay, rồi sắm sanh hôn lễ đầy đủ cao sang đến rước nàng AMARÀ, về đến dinh Bồ Tát. Ðức vua, Hoàng Hậu cho đến dân gian thảy đều vui mừng phỉ dạ, chúc tặng quà sính lễ nhiều không kể xiết. Nàng AMARÀ bèn chia làm hai dâng đến vua một phần, còn một phần để dùng. Bồ Tát bèn rước song nhạc về phụng dưỡng như cha mẹ ruột.
    Nói về bốn giáo sư kia thấy Bồ Tát được vua trọng đãi, quyền cao tước lớn như thế, càng sanh lòng ganh ghét, hằng tìm chước bày mưu để hảm hại.
    SENAKA bàn rằng: Chúng ta hãy cáo gian MAHOSATHA là phản nghịch, thì hại hắn mới được. Vậy mỗi chúng ta hãy tổ chức trộm báu vật của vua là:
    Cây trâm bằng vàng,
    Hoa bằng vàng là,
    Y báu Kambala,
    Ðôi giày vàng.
    Khi đã trộm được bốn báu vật của vua chúng ta đem giấu trong dinh MAHOSATHA rồi vào tâu, vu cáo rằng: MAHOSATHA mong lòng phản nghịch.
    Sau khi SENAKA bàn định kế hoạch bèn cùng nhau đồng ý và phân công rằng: SENAKA trộm trâm vàng, PAKUTTHA trộm hoa vàng, KAMINDA trộm y báu, DEVINDA trộm đôi giày vàng.
    Khi đã trộm được, SENAKA để cây trâm vàng vào hộp, rồi dạy đứa tớ gái đem bán tại nhà Bồ Tát. Lúc ấy nàng AMARÀ ở trong dinh xem thấy lạ, là đứa tớ chỉ qua lại trước dinh mình. Nàng bèn gọi vào giả bộ mua để hỏi thăm tìm hiểu, khi xem thấy cây trâm vàng của vua, nàng biết là kẻ gian ác, nàng bằng lòng mua. Xong nàng tìm cách hỏi thăm đứa tớ ấy, ai bảo đem bán.
    - Chủ tôi là SENAKA.
    Nàng niêm lại kỷ lưỡng để rõ ngày tháng và tên SENAKA, tên đứa tớ và cha mẹ của nó.
    Phần PAKUTTHA trộm được hoa vàng, rồi dạy đứa tớ gái đem bán nơi nhà của Bồ Tát. KÀMINDA trộm y báu KAMBALA để vào giỏ rau, bảo đứa tớ gái đem đến dinh của Bồ Tát mà bán. DEVINDA trộm đôi giày vàng để vào bó lúa giao cho tớ gái đem bán như nhau. Nàng AMARÀ cũng mua tất cả bốn món, rồi biên rõ ngày, tháng, tên họ chủ, tớ và cha mẹ của nó, xong niêm lại kỹ càng. Nàng AMARÀ trình bày rõ rệt cho Bồ Tát hay rõ tự sự.
    Một hôm, bốn vị giáo sư bèn vào chầu vua và tâu rằng: Vì sao Hoàng Thượng không dùng cây trâm vàng mà trang điểm?
    - Vậy khanh hãy đi lấy dâng cho Trẫm trang điểm.
    Bốn người giả bộ đi kiếm rồi trở ra tâu rằng: Cây trâm mất rồi, hoa vàng cũng mất, y báu KAMBALA và đôi giày cũng không còn. Bốn người ngồi ra vẻ đắn đo nghi trong chốc lát rồi tâu rằng: Bốn báu vật này không có trong nơi nào khác, ngoài nhà MAHOSATHA. MAHOSATHA trộm của ấy dễ dàng không kiêng nể Hoàng Thượng, bởi muốn đoạt ngôi Rồng.
    Những người tùy tùng chân thành của Bồ Tát nghe rõ bèn chạy về thưa cho Bồ Tát hay. Bồ Tát nói rằng: Ta sẽ vào lập tức, rồi chúng ta sẽ biết nhau. Khi ấy Bồ Tát vào chầu vua. Ðức vua không cho gặp mặt. Bồ Tát hiểu ngay rằng vua thịnh nộ, bởi thiếu sự suy nghĩ mà tin lời vu cáo của bốn vị kia, Bồ Tát liền trá hình, giả làm kẻ khó ra khỏi thành MITHILÀ đi đến quận YAVAMAJJHÀ tá túc nơi nhà người thợ nồi. Tiếng đồn rằng MAHOSATHA đã trốn khỏi thành rồi.
    Bốn vị giáo sư nghe qua rất đắc chí rằng: Như thế mới rõ ta là bậc có trí thức. Nay MAHOSATHA trốn rồi, thế vợ của hắn là vợ của ta, suy nghĩ như vậy nên tìm cách tâu vua để cho nàng AMARÀ ở yên.
    Mỗi người có ý nghĩ riêng gởi thơ ghẹo nàng AMARÀ. Nàng nghĩ bốn người này thật đê hèn quá, vậy để ta làm cho họ mang nhơ cho biết mặt. Nghị như thế, nàng liền cho tin mỗi vị nên đến nàng giờ này...
    Nàng dạy kẻ giúp việc đào hầm cho sâu rộng , miệng hầm rào xung quanh, trong hầm chứa đầy phẩn và nước tiểu, miệng hầm đậy bằng ván máy, trải nệm trên mặt hầm kín đáo, rảo hoa và nước thơm để tắm.
    Tối hôm đó, SENAKA trang điểm cao sang, rồi đến dinh Bồ Tát, khi đến nơi, nàng AMARÀ cho mời vào. nàng tỏ vẻ vui mừng thỉnh SENAKA đi tắm đặng vào nghỉ. Khi ông ta vừa bước lên miệng hầm, bị máy bật té vào hầm phẩn. Kế PAKUTTHA, KAMINDA và DEVINDA cũng đồng chung cảnh ngộ. Bốn vị phải ở trọn đêm trong hầm phẩn, nước tiểu, tủi nhục vô cùng. Sáng ra nàng AMARÀ dạy người kéo lên cho tắm rữa sạch sẽ, rồi bắt cạo trọc, cạo lông mày, nàng dạy tôi tớ lấy gạch chà xát da cho rướm máu, nấu cháo đặc đổ lên đầu v.v... hành hạ bốn vị vô cùng khổ sở. Nàng cho lấy đệm quấn cả bốn vị đó rồi bảo người dẫn vào chầu vua. Nàng cũng không quên đem theo đủ cả bốn báu vật mà họ đã trộm được của bốn tội nhân. Nàng AMARÀ tâu rõ tự sự và dâng bốn báu vật đến vua rồi trở về dinh.
    Ðức vua thấy rõ như thế lấy làm hối hận, không biết xử cách nào, vì Bồ Tát đã đi mất rồi, nên thả bốn vị giáo sư về nhà.
    Thưở đó, có vị trời thường ngự trên cây lọng nơi nơi Rồng để nghe pháp của đức Bồ Tát, nay Bồ Tát đã vắng mặt vị trời ấy không được nghe pháp nữa, nên tìm dịp làm cho Bồ Tát trở về. Vị trời liền hiện hình cho vua thấy rõ, vừa lúc canh 5 và ra bốn câu đố như vầy:
    1) Kẻ đánh đập, hiếp đáp, nguyền rủa lại là nơi thương yêu của người. Như vậy là hạng nào?
    2) Người đánh chưởi theo ý muốn, nhưng chỉ nói ngoài miệng, không có ác tâm làm hại, khi đã mắng chưởi, đánh đập rồi lại thương yêu hơn trước. Người ấy là hạng nào?
    3) Người cáo gian kẻ khác, rồi trở tội nghiệp hơn xưa thuộc về hạng nào?
    4) Người được vật chi cũng lấy (đệm, chiếu, giường, y phục v.v...) càng làm cho người kính thương. Người ấy thuộc về hạng nào?
    Ðức vua nghe bốn câu đố của vị trời, cố suy nghĩ nhưng không đáp được. Ngài cho vị trời biết rằng Ngài không thể giải đáp, xin chờ Ngài hỏi lại bậc trí tuệ và hứa ngày mai sẽ trả lời. Vị trời bằng lòng nhận theo lời hứa của vua. Sáng ra Ðức vua triệu bốn vị giáo sư vào, rồi dạy đáp bốn câu đố ấy. Bốn vị này không đủ khả năng giải đáp.
    Tối lại, vị trời hiện ra hỏi nữa. Ðức vua đáp: Ðã hỏi, mà bốn vị giáo sư cũng không thông.

  4. muadongbuon832001

    muadongbuon832001 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2006
    Bài viết:
    528
    Đã được thích:
    0
    Vị trời tâu: Trừ MAHOSATHA PAN***A, không một ai hiểu rõ đâu, vậy Ðại Vương hãy sai người đi tìm Ngài MAHOSATHA, nếu Ðại Vương không tuân lời cho người đi tìm thỉnh Ngài MAHOSATHA về, ta sẽ đập đầu Ðại Vương bằng cây gậy sắc cháy đỏ này, ví như kẻ tìm lửa, rồi gặp đom đóm tưởng là lửa, lại đem củi và cỏ khô đến nhúm, mong gì được lửa, hoặc ví như người muốn được sữa bò, lại tìm sữa ở sừng bò làm sao mà được sữa? Này Ðại Vương! Các vị Ðế Vương xưa kia thắng được địch, nhờ có tri thức biết dùng người tài năng thao lược, trong nước mới được thái bình. Còn Ðại Vương tin đom đóm mà cũng tưởng là lửa, thì tránh sao khỏi điều thất bại. Ngài MAHOSATHA ví như đám lửa to, rực rở bằng trí tuệ. Nay Ðại Vương hỏi những câu đố nơi bốn vị giáo sư kém trí tuệ ấy, như ánh của đom đóm có đặng chăng? Ðại Vương hãy sai người đi rước MAHOSATHA về và hỏi cho được, bằng không ta chẳng để cho Ðại Vương sống đâu!
    Vị trời hăm dọa Ðức vua như thế rồi biến mất . Lúc ấy Ðức vua lấy làm kinh hãi sợ chết. Sáng ra lâm trào, Ðức vua liền phán cho bốn đại thần dẫn quân đi tìm rước Bồ Tát MAHOSATHA, mỗi vị đi mội hướng. Ngài dạy phải tìm cho gặp MAHOSATHA rồi cúng dường một ngàn lượng và rước về đền lập tức. Bốn vị đại thần tuân lệnh đi kiếm khắp nơi. May thay! Vị đại thần đi hướng đông được gặp Bồ Tát tại quận YAVAMAJJHAGÀNA. Ngài đang nhồi đất làm nồi với chủ nhà, cả hai bàn tay Ngài đều lấm đất như các người thợ khác. Ngài không cố chấp, cách ăn ở bình dân, khác nào kẻ làm công trong nhà vậy. Với hành động cao đẹp này là muốn trả lời cho Ðức vua thấy rằng Ngài không phải là kẻ phản bội.
    Khi thấy vị đại thần từ xa đến, Ngài biết rằng mong được gặp Ngài. Ðến gần Bồ Tát, vị đại thần thi lễ, rồi trình bày ý muốn của Ðức vua, và dâng một ngàn lượng bạc của vua ban thưởng. MAHOSATHA thọ rồi đền ơn lại cho chủ nhà. Xong Ngài lên xe trở về thành. Vị đại thần vào tâu trước cho Ðức vua hay. Ðức vua hỏi: - Khanh gặp MAHOSATHA ở nơi nào và đang làm gì?
    - Tâu, tại nhà thợ làm nồi và đang nhồi đất nắn nồi.
    Ðức vua bèn nghĩ: Nếu MAHOSATHA thật phản nghịch, lẽ đâu phải chịu cực khổ làm nghề ấy. Như thế con Trẫm thật là bậc trung nhân, rồi dạy mời vào.
    Vị đại thần tâu: MAHOSATHA mình lấm đất chưa được tắm rửa.
    Ðức vua nghe thấy làm cảm động, dạy vị đại thần ra cho phép MAHOSATHA về dinh tắm rửa sạch sẽ, trang điểm như trước rồi sẽ vào chầu.
    Sau khi về dinh tắm rửa trang sức xong, Bồ Tát MAHOSATHA vào đền. Ðức vua dùng lời an ủi và hỏi thử rằng: Này con MAHOSATHA! Có hạng người nghĩ rằng đã được vừa ý rồi không làm tội, có hạng người vì sợ phần đông chê trách nên không dám làm tội, có hạng vô trí tuệ không làm được rồi nín thinh; không tìm làm dữ, về phần bậc có nhiều trí tuệ, cái chi cũng biết như con, có thể mong sự nghiệp to tát trong thế gian, vì sao con lại bơ thờ lãnh đạm, không hại Trẫm?
    - Tâu, lệ thường người có trí tuệ không bao giờ chỉ mong vui cho mình mà làm khổ kẻ khác. Dù là nghèo khổ đến đâu cũng chẳng tạo nghiệp dữ. Bậc trí tuệ hằng tìm làm việc chơn chánh, trong sạch, không khi nào bỏ qua lẽ phải, không dám tây vị vì thương, vì ghét, vì si mê. Tâu, xin Hoàng Thượng hiểu như vậy.
    - Này con MAHOSATHA! Trong đời này, khi người đã bị cảnh nghèo đói rồi, có ai nín thinh mà chịu được, họ tìm mưu sanh hạnh phúc trước, rồi sau tự hối tu hành không được sao?
    - Tâu, bậc trí tuệ không bao giờ làm khổ ai, nhất là với an nhân. Không nói đến người, dù là cây mà bậc trí tuệ đã nương tựa, họ cũng không làm rơi lá gãy nhành. Người đã nhờ bóng cây, rồi làm cho cây trơ trụi, gọi là kẻ xấu xa, phản bội, không cần nói đến kẻ sát hại ân nhân, người bạc nghĩa cũng gọi là kẻ phản bạn, có đại tội. Như đối với lệnh Hoàng Thượng, Hoàng Thượng ban thưởng tôi nhiều đặc ân, nếu tôi hại Hoàng Thượng, thì tôi là kẻ phản bội quên ơn.
    Rồi Ngài thuyết về tội của Ðức vua rằng:
    - Tâu lệnh Hoàng Thượng, người sanh ra trong đời, đã thọ ân thầy dạy bảo, dù là một câu kinh, một lời lành cũng gọi là ân sư, kẻ thọ giáp là môn đệ chẳng nên quên ơn, không thận trọng tỏ vẽ lãnh đạm, làm điều không tốt với thầy, kẻ ấy là kẻ vong ân bội nghĩa có tội.
    Rồi Ngài chỉ giáo thêm cho Ðức vua rằng:
    - Người cư sĩ thọ dụng ngũ dục nếu thiếu sự tinh tấn, là kẻ lười biếng thì không gọi là người tốt. Cư sĩ mà biếng nhác thật là không hay đâu. Bậc xuất gia mà phá giới cũng là điều hư hại trong Phật pháp. Hàng vua chúa, mỗi khi làm việc mà không quan sát tỉ mỉ, tinh tường, khi nghe có được lời chi, tinh tường, khi nghe được lời chi thời vội tin, không quan tâm dò xét, phán đoán cho chu đáo, thì không tốt cho đế nghiệp. Lệ thường, bậc thống trị trong nước, mà hành động việc gì thiếu trí tuệ đắn đo, cân nhắc, thật là khổ, không hay. Người có trí tuệ mà bị sân hận đè nén, hoặc tây vị vì sân, thực hành theo sự nóng giận chênh lệch gọi là không tốt trong đời. Tâu Hoàng Thượng, lệ thường Ðức vua cần phải dùng trí tuệ suy xét chó chín chắn rồi mới nên làm, bằng chưa chẳng nên làm. Ðức vua nào thực hành theo trí tuệ và tìm xét cẩn thận thì hằng thịnh đạt, quốc thới dân an, ngai vàng kiên cố.
    Ðức MAHOSATHA (Bồ Tát) vừa giảng dạy xong, Ðức vua VIDEHARÀJA liền thỉnh Ngài lên ngai vàng, còn Ðức vua ngồi bên cạnh phía dưới, rồi phán rằng: Này con! Có vị trời trên cây lọng trên ngai vàng hiện ra hỏi bốn câu. Trẫm và bốn giáo sư đều thúc thủ, cầu con giảng giùm cho rõ.
    - Tâu, câu đố ấy như thế nào, xin Hoàng Thượng cho con rõ?
    Vấn: - 1) Người càng bị đánh chưởi, thì càng làm cho kẻ khác mến yêu, là hạng người như thế nào?
    Ðáp: - Tâu, đó là hài đồng mà người mẹ để nằm trên đầu gối. Thông thường, hài đồng nằm trên gối mẹ hằng vui thích đùa giỡn cùng con; khi đánh, lúc lại đạp níu tóc mẹ, vả miệng mẹ, còn người mẹ lại nâng niu hôn hít con, càng yêu mến con là như thế.
    Vị trời nghe rõ bèn hiện ra, hoan hô khen ngợi là đúng, hay lắm, rồi cúng dường Bồ Tát bằng hoa trời để trong hộp ngọc, xong rồi biến mất. Ðức vua thấy thế càng hoan hỷ ban thưởng rất nhiều châu báu, rồi hỏi thêm câu thứ hai.
    Vấn: 2) - Này con! Người đánh chửi theo ý muốn mình, song chỉ mắng ngoài môi chớ lòng không sân hận rồi trở lại càng thấy thương yêu hơn trước. Ðó là hạng người nào?
    Ðáp: - đó là mẹ chửi rủa con, rồi trở lại thương yêu con hơn trước. Sự thật, khi người mẹ đã thấy con lên 6, 7 tuổi có thể sai khiến được, nhưng đứa con thường hoang du từ sáng cho tới tối, rồi không dám trở về nhà, phải nương náu nơi quyến thuộc, lại vuốt ve mơn trớn con, rồi dẫn con về nhà mà rằng: Nầy con! mẹ rầy la bấy nhiêu mà con phiền sao? Khuyên rồi càng thương con hơn trước.
    Tâu Hoàng Thượng, câu đố thứ nhì là bà mẹ mắng, chửi con theo sở nguyện, rồi càng thương con hơn bội phần.
    Vị trời liền hiện ra cúng dường và Ðức vua ban thưởng như trước. rồi xin hỏi đến câu thứ ba.

  5. muadongbuon832001

    muadongbuon832001 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2006
    Bài viết:
    528
    Đã được thích:
    0
    Vấn: 3) - Người dùng lời dối, đổ lỗi cho nhau, sau lại càng thương yêu nhau hơn trước, là hạng người nào?
    Ðáp: - Tâu, đó là lời vợ chồng đổ lỗi cho nhau rằng: Em không thương anh chỉ tìm yêu kẻ khác, vợ cũng nói anh bỏ bụng em, quyến luyến phụ nữ khác..... Ðổ lỗi cho nhau như thế, rồi trở yêu nhau hơn trước. Ðó là câu đố nói về vợ chồng tỏ lời không thật cùng nhau như vậy, rồi càng trở mến yêu nhau.
    Vị trời liền hiện ra tỏ lời Sadhu và cúng dường, Ðức vua cũng ban thưởng như trước, rồi hỏi đến câu thứ tư.
    Vấn: 4) - Này con MAHOSATHA! Trong đời, có người thọ nhiều vật dụng của kẻ khác, thì càng làm cho họ thêm phần kính mến, đó là hạng người nào?
    Ðáp: - Tâu, đó là nói về các thầy sa môn, Bà La Môn, tu phạm hạnh rồi được thí chủ dâng cúng nhiều vật dụng (thực phẩm, y phục, chỗ ở, mùng, chiếu, thuốc men). Thí chủ được cúng nhiều thì họ càng vui thích, kính mến nhiều vì là làm cho họ càng được phước báu. Câu đố này ám chỉ các thầy sa môn, Bà La Môn tu phạm hạnh trong sạch, làm cho thí chủ phát sanh đức tin dâng cúng vật dụng đến các Ngài. Khi các Ngài thọ lãnh, họ càng hoan hỷ và kính mến nhiều.
    Lần này, Chư Thiên hiện xuống rất nhiều tỏ lời Sàdhu và cúng dường đủ cả 7 báu. Ðức vua ban thưởng nhiều báu vật và phong cho làm đại tướng tại triều. Từ đây Bồ Tát càng thêm vinh quang chói lọi.
    Về sau, bốn vị giáo sư bàn luận nhau về địa vị cao siêu của Bồ Tát rằng: Nay MAHOSATHA rất có uy thế cao sang hơn chúng ta rồi! SENAKA liền nói: Nay tôi có một kế để báo thù MAHOSATHA, vậy chúng ta hãy đến giả bộ thăm viếng và hết lòng thân thiết với MAHOSATHA rồi hỏi về pháp "nên giấu kín việc mình với ai, nên nói việc kín với ai", rồi vào tâu vu cáo cho vua hay rằng MAHOSATHA muốn đoạt ngai vàng. Các ông có hợp ý chăng?
    Ba vị kia đồng tán thành rồi đem nhau đến dinh MAHOSATHA. Khi gặp nhau, MAHOSATHA (Bồ Tát) tiếp đãi bốn vị giáo sư rất trọng hậu. Sau khi trò chuyện vui vầy SENAKA bèn hỏi: Thưa bậc trí tuệ, con người nên giấu việc chi kín với ai, nói việc kín đến ai?
    - Bậc trí tuệ không nên tỏ việc kín cho ai cả.
    Nghe như thế bốn vị giáo sư rất hoan hỷ, bèn từ giả ra về. Sáng ra, bốn vị giáo sư vào chầu tâu lén cho vua hay rằng MAHOSATHA (Bồ Tát) cố ý giấu việc kín, cố làm điều phản.
    Khi MAHOSATHA(Bồ Tát) vào chầu, vua liền hỏi:
    - Này con MAHOSATHA (Bồ Tát)! Con nghĩ thế nào? Việc kín của mình nên tỏ cho ai biết?
    - Tâu, lệ thường việc kín không nên tỏ cho ai biết, thì sẽ đem nhiều lợi ích cho mình, bằng nói việc kín của mình với kẻ khác, bậc trí tuệ không khen đâu, khi công việc mong muốn được kết quả rồi mới nên nói ra. Các bậc trí tuệ thấy thế, nên hằng dấu nhẹm việc kín của mình.
    Nghe MAHOSATHA (Bồ Tát) tâu như thế, Ðức vua liếc xem SENAKA và nghĩ tin chắc lời tâu lén của bốn vị giáo sư kia, cho MAHOSATHA là mưu phản, nên Ðức vua rất bất bình. MAHOSATHA (Bồ Tát) thấy thái độ của vua, đoán biết rằng vua tin tưởng lời vu cáo của SENAKA rồi quỳ lạy ra khỏi đền.
    Ðức Bồ Tát nghĩ rằng: Bốn vị này, một vị tâu chỉ nên nói việc kín với bạn, một vị nói nên cho con hay, một vị chỉ nên nói cho mẹ biết, một vị nói nên cho em trai rõ, vì họ đã toan tính nhau trước rồi. Vậy nay ta vào núp trong thùng đựng nếp này để tìm nghe cho rõ nhân quả thế nào. Nghĩ như thế, Ngài dạy người hầu dời thùng đựng nếp lại, Ngài vào núp trong đó, bảo người lấy đồ đậy che cho khuất và dặn rằng: - Sau khi bốn vị giáo sư đến hội rồi đi ra khỏi nơi đây, ngươi sẽ trở lại cho ta hay.
    Khi ra khỏi ngọ môn, SENAKA bèn hỏi về lời tâu của 3 vị rằng: Chỉ nên nói sự kín cho mẹ biết, cho con và cho em trai đó do nhân nào?
    Ba vị kia đồng hỏi lại SENAKA: Còn ông tâu nên nói việc kín với bạn là thế nào? SENAKA bèn khai rằng: Các ông có biết cô gái giang hồ NAGARA chăng?
    - Chúng tôi biết nàng ấy, song hôm nay không biết cô ấy ở đâu?
    - Nàng ấy đã bị tôi giết rồi. Một hôm, tôi dẫn nàng đi dạo nơi ngự uyển và ngủ cùng nàng, song thấy nàng có nhiều vật quí trong mình tôi phát lòng tham, nên tôi sát hại nàng rồi đoạt cả đồ nữ trang, nay tôi vẫn còn cất giữ để làm kỷ niệm. Tôi giấu kín việc ấy, chỉ cho bạn thiết biết mà thôi, vì thế, nên tâu rằng chỉ nói việc kín cho bạn thiết biết.
    SENAKA bèn hỏi việc kín của PAKUTTHA. PAKUTTHA khai rằng: Chân tôi có bệnh phong, chỉ có em trai tôi biết. Mỗi buổi sáng em tôi lấy thuốc băng bó chân bệnh lở, rồi tôi mới vào chầu. Ðức vua gọi tôi vào gần rồi dựa mình vào chân tôi và khen rằng chân tôi mền dịu, nhưng mềm dịu do băng bó ghẻ phong đó. Ðức vua mà biết được ắt tôi bị tội nặng, nên không có ai biết cả, chỉ có em tôi biết mà thôi.
    KAMINDA khai sự kín của mình rằng: Tôi đã trộm ngọc ma ni của đức Ðế Thích ban cho Ðức vua KUSARAJA là hoàng thái hậu của Ðức vua VIDEHARÀJA hiện thời. Nhờ oai lực của ngọc ma ni, nên mỗi khi tôi vào chầu, Ðức vua gọi tôi trước hơn cả, rồi ban cho tôi từ 8 đến 16 hoặc 32 đồng mỗi bữa. Việc kín này chỉ có mẹ tôi hiểu, nên tôi đã tâu như vậy.
    Cả bốn vị giáo sư trình bày việc kín của mình như thế như thế, rồi trở về nhà, chờ sáng hôm đặng giết MAHOSATHA (Bồ Tát). Ðức Bồ Tát núp trong thùng đựng nếp nghe đủ cả.
    Ðức vua vì không kịp suy xét, nên vội tin lời vu cáo của SENAKA, bèn trao gươm vàng dạy SENAKA phải hạ sát Bồ Tát trong buổi sáng mai khi Bồ Tát vào chầu.
    Sáng hôm sau, bốn vị giáo sư mặc triều phục đến trước ngọ môn núp chờ hại Bồ Tát. Ngày càng trưa, chẳng thấy Bồ Tát đến, nên bốn vị vào chầu. Ðức vua phán hỏi, các khanh đã giết MAHOSATHA (Bồ Tát) rồi chăng?
    - Tâu, chúng tôi chờ lâu mà chẳng thấy MAHOSATHA (Bồ Tát)
    Bồ Tát chờ mặt trời mọc lên cao rồi mới mặc triều phục vào chầu, có cả quân hộ vệ, quỳ lạy Ðức vua. Ðức vua VIDEHARÀJA động lòng hiểu rằng MAHOSATHA (Bồ Tát) không có tâm phàn nghịch, nên hết lòng kính trọng ta. Ngài phán gọi MAHOSATHA (Bồ Tát) vào gần và hỏi: Hôm qua con về sớm, bữa nay con về trể, con có điều chi nan chăng? Và cớ nào con vào chầu có cả quân hộ vệ.
    - Tâu, hôm qua Hoàng Thượng trao gươm vàng cho bốn vị giáo sư lén hại tôi tại ngọ môn, cho nên hạ thần vào chầu hôm nay có cả quân hộ vệ.
    Ðức vua nghe qua rồi liếc xem Hoàng Hậu, vì nghi bà thông tin cho MAHOSATHA (Bồ Tát). Ðức MAHOSATHA (Bồ Tát) hiểu rằng, vua thịnh nộ Hoàng Hậu, nên Ngài quỳ tâu rằng: Thánh thượng nghi lệnh Hoàng Hậu thông tin cho tôi biết chuyện kín của thánh thượng. Hạ thần xin trình bày những điều kín cho thánh thượng tường tri.
    - Tâu, SENAKA này, có tâm hèn hạ, làm những tội tày trời, ông là bậc giáo sư thân cận chỉ dạy thánh thượng. Tâu SENAKA là bậc đê hèn, dẫn cô gái giang hồ NAGARA đến ngự uyển ân ái nhau rồi giết nàng NAGARA đoạt tất cả nữ trang để làm của.
    - Tâu, nếu Hoàng Thượng mong bắt kẻ nghịch, nên nả tróc SENAKA trước đi.
    Ðức vua hỏi SENAKA. SENAKA nhìn nhận tội lỗi y theo lời của MAHOSATHA (Bồ Tát) vừa tâu. Ngài hạ lịnh bắt giam SENAKA nơi ngục đường.
    Kế, MAHOSATHA (Bồ Tát) lần lượt trình bày nghiệp ác của PAKUTTHA có ghẻ hong nơi chân, không đáng vào chầu Bệ Hạ đâu. KAMINDA có bệnh điên, bị quỷ nhập không nên làm thầy Hoàng Thượng đâu. DEVINDA là kẻ trộm ngọc ma ni. Ðức vua nghe tâu qua, rồi hỏi cả 3 vị đều thú tội. Ðức vua truyền lệnh tống giam vào ngục như SENAKA.
    Tiếp theo, đức MAHOSATHA (Bồ Tát) giảng thuyết về đức tính của sự thầm kín rằng: Tính giấu kín là cao quý đáng cho bậc trí tuệ ngợi khen. Sự thố lộ việc bí mật của mình hàng trí tuệ hằng cố tránh. Bậc trí tuệ mong điều gì, mà chưa thành tựu thí vẫn giữ kín, chẳng cho một kẻ nào biết được. Phàm ở đời bậc trí tuệ hằng giữ kín công việc như giữ hầm của cải. Sự không tiết lộ là tánh cách quí của hàng trí tuệ. Các Ngài không bao giờ nói việc của mình cho phụ nữ nghe, với kẻ thù cũng thế, vì sẽ có tai hại đến mình. Với kẻ tham danh dục lợi, với người nghịch hay phường giả dối ngoài môi (khẩu Phật tâm xà), bậc trí tuệ vẫn kín miệng. hàng trí tuệ thường lo sợ kẻ biết việc kín của mình.
    Lệ thường bậc trí tuệ muốn trình bày việc kín cho bạn trí tuệ nghe, thì hằng bàn với nhau trong khoảng trống, để ngừa sự nghi nan kẻ khác. Nếu luận cùng nhau trong nơi khuất lấp, làm cho người tìm hiểu dễ dàng, sẽ bị tiết lộ mau lẹ.
    Ðức vua nghe lời giảng giải thanh cao của Bồ Tát lấy làm hoan hỷ, rồi dạy quân dẫn bốn vị pháp sư ra pháp trường xử trảm. Bồ Tát liền quỳ, tâu xin lượng khoan hồng của vua, xá tội cho họ. Ðức vua chuẩn tấu, nhưng dạy phải làm tôi mọi cho Bồ Tát đến trọn đời. Bồ Tát cầu vua ân xá phục chức như xưa.
    Với hành động cao đẹp này, làm cho Ðức vua kính phục và suy nghĩ rằng MAHOSATHA (Bồ Tát) là bậc hiền nhân quân tử, không lòng phản nghịch và từ bi cứu vớt người thù nữa thật là hiếm có. Ðức vua ban thưởng đến MAHOSATHA (Bồ Tát) rất nhiều báu vật.
    Từ đây, bốn vị giáo sư chẳng còn phương chước nào vu cáo Bồ Tát nữa, ví như rắn đã bị người lấy nọc ra hết.
    Bồ Tát bắt đầu dạy đạo cho Ðức vuavà lo xây thành đắp lũy kiên cố, gìn giữ sơn hà xã tắc cho được thịnh đạt lâu dài. Ngài có nuôi con két POTAKA tập nói tiếng người, két rất khôn ngoan, dạy sao thi hành theo không sai chạy. Bồ Tát bèn dạy két POTAKA bay đi dọ thám các nước, cho biết ngoại bang nào mong mõi điều gì, cho tỉ mỉ rồi trở về báo cáo cho Ngài rõ.
    Két POTAKA thừa lệnh bay đến kinh đô UTTARAPANCÀ do Ðức vua CULANÌBRAHMADATTA trị vì, có vị cố vấn danh là KEVATA là bậc bác học đang dạy đạo cho Ðức vua.
    Một ngày nọ, vị cố vấn KEVATA thức sớm xem thấy trong dinh có đủ cả báu vật và kẻ tùy tùng thật là cao sang, hiếm người sánh bằng, nên ông nghĩ rằng: Những sự vinh quang đều do Ðức vua ban thưởng cho ta. Vậy ta nên tìm cách làm cho Ðức vua trở thành vị Hoàng Ðế duy nhất trong đời, thì ta cũng được quyền cao tước lớn, một vị cố vấn tối cao. Xong KEVATA liền vào chầu, tâu rằng: Hạ thần có việc bí mật cần tâu cho Hoàng Thượng rõ. Ðức vuanghe rồi đồng cùng KEVATA vào ngự uyển
    Khi két POTAKA thấy cử chỉ của vua và KEVATA như thế, hiểu rằng vua và vị cố vấn có việc kín muốn bàn cùng nhau. Vậy ta nên cố gắng tìm nghe cho đầy đủ, nghĩ rồi liền bay theo vua và KEVATA

  6. muadongbuon832001

    muadongbuon832001 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2006
    Bài viết:
    528
    Đã được thích:
    0
    Khi Ðức vua CULANìBRAHMADATTA đến ngự uyển an tọa rồi, KEVATA tâu rằng: việc mà hạ thần tính đây chỉ nên nghe được bốn tai mà thôi, nếu Hoàng Thượng nghe theo, thì sẽ thành một vị đại Hoàng Ðế trong đời.
    Nghe qua lời tâu của KEVATA, Ðức vua lấy làm thoả thích vông cùng, nên phán hỏi rằng: v?y khanh muốn cho Trẫm phải làm thế nào, Trẫm sẽ làm theo lời sáng suốt của khanh
    - Tâu, xin Hoàng Thượng phát binh đến các tiểu quốc. Phần hạ thần đi đi khuyên các tiểu bang nên hàng phục, vì Ðức vua của tôi nước giàu dân mạnh có đủ binh hùng tướng giỏi lại thêm đức hạnh, không cự địch nỗi, các Ngài đầu hàng thì sự nghiệp Ðế Vương đâu có mất, cũng vẫn ngồi trên ngai vàng như cũ, lại khỏi hao binh tổn tướng. Như thế các tiểu vương sẽ đầu hàng. Khi các tiểu bang đã qui phục, thì chúng ta sẽ đem binh chinh phạt các cường quốc. hạ thần cũng đi chiêu hàng; nếu các đại quốc chống cự, chừng ấy ta có thêm binh rồng tướng mạnh, sẽ cử đại hùng binh chinh phạt bắt vua ấy mà hạ sát. Khi đã thâu phục được tất cả một trăm lẻ một nước, chúng ta sẽ bày yến tiệc trọng đãi một trăm lẻ một vị vua tại ngự uyển, cho uống rượu độc chết hết, thỉ lo chi Hoàng Thượng không được làm một vị đại Hoàng Ðế trên thế gian này. tâu, xin tháng thượng giữ kín kế này chẳng nên để cho ai thấu rõ.
    Vì két POTAKA thám tử, được nghe rõ mọi điều, liền lần xuống nhánh dưới rồi đại tiện ngay KEVATA. Vị cố vấn này ngước đầu lên xem, và nói rằng cái chi rớt trên đầu ta đây, vừa thả mồm thì két lại đại tiện ngay vào nữa, rồi két kêu ki ri, ki ri, xong nhảy lên cành trên nói bằng tiếng người rằng: - Này cố vấn KEVATA, ngươi tưởng rằng chỉ có bốn tai nghe sao? Bây giờ đây đã có 6 tai nghe rồi, dần dần sẽ thành 8 tai và rất nhiều tai nghe thêm nữa.
    Ðức vua CULANI và vị cố vấn rất bực tức, liền dạy quân lính phải bắt cho được con két. Nhưng than ôi két đã đập cánh bay về phương trời xa thẳm làm cho Ðức vua CULANI và cố vấn KEVATA ôm sầu nuốt hận.
    Két POTAKA đến nước, bay thẳng vào dinh, đáp trên vai của MAHOSATHA (Bồ Tát), vì két POTAKA này biết nói tiếng người và được tập thuần thục rất khôn ngoan, không muốn cho ai hay biết, nên nó đậu trên vai Bồ Tát, là chỉ mong một mình đức Bồ Tát nghe mà thôi, đây là thói quen của két POTAKA. Ðức MAHOSATHA đem két POTAKA lên tầng lầu cao thanh vắng, rồi hỏi người đi đâu dò xét như thế nào?
    - Thưa chủ, tôi bay đến thủ đô UTTARA PANCÀ MAHANAGARA có Ðức vua CULANÌBRAHMADATTA thống trị và vị cố vấn KEVATA đi đến thượng uyển bàn việc kín cùng nhau, rồi két POTAKA tỏ hết những lời KEVATA tâu vua CULANÌ cho MAHOSATHA nghe.
    Khi đã rõ câu chuyện quan trọng như thế, Bồ Tát bèn thưởng cho két POTAKA vừa lòng. Từ đây MAHOSATHA lo việc cải cách điền địa khuyếch trương thương trường, chỉnh đốn việc ăn ở của nhân dân. Ngài cho dân nghèo ra ở ngoài thành, nhà giàu vào cư ngụ trong thành và dạy phải làm ruộng rẫy, tích trữ lúa gạo v.v. cho đầy kho.
    Ðức vua CULANÌBRAHMADATTA thi hành theo lời tâu của KEVATA đem binh chinh phạt các tiểu quốc. Còn KEVATA thì dùng lời lẽ để khuyến dụ các tiểu bang qui thuận, rồi đến đại quốc. Cứ theo kế hoạch ấy chẳng bao lâu, Ðức vua CULANÌ thâu phục được một trăm lẻ một nước nhỏ lớn.
    Khi ấy, những thám tử của MAHOSATHA đã cho đi dò xét trong các nước cho người trở về phi báo cho Bồ Tát rõ tự sự rằng: Trong bảy năm, bảy tháng, bảy ngày, Ðức vua CULANÌBRAHMADATTA đã chinh phục tất cả 101 nước chỉ còn sót xứ MITHILÀ. Ðức vua CULANÌ bèn xúi KEVATA đem binh đánh thành MITHILÀ.
    KEVATA tâu: - Kinh đô MITHILÀ có MAHOSATHA PAN***A bậc nhiều trí tuệ đã bảo vệ kiên cố, khó cho chúng ta phá được. Vả lại, bậc nhiều trí tuệ dù có binh chinh phạt được cũng bị hao binh tổn tướng rất nhiều, chi bằng ta để yên, thong thả rồi xứ MITHILÀ cũng sẽ vào tay chúng ta.
    Sau khi đã thâu binh về nước, Ðức vua CULANÌ dạy dọn dẹp, trang hoàng thượng uyển để tiếp đãi tất cả 101 vị vua đã qui phục rồi dùng độc tửu, giết cho chết hết để được làm Ðại Hoàng Ðế một mình.
    Các thám tử bèn thông tin cho MAHOSATHA hay rằng, ngày này, tháng này Ðức vua CULANÌ làm lễ ẩm tửu khải hoàn.
    Ðức MAHOSATHA nghe qua biết rõ kế độc ác sâu hiểm của vua CULANÌ. Ngài rất thương xót tất cả các vị vua sẽ mang đại hại vì rượu độc: - "Ta là người có trí tuệ đâu nở ngồi yên xem cái chết của các vua ấy đâu. Vậy, ta ta hãy là nơi nương tựa của quý Ngài". Nghĩ xong, Bồ Tát bèn truyền lệnh, sai 1000 quân tinh nhuệ cho qua đến ngự uyển của vua CULANÌ BRAHMADATTA, nữa đêm thừa lúc chúng bất cẩn, tấn công vào đập phá tất cả những tĩn rượu độc trong cuộc lễ và cho biết rằng MAHOSATHA sai quân phá hoại.
    Ðức vua CULANÌ và 101 tiểu vương rất giận MAHOSATHA. Ðức vua CULANÌ bèn truyền lệnh khiến 101 tiểu vương đem binh chinh phạt thành MITHILÀ bắt cho được MAHOSATHA và vua VIDEHARÀJA hạ sát cho được mới nghe. Xong rồi Ðức vua CULANÌ bèn vào phòng kín để thương nghị với vị cố vấn KEVATA
    KEVATA tâu: - Thủ đô MITHILÀ có MAHOSATHA bảo vệ thành trì kiên cố như hang đá, vả lại người là trí tuệ trên đời, sợ e ta đem binh đi không kết quả chi, mà lại còn mất thanh danh nữa.
    Nghe KEVATA tâu như vậy, nhưng Ðức vua CULANÌ vì háo chiến, cho mình là chúa tể, tự cao nên không nhận lời, bèn dẫn đại chủng binh và cả một trăm lẻ một tiểu vương qua chinh phạt thành MITHILÀ.
    Những thám tử vào báo tin cho MAHOSATHA hay rõ tự sự. Ðức vua VIDEHARÀJA liền phát binh phòng thủ cẩn mật không dám dễ duôi.
    Ðức vua CULANÌ dẫn đại binh đến thành MITHILÀ, rồi lệnh bao vây thành bằng voi binh một vòng, mã binh một vòng, sau rốt là bộ binh. Quân binh trùng trùng điệp điệp, nào tiếng voi, ngựa, xe, người nghe rầm rộ, vang rền như trời gầm núi lở.
    Nói về bốn vị giáo sư khi nghe tiếng quân binh rầm rộ, nên lo sợ lén vào tâu Ðức vua VIDEHARÀJA: - Tâu lệnh Hoàng Thượng, chẳng hay chuyện chi xảy ra, mà có tiếng người, ngựa la ó rền trời như thế?
    - Trẫm nghe báo rằng Ðức vua CULANÌ, dẫn binh qua đánh nước ta. Vậy Trẫm cùng các khanh lên lầu xem thử. Vua tôi đồng nhau lên xem thấy. Ôi! Là quân binh trùng trùng điệp điệp vây chặt vòng thành, khiến cho chúa tôi kinh sợ chết, than thở cùng nhau chẳng biết mưu kế chi để bôn đào tị nạn. Trong lúc sợ hãi ấy, thình lình thấy đức Bồ Tát mặc triều phục chỉnh tề vào đến sân rồng, sắc mặt vui tươi bình tĩnh không chút gì lo ngại, như chúa sơn lâm.
    Ðức vua thấy MAHOSATHA vào chầu, Ngài rất mừng và nghĩ rằng: Ngoài MAHOSATHA ra không có một ai đáng là nơi nương nhờ của Trẫm được. Ngài liền ngõ lời rằng: Này con MAHOSATHA! Nay vua CULANÌBRAHMADATTA đã cử đại hùng binh có cả 101 tiểu vương đến vây chặt bốn phía thành nào là voi binh, mã binh, xa binh và bộ binh đông nghẹt, không người qua lọt, voi rống ngựa hí, xe kêu, người la rầm rộ rền trời, vang đất, chúng ta không còn nẽo trốn thoát, ngoài con ra Trẫm xét chẳng có ai đủ tài năng giải khổ được, con mau liệu biện mưu nào cho Trẫm khỏi sa vào tay kẻ nghịch.
    MAHOSATHA nghe qua những lời phó thác sanh mạng và tin tưởng ở mình, Ngài rất tội nghiệp cho Ðức vua quá lo sợ chết, nên yêu cầu ta giải khổ cho. Vậy ta nên làm nơi nương tựa của Ðức vua, ví như vị lương y là nơi nhờ cậy của bệnh nhân, như thực phẫm là nơi trông cậy của người đói; hoặc như nước là nơi cần yếu của kẻ khát.
    Nghĩ như thế Bồ Tát bèn tâu rằng: - Xin Hoàng Thượng yên tâm chớ lo ngại chi cả, sự dẹp giặc là phận sự của hạ thần, dù vua CULANÌ có quân binh nhiều đến đâu, hạ thần cũng trừ được dễ dàng, hạ thần sẽ làm cho chúng chạy bỏ khí giới và lương thực lại cho chúng ta dùng. Tâu xong MAHOSATHA bèn quỳ lạy lui ra.
    Ðức MAHOSATHA truyền rao cho nhân dân đừng lo sợ chi cả, đối với kẻ nghịch, chúng dân chỉ nên diễn kịch vui chơi 7 ngày đêm đi, nều cần mua chi hãy lấy tiền nơi ta mà dùng. Còn về phần chống kẻ ngoại xâm thì thuộc về phần ta, các ngươi chớ nên lo sợ.
    Dân gian nghe lời bá cáo đanh thép của MAHOSATHA họ rất an vui làm theo, chỉ biết ăn mặc vui chơi, đờn ca xướng hát cả ngày lẫn đêm. Quân giặc nghe kèn trống ca hát vui chơi như thế, bèn tùng theo các cữa ngõ vào xem, quân gác cũng cho phép tự do.
    Ðức vua CULANÌ nghe tiếng trống kèn, ca hát hỉ hả vang rền trong thành lấy làm lạ nên hỏi các quan thám tử và họ tâu rằng: - Chúng tôi có vào theo cửa nhỏ đến thành nội xem họ diễn kịch và hỏi thăm vì sao nay trong nước bị giặc vây thành trùng trùng điệp điệp, mà không lo sợ, các anh cứ vẫn vui chơi như vầy?
    Chúng dân đáp rằng: - Ðức vua của chúng tôi có nguyện, bao giờ có giặc đến vây thành thì cho phép nhân dân được vui chơi như thế. Nay lời nguyện đã đến, nên chúa chúng tôi bày tiệc cuộc chơi ăn mừng như vầy.
    Nghe quân thám tử tâu, Ðức vua CULANÌ phát lòng tự ái đại nộ ra lệnh cho quân lính tấn công hãm thành và tiêu diệt nhân dân đang ăn chơi trong thành đó, bắt cho được vua VIDEHARÀJA lấy thủ cấp đem nạp cho Trẫm lập tức. Ðược lệnh truyền, quân lính ồ ạt tiến đến, kẻ gươm, người dáo cung tên khí giới đầy đủ xông vào các cửa thành. Nhưng phải một phen thất bại, bị quân trên thành đổ sỏi, cát nóng và bắn tên ra chết vô số; không một ai đột nhập gần vào thành được phải thối binh trở lại.
    Ðức vua CULANÌ bèn thương nghị với vị cố vấn KEVATA. KEVATA tâu: - Bây giờ ta phải chiến đấu trường kỳ mới có thể thắng được vua VIDEHARÀJA. Chúng ta nên kiên nhẫn vây thành chặt chẽ, lâu ngày dân trong thành hết lương thực, chừng ấy ta sẽ vào bắt cóc họ không khó. Vây càng lâu cũng thấy không hiệu quả, vì trong thành đã tích trữ đầy đủ lương phạn không thiếu hụt chút nào. Trái lại quân lính của vua CULANÌ phải chịu vất vả cực khổ, dầm sương dãi nắng lâu ngày mòn hơi kiệt sức, hao tổn lương thực.
    Thấy thế Ðức vua bèn hỏi ý với vị cố vấn KEVATA. KEVATA tâu: - Bây giờ còn một kế là đấu pháp với nhau mới rõ tài cao thấp.
    Ðức vuahỏi: - Thế nào là đấu pháp?
    - Tâu lệnh Hoàng Thượng, nghĩa là dùng pháp mà đấu nhau không dùng quân lính, hai vị trí tuệ của hai nước sẽ hội nhau trong một nơi, để luận đạo cùng nhau. Người nào cuối đầu lễ bái là bại, nghĩa là tôi già, MAHOSATHA trẻ. MAHOSATHA không rõ sẽ mắc kế chúng ta, khi gặp nhau thì MAHOSATHA sẽ bái chào tôi, như thế là người bại trận.
    Ðức vua CULANÌ nghe rất khen ngợi rồi gởi thông điệp cho Ðức vua VIDEHARÀJA hay rằng: - Sáng mai tôi và Ðại Vương gởi bậc trí tuệ cho hai người gặp nhau trong một nơi nào để đấu pháp. n?u người nào lễ bái trước gọi là bại.
    Ðức vua VIDEHARÀJA được thông điệp liền cho Bồ Tát xem. Xong trả lời ưng thuận và hẹn nơi đến để đấu pháp cho vua CULANÌ rõ. MAHOSATHA truyền cho người đến dọn dẹp sắp đặt nơi đấu pháp ngoài thành.
    Sáng ra Ðức vua CULANÌ và 101 tiểu vương đều dự ra xa chờ xem hai bậc trí tuệ đấu pháp. Với bộ triều phục chỉnh tề MAHOSATHA chầu vua VIDEHARÀJA. Ðức vua hỏi: - Hôm nay con đi đấu pháp phải chăng? Vậy con cần vật chi thì được phép lấy dùng.
    MAHOSATHA tâu: Hạ thần cần ngọc ma ni để dụ dỗ KEVATA.
    - Này con! Con cứ tự tiện lấy đem theo đi. Chúc con đi được nhiều may mắn và đắc thắng khải hoàn.
    Khi MAHOSATHA ra khỏi thành gần đến nơi, Ngài xuống xe, rồi ngự đến chỗ đấu pháp với vẻ mặt tươi tỉnh bạo dạn đầy đủ nghị lực; không khác nào chúa sơn lâm ra khỏi động báu. Tất cả 101 tiểu vương đến hội họp gần nơi ấy, được thấy quí tướng của MAHOSATHA thì phát tâm phỉ lạc, trầm trồ khen rằng: Vị đại nhân con của Triệu phú SIRIVADDHANA ẩn đủ trí tuệ trong đời không ai sánh kịp. ai cũng đều tán dương oai lực phi thường rằng như trời Ðế Thích có cả Chư Thiên hậu hạ tùy tùng. Khi MAHOSATHA cầm ngọc ma ni đi ngay đến trước mặt vị cố vấn KEVATA. KEVATA không thể đứng vững được, nên bước tới bái chào MAHOSATHA rồi nói: - Này bậc trí tuệ MAHOSATHA, hai ta đều là hàng trí tuệ, tôi đến nương náu trong nước của Ngài đã lâu, vì sao Ngài không biếu lễ vật gì cho tôi?
    - Này Ngài cố vấn, tôi định sẽ dâng lễ đến Ngài, nhưng tìm mãi chẳng thấy vật chi quý báu ứng đáng biếu Ngài. May thay, tôi vừa được ngọc ma ni trong ngày nay, ngọc ma ni này tôi cho là của biếu xứng đáng để dâng đến Ngài. Vì thế, tôi mới cố gắng đến đây xin dâng cho Ngài bây giờ, mời Ngài đến thọ lãnh.
    Vị cố vấn lòng mừng khắp khởi tin rằng là thật, thấy MAHOSATHA cầm ngọc ma ni hào quang chiếu sáng liền đưa tay ra để thọ. MAHOSATHA bèn ném ngọc ma ni trên tay KEVATA, ngọc ma ni liền rớt xuống đất, lăn vào gần chân Bồ Tát. KEVATA mong được ngọc nên vội vàng cuối xuống gần chân MAHOSATHA để lượm ngọc ma ni. Thuận tiện, Bồ Tát dùng một tay ấn mạnh vào cổ KEVATA không cho đứng dạy được. Bồ Tát bèn tuyên bố rằng: - Này, Ngài cố vấn nên ngồi dậy đi, mời Ngài không nên lễ bái tôi làm gì!
    Lời tuyên bố của Bồ Tát nghe vang đến tất cả quân lính, làm cho ai cũng đều thấy rõ và nhận rằng vị cố vấn đang quỳ bái đức Bồ Tát, cho đến 101 tiểu vương và vua CULANÌ cũng đồng nhận như vậy. Quân lính của MAHOSATHA cũng tiếp báo cáo lên rằng: KEVATA quỳ lạy MAHOSATHA.
    Ðịch quân đều hãi hùng sợ chết, đồng nhau lên ngựa chạy dài về thành UTTARAPANCÀ. Quân lính của MAHOSATHA càng la to lên rằng: Ðức vua CULANÌ trốn rồi, làm cho toàn cả địch quân rối loạn mạnh ai nấy chạy hết. Còn vị cố vấn KEVATA cố gắng chạy theo vua tâu rằng: Xin các Ngài dừng lại, không phải tôi lạy MAHOSATHA đâu.
    Mặc dầu KEVATA kêu nói, họ cũng không cần nghe và đáp rằng: Ngươi là kẻ đê hèn, sau lưng thì ngươi ngã mạn, nói sẽ làm cho MAHOSATHA lễ bái mình, đến khi gặp mặt MAHOSATHA thì hoảng sợ liền lạy sát đất, bây giờ lại nói không lạy MAHOSATHA, ai tin được, chúng ta không nghe ngươi đâu!
    Vị cố vấn nói: - Xin các Ngài hãy tin sự thật là tôi cuối đầu lượm ngọc ma ni của MAHOSATHA biếu cho nhưng đã làm rơi xuống đất
    - Vậy ông có lượm được ngọc ma ni không?
    - Không, tôi vừa cuối xuống bị MAHOSATHA đè cổ cứng như sắt, khiến tôi không đứng dậy được.
    Nghe giải rõ nên Ðức vua CULANÌ đem toàn quân trở lại vây thành MITHILÀ như trước.
    Ðức MAHOSATHA bị sợ vây lâu ngày lòng dân rối loạn, nên Ngài tìm mưu đuổi địch trở về. Ngài cố tìm người tri thức và trung thành để giúp Ngài; Ngài bèn gọi ANUKENATA vào rồi hỏi: Ngươi có hết lòng giúp ta chăng?
    - Thưa, tôi sẵn lòng tuân lời dạy bảo của Ngài, dù cho thân này tan nát tôi cũng vui lòng làm theo.
    Bồ Tát dạy ANUKENATA làm khổ nhục kế trá hàng, và trù hoạch cho ANUKENATA thi hành. Trước hết bắt tội ANUKENATA âm mưu phản nghịch giam vào ngục hình tra tấn thậm tệ, đến đỗi máu đổ thịt rơi. Một hôm, ANUKENATA vượt ngục chạy qua quân địch than khóc, oán trách MAHOSATHA làm động lòng quân lính của vua CULANÌ. ANUKENATA được dẫn vào chầu vua CULANÌ để tâu rõ tự sự rằng: MAHOSATHA thấy tôiđược Ðức vua VIDEHARÀJA tin cậy ban thưởng nhiều rồi sanh lòng ganh tỵ, tìm kế đoạt hết binh quyền tôi, rồi còn dạy quân tra tấn tôi tàn nhẫn, nên tôi buộc tình phải trốn qua xin đầu hàng Hoàng Thượng để dâng kế hoạch đoạt thành MITHILÀ và bắt MAHOSATHA cùng vua VIDEHARÀJA giết cho tuyệt nọc.
    Ðức vua CULANÌ nghe được rất mừng và phong cho làm hầu cận vua. Trong những hôm sau động binh, ANUKENATA tùng dịp tâu dối rằng: Tôi đã xem xét tỉ mỉ, thấy phần đông các vương và binh sĩ cho đến vị cố vấn KEVATA đều cố ý theo MAHOSATHA, vì trong các vật dụng đều có dấu hiệu riêng của MAHOSATHA, xin Ðại Vương tra xét thì rõ. Ðây là kế hoạch đã vạch sẳn của MAHOSATHA.

  7. muadongbuon832001

    muadongbuon832001 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2006
    Bài viết:
    528
    Đã được thích:
    0
    Khi Ðức vua CULANÌ dạy ANUKENATA lấy ra cho Ngài xem, thấy rõ tang vật bèn tin hẳn là thật. Rồi Ngài hỏi ý kiến ANUKENATA,: Như vậy phải làm thế nào?
    - Tâu, hạ thần xin cầu Bệ Hạ hồi trào để bảo tồn chúa tôi, chẳng nên ở đây vì sẽ bị kế của MAHOSATHA thì trở tay không kịp.
    Ðức vua nghe rất lo sợ, rồi hỏi kế nơi ANUKENATA, ANUKENATA tâu: - Bệ hạ nên trở về nước nội đêm nay, nếu sáng ra không tránh khỏi ta MAHOSATHA đâu. Vì tất cả quân binh, 101 tiểu vương, nhất là vị cố vấn KEVATA đã thọ ngọc ma ni của MAHOSATHA rồi mà trở lại nói dối là ngọc ma ni bị MAHOSATHA lấy lại.
    Ðức vua CULANÌ nghe được kinh hãi sợ chết, hối ANUKENATA mau thắng yên ngựa cho Ngài bôn đào. khi lên ngựa xong, ANUKENATA theo đưa vua CULANÌ một đổi đường, rồi quay ngựa trở lại la lên rằng Ðức vua CULANÌ đã trốn rồi. Khi đó các tiểu vương và cố vấn KEVATA tin rằng Ðức vua đã bị MAHOSATHA bắt rồi, nên ai cũng đều kinh khủng, sợ chết lên ngựa tẩu thoát, không kịp mang theo vật chi cả, tất cả quan binh cũng ùa nhau chạy tán loạn.
    Sáng ra, được tin thám tử phi báo, ngọ môn quan mở cửa thấy vật dụng bỏ đầy đường, quân vào tâu cho MAHOSATHA rõ. Ðức MAHOSATHA dạy: - Vật của vua CULANÌ và 101 tiểu vương thì lượm thâu đem dâng cho Ðức vua mình. Phần nào của triều phủ và vị cố vấn KEVATA thì đem cho ta. Còn lại bao nhiêu thời cho quân binh và dân chúng được phép lấy dùng. ai ai cũng đều hoan hỷ nhặt tiền bạc, vàng, ngọc rất nhiều đến nữa tháng mới hết vật quí. Tìm lượm những vật dụng thường đến bốn tháng mới hết. Ðức MAHOSATHA bèn ban thưởng cho ANUKENATA rất nhiều của cải châu báu.
    Từ đó, nhân dân trong xứ MITHILÀ trở nên giàu sang thạnh vượng
    Nói về vị cố vấn KEVATA càng nghĩ càng tức giận MAHOSATHA, đã bị đại bại còn mang vết thương trên mặt, hết sức là nhục nhã; nên KEVATA hằng tìm mưu chước để báo thù.
    Một hôm, vị cố vấn KEVATA thấy một kế rất hay, là nhờ đến nàng Công chúa của Ðức vua CULANÌ có nhan sắc xinh đẹp tuyệt vời (nhạn sa, cá lặn) như ngọc nữ, và thầm nghĩ: "Nếu ta đem Công chúa làm mỹ nhân kế dụ dỗ gả cho vua VIDEHARÀJA, khi Ðức vua VIDEHARÀJA và MAHOSATHA đến đây, ta sẽ phân thây mà rữa hờn, chừng ấy mặc sức ta ca khúc khải hoàn".
    Tính như thế, bèn vào chầu, tâu kín với Ðức vua CULANÌ. Ðức CULANÌ từ khi trở về nước âu sầu, hổ thẹn, ngày ăn chẳng no, đêm không yên giấc, sợ cảnh nước mất nhà tan. Khi nghe KEVATA muốn tâu việc kín, phán rằng: Thôi đi, khanh đã nhiều phen lập kế bày mưu mà thất bại luôn làm cho hao binh tổn tướng, nay còn mưu mô gì nữa!
    Vị cố vấn KEVATA hết sức khẩn cầu: Xin Hoàng Thượng dằn cơn thịnh nộ cho hạ thần tâu một kế rất hay không còn phương pháp nào hơn.
    - Vậy khanh hãy tâu cho Trẫm nghe thử.
    - Tâu, xin Hoàng Thượng đến nơi thanh vắng chỉ có bốn tai mới nên nói.
    Ðức vua nhận lời lên tầng lầu cao nhất, KEVATA tâu rằng: Tôi tính cho những thi sĩ, nhạc sĩ, đặt các bài hát du dương quyến rũ, rồi dạy tập cho Công chúa biết ca xướng, múa hát đúng nhịp đờn kèn cho thật hay, chừng ấy sẽ trải đi đến thành MITHILÀ mê hoặc vua tôi VIDEHARÀJA. Khi đã làm cho vua VIDEHARÀJA say mê Công chúa rồi, Bệ hạ sẽ sai hạ thần đến tâu xin gả công cúa cho vua VIDEHARÀJA. Nếu Ðức vua VIDEHARÀJA đẹp dạ thuận tình, tôi sẽ thỉnh Ngài qua đây rước dâu, chừng ấy sẽ có MAHOSATHA theo chầu, ta tuỳ cơ ứng biến bắt chúng mà giết cho sạch để trả thù xưa.
    Ðức vua CULANÌ nghe được lấy làm hoan hỉ rằng: Kế này thật hay. Rồi Ðức vua cho đòi các thi sĩ trứ danh trong nước đến dạy, đặt bài ca thơ, phú, đủ cách và có treo nhiều giải thưởng. Ðức vua dạy Công chúa và cung phi, mỹ nữ phải học cho thuần thục nghề ca hát, đờn kèn trong đền. Ðức vua không quên tuyển chọn các thanh nữ xinh đẹp có tiếng thanh tao cùng học ca hát đờn kèn giúp Công chúa. Chẳng bao lâu trở thành một đoàn ca kịch nổi tiếng khắp xứ. Ðức vua CULANÌ cho sang diễn kịch trong thành MITHILÀ làm cho nhân dân trí đức vua VIDEHARÀJA nghe tiếng ca hát, đờn kèn đều thoả thích, dần dần có tin đồn rằng Ðức vua CULANÌ sẽ gả Công chúa cho Ðức vua VIDEHARÀJA.
    Khi Ðức vua VIDEHARÀJA được nghe càng thêm say mê tiếng đờn ca, xướng hát và quyến luyến sắc nước hương trời của Công chúa. Ðức vua bèn ban thưởng rất nhiều tiền bạc cho bọn ca nhi. Sau khi đã thi hành công việc theo lời dạy của Ðức vua CULANÌ với sự kết quả khả quan, đoàn ca kịch về nước. Lúc bấy giờ, Ðức vua VIDEHARÀJA hằng thương tiếc và nhớ đến lời ca điệu múa, hình ảnh xinh đẹp của Công chúa.
    Vị cố vấn KEVATA thấy đã có hiệu quả phần nào rồi, nên vào tâu vua, xin cho mình đi qua xứ MITHILÀ để đính hôn cho Công chúa với Ðức vua VIDEHARÀJA. Khi đến thành MITHILÀ, vị cố vấn KEVATA xin vào yết kiến Ðức vua VIDEHARÀJA và tỏ lời của vua CULANÌ xin hứa gả Công chúa tể tỏ tình bang giao giữa hai nước. Ðức vua VIDEHARÀJA nghe được xiết bao mừng rỡ, ban thưởng rất nhiều và khuyên vị cố vấn nên gặp MAHOSATHA cho hai bên cùng được giải hoà nhau.
    Vị cố vấn KEVATA nghe lời đến dinh MAHOSATHA. MAHOSATHA biết KEVATA là người độc ác không tốt nên cố ý không muốn đàm luận bèn giả đau nằm trên giừơng không tiếp khách. Lúc ấy vị cố vấn KEVATA đến, gặp Bồ Tát mà Ngài không mời ngồi và cũng không trò chuyện nên KEVATA phải xin từ giả lui ra.

  8. muadongbuon832001

    muadongbuon832001 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2006
    Bài viết:
    528
    Đã được thích:
    0
    Trở vào chầu, vua VIDEHARÀJA hỏi KEVATA: Ðến thăm con Trẫm, MAHOSATHA ra sao?
    - Tâu, Ngài MAHOSATHA đâu có phải là bậc trí tuệ, không biết cách tiếp khách, là hạng vô trí thức.
    Ðức vua nghe rồi vẫn làm thinh. Khi KEVATA từ tạ lui ra, Ðức vua VIDEHARÀJA bèn suy nghĩ rằng: Cớ sao con Trẫm lại không chịu tiếp rước KEVATA, có lẽ con Trẫm đến xứ người rồi tìm cách hại Trẫm chăng? Ôi! Sang đến đó ta sẽ ở trong tay kẻ nghịch! Nghĩ rồi rất lo sợ.
    Kế có bốn vị giáo sư là: SENAKA, PAKUTTHA, KAMINDA và DEVINDA vào chầu. Ðức vua VIDEHARÀJA bèn hỏi ý kiến của bốn vị giáo sư cho biết nên sang xứ UTTAPANCÀ không?
    SENAKA tâu: Vì sao mà Bệ Hạ lại hỏi chúng tôi như thế. Sự ngự đến nước UTTAPANCÀ của Bệ Hạ là đúng, có nhiều lợi ích:
    1) Ðuợc rước Công chúa về làm Hoàng Hậu thì có chi quí bằng
    2) Các nước lân bang, ngoài UTTAPANCÀ, đều tùng phục Bệ Hạ như họ đã đầu hàng Ðức vua CULANÌ
    3) Sẽ được ban giao hoà hảo với Ðức vua CULANÌ thì có chi quí bằng.
    Ðức vua hỏi ba vị kia, họ đồng tán thành ý kiến của SENAKA. Khi ấy, vị cố vấn KEVATA vào tâu xin từ biệt Ðức vua VIDEHARÀJA và trở về nước cho vua mình hay ngày hôn lễ.
    Ðược nghe KEVATA trở về nước rồi, đức MAHOSATHA mới vào chầu. Ðức vua VIDAHARÀJA bèn cho Bồ Tát hay rằng: Tất cả 6 người là bốn vị giáo sư, cố vấn KEVATA và Trẫm đồng ý sang xứ UTTARAPANCÀ để rước Công chúa về. Vậy, con là bậc trí tuệ, con nghĩ sao?
    Ðức MAHOSATHA xét rằng Ðức vua đã say mê tửu sắc dục không tưởng đến tại hại lớn lao, để ta tâu cho thấy rõ sự nguy hiểm, mong Ðức vua thức tỉnh. Nghĩ rồi bèn tâu rằng:
    - Hoàng Thượng không sợ bị người sát hại, ví như thợ săn gài bẫy, đem thú cái làm mồi cho thú đực sa vào bẫy rồi họ phân thây, thế nào? Vua CULANÌ ví như thợ săn, Công chúa như thú cái, KEVATA ví như cây lao mà thợ săn cầm trong tay. Ðức vua CULANÌ đem Công chúa làm mồi bắt Bệ Hạ, hoặc ví như ngư ông móc mồi vào lưỡi câu, cá mê rồi phải bị giết thế nào? Ðức vua CULANÌ ví như ngư ông, Công chúa ví như miếng mồi, KEVATA ví như lưỡi câu, Bệ Hạ ví như cá mong ăn mồi. Tâu, nếu Bệ Hạ say mê Công chúa và ngự đến nước UTTARAPANCÀ thì sẽ bị tai hại chẳng sai.
    MAHOSATHA cố tìm đủ lý luận để tâu bày, ngõ hầu giải nạn cho Ðức vua. Nhưng than ôi! Ðức vuaVIKEHARAJÀ nghe rồi phát cơn thịnh nộ rằng MAHOSATHA khinh rẻ Trẫm thái thậm. Xem Trẫm như tôi tớ của người, không trọng ta là bậc Ðế Vương chi cả. Ðã hiểu rõ Ðức vua CULANÌ mời ta để gả Công chúa, nói không có một lời nào chia vui cùng ta, mà thêm khinh khi nhạo báng ta thái quá. Nghĩ rồi Ðức vua bèn phán rằng: Này MAHOSATHA! Ai ai cũng đều tán thành cho Trẫm sang cưới Công chúa, vậy họ chẳng hiểu lợi ích chi cả sao? Không một ai có trí tuệ cả, đều là mù quáng hết sao? Chỉ có mình ngươi là biết việc hơn hết chăng? Này MAHOSATHA, ngươi là con nhà ruộng rẫy chỉ biết cày bừa mà thôi, đâu có hiểu điều hạnh phúc của nhà vua. Ngươi chỉ biết cầm cày cuốc đất, nào rõ công việc của đế vương. SENAKA, PAKUTTHA, KAMINDA và DEVINDA thông suốt điều lợi ích của Trẫm. Ngươi là kẻ nhà quê, chỉ biết nghĩ đến công cấy cày mà thôi. Vậy ai đâu, người nào đó hãy vào đánh đuổi MAHOSATHA ra khỏi chỗ này cho khuất mắt Trẫm, MAHOSATHA chỉ nói những lời bất hạnh. Trẫm được lợi báu và trở làm cho Trẫm mất à.
    Ðức vua chỉ phán bấy nhiêu lời chớ không gọi ngay người nào bảo bắt MAHOSATHA vì Ðức vua vẫn còn thương yêu, kính trọng Bồ Tát. Mặc dù Ðức vua không dằn được cơn thịnh nộ, nên mới phán bấy nhiêu lời.
    Ðức MAHOSATHA hiểu rằng vua không vừa lòng nên lui về dinh. Ðức Bồ Tát tự nhũ rằng: Hoàng Thượng ta ham vui quá, chỉ biết sự đi rước Công chúa mà không tưởng điều tai hại đến sanh mạng mình. Chỉ thấy lợi mà không rõ sự tai hại lớn lao. Nếu ta cố chấp, chỉ ghi nhớ lời sân hận của ta, trọng đại và ban thưởng ta biết bao nhiêu quyền tước trọng. Vậy ta hãy là nơi nương tựa của Ngài mới nên chớ, giờ đây ta nên đi qua xứ UTTARAPANCÀ trước, để trần thiết kinh thành và cung điện cho Ðức vua ngự và tạo bãi chiến trường, đào đường hầm và lỗ hổng để sẳn, ngừa khi lúc Ðức vua CULANÌ bao vây, ta sẽ thỉnh Ðức vua, các quan đại thần và bắt luôn Công chúa theo xuống hầm rút binh thẳng về nước, thế mới được an vui, tránh mọi điều nguy hiểm. Sự vãng lai của Ðức vua là phận sự của ta. Xét thấy thế, MAHOSATHA mặc triều phục dẫn kẻ tùy tùng đến chầu vua và tâu rằng: Thánh thượng quyết định sang kinh đô UTTARAPANCÀ chăng?
    - Ôi! Trẫm định đi để rước Công chúa về, bằng không thì sự nhiệp Ðế Vương có ích gì! Vậy con hãy cùng Trẫm đi thì được hai lợi ích:
    1) Ðuợc Công chúa.
    2) Có sự bang giao với Ðức vua CULANÌ.

  9. muadongbuon832001

    muadongbuon832001 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2006
    Bài viết:
    528
    Đã được thích:
    0
    - Tâu, như vậy hạ thần xin đi trước để trang hoàng cung điện sẳn sàng, đón rước Hoàng Thượng. Khi làm xong hạ thần sẽ sai quân về thỉnh Bệ Hạ ngự sang.
    Ðức vua mừng rằng MAHOSATHA đâu có bỏ Trẫm, rồi hỏi: Con cần dùng chi đem theo chăng?
    - Tâu, hạ thần cần dùng quân lính vừa đủ để làm các công việc được kết quả.
    Xong MAHOSATHA tuyển chọn một đội quân tinh nhuệ, thiện chiến và những người có khả năng để giúp việc cho Ngài. Dẫn binh đi được một dặm đường, Ngài bèn cho hạ trại từ khoảng theo đường rồi dặn các tướng chỉ huy rằng phải cẩn mật đề phòng bọn nghịch tấn công. Khi thấy Ðức vua đem Công chúa về đến thì lo thay đổi ngựa, voi, xe cho Ðức vua và lập tức theo hộ tống thẳng về đến kinh đô MITHILÀ chớ nên để cho Ðức vua lo sợ, nhất là ngăn ngừa địch quân
    Dặn dò xong xuôi, MAHOSATHA bèn dẫn binh đến kinh thành UTTARAPANCÀ, còn cách một đặm đến thành đô; Bồ Tát cho quân hạ trại và tạo cung đình cho Ðức vua ngự, sắp đặt các công việc phòng thủ đào đường hầm có lỗ hổng để ngừa khi hữu sự.
    Ðức vua CULANÌBRAHMADATTA nghe MAHOSATHA qua đến, rất mừng vì cho rằng đã mắc mưu chước của mình, thong thả rồi đây vua VIDEHARÀJA cũng sẽ qua nữa. Phen này chúa tôi chạy đâu thoát khỏi tay ta.
    Dân chúng nghe đồn MAHOSATHA qua đến, mong tìm xem cho biết tướng của người trí tuệ danh vọng khắp nơi. Thấy MAHOSATHA uy nghi lẫm liệt, tướng mạo đoan trang thật đáng yêu kính, trí tuệ nhất trong đời khiến cho 101 vị vua phải kính sợ chạy dài, ví như bầy quạ bị đánh đuổi bằng gậy. Trí tuệ của bậc này xứng đáng với hình dung xinh đẹp.
    Ðức MAHOSATHA đến ngọ môn xin vào yết kiến Ðức vua CULANÌ rồi đứng một bên. Ðức vua tỏ lời thiện cảm với MAHOSATHA rồi hỏi: Này MAHOSATHA! Ðức vua VIDEHARÀJA bao giờ mới đến?
    MAHOSATHA tâu: Khi nào được tin tôi, thì chúa thượng tôi sẽ đến.
    - Khanh đến trước với mục đích gì?
    - Tâu, tôi đến để trần thiết cung điện tiếp rước Ðức vua VIDEHARÀJA.
    - Tốt lắm!
    Rồi Ðức vua CULANÌ ban thưởng cho Bồ Tát và phát lương phạn cho quân sĩ, ban dinh thự đến Bồ Tát: Khanh hãy ngụ được an vui đi, ở đây cũng như với Ðức vua VIDEHARÀJA vậy. Khanh xem việc nào có lợi ích nên giúp cho Trẫm thì cứ làm, chớ lo ngại chi cả.
    MAHOSATHA quỳ tâu rằng: Tâu Hoàng Thượng. Hoàng thượng cho phép tôi tạo cung điện cho Ðức vua VIDEHARÀJA ở đâu, trong nơi nào?
    - Này bậc trí tuệ, ngoài cung đình của Trẫm, khanh coi nơi nào vừa ý thì cứ làm.
    - Tâu, tôi là người khách, nếu chỗ ở mà tôi vừa lòng tạo cung điện nơi ấy, thì sao khỏi cãi cọ, rầy rà với dân chúng.
    - Này bậc trí tuệ, Trẫm đã cho phép, khanh cứ làm theo ý muốn, nếu ai cưỡng lại thì khanh bắt làm tội đi.
    - Tâu, nếu họ không vừa lòng, họ sẽ vào ra tâu mãi với Hoàng Thượng, thì bận lòng Hoàng Thượng lắm. Vậy để tỏ lòng thân thiện và tri ân, tôi xin cho người của tôi được phép gác cửa đền của Bệ Hạ, và không cho ai ra vào làm rối lòng Bệ Hạ.
    - Trẫm cho phép, không sao đâu, khanh cứ thi hành, là, sao tốt đẹp thì thôi.
    Ðức MAHOSATHA lạy tạ lui ra, liền đổi lính gác cửa đền vua, không cho ai vào ra tự do như trước. Ðức MAHOSATHA giả tìm chỗ tạo cung điện cho vua VIDEHARÀJA tại cung của hoàng thái hậu là mẹ của Ðức vua CULANÌ, bảo quân phá cửa cạy gạch v.v. ... Hoàng thái hậu thấy bất bình hỏi, tại sao vậy?
    Những người của MAHOSATHA không cần trả lời cứ làm phận sự mình. Bà hoàng thái hậu la rầy ngăn cản không được, bèn tính vào tâu cho Hoàng Nhi rõ. Ðến cửa đền, ngọ môn quan không cho vào. Bà nói: Ta là mẹ của vua CULANÌ tại sao không cho ta vào?
    Ngọ môn quan không cần nghe, bà bất bình. Không biết làm sao phân trần, bà trở về đến kêu nài với người MAHOSATHA, Ngài vẫn nín thinh. Bà khẩn khoản với người hầu MAHOSATHA hối lộ một trăm ngàn lượng bạc. KEVATA bèn dẫn quân đến chầu vua, mà cũng không vào được; buộc lòng phải khẩn cầu hối lộ một trăm ngàn lượng bạc như bà hoàng thái hậu. Cứ như thế hết dinh này đến thự nọ, thâu được tất cả chín chục triệu lượng bạc.
    Ðức MAHOSATHA vào chầu. Ðức vua CULANÌ phán hỏi: Khanh đã tìm được chỗ nào chưa?
    - Tâu, lựa nơi nào cũng chẳng có ai chống cự cả, nhưng xét thấy hạ thần làm như thế, rất tội nghiệp cho chúng dân. Nếu Hoàng Thượng từ bi thì tôi xin tạo cung điện xa đền của Hoàng Thượng, lối bốn ngàn thước và cách mé sông lối nữa do tuần nơi đó rất thích hợp.
    Ðức vua CULANÌ xét rằng: Nếu cho vua VIDEHARÀJA ngụ trong đền thì bất tiện cho chiến tranh, và hại cho ta. Vậy ngoài thành thì rất hợp và được nhiều lợi ích. Nghĩ rồi bèn phán rằng: Khanh tính như vậy thật hay, khanh cứ khởi công đi.
    - Tâu, sợ e có người vào rừng đốn củi rồi gây ra bận lòng.
    - Trẫm cấm không cho một ai đến đó cả.
    - Tâu, gần mé sông, quân binh của hạ thần thường xuống tắm rửa, có làm cho dân chúng bất bình chăng?
    - Khanh cứ cho phép quân binh tự do xuống tắm rửa không ai dám làm chi đâu.
    MAHOSATHA quỳ lạy lui ra, về truyền quân lính khởi công lập tức.
    Ðức vua CULANÌ ra lệnh bố cáo cho dân chúng biết, nhà vua cấm nhặt không ai được đến gần để bậc trí tuệ MAHOSATHA hành sự, kẻ nào cãi lịnh sẽ bị phạt một ngàn lượng bạc.
    Ðức MAHOSATHA đóng dinh lập trại, lập thành một quận to hiệu là TAGGALIGÀMA cho voi binh, ngựa binh, xa binh và bộ binh, rồi phân phát công việc cho sáu ngàn quân thợ, đào đường hầm và lổ hổng gần mé sông, vì thế mà nước sông phải đục.
    Ðức Bồ Tát dạy đào đường hầm to rộng có cả lổ hổng, xây vách tường có trần phía trên, có đèn máy, đủ cả tiện nghi, có 101 ngai rồng cho 101 vị vua, có giường rồng, màn che sáo phủ, sơn phét, họa tranh cõi trời dục giới, trời Ðế Thích Chư Thiên hầu hạ, có đủ cả đồ trần thiết xem rất ngoạn mục như cõi trời Ðạo Lợi.
    Khi đã tạo đường hầm, cung điện hoàng thành Bồ Tát bèn dâng sớ về tâu, thỉnh Ðức vua VIDEHARÀJA qua, quan quân rần rộ sang đến, đức Bồ Tát ra đón Ðức vua VIDEHARÀJA vào cung điện an nghỉ. Sáng ra Ðức vua VIDEHARÀJA gởi tin tâu cho Ðức vua CULANÌ hay rằng: Vua VIDEHARÀJA đã qua đến và xin định ngày lễ thành hôn với Công chúa.
    Ðức vua CULANÌ mừng thầm, nay mưu chước ta được hiệu quả. Ta sẽ tùy cơ bắt chúa tôi hạ sát cho tuyệt dòng, chừng ấy ta sẽ bày lễ ẩm tửu khải hoàn. Hiện nay, chúng như cá đang nằm trên thớt ta chẳng lo chi, nghĩ rồi bèn sai quân đến cho Ðức vua VIDEHARÀJA lựa ngày tốt, thuận tiện để rước Công chúa.
    Ðức vua VIDEHARÀJA cho nhà chiêm tinh xem sao, rồi tâu rằng: Ngày mai rất tốt. Ðức vua VIDEHARÀJA bèn sai quân vào tâu cho vua CULANÌ rõ. Ðức vua CULANÌ rất mừng, mai là ngày vua tôi chúng đền tội, ta sẽ bắt cho được vua tôi VIDEHARÀJA hạ sát mà rữu hờn.
    Ðức vua CULANÌ ra lệnh 101 tiểu vương đem binh bao vây chỗ vua VIDEHARÀJA ngự. Ngài dạy hoàng thái hậu, Hoàng Hậu, thái tử và Công chúa vào ngự chung cùng nhau và cho quân binh hộ vệ nghiêm nhặt. Còn phần Trẫm, Trẫm sẽ xuất chinh bắt cho được vua tôi VIDEHARÀJA.
    Về phần MAHOSATHA, Ngài cho đãi vua, các quan đại thần và quân lính ăn uống no đủ. Khi được nghe vua CULANÌ xuất chinh, thì đức Bồ Tát ra lệnh ba trăm binh vào thỉnh bà thái hậu, Hoàng Hậu và thái tử, Công chúa đem chờ tại cửa gần mé sông.
    Trong khi ấy, bà hoàng thái hậu dẫn ba vị hoàng tộc là: Hoàng thái hậu, Thái tử và Công chúa vào ngự trong một phòng có quân lính canh phòng nghiêm nhặt. Không lâu, có một toán lính đến gần cửa phòng tâu: Kính thỉnh quý Ngài đi dự lễ khải hoàn. Nay Ðức vua bắt được vua VIDEHARÀJA cùng MAHOSATHA và hạ sát rồi. Ðức vua và 101 tiểu vương đang dự lễ ẩm tửu khải hoàn. Vì thế Ðức vua dạy tôi đến thỉnh đức Hoàng thái hậu Hoàng Hậu, Thái tử và Công chúa đốn gặp Hoàng Thượng. Bốn vị hoàng gia tin là thật, rồi ngự đi theo. Quân lính dẫn bốn vị đến đường hầm.
    Bốn vị bèn hỏi: Ðường này có từ bao giờ, sao chúng tôi không biết?
    - Tâu, đây là đường phúc đạo, khi nào có đại lễ mới được đi.
    Bốn vị cũng tin theo. Tất cả quan lính tấn công vào thành nội, chia ra làm hai đội [3]. Một đội ở lại lấy hết vật báu trong cung nội, một đội dẫn đường đem bốn vị Hoàng gia về đường hầm. Bốn vị ngự đến đường hầm to, thấy có trần thiết cao sang đầy đủ báu vật, giống như cõi trời, nên khen rằng: Ðây thật là nơi thắng cảnh, dành cho nhà vua du lãm. Khi đế đường hầm gần mé sông, quân lính thỉnh bốn vị vào ngự một phòng riêng biệt. Có người đến báo cho đức Bồ Tát biết. Bồ Tát rất hoan hỷ rằng: Thật là mãn nguyện của ta rồi. Ngài bèn đến chầu Ðức vua VIDEHARÀJA rồi đứng qua một bên.
    Về phần Ðức vua VIDEHARÀJA, Ngài hằng nóng lòng vì phiền não dục. Sáng ra Ðức vua cùng bốn vị giáo sư lên lầu thây biết bao quân lính, trùng trùng điệp điệp, bao vây cung đình, nên sanh nghi. Ngài bèn hỏi bốn vị giáo sư rằng: Các khanh thấy quân lính bao vây, có hiểu thế nào chăng?
    - Tâu, Hoàng Thượng cần chi lo ngại, đó là Ðức vua CULANÌ đem quân đội hộ giá và đưa Công chúa đến cho Hoàng Thượng, theo lễ nghinh giá là khách quí, có chi đâu mà Bệ Hạ sợ.
    Quân lính dần dần vây chặt vòng thành, lại thêm nghe tiếng các đại tướng ra lịnh và lập đi lập lại rằng: Chớ dễ duôi, đừng cho chúng trốn thoát.
    Ðức vua VIDEHARÀJA càng lo sợ, nên hỏi MAHOSATHA: Này con MAHOSATHA! Con có hiểu thế nào chăng?
    MAHOSATHA xét rằng: Ðức vua vì mê sắc và tin bốn vị giáo sư, không nghe lời ta can gián, nên hôm nay phải gặp tai hại lớn lao như vậy. Vậy để ta làm cho Ngài hoảng hốt, rồi sau sẽ an ủi Ngài. Bồ Tát bèn tâu rằng: hôm nay Ðức vua CULANÌ đem đội binh bao vây cung điện, chẳng phải để hộ giá Hoàng Thượng đâu, đây là cố ý sát hại Bệ Hạ đó.
    Nghe Bồ Tát tâu như thế, các quan hầu cận vua đều khủng khiếp và sợ chết. Ðức vua VIDEHARÀJA sợ xuất hạn, tâm Ngài rung động như lá cây bị gió thổi. Ðức Bồ Tát tâu tiếp rằng: Hoàng Thượng say mê vì phiền não dục, không cần suy xét chu đáo. hạ thần đã thấy nhiều điều nguy hiểm, nên hết lòng khuyên can Bệ Hạ. Nhưng Hoàng Thượng bất luận [4] cứ nghe theo lời tâu của bốn vị giáo sư. Như thế có kết quả tốt hay thế nào? Hạ thần hết dạ trung thành tìm lợi ích cho Bệ Hạ mà Bệ Hạ không nghe, Bệ Hạ đồng ý với bốn vị giáo sư rằng: Là hạng người tốt có nhiều kinh nghiệm. Nay có khổ đến, Bệ Hạ nên hỏi ý kiến và cầu các Ngài đó giải vây [5] cho.

  10. muadongbuon832001

    muadongbuon832001 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2006
    Bài viết:
    528
    Đã được thích:
    0
    Hôm nay Bệ Hạ đã sa trong quyền lực của Ðức vua CULANÌ ví như loài thú mắc bẫy của thợ săn, hạ thần đã nhiều phen tâu khuyên: Nếu Bệ Hạ mê sắc nàng Công chúa của vua CULANÌ và ngự đến kinh đô UTTARAPANCÀ ắt sẽ mang nhiều tai hại, ví như loài thú muốn chết vì mê thú cái của thợ săn, hoặc như loài cá mê mồi mắc phải lưỡi câu của ngư ông.
    Bệ Hạ ngự đi đây gặp nhiều điều nguy hiểm như thú si mê vào gần đường, cận xóm làng. h? thần dùng hết lý luận để tâu bày mà Bệ Hạ không tin, lại còn chê trách hạ thần là vô tri thức, mù quáng không bằng KEVATA. Bệ Hạ, vì gần bạn lành là KEVATA mới gặp những thống khổ như vậy. Khi hạ thần tâu mong Bệ Hạ được hạnh phúc, mà Bệ Hạ bất bình, nhiếc hạ thần là kẻ mù, làm cho vua thất lợi, mất nàng ngọc.
    Bệ Hạ cho hạ thần là kẻ chỉ biết cấy cày, sanh trong gia đình nông phu và đuổi hạ thần ra khỏi thành. Bệ Hạ tán dương những người vừa lòng của Bệ Hạ, họ có đủ thao lược để hộ giá Bệ Hạ được, vậy Bệ Hạ nên hỏi mưu chước nơi họ đi. Phần hạ thần chỉ biết cầm cày, cuốc đất mà thôi! Bệ Hạ đã đuổi hạ thần rồi, nay sao Bệ Hạ lại trở lại hỏi ý kiến hạ thần nữa?
    Ðức vua nghe rồi nghĩ rằng: Nay MAHOSATHA khai tội ta. Thật ra trước kia MAHOSATHA xét thấy lo sợ trong vị lai, nên mới đàn áp ta thái quá. Có lẽ MAHOSATHA đã biết có nhiều tai hại như vầy mới qua trước lâu ngày để tìm phương giải cứu ta chăng? Nghĩ rồi Ngài bèn tỏ lời phủ ủy Bồ Tát rằng: Này con MAHOSATHA, lệ thường bậc trí tuệ không nên vạch tội quá khứ, để dùng lời châm chích đâu.
    - Ồ! Vì sao con lại bắt lỗi quá khứ đem xói mói cha?
    - Này con MAHOSATHA! Nếu có mưu chước hay nên cứu cha trong lúc này. Ngoài con ra không ai là nơi nương cậy của cha đâu! Chỉ có con là người cứu mệnh cha được mà thôi.
    Ðức Bồ Tát nghĩ Ðức vua thật là mù quáng, không biết dùng người, vậy ta nên làm cho Ngài sợ thêm chút nữa, để Ngài hối cải từ đây, rồi tâu rằng: Nay đã vượt trí tuệ của phàm nhân rồi, trừ loài điểu thú hoặc đại bàng, điểu hay Long Vương, có thể bay trên hư không, mới mong thoát khỏi nạn này. hạ thần đâu có thần thông và cũng không đủ khả năng cứu nguy Bệ Hạ được.
    Nghe như thế, Ðức vua đành ngậm miệng không còn lời nào nói nữa. Vị giáo sư SENAKA nghĩ rằng: Những nạn khổ đã đến cho Ðức vua mà chính ta đây không phải là người nương tựa của Ðức vua được, trừ MAHOSATHA ra. Nay Ðức vua nghe MAHOSATHA tâu nên hoảng sợ, không thể cầu khẩn nữa, vậy ta nên khẩn khoản MAHOSATHA thử xem, rồi nói rằng: Này bậc trí tuệ! Ghe đắm giữa biển, những thuỷ thủ không thấy đâu là bờ bến, hết khổ thế nào, đức Thánh thượng và chúng tôi đây ví như kẻ lội trong biển, Ngài MAHOSATHA là bậc trí tuệ đáng cho chúng tôi nương nhờ. Khi Ðức vua CULANÌ đem binh vây thành MITHILÀ đó, chúng tôi được giải cứu cũng nhờ Ngài. Nay xin Ngài từ bi thương xót mà cứu mạng chúng tôi.
    - Này ông SENAKA! Bây giờ đây, lướt qua trí tuệ của người, trừ loài điểu thú mới có thể bay khỏi được, nếu bay không được, thế là lướt qua trí tuệ rồi.
    Ðức vua VIDEHARÀJA thấy trù tính với Bồ Tát không được nữa, túng thế phải bàn với SENAKA rằng: Này SENAKA! Nên tìm phương pháp nào để tránh nạn tai trong lúc này được, MAHOSATHA đã bỏ chúng ta rồi, vậy khanh có thế nào cứ tâu cho Trẫm rõ.
    SENAKA nghe Ðức vua hỏi, nghĩ rằng ta phải tâu thế nào đây chớ không lẽ nín thinh. Thôi để cho ta tâu vài lời: Theo thiển kiến hạ thần, thì nên nổi lửa đốt cung điện này cho cháy đỏ, chúng ta mỗi vị cầm một binh khí, ngồi mà chịu lửa thiêu, còn hơn để vua CULANÌ cắt lấy thủ cấp.
    Ðức vua nghe rồi đáp: Như thế khanh đi thiêu vợ con khanh đi. Ðức vua hỏi qua PAKUTTHA, có kế nào hay chăng?
    - Tâu, chúng ta nên dùng thuốc độc mà uống vào cho chết hết, còn hơn để cho vua CULANÌ sát phạt.
    Ðức vua hỏi đến KAMINDA.
    - Tâu, chúng ta nên tìm lấy mỗi người một sợi dây thắt cổ chết cho rồi.
    Ðức vua hỏi đến DEVINDA.
    DEVINDA xét: Ðức vua mong tìm lửa mà lại kiếm đom đóm, chẳng hay Ngài nghĩ thế nào há! Nên ngài lại hỏi đến ta, sao không hỏi MAHOSATHA, ta biết gì mà nói. Nhớ đến lời SENAKA vừa trình bày, bèn quỳ tâu rằng: Chúng ta đồng hiểu rằng, chỉ có bậc trí tuệ MAHOSATHA đây là nơi nương dựa duy nhất, vậy ta nên đồng nhau khẩn cầu MAHOSATH, khi MAHOSATH giải cứu không được, thì chúng ta hãy thi hành theo lối của SENAKA, tốt hơn các phương pháp khác.
    Ðức vua nghe rồi tâm thần rối loạn, không có thể thuyết với MAHOSATHA được, Ngài bèn than thở, kể lể rằng: Con người đi tìm lỏi danh mộc mà lại được lỏi cây tạp, dùng vào việc gì cũng không tiện, thế nào, cũng như trong lúc này ta tìm phương giải khổ không được nơi hạng người tối tăm, ví như voi bạch ở trong nơi không nước. Thân ta đây ví như lá bồ đề bị gió, cổ ta khô khan, bụng ta nóng như lò lửa, ta không tìm được nơi để dập tắt sự nóng, ví như người bị lửa thiêu, thật là thảm đạm.
    Ðức Bồ Tát thấy Ðức vua than kể những nổi khổ tâm như thế, bèn nghĩ rằng: Ðức vua đã khổ sở thái thậm rồi, nếu ta vẫn nín thinh thì Ngài phải khổ mà chết không sai. Xét như vậy, đức Bồ Tát liền an ủi Ðức vua rằng: xin Hoàng Thượng đừng quá ưu tư, tôi sẽ cứu nạn cho Bệ Hạ được, ví như vị trời đem voi bạch khỏi bùn lầy, hoặn như người cứu rắn ra khỏi giỏ, hay đem chim ra khỏi ***g, cho đến tất cả quan quân cũng đều được thoát khỏi.
    Tâu, xin Hoàng Thượng an tâm, hạ thần sẽ đánh đuổi quân binh của vua CULANÌ, ví như kẻ đuổi bầy quạ bằng cục đất. Quan quân đại thần có trí tuệ, khi chúa mình bị khổ, nếu không giải nguy được thì đâu gọi là người có trí tuệ. Tôi sang đến đây trước,đâu có phải đi không về rồi, tôi đã làm được những việc có kết quả tốt rồi.
    Khi nghe đức Bồ Tát tâu rõ rệt như thế, Ðức vua và quan quân đều hân hoan vui sướng.
    SENAKA bèn hỏi: Vậy bậc trí tuệ tính đem chúng tôi đi bằng cách nào?
    - Tôi sẽ dẫn tất cả theo đường hầm này mà ra khỏi, không sai.

Chia sẻ trang này